PHẨM “ĐẾ THÍCH”
Quyển 425 đến phần đầu quyển 426,
tập 18, Hội thứ II, ĐBN.
(Tương đương phẩm “Thiên Đế”, Q.77 -
Q. 81, Hội thứ I, ĐBN).
Tóm lược:
Bấy giờ, ở tam thiên đại thiên thế
giới Kham Nhẫn này có trời Tứ đại vương cùng với vô lượng trăm ngàn ức các
Thiên tử cõi trời Tứ đại vương đều đến hội hợp; có Thiên Đế cùng với vô lượng
trăm ngàn ức các Thiên tử cõi trời Ba mươi ba đều đến hội hợp; có
Thiên vương Tô dạ ma, San đổ sử đa, Diệu biến hóa, Tha hóa Tự tại,
Đại phạm, trời Biến tịnh, trời Quảng quả, trời Sắc cứu cánh, cùng với vô lượng
trăm ngàn Thiên tử, thiên chúng đều đến hội hợp. Thiên chúng cõi
trời Tứ đại vương, cho đến thiên chúng trời Tịnh cư có nghiệp dị thục thanh
tịnh thân có ánh sáng, so với ánh sáng thường hiện của thân Như Lai không bằng
một phần trăm, không bằng một phần ngàn, không bằng một phần trăm ngàn, phần ức, phần trăm
ngàn ức, như vậy,
cho đến số phần, toán phần, kế phần, dụ phần, cực số phần. Vì sao? Vì ánh sáng
thường hiện của thân Như Lai rất rực rỡ, trong số các ánh sáng thì ánh sáng của
Như Lai là tối tôn, tối thắng, tối thượng, tối diệu, vô tỷ, vô đẳng, vô thượng,
đệ nhất, che ánh sáng chư Thiên giống như đốm lửa đối với vàng Thiệm bộ.
Bấy giờ, Thiên Đế Thích thưa cụ thọ
Thiện Hiện rằng:
- Nay thế giới Tam thiên đại thiên
đây, có trời Bốn đại vương chúng cho đến trời Tịnh cư đều đến nhóm hội, muốn
nghe Tôn giả tuyên nói Bát nhã Ba la mật. Nguyện xin Tôn giả đúng thời giảng
nói cho. Thưa Tôn giả! Thế nào là Bát nhã Ba la mật của Bồ tát? Bồ tát nên
trụ Bát nhã Ba la mật như thế nào? Bồ tát nên học Bát nhã Ba la mật như thế
nào?
Cụ thọ Thiện Hiện liền bảo Thiên Đế
Thích rằng:
- Kiều Thi Ca! Thiên chúng các ngươi
hãy lóng nghe, khéo nghĩ nhớ, ta sẽ nhờ oai thần của Phật, thuận ý Như Lai, vì
các chúng Bồ tát tuyên nói Bát nhã Ba la mật. Các Bồ tát nên đối trong ấy, nên
trụ như thế, nên học như thế.
Kiều Thi Ca! Chư Thiên ngươi, kẻ
chưa phát tâm Vô thượng Bồ đề, nay đều nên phát tâm. Kiều Thi Ca! Các vị đã vào
Chánh tánh ly sanh của Thanh văn, Độc giác chẳng cần phát tâm đại Bồ đề nữa. Vì
sao? Kiều Thi Ca! Vì các vị kia đã chấm dứt đường sanh tử. Nhưng trong đó nếu
có vị nào muốn phát tâm đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thì tôi cũng tùy hỷ. Vì
sao? Kiều Thi Ca! Vì thắng nhân nên cầu thắng pháp, đối với tôi chẳng có gì trở
ngại.
(Thế nào là Bát nhã Ba la mật của Bồ
tát?)
Kiều Thi Ca! Ngươi hỏi thế nào là
Bát nhã Ba la mật của Bồ tát? Các ngươi lóng nghe, ta sẽ vì các ông nói.
Kiều Thi Ca! Nếu Bồ tát phát tâm tương ưng Nhất thiết trí trí, đem vô sở đắc mà
làm phương tiện, tư duy sắc cho đến thức hoặc vô thường, hoặc khổ, hoặc vô
ngã, hoặc không, hoặc như bệnh, hoặc như ung nhọt, hoặc như mũi tên, hoặc mụt
ghẻ, hoặc nóng nảy, hoặc bức bách, hoặc hư hoại, hoặc mục nát, hoặc lay chuyển,
hoặc mau diệt, hoặc đáng sợ, hoặc đáng nhàm chán, hoặc có tai ách, hoặc có oan
ức, hoặc có bệnh dịch, hoặc có bệnh hủi, hoặc không an ổn, hoặc không thể tín
nhiệm. Tư duy nhãn xứ cho đến ý xứ. Tư duy sắc xứ cho đến pháp xứ. Tư duy
nhãn giới cho đến ý giới. Tư duy sắc giới cho đến pháp giới. Tư duy nhãn thức
giới cho đến ý thức giới. Tư duy nhãn xúc cho đến ý xúc. Tư duy nhãn xúc làm
duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ. Tư duy địa giới
cho đến thức giới cũng lại như thế.
Này Kiều Thi Ca! Đấy gọi là Bát nhã
Ba la mật của Bồ tát.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu Bồ tát
phát tâm tương ưng Nhất thiết trí trí, đem vô sở đắc làm phương tiện, tư duy
sắc cho đến thức hoặc vắng lặng, hoặc xa lìa, hoặc vô sanh, hoặc vô diệt,
hoặc vô nhiễm, hoặc vô tịnh, hoặc vô tác, hoặc vô vi. Tư duy mười hai xứ
cho đến mười tám giới. Tư duy nhãn xúc cho đến ý xúc. Tư duy nhãn xúc làm duyên
sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ. Tư duy địa giới cho
đến thức giới cũng lại như thế.
Này Kiều Thi Ca! Đấy gọi là Bát nhã
Ba la mật của Bồ tát.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu Bồ tát
phát tâm tương ưng Nhất thiết trí trí, đem vô sở đắc làm phương tiện, tư duy vô
minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục xứ,
lục xứ duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu
duyên sanh, sanh duyên lão tử tập hợp toàn một nhóm khổ lớn. Đem vô sở đắc làm
phương tiện, tư duy vô minh diệt nên hành diệt, hành diệt nên thức diệt, thức
diệt nên danh sắc diệt, danh sắc diệt nên lục xứ diệt, lục xứ diệt nên xúc
diệt, xúc diệt nên thọ diệt, thọ diệt nên ái diệt, ái diệt nên thủ diệt, thủ
diệt nên hữu diệt, hữu diệt nên sanh diệt, sanh diệt nên lão tử cho đến trọn
nhóm khổ lớn cũng diệt.
Này Kiều Thi Ca! Đấy gọi là Bát nhã
Ba la mật của Bồ tát.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu Bồ tát
phát tâm tương ưng Nhất thiết trí trí, đem vô sở đắc mà làm phương tiện, an trụ
nội không cho đến vô tánh tự tánh không. An trụ chơn như, pháp giới, thật tế,
bất tư nghì giới, an ẩn giới v.v…
Kiều Thi Ca! Đấy gọi là Bát nhã Ba
la mật của Bồ tát.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu Bồ tát
phát tâm tương ưng Nhất thiết trí trí, đem vô sở đắc mà làm phương tiện, tu
hành sáu Ba la mật, bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo. Tu hành không giải
thoát môn, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn. Tu hành Phật mười lực cho đến
mười tám pháp Phật bất cộng. Tu hành tất cả Tam ma địa môn, Đà la ni môn. Tu
hành Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí.
Này Kiều Thi Ca! Đấy gọi là Bát nhã
Ba la mật của Bồ tát.
Lại nữa, này Kiều Thi Ca! Bồ tát nào
khi tu hành Bát Nhã, quán như vầy: Chỉ có các pháp bồi bổ, tăng trưởng lớn
mạnh, viên mãn lẫn nhau. Tư duy suy tính không có ngã, không có ngã sở. Lại
quán như vầy: Tâm hồi hướng của các Bồ tát không hòa hợp với tâm Bồ đề. Tâm Bồ
đề cũng không hòa hợp với tâm hồi hướng. Nghĩa là tâm hồi hướng của Bồ tát
trong tâm Bồ đề vô sở hữu bất khả đắc. Tâm Bồ đề trong tâm hồi hướng cũng vô sở
hữu bất khả đắc. Các Bồ tát tuy như thật quán sát các pháp nhưng đối với các
pháp hoàn toàn không thấy.
Này Kiều Thi Ca! Đấy gọi là Bát nhã
Ba la mật của Bồ tát.
Khi ấy, Thiên Đế Thích hỏi Thiện
Hiện rằng:
- Tại sao tâm hồi hướng của Bồ tát
chẳng hòa hợp cùng tâm Bồ đề, tâm Bồ đề cũng chẳng hòa hợp cùng tâm hồi hướng?
Tại sao tâm hồi hướng của Bồ tát đối trong tâm Bồ đề vô sở hữu bất khả đắc, tâm
Bồ đề đối trong tâm hồi hướng cũng vô sở hữu bất khả đắc?
Thiện Hiện đáp rằng:
- “Kiều Thi Ca! Các Bồ tát Ma ha tát
tâm hồi hướng thời phi tâm, tâm Bồ đề cũng phi tâm. Chẳng lẽ phi tâm hồi
hướng phi tâm? Tâm cũng chẳng lẽ hồi hướng phi tâm? Phi tâm chẳng lẽ hồi hướng
nơi tâm? Tâm cũng chẳng lẽ hồi hướng nơi tâm? Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Phi tâm
tức là bất khả tư nghì, bất khả tư nghì tức là phi tâm, hai thứ như thế đều vô
sở hữu. Trong vô sở hữu không có nghĩa hồi hướng”(1). Kiều Thi Ca! Tâm không tự
tánh. Tâm không nên tâm sở cũng không. Tâm và tâm sở đã không tự tánh, nên tâm
cũng không có nghĩa hồi hướng. Kiều Thi Ca! Nếu tác quán tác như vậy, đấy gọi
Bồ tát Ma ha tát Bát nhã Ba la mật.
Bấy giờ, Thế Tôn khen Thiện Hiện
rằng:
- Hay thay, hay thay! Ngươi khéo hay
vì các Bồ tát tuyên nói Bát nhã Ba la mật, cũng gắng khuyên các Bồ tát khiến
sanh vui mừng, tu tập Bát nhã Ba la mật.
Cụ thọ Thiện Hiện thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn! Con đã biết ơn chẳng
lẽ chẳng trả. Vì sao? Quá khứ Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và các đệ tử vì chúng
Bồ tát tuyên nói Bát nhã Ba la mật, chỉ dạy khuyến dẫn, khen gắng vui mừng, an
ủi kiến lập, khiến được rốt ráo. Bấy giờ Đức Thế Tôn cũng học, nay chứng Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, quay xe diệu pháp lợi vui chúng con. Nên con ngày nay
theo Phật dạy, vì chúng Bồ tát tuyên nói sáu thứ Ba la mật chỉ dạy khuyến dẫn,
khen gắng vui mừng, an ủi kiến lập, khiến được rốt ráo, mau chứng Vô Thượng
Chánh Đẳng Bồ đề. Đấy thời gọi là đáp đền ân đức!
(Bồ tát nên trụ Bát nhã Ba la mật
như thế nào?)
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bảo Thiên
Đế Thích rằng:
- Kiều Thi Ca! Ngươi hỏi Bồ tát
nên trụ Bát nhã Ba la mật như thế nào? Các ngươi lóng nghe, tôi sẽ vì các
ngươi nói. Các Bồ tát đối Bát nhã Ba la mật cần trụ chỗ nên trụ, chẳng trụ
nơi tướng. Kiều Thi Ca! Sắc, sắc không; thọ tưởng hành thức, thọ tưởng hành
thức không; Bồ tát, Bồ tát không. Hoặc sắc không, hoặc thọ tưởng hành thức
không, hoặc Bồ tát không. Tất cả như thế đều không hai, không hai phần. Kiều
Thi Ca! Các Bồ tát đối Bát nhã Ba la mật nên an trụ như thế.
Kiều Thi Ca! Nhãn xứ, nhãn xứ không;
nhãn giới, nhãn giới không; Bồ tát, Bồ tát không. Hoặc nhãn xứ không, cho đến
hoặc nhãn giới không, hoặc Bồ tát không. Tất cả như thế đều không hai, không
hai phần. Kiều Thi Ca! Các Bồ tát đối Bát nhã Ba la mật nên an trụ như thế.
Kiều Thi Ca! Nhãn xúc, nhãn xúc
không; cho đến ý xúc, ý xúc không; Bồ tát, Bồ tát không. Hoặc nhãn xúc không,
cho đến hoặc ý xúc không, hoặc Bồ tát không. Tất cả như thế đều không hai,
không hai phần. Kiều Thi Ca! Các Bồ tát đối Bát nhã Ba la mật nên an trụ như
thế.
Kiều Thi Ca! Nhãn xúc làm duyên sanh
ra các thọ, nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ không; cho đến ý xúc làm duyên
sanh ra các thọ, ý xúc làm duyên sanh ra các thọ không; Bồ tát, Bồ tát không.
Hoặc nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ không, cho đến hoặc ý xúc làm duyên
sanh ra các thọ không, hoặc Bồ tát không. Tất cả như thế đều không hai, không
hai phần. Kiều Thi Ca! Các Bồ tát đối Bát nhã Ba la mật nên an trụ như thế.
Kiều Thi Ca! Địa giới, địa giới
không; cho đến thức giới, thức giới không; Bồ tát, Bồ tát không. Hoặc địa giới
không, cho đến hoặc thức giới không, hoặc Bồ tát không. Tất cả như thế đều
không hai, không hai phần. Kiều Thi Ca! Các Bồ tát đối Bát nhã Ba la mật nên an
trụ như thế.
Kiều Thi Ca! Tất cả pháp Phật, tất
cả pháp Phật không; Bồ tát, Bồ tát không. Hoặc tất cả pháp Phật không, hoặc Bồ
tát không. Tất cả như thế đều không hai, không hai phần. Kiều Thi Ca! Các Bồ
tát đối Bát nhã Ba la mật nên an trụ như thế.
Kiều Thi Ca lại hỏi:
- Nếu tất cả pháp đều không, vậy Bồ
tát tu hành Bát Nhã an trụ chỗ nào?
Thiện Hiện đáp rằng:
- Này Kiều Thi Ca! Các Bồ tát tu
hành Bát Nhã chẳng nên trụ sắc, chẳng nên trụ thọ tưởng hành thức. Chẳng nên
trụ nhãn xứ, cho đến chẳng nên trụ ý xứ. Chẳng nên trụ sắc xứ, cho đến chẳng
nên trụ pháp xứ. Chẳng nên trụ nhãn giới, cho đến chẳng nên trụ ý giới. Chẳng
nên trụ sắc giới, cho đến chẳng nên trụ pháp giới. Chẳng nên trụ nhãn thức
giới, cho đến chẳng nên trụ ý thức giới. Chẳng nên trụ nhãn xúc, cho đến chẳng
nên trụ ý xúc. Chẳng nên trụ nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ, cho đến chẳng
trụ ý xúc làm duyên sanh ra các thọ. Chẳng nên trụ địa giới, cho đến chẳng nên
trụ thức giới. Chẳng nên trụ vô minh, cho đến chẳng nên trụ lão tử. Chẳng nên
trụ vô minh diệt, cho đến chẳng nên trụ lão tử diệt. Chẳng nên trụ bố thí Ba la
mật, cho đến chẳng nên trụ Bát nhã Ba la mật. Chẳng nên trụ nội không, cho đến
chẳng nên trụ vô tánh tự tánh không. Chẳng nên trụ bốn niệm trụ, cho đến chẳng
nên trụ mười tám pháp Phật bất cộng. Chẳng nên trụ tất cả Tam ma địa môn, chẳng
nên trụ tất cả Đà la ni môn. Chẳng nên trụ Thanh văn thừa, chẳng nên trụ Độc
giác thừa, Vô thượng thừa. Chẳng nên trụ Dự lưu cho đến chẳng nên trụ Như Lai.
Chẳng nên trụ Nhất thiết trí; chẳng nên trụ Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng
trí. Vì sao? Kiều Thi Ca! An trụ như thế là có sở đắc vậy. (Tức là chẳng
nên trụ tất cả pháp Phật)
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Các Bồ tát khi
tu hành Bát Nhã chẳng nên trụ đây là sắc cho đến đây là thức. Chẳng nên
trụ đây là nhãn xứ cho đến đây là ý xứ. Chẳng nên trụ đây là sắc xứ cho đến đây
là pháp xứ. Chẳng nên trụ đây là nhãn giới cho đến đây là ý giới. Chẳng nên trụ
đây là sắc giới cho đến đây là pháp giới. Chẳng nên trụ đây là nhãn thức giới
cho đến đây là ý thức giới. Chẳng nên trụ đây là nhãn xúc cho đến đây là ý xúc.
Chẳng nên trụ đây là nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến đây là ý xúc
làm duyên sanh ra các thọ. Chẳng nên trụ đây là địa giới cho đến đây là thức
giới. Chẳng nên trụ đây là nội không cho đến đây là vô tánh tự tánh không.
Chẳng nên trụ đây là vô minh cho đến đây là lão tử. Chẳng nên trụ đây là vô
minh diệt cho đến đây là lão tử diệt. Chẳng nên trụ đây là bố thí Ba la mật cho
đến đây là Bát nhã Ba la mật. Chẳng nên trụ đây là bốn niệm trụ cho đến đây là
mười tám pháp Phật bất cộng. Chẳng nên trụ đây là tất cả Tam ma địa môn, đây là
tất cả Đà la ni môn. Chẳng nên trụ đây là Thanh văn thừa, đây là Độc giác thừa,
Vô thượng thừa. Chẳng nên trụ đây là Dự lưu cho đến đây là Như Lai. Chẳng nên
trụ đây là Nhất thiết trí, đây là Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Vì sao?
Kiều Thi Ca! Vì an trụ như thế là có sở đắc vậy.
(Xác nhận một pháp dầu pháp đó mang
nhiều công đức thắng diệu nhất và an trụ trong ấy, tức có sở đắc, nên không thể
an trụ)
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Các Bồ tát khi
tu hành Bát Nhã chẳng nên trụ sắc cho đến thức hoặc thường hoặc vô thường,
hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc không
hoặc bất không, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa
lìa. Chẳng nên trụ mười hai xứ, mười tám giới hoặc thường hoặc vô thường,
hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc không
hoặc bất không, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa
lìa. Chẳng nên trụ nhãn xúc cho đến ý xúc hoặc thường hoặc vô thường, cho đến
hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Chẳng nên trụ nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ
cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc thường hoặc vô thường, cho đến
hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Chẳng nên trụ địa giới cho đến thức giới hoặc
thường hoặc vô thường, cho đến hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Nói rộng ra,
chẳng nên trụ tất cả pháp Phật hoặc thường hoặc vô thường, cho đến hoặc xa lìa
hoặc chẳng xa lìa. Chẳng nên trụ Dự lưu cho đến Như Lai hoặc thường hoặc vô
thường, cho đến hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì an
trụ như thế là có sở đắc vậy.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Các Bồ tát tu
hành Bát Nhã chẳng nên trụ quả Dự lưu hiển thị hữu vi, hoặc hiển thị vô vi.
Chẳng nên trụ quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác, Bồ đề, chư Phật Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề hoặc hiển thị hữu vi, hoặc hiển thị vô vi. Vì sao? Kiều
Thi Ca! Vì an trụ như thế là có sở đắc vậy.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Các Bồ tát khi
tu hành Bát Nhã chẳng nên trụ Dự lưu là phước điền. Chẳng nên trụ Nhất lai, Bất
hoàn, A la hán, Độc giác, Bồ tát, Như Lai là phước điền. Vì sao? Kiều Thi Ca!
Vì an trụ như thế là có sở đắc vậy.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Các Bồ tát tu
hành Bát Nhã chẳng nên trụ sơ địa cho đến chẳng nên trụ đệ thập địa. Vì sao?
Kiều Thi Ca! Vì trụ như thế là có sở đắc vậy. Vì sao? Vì trụ như thế là động
chuyển vậy.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Các Bồ tát tu
hành Bát Nhã chẳng nên trụ sơ phát tâm rồi khởi nghĩ: Ta sẽ viên mãn bố thí cho
đến Bát nhã Ba la mật. Chẳng nên trụ sơ phát tâm rồi khởi nghĩ: Ta sẽ tu hành
bốn niệm trụ cho đến tám Thánh đạo chi. Chẳng nên trụ sơ phát tâm rồi liền khởi
nghĩ: Ta sẽ tu hành không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn, cho đến mười tám
pháp Phật bất cộng. Chẳng nên trụ rồi khởi nghĩ này: Ta tu gia hạnh đã viên mãn
rồi sẽ vào Bồ tát Chánh tánh ly sanh. Chẳng nên trụ rồi khởi nghĩ này: Ta đã
được vào Chánh tánh ly sanh, sẽ trụ bậc Bồ tát Bất thối chuyển. Chẳng nên trụ
rồi khởi nghĩ này: Ta sẽ viên mãn năm (thần)thông Bồ tát. Chẳng nên trụ
rồi khởi nghĩ này: Ta trụ Bồ tát viên mãn năm thông, thường dạo vô lượng vô số
cõi Phật, lễ kính chiêm ngưỡng, cúng dường thừa sự chư Phật Thế Tôn, lóng nghe
chánh pháp, suy nghĩ đúng lý, rộng vì người thuyết. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì an
trụ như thế là có sở đắc vậy.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Các Bồ tát tu
hành Bát Nhã chẳng nên trụ khởi nghĩ này: Ta sẽ làm trang nghiêm tịnh độ như
cõi Phật trong mười phương. Không nên trụ nghĩ như vầy: Ta sẽ biến hóa tịnh độ
như cõi Phật trong mười phương. Chẳng nên trụ khởi nghĩ này: Ta sẽ thành thục
các loại hữu tình khiến chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, hoặc vào Niết bàn,
hoặc vui người trời. Chẳng nên trụ khởi nghĩ này: Ta sẽ đến vô lượng vô số cõi
nước chư Phật, cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen chư Phật Thế Tôn. Lại
đem vô biên hoa hương, anh lạc, bảo tràng, phan lọng, áo mặc, đồ nằm, uống ăn,
đèn sáng, trăm ngàn trăm ức, muôn ức số các kỹ nhạc trời và vô lượng châu báu
thượng diệu mà vì cúng dường. Chẳng nên trụ khởi nghĩ này: Ta sẽ an lập vô
lượng vô số vô biên hữu tình, khiến đối Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề được Bất
thối chuyển. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì an trụ như thế là có sở đắc vậy.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Các Bồ tát tu
hành Bát Nhã chẳng nên trụ khởi nghĩ: Ta sẽ thành xong thanh tịnh nhục nhãn,
thiên nhãn, huệ nhãn, pháp nhãn, Phật nhãn. Chẳng nên trú khởi nghĩ: Ta sẽ
thành xong các môn đẳng trì, đối các đẳng trì được tự tại du hý. Chẳng nên trụ
khởi nghĩ: Ta sẽ thành xong các tổng trì môn, đối các tổng trì đều được tự tại.
Chẳng nên trụ khởi nghĩ: Ta sẽ thành xong Như Lai mười lực, bốn vô sở úy, bốn
vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng.
Chẳng nên trụ khởi nghĩ: Ta sẽ thành xong ba mươi hai tướng đại sĩ, tám mươi vẻ
đẹp trang nghiêm nơi thân, khiến các hữu tình kẻ thấy vui mừng, xem không nhàm
chán. Do đấy chứng được lợi ích an vui. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì an trụ như thế
là có sở đắc vậy.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Các Bồ tát khi
tu hành Bát Nhã chẳng nên trụ đây là bổ đặc già la thứ tám, đây là tùy tín
hành, đây là tùy pháp hành. Không nên trụ bậc Dự lưu còn sanh trở lại bảy lần,
đây là Nhất lai, đây là Bất hoàn. Không nên trụ đây là bổ đặc già la đứng đầu,
đến khi mạng chung, phiền não mới hết. Chẳng nên trụ đây là pháp Dự lưu quyết
định chẳng đọa, đây là Nhất lai đến đây được hết ngằn mé khổ thế gian. Chẳng
nên trụ đây là Bất hoàn hướng, đây là Bất hoàn quả, đến đó mới đắc Niết bàn.
Chẳng nên trụ đây là A la hán dứt hẳn hậu hữu(2), hiện tại tất vào Vô dư Niết
bàn. Chẳng nên trụ đây là Độc giác. Chẳng nên trụ đây là Như Lai Ứng Chánh Đẳng
Giác. Chẳng nên trụ khởi nghĩ này: Ta vượt bậc Thanh văn, Độc giác, đã an trụ
bậc Bồ tát. Chẳng nên trụ khởi nghĩ này: Ta sẽ đầy đủ Nhất thiết trí, Đạo tướng
trí, Nhất thiết tướng trí, giác tất cả pháp tất cả tướng rồi dứt hẳn tất cả tập
khí phiền não ràng buộc nối nhau. Chẳng nên trụ khởi nghĩ này: Ta sẽ chứng được
sở cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, đắc Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác quay xe diệu
pháp làm các Phật sự, độ thoát vô lượng vô số hữu tình, khiến được Niết bàn an
vui. Chẳng nên trụ khởi nghĩ này: Ta sẽ khéo tu bốn thần túc, đã an trụ đẳng
trì thù thắng như thế. Do đẳng trì đây tăng thêm thế lực, khiến ta thọ mệnh vô
lượng vô biên. Chẳng nên trụ khởi nghĩ này: Ta sẽ trọn nên ba mươi hai tướng,
mỗi mỗi tướng này trăm phước trang nghiêm. Chẳng nên trụ khởi nghĩ này: Ta sẽ
trọn nên tám mươi vẻ đẹp, mỗi vẻ đẹp đều có vô lượng hy hữu thắng sự. Chẳng nên
trụ khởi nghĩ này: Ta sẽ an trụ một cõi nghiêm tịnh, cõi ấy rộng rãi như mười
phương thế giới. Chẳng nên trụ khởi nghĩ: Ta sẽ ngồi yên một tòa kim cương, tòa
ấy rộng lớn lượng ngang Tam thiên đại thiên thế giới. Chẳng nên an trụ khởi
nghĩ: Ta sẽ nương ở cội Đại bồ đề, cội ấy cao rộng các báu trang nghiêm phát ra
diệu hương, hữu tình kẻ nghe, tâm tham sân si thảy mau trừ diệt, vô lượng vô
biên thân bệnh cũng được lành. Các kẻ nghe hương cội Bồ đề này lìa các tác ý
Thanh văn, Độc giác, quyết được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Chẳng nên trụ khởi nghĩ: Ta sẽ được
cõi Phật nghiêm tịnh, cõi ấy thanh tịnh không có tiếng gọi sắc uẩn, không có
tiếng gọi thọ tưởng hành thức uẩn. Không có tiếng gọi mười hai xứ, mười tám
giới. Không có tiếng gọi nhãn xúc, không có tiếng gọi nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc.
Không có tiếng gọi nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ, không có tiếng gọi nhĩ
tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ. Không có tiếng gọi địa giới,
không có tiếng gọi thủy hỏa phong không thức giới. Không có tiếng gọi vô minh;
không có tiếng gọi hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh,
lão tử. Chỉ có tiếng gọi bố thí Ba la mật cho đến chỉ có tiếng gọi Bát nhã Ba
la mật. Chỉ có tiếng gọi nội không, cho đến chỉ có tiếng gọi vô tánh tự tánh
không. Chỉ có tiếng gọi chơn như, cho đến chỉ có tiếng gọi bất tư nghì giới.
Chỉ có tiếng gọi bốn niệm trụ, nói rộng cho đến chỉ có tiếng gọi mười tám pháp
Phật bất cộng. Trong ấy đều không tiếng gọi Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la
hán, Độc giác, Dị sanh thảy. Chỉ có tiếng gọi Bồ tát, Như Lai Ứng Chánh Đẳng
Giác. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì an trú như thế là có sở đắc vậy. Vì sao? Vì
khi tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề
hiểu tất cả pháp đều vô sở hữu. Tất cả chúng Bồ tát an trú bậc
Bất thối chuyển cũng thấy các pháp đều vô sở hữu. Này Kiều Thi Ca! Đấy là Bồ
tát đối Bát nhã Ba la mật, tùy chỗ nên trụ, không nên
trụ tướng.
Này Kiều thi Ca! Các đại Bồ tát đối
với Bát nhã Ba la mật thâm sâu, tùy theo chỗ nên trụ, không nên trụ tướng, đem
vô sở đắc làm phương tiện nên học như vậy.
Bấy giờ, Xá Lợi Tử khởi nghĩ này
rằng: Nếu Bồ tát tu hành Bát Nhã đối tất cả pháp chẳng nên trụ, làm sao an trụ Bát
nhã Ba la mật?
Cụ thọ Thiện Hiện biết chỗ tâm nghĩ
Xá Lợi Tử bèn bảo rằng: Các ông nghĩ sao? Tâm các Như Lai an trụ chỗ nào?
Xá Lợi Tử nói: Tâm Như Lai đều vô
sở trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Tâm Như lai chẳng trụ nơi sắc, chẳng trụ thọ
tưởng hành thức. Chẳng trụ mười hai xứ, mười tám giới. Chẳng trụ nhãn xúc,
chẳng trụ nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc. Chẳng trụ nhãn xúc làm duyên sanh ra các
thọ, chẳng trụ nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ. Chẳng trụ hữu
vi giới, chẳng trụ vô vi giới. Chẳng trụ bốn niệm trụ, nói rộng cho đến chẳng
trụ mười tám pháp Phật bất cộng. Chẳng trụ Nhất thiết trí; chẳng trụ Đạo tướng
trí, Nhất thiết tướng trí. Vì sao? Vì tất cả pháp bất khả đắc vậy. Như vậy,
Thiện Hiện! Tâm Như Lai đối tất cả pháp đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng
trụ.
Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện bảo Xá Lợi
Tử rằng: Các Bồ tát khi tu hành Bát Nhã cũng lại như vậy, tuy trụ Bát nhã Ba la
mật mà đồng Như Lai đối tất cả pháp đều vô sở trụ cũng chẳng phải chẳng trụ. Vì
sao? Xá Lợi Tử! Các Bồ tát tu hành Bát Nhã tuy trụ Bát nhã Ba la mật mà đối sắc
chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ. Cho đến đối Nhất thiết tướng trí cũng chẳng trụ
chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì sắc, thọ, tưởng… là pháp không hai
tướng vậy.
Xá Lợi Tử! Các Bồ tát đối Bát nhã Ba
la mật thậm thâm tùy theo tướng chẳng trụ chẳng phải trụ đây, đem vô sở đắc mà
làm phương tiện nên học như thế.
(Bồ tát nên học Bát nhã Ba la mật
như thế nào?)
Bấy giờ, trong hội có các Thiên tử
thầm nghĩ này: Lời lẽ câu chú của các Dược xoa, các loài quỷ tuy rất khó hiểu
mà bọn ta còn có thể biết được. Tôn giả Thiện Hiện tuy đối với Bát nhã Ba la
mật đây, đem nhiều thứ dẫn giải, chỉ rõ, mà bọn ta trọn chẳng hiểu được gì hết!
Cụ thọ Thiện Hiện biết chỗ tâm các
Thiên tử nghĩ bèn bảo họ rằng:
- Thiên tử các ngươi đối lời giảng
thuyết của tôi chẳng hiểu được ư?
Các Thiên tử thưa:
- Đúng vậy, đúng vậy.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bảo họ rằng:
- Tôi đối với nghĩa tương ưng Bát
nhã Ba la mật thậm thâm chưa từng thuyết một chữ, các ngươi cũng chẳng nghe
thời hiểu chỗ nào? Vì sao? Các Thiên tử! Trong nghĩa tương ưng Bát nhã Ba la
mật thậm thâm, đều xa lìa văn tự ngôn thuyết. Bởi đấy, với trong đây kẻ thuyết,
kẻ nghe và kẻ năng hiểu đều chẳng khá được, tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác
sở chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thẳm sâu mầu nhiệm cũng lại như thế.
Thiên tử các ngươi! Như các Như Lai
Ứng Chánh Đẳng Giác hóa làm hóa thân, hóa thân như vậy hóa làm bốn chúng đồng
đến nhóm hội mà vì thuyết pháp. Các ông nghĩ sao? Trong đây thật có kẻ năng
thuyết, năng nghe, năng hiểu chăng?
Các thiên tử thưa:
- Bạch Đại đức! Chẳng thật.
Thiện Hiện bảo rằng: Như vậy, các
Thiên tử! Tất cả pháp đều như hóa vậy. Nay đối trong nghĩa tương ưng Bát nhã Ba
la mật thậm thâm đây kẻ thuyết, kẻ nghe và kẻ năng hiểu đều chẳng khá được. Các
Thiên tử! Như người trong mộng, mộng ấy có Phật vì đại chúng tuyên nói chánh
pháp. Các ông nghĩ sao? Trong đây thật có kẻ năng nói, năng nghe, năng hiểu
chăng?
Các thiên tử thưa:
- Bạch Đại đức! Chẳng thật.
Thiện Hiện bảo rằng: Như thế, các
Thiên tử! Tất cả pháp đều như mộng vậy. Nay đối trong nghĩa tương ưng Bát nhã
Ba la mật thậm thâm đây, kẻ nói kẻ nghe và kẻ năng hiểu đều chẳng khá được. Các
Thiên tử! Như có hai người ở trong hang núi, mỗi người quay mặt mỗi hướng, khen
Phật Pháp Tăng cùng lúc phát âm vang. Các ông nghĩ sao? Hai tiếng vang đây có
thể nghe, có thể hiểu lẫn nhau chăng?
Các thiên tử thưa:
- Bạch Đại đức! Chẳng được.
Thiện Hiện bảo rằng: Như thế, các
Thiên tử! Tất cả pháp đều như vang vậy. Nay đối trong nghĩa tương ưng Bát nhã
Ba la mật thậm thâm, kẻ nói, kẻ nghe và kẻ năng hiểu đều chẳng khá được. Các
Thiên tử! Như huyễn sư giỏi hoặc học trò y, ở ngã tư đường hóa hiện bốn chúng
và Đức Như Lai. Đức Như Lai huyễn đây vì bốn huyễn chúng tuyên nói chánh pháp.
Các ông nghĩ sao? Trong đây thật có kẻ nói, kẻ nghe và kẻ năng hiểu chăng?
Các thiên tử thưa:
- Bạch Đại đức! Chẳng thật.
Thiện Hiện bảo rằng: Như thế, các
Thiên tử! Tất cả pháp đều như huyễn vậy. Nay đối trong nghĩa tương ưng Bát nhã
Ba la mật thậm thâm, kẻ nói, kẻ nghe và kẻ năng hiểu đều chẳng khá được. Các
Thiên tử! Bởi nhân duyên này, tôi từng đối trong nghĩa tương ưng Bát nhã Ba la
mật thậm thâm chẳng thuyết một chữ. Các ngươi cũng chẳng nghe thời hiểu chỗ
nào? (Q.425, ĐBN)
Bấy giờ, các thiên tử lại khởi nghĩ
này: Tôn giả Thiện Hiện đối với Bát nhã Ba la mật đây, dù đã đem nhiều thứ phương
tiện nói rõ để muốn dễ hiểu hơn, nhưng nghĩa thú ấy lại càng sâu càng diệu khó
nổi so lường!
Cụ thọ Thiện Hiện biết tâm các Thiên
tử đã nghĩ gì liền bảo:
- Này Thiên tử! Sắc cho đến thức
chẳng sâu chẳng diệu, tự tánh sắc cho đến thức chẳng sâu chẳng diệu, tự tánh
sắc cho đến tự tánh thức cũng chẳng sâu chẳng diệu. Mười hai xứ, mười tám giới
chẳng sâu chẳng diệu, tự tánh mười hai xứ, mười tám giới cũng chẳng sâu chẳng
diệu. Nhãn xúc cho đến ý xúc chẳng sâu chẳng diệu, tự tánh nhãn xúc cho đến tự
tánh ý xúc cũng chẳng sâu chẳng diệu. Nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho
đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ chẳng sâu chẳng diệu, tự tánh nhãn xúc làm
duyên sanh ra các thọ cho đến tự tánh ý xúc làm duyên sanh ra các thọ cũng
chẳng sâu chẳng diệu. Nội không cho đến vô tánh tự tánh không chẳng sâu chẳng
diệu, tự tánh nội không cho đến tự tánh vô tánh, tự tánh vô tánh không cũng
chẳng sâu chẳng diệu. Sáu Ba la mật cho đến ba mươi bảy pháp trợ đạo chẳng sâu
chẳng diệu, tự tánh sáu Ba la mật cho đến tự tánh ba mươi bảy pháp trợ đạo cũng
chẳng sâu chẳng diệu. Cho đến Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng
trí chẳng sâu chẳng diệu; tự tánh Nhất thiết trí, tự tánh Đạo tướng trí, Nhất
thiết tướng trí cũng chẳng sâu chẳng diệu.
Khi ấy, các Thiên tử lại khởi nghĩ:
Tôn giả Thiện Hiện trong pháp đã thuyết chẳng thi thiết sắc cho đến
thức. Chẳng thi thiết nhãn xứ cho đến ý xứ. Chẳng thi thiết sắc xứ cho đến
pháp xứ. Chẳng thi thiết nhãn giới cho đến ý giới. Chẳng thi thiết sắc giới cho
đến pháp giới. Chẳng thi thiết nhãn xúc cho đến ý xúc. Chẳng thi thiết nhãn xúc
làm duyên sanh ra các thọ. Chẳng thi thiết nội không cho đến vô tánh tự tánh
không. Chẳng thi thiết sáu Ba la mật cho đến ba mươi bảy pháp trợ đạo. Chẳng
thi thiết Phật mười lực nói rộng cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Chẳng thi
thiết tất cả Tam ma địa môn, tất cả Đà la ni môn. Chẳng thi thiết Nhất thiết
trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Chẳng thi thiết Dự lưu và quả Dự lưu
cho đến chẳng thi thiết A la hán và quả A la hán. Chẳng thi thiết Độc giác và
Độc giác Bồ đề. Chẳng thi thiết Bồ tát và bậc Bồ tát. Chẳng thi thiết Tam miệu
tam Phật Đà và Tam miệu tam Bồ đề. Cũng chẳng thi thiết văn tự lời nói.
Cụ thọ Thiện Hiện biết tâm các Thiên
tử đã nghĩ nên liền bảo:
- Như vậy, như vậy, các Thiên tử! Như các
ngươi đã nghĩ. Các pháp từ sắc cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ
đề đều lìa văn tự, đều chẳng thể nói nên đối Bát nhã Ba la mật không nói không
nghe, cũng không kẻ hiểu. Vậy nên các ngươi đối trong các pháp nên tùy sở
thuyết bền bỉ, kiên nhẫn tu học. Các kẻ muốn trụ muốn chứng quả Dự
lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán cũng nhờ nhẫn đây mới trụ mới chứng. Các kẻ
muốn trụ muốn chứng Độc giác sở đắc Bồ đề cũng nhờ nhẫn đây mới trụ mới chứng.
Các kẻ muốn trụ muốn chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề cần nhờ nhẫn đây mới trụ
mới chứng được.
Như vậy, các Thiên tử! Các Bồ tát từ
sơ phát tâm đến được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề nên trụ vô thuyết, vô thính, vô
giải Bát nhã Ba la mật thậm thâm thường siêng tu học. (Q.426, ĐBN)
Thích nghĩa:
(1). Một trong những đoạn Kinh của
phẩm “Tùy Thuận”, quyển 425, mà lối chuyển ngữ thường gây lúng túng cho chúng
tôi không ít, nên trình ra để quý vị thẩm định. Đừng xem đây là chỉ trích mà
đây chỉ cốt nói lên cái khó khăn trong vấn đề dịch thuật:
1- Đoạn Kinh
trong quangduc.com, dịch giả HT. Thích Trí Nghiêm, bản in năm 2003. Nhuận văn: Cư sĩ Bảo Quang & Cư sĩ Giác
Tuệ:
- “Này Kiều-thi-ca! Tâm hồi hướng của các Đại Bồ-tát là chẳng phải
tâm, tâm Bồ-đề cũng chẳng phải tâm. Không thể nào chẳng phải tâm hồi hướng
chẳng phải tâm? Tâm cũng không thể nào hồi hướng chẳng phải tâm? Chẳng phải tâm
không thể nào hồi hướng đến tâm? Tâm cũng không thể nào hồi hướng đến tâm? Vì
sao? Này Kiều-thi-ca! Vì chẳng phải tâm tức là bất khả tư nghì, bất khả tư nghì
tức là chẳng phải tâm, hai pháp này đều vô sở hữu. Trong vô sở hữu không có
nghĩa hồi hướng”.
2- Đoạn Kinh
của tuvienquangduc.com, do HT Thích trí Nghiêm dịch vào năm 1997, khảo dịch HT
Thích Thiện Siêu:
- “Kiều Thi Ca! Các Bồ tát Ma ha tát tâm hồi hướng thời phi tâm,
tâm Bồ đề cũng phi tâm. Chẳng lẽ phi tâm hồi hướng phi tâm? Tâm cũng chẳng lẽ
hồi hướng phi tâm? Phi tâm chẳng lẽ hồi hướng nơi tâm? Tâm cũng chẳng lẽ hồi
hướng nơi tâm? Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Phi tâm tức là bất khả tư nghì, bất khả
tư nghì tức là phi tâm, hai thứ như thế đều vô sở hữu. Trong vô sở hữu không có
nghĩa hồi hướng”.
3- Đoạn Kinh
nguyên văn bằng chữ Hán trong Hoavouu.com, ghi như sau:
“憍kiều
尸thi
迦ca
。 諸chư
菩Bồ
薩Tát
摩Ma
訶Ha
薩Tát
。 迴hồi
向hướng
心tâm
則tắc
非phi
心tâm
。 菩Bồ
提Đề
心tâm
亦diệc
非phi
心tâm
。 不bất
應ưng/ứng
非phi
心tâm
迴hồi
向hướng
非phi
心tâm
。 心tâm
亦diệc
不bất
應ưng/ứng
迴hồi
向hướng
非phi
心tâm
。 非phi
心tâm
不bất
應ưng/ứng
迴hồi
向hướng
於ư
心tâm
。 心tâm
亦diệc
不bất
應ưng/ứng
迴hồi
向hướng
於ư
心tâm
。
何hà
以dĩ
故cố
。 憍kiều
尸thi
迦ca
。 非phi
心tâm
即tức
是thị
不bất
可khả
思tư
議nghị
。 不bất
可khả
思tư
議nghị
。 即tức
是thị
非phi
心tâm
。 如như
是thị
二nhị
種chủng
俱câu
無vô
所sở
有hữu
。 無vô
所sở
有hữu
中trung
無vô
迴hồi
向hướng
義nghĩa”
。
Cụm từ “chẳng phải tâm” trong website của quangduc.com dịch từ chữ Hán “phi
tâm” làm cho chúng ta lúng túng. Trong khi bản dịch (năm 1997) nguyên bản (chưa
củ soát) của HT. Thích Trí Nghiêm giữ nguyên chữ Hán là “phi tâm” lại rất rõ
nghĩa. Vì vậy, chúng tôi chọn lối dịch của HT. Thích Trí Nghiêm.
Cụm từ phi tâm có thể dịch nôm na là tâm không. Phi tâm là vượt ngoài
mọi tâm thức, suy lường: Phi sắc pháp, phi tâm pháp, không phải tâm không phải
vật.
(2). Hậu hữu (Phạm là Punar-bhava).
Thân sau. Tức là quả báo của chúng sinh hữu tình phải lãnh nhận ở đời vị lai.
Luận Câu xá quyển 26 (Đại 29, 136 hạ), nói: Đời ta đã hết, phạm hạnh đã thành,
việc làm đã xong, không chịu hậu hữu. Ý nói: Bậc A la hán đã được Tận trí, Vô
sinh trí, thân và tâm đều đã diệt, nên không còn chịu quả báo ở vị lai nữa.
Ngoài ra, thân sinh tử cuối cùng cũng được gọi là Hậu hữu, như thân của thái tử
Tất đạt đa. [X. Bố tra bà lâu trong Trường a hàm Q.17; luận Đại tì bà sa Q.29,
Q.102, Q.192; luận Du già sư địa Q.66] - Từ điển Phật
Quang.
Sơ giải:
Phẩm này nêu ra ba vấn đề:
1. Thế nào là Bát nhã Ba la mật của
Bồ tát?
2. Bồ tát nên trụ Bát nhã Ba la mật
như thế nào? Và
3. Bồ tát nên học Bát nhã Ba la mật
như thế nào?
Phẩm “Thiên Đế”, quyển 77 cho đến
phần đầu quyển 81, Hội thứ I, ĐBN, đã chiết giải quá đầy đủ rồi, tuy nhiên ở
đây chúng tôi ghi lại các điểm chánh yếu để nhớ:
1. Thế nào là Bồ tát Bát nhã Ba la
mật?
Được gọi là Bồ tát Bát nhã Ba la mật, những Bồ tát nào:
1- “Đem tâm tương ưng Nhất thiết trí trí, đem vô sở đắc mà làm phương
tiện, tư duy sắc cho đến thức hoặc vô thường, hoặc khổ, hoặc vô ngã, hoặc
không, hoặc như bệnh, hoặc như ung nhọt, hoặc như mũi tên, hoặc như ghẻ, hoặc
nóng nảy, hoặc bức bách, hoặc hư hoại, hoặc mục nát, hoặc lay chuyển, hoặc mau
diệt, hoặc đáng sợ, hoặc đáng nhàm chán, hoặc có tai ách, hoặc có oan ức, hoặc
có bệnh dịch, hoặc có bệnh hủi, hoặc không an ổn, hoặc không thể tín nhiệm”;
2- “Đem tâm tương ưng Nhất thiết trí trí, đem vô sở đắc làm phương tiện,
tư duy sắc cho đến thức hoặc vắng lặng, hoặc xa lìa, hoặc vô sanh, hoặc vô
diệt, hoặc vô nhiễm, hoặc vô tịnh, hoặc vô tác, hoặc vô vi”;
3- “Đem tâm tương ưng Nhất thiết trí trí, đem vô sở đắc mà làm phương
tiện, tu hành tất cả pháp Phật. v.v…”
Đó gọi là Bồ tát Bát nhã Ba la mật.
2. Bồ tát nên trụ Bát nhã Ba la mật
như thế nào?
1- Bồ tát không nên trụ tất cả pháp: Các Bồ tát tu hành Bát Nhã chẳng
nên trụ sắc, chẳng nên trụ thọ tưởng hành thức. Chẳng nên trụ 12 xứ, 18 giới.
Chẳng nên trụ địa giới, cho đến chẳng nên trụ thức giới. Chẳng nên trụ 12 duyên
khởi. Chẳng nên trụ lục Ba la mật. Chẳng nên trụ mười tám pháp Phật bất cộng.
Chẳng nên trụ tất cả Tam ma địa môn, chẳng nên trụ tất cả Đà la ni môn. Chẳng
nên trụ Thanh văn thừa, chẳng nên trụ Độc giác thừa, Vô thượng thừa. Chẳng nên
trụ Nhất thiết trí; chẳng nên trụ Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Vì sao? Vì an trụ
như thế là có sở đắc vậy;
2- Các Bồ tát khi tu hành Bát Nhã chẳng nên trụ sắc cho đến thức hoặc
thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc
bất tịnh, hoặc không hoặc bất không, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc
xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Vì an trụ như thế là có sở đắc vậy;
3- Các Bồ tát khi tu hành Bát Nhã chẳng nên trụ Dự lưu là phước
điền. Chẳng nên trụ Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác, Bồ tát, Như Lai là
phước điền. Vì sao? Vì an trụ như thế là có sở đắc vậy;
4- Các Bồ tát tu hành Bát Nhã chẳng nên trụ sơ địa cho đến chẳng nên trụ
đệ thập địa. Không nên trụ Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí.
Không nên trụ quả Dự lưu cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì sao? Vì trụ như
thế là có sở đắc vậy. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chứng được Vô Thượng
Chánh Đẳng Bồ đề hiểu tất cả pháp đều vô sở hữu. Nên đem vô sở đắc làm phương
tiện, an trụ chỗ cần an trụ, không nên an trụ
tướng hay phi tướng. Vì trụ như thế là có động chuyển. Nên trong phẩm “Tán
Hoa”, Hội thứ IV, TBBN. Khi Phật phó chúc Kinh ĐBN cho Ngài A Nan, Phật bảo:
“Khánh Hỷ nên biết! Vì pháp chẳng tu pháp, pháp chẳng thấy pháp, pháp
chẳng biết pháp, pháp chẳng chứng pháp.
Khánh Hỷ nên biết! Tánh tất cả pháp không người tu; không người thấy,
không người biết, không người chứng, không hành động, không tạo tác. Vì sao? Vì
tất cả pháp hoàn toàn không tác dụng, người thủ sự thủ như đều không, vì tánh
xa lìa vậy. Vì tất cả pháp không thể nghĩ bàn, người và sự nghĩ bàn đều như
hóa, vì tánh xa lìa vậy. Vì tất cả pháp không tạo tác, không lãnh thọ, như bóng
sáng v.v… chẳng chắc thật vậy.
Khánh Hỷ nên biết! Nếu đại Bồ tát luôn tu như vậy, luôn thấy như vậy,
luôn biết như vậy, luôn chứng như vậy, thì chính là hành Bát nhã Ba la mật cũng
không chấp tướng các pháp này”.
Khánh Hỷ nên biết! Nếu Bồ tát học được như vậy thì chính là học Bát nhã
Ba la mật.
3. Bồ tát nên học Bát nhã Ba la mật như thế nào?
Tất cả pháp như huyễn như mộng, như
tiếng vang trong hang động…Vì vậy, nên Thiện Hiện bảo các Thiên tử: “Tất cả pháp từ sắc cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ
đề đều lìa văn tự, đều chẳng thể nói nên đối Bát nhã Ba la mật không nói không
nghe, cũng không kẻ hiểu. Vậy nên các ngươi đối trong các pháp nên tùy sở
thuyết bền bỉ, kiên nhẫn tu học. Các kẻ muốn trụ muốn chứng quả Dự
lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán cũng nhờ nhẫn đây mới trụ mới chứng. Các kẻ
muốn trụ muốn chứng Độc giác sở đắc Bồ đề cũng nhờ nhẫn đây mới trụ mới chứng.
Các kẻ muốn trụ muốn chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề cần nhờ nhẫn đây mới trụ
mới chứng được.
Như vậy, các Thiên tử ! Các Bồ tát
từ sơ phát tâm đến được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề nên trụ vô thuyết, vô thính,
vô giải Bát nhã Ba la mật thậm thâm thường siêng tu học”. (Q.426, ĐBN)
Làm sao trụ chỗ không có thuyết,
không có nghe, không có giải mà thường siêng tu học. Thật là nghịch đời! Nhưng
học Bát Nhã phải “từ cái vô chiêu mà học”, học như ảo nhân thính pháp vậy. Đừng
bao giờ đòi hỏi Bát Nhã, Bát Nhã vô tri như hư không, phải tự mình lặn sâu vào
tâm thức để tìm hiểu những biểu thị hay pháp nghĩa hiển hiện của Bát Nhã thôi.
Vì vậy, kinh mới khuyên là phải tu nhẫn kiên cố!
Học Bát nhã Ba la mật cần phải nhớ
câu này: “Tánh tất cả pháp không người tu; không người thấy, không người biết,
không người chứng, không hành động, không tạo tác”.
---o0o---