PHẨM “TUYÊN
HÓA”
Phần cuối
Q.536 đến hết Q.537, Hội thứ III, ĐBN.
(Tương đương với 5 phẩm: “Chánh Định”, “Phật Pháp”,
“Vô Sự”, “Nói Thật” và
“Tánh Không”, bắt đầu Q.477 cho đến hết Q.478, Hội thứ
II, ĐBN)
Gợi ý:
Đây là phẩm
cuối cùng của Hội thứ III. Phẩm này cũng như hầu hết các phẩm khác của Hội thứ
III gồm 5 phẩm: “Chánh Định”, “Phật Pháp”, “Vô Sự”, “Nói Thật” và “Tánh Không”
của Hội thứ II, nhập lại thành một phẩm duy nhất, lấy tên là “Tuyên Hóa”. Vì
vậy, chúng tôi cũng theo sự phân chia của Hội thứ II mà trình bày phẩm này
thành 5 đoạn, để dễ học, dễ tra cứu:
Tóm lược:
1. (Đoạn Kinh sau đây tương đương với phẩm “Chánh
Định”,
phần đầu quyển 477, Hội thứ II, ĐBN)
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch
Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ tát này an
trụ trong nhóm chánh định hay bất định?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Đại Bồ tát này đều
trụ vào nhóm chánh định.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ tát này trụ
vào nhóm chánh định nào? Thanh văn thừa, Độc giác thừa hay Vô thượng thừa?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Đại Bồ tát này trụ
vào Vô thượng thừa.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ tát này trụ
vào nhóm chánh định từ lúc: Sơ phát tâm, hoặc ở ngôi vị Bất thối hay ở thân
cuối cùng?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Đại Bồ tát này lúc
mới phát tâm, hoặc ở ngôi vị Bất thối, hay thân cuối cùng đều trụ vào nhóm
chánh định tụ của Bồ tát.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ tát trụ
vào nhóm chánh định này có bị đọa vào đường ác không?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát trụ
vào nhóm chánh định này thì nhất định không đọa vào đường ác.
Lại bảo Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Người nhập
Đệ bát, Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác có bị đọa vào đường ác
không?
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Không đọa!
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát
cũng lại như vậy. Từ lúc mới phát tâm tu hành bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật
và vô lượng, vô biên các Phật pháp khác, đoạn tận tất cả pháp ác bất thiện. Do
nhân duyên này không thể đọa vào các đường ác, không thể sanh vào cõi trời
Trường thọ, vì các chỗ ấy các thiện pháp thù thắng không hiện hành.
Nếu đại Bồ tát này sanh vào nơi biên
địa hạ tiện, không có tín căn thì cũng không có lẽ ấy. Vì ở nơi ấy không thể tu
hành thiện pháp thù thắng, phần nhiều phát sanh ác kiến, không tin nhân quả, ưa
tạo các nghiệp xấu ác, không nghe Tam bảo, không có bốn chúng.
Đại Bồ tát này cũng không sanh vào
nhà tà kiến, vì sanh vào nơi ấy thuờng bị chấp trước các ác kiến, hành ác hạnh,
bác bỏ diệu hạnh và phước báo, chẳng tu điều thiện, ưa làm các điều ác, nên các
đại Bồ tát không sanh vào nhà ấy.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Các đại Bồ
tát lúc mới phát tâm quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, đem ý lạc thù thắng thọ
hành mười nghiệp đạo bất thiện, cũng không có lẽ ấy.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ tát này từ
lúc mới phát tâm, thành tựu công đức thiện căn như vậy, không sanh vào chỗ ác
thì tại sao Thế Tôn mỗi khi vì chúng nói việc bổn sanh của mình nhiều trăm ngàn
thứ, ở trong cũng có sanh các chỗ ác, bấy giờ thiện căn ở chỗ nào?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát
không vì nghiệp xấu mà thọ thân chỗ ác, chỉ vì lợi ích an vui các loài hữu
tình, do bổn nguyện mà thọ thân này. Vì vậy, chẳng nên dẫn việc đó mà hỏi.
Lại bảo Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Các Độc
giác, hoặc A la hán dùng phương tiện thiện xảo thù thắng như các chúng đại Bồ
tát thành tựu phương tiện thiện xảo thù thắng, thọ thân bàng sanh, khi ấy có
thợ săn muốn đến làm hại, Bồ tát liền sanh tâm từ bi an nhẫn vô thượng, muốn
làm cho người kia được lợi ích an vui nên tự xả thân mạng và không làm hại
người khác, phải không?
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Các Độc giác, A la
hán không làm như vậy.
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Do nhân duyên này,
nên biết Bồ tát vì muốn lợi ích an vui các hữu tình, vì lòng đại từ bi mau viên
mãn, vì muốn chứng đắc đại Bồ đề, nên tuy chịu thọ thân bàng sanh nhưng không
do tội lỗi bàng sanh làm ô nhiễm.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ tát trụ
vào thiện căn nào, vì muốn làm lợi ích an vui cho hữu tình nên thọ thân nơi
cảnh giới ác?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Không có thiện căn
nào của chúng đại Bồ tát mà không viên mãn. Vì chúng đại Bồ tát muốn chứng đắc
quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề nên phải viên mãn tất cả thiện căn. Nghĩa là
chúng đại Bồ tát từ khi mới phát tâm cho đến khi an tọa nơi tòa diệu Bồ đề,
không có thiện căn nào là không viên mãn, do viên mãn hoàn toàn tất cả thiện
pháp mới chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Nếu còn một thiện pháp nào
chưa viên mãn mà chứng được quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thì không có lẽ
ấy.
Vì vậy, này Thiện Hiện! Các đại Bồ
tát từ khi mới phát tâm cho đến khi an tọa nơi tòa diệu Bồ đề. Trong thời gian
ấy thường tu học đầy đủ tất cả thiện pháp. Học rồi, phải đầy đủ Nhất thiết
tướng trí, đoạn trừ vĩnh viễn các tập khí tương tục mới có thể
chứng đắc Nhất thiết trí trí. (Q.536,
ĐBN)
Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Vì sao các đại Bồ
tát thực hành các Thánh pháp bạch tịnh vô lậu mà còn sanh vào đường ác, còn thọ
thân bàng sanh?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Như Lai có
thành tựu tất cả Thánh pháp bạch tịnh vô lậu không?
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Như Lai thành tựu
tất cả Thánh pháp bạch tịnh vô lậu.
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Như Lai
hóa sanh vào cảnh giới ác, thọ thân bàng sanh vì lợi ích an vui cho hữu tình có
phải là làm Phật sự không?
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Như Lai hóa sanh vào
cảnh giới ác, thọ thân bàng sanh vì lợi ích an vui cho hữu tình là làm Phật sự.
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Khi Như
Lai hóa làm thân bàng sanh là có thật loài bàng sanh chịu khổ không?
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Khi Như Lai hóa làm
thân bàng sanh, chẳng thật bàng sanh, chẳng chịu khổ.
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát
cũng lại như vậy. Tuy thành tựu tất cả các Thánh pháp bạch tịnh vô lậu nhưng vì
thành thục các loài hữu tình, vì lòng bi nguyện thọ thân bàng sanh.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Bậc A la
hán đoạn trừ các lậu, có thể hóa làm thân người, tạo ra các sự nghiệp, đem sự
nghiệp ấy làm cho người khác an vui không?
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Bậc A la hán đoạn
trừ các lậu, làm cho người khác an vui.
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát
cũng lại như vậy. Tuy đã thành tựu các Thánh pháp bạch tịnh vô lậu, nhưng vì
lợi ích an vui cho các loài hữu tình, đem lòng bi nguyện thọ thân bàng sanh,
làm các Phật sự. Tuy thọ thân ấy nhưng không cùng với chúng chịu các khổ não,
cũng không bị tội lỗi kia làm ô uế.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Có nhà ảo
thuật hay học trò của ông ấy biến hóa ra các thứ như voi, ngựa v.v... làm cho
nhiều người trông thấy vui mừng phấn khởi; đối với những thứ ấy có thật là voi,
ngựa v.v... không?
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đối với những thứ ấy
không có thật.
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát
cũng lại như vậy, tuy thành tựu các Thánh pháp bạch tịnh vô lậu, nhưng vì lợi
ích an vui cho các loài hữu tình, đem lòng bi nguyện thọ thân bàng sanh. Tuy
thọ thân ấy nhưng không thật có, cũng không bị tội lỗi kia làm ô nhiễm.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ tát
phương tiện thiện xảo rộng lớn như vậy, tuy đủ thành tựu các Thánh pháp bạch
tịnh vô lậu, nhưng vì hữu tình dùng lòng bi nguyện phương tiện thiện xảo thọ đủ
loại thân, tùy theo sự thích nghi của chúng mà thị hiện làm lợi ích. Bạch Thế
Tôn! Các đại Bồ tát an trụ vào những pháp nào để làm phương tiện thiện xảo, tuy
thọ các loại thân bàng sanh như vậy, nhưng không bị tội lỗi ấy làm ô nhiễm?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát trụ
vào Bát nhã Ba la mật sâu xa như vậy để làm phương tiện thiện xảo. Do sức
phương tiện thiện xảo này, nên tuy trải qua hằng hà sa thế giới chư Phật khắp
mười phương, hiện nhiều thứ thân, làm lợi ích an vui cho các loài hữu tình,
nhưng ở trong ấy không sanh tâm đắm nhiễm. Vì sao? Vì đại Bồ tát này đối với
tất cả pháp đều vô sở đắc. Do vô sở đắc nên không có người nhiễm, nơi chốn
nhiễm và nhân duyên nhiễm. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp đều Không.
(Tánh không và bất khả đắc không)
Thiện Hiện nên biết!
Không chẳng thể nhiễm không. Không chẳng thể nhiễm các pháp, cũng
không có các pháp năng nhiễm được không. Vì sao? Trong tánh không, không còn bất khả đắc huống chi có các pháp khác có
thể nhiễm trước không. Như vậy, gọi là bất khả đắc không. Các đại Bồ Tát an
trụ trong đây năng chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, vì các hữu tình
thường làm nhiêu ích lớn. (Q.536, ĐBN)
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ tát vì
chỉ an trụ Bát nhã Ba la mật sâu xa, nên dùng phương tiện thiện xảo như vậy,
hay là an trụ vào pháp nào khác?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Không có pháp nào là không tóm thâu vào Bát
nhã Ba la mật sâu xa, sao ông còn đặt câu hỏi ấy?
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật
sâu xa tự tánh vốn Không, làm sao cho rằng Bát nhã Ba la mật sâu xa tóm thâu
tất cả pháp? Chẳng phải trong pháp Không cho rằng có pháp thu nhiếp hay không
thu nhiếp?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Há chẳng phải các
pháp tự tánh đều Không?
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đúng vậy! Bạch Thiện
Thệ! Đúng vậy!
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Nếu tất cả pháp tự
tánh đều không thì trong cái bất không làm sao nhiếp thọ được tất cả pháp.
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đúng vậy!
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Do nhân duyên này,
Bát nhã Ba la mật sâu xa tóm thâu tất cả pháp. Nên biết chúng đại Bồ tát trụ
vào Bát nhã Ba la mật sâu xa, nên dùng phương tiện thiện xảo như vậy làm lợi
ích an vui cho hữu tình.
Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Làm thế nào đại Bồ
tát khi hành sâu Bát nhã Ba la mật, an trụ trong tất cả pháp tự tánh đều Không,
phát sanh thần thông Ba la mật, an trụ vào thần thông Ba la mật này có thể đến
được hằng hà sa số thế giới chư Phật khắp mười phương, cúng dường, cung kính,
tôn trọng chư Phật Thế Tôn, lắng nghe chư Phật thuyết pháp và trồng nhiều căn
lành?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát khi
hành sâu Bát nhã Ba la mật, thấy khắp mười phương hằng hà sa số thế giới chư
Phật và nhiều chư Phật, cùng nhau thuyết tự tánh không của các pháp. Nhưng chỉ
giả danh theo thế tục, thuyết đây là thế giới Phật, chúng Tăng và đây là các
pháp. Nhưng danh tự như vậy, do thế tục giả nói, tự tánh cũng không.
Thiện Hiện nên biết! Nếu mười phương
cõi và chúng chư Phật cùng nhau thuyết pháp thi thiết danh tự tự tánh chẳng
không thì cái không được thuyết đó sẽ thành một phần nhỏ. Vì cái không được
thuyết chẳng thành một phần nhỏ, nên tự tánh của tất cả pháp đều là không. Lý
của nó tròn đầy, không hai không khác. Các đại Bồ tát khi hành sâu Bát nhã Ba
la mật, do quán thấy là không, dùng phương tiện thiện xảo mà phát sanh thần thông Ba la mật. An trụ vào Bát
Nhã đó có thể phát sanh Thiên nhãn, thiên nhĩ, thần cảnh, tha tâm, túc trụ tùy
niệm và biết lậu tận.
Thiện Hiện nên biết! Các đại Bồ tát
không xa lìa thần thông Ba la mật, có năng lực tự tại, thành thục hữu tình,
nghiêm tịnh cõi Phật, chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì vậy, thần thông Ba la mật là đạo Bồ đề, các
đại Bồ tát đều nương vào đạo này cầu đạt đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Trong lúc đạt đến, tự mình có thể viên mãn tất cả thiện pháp, cũng có thể
khuyên người tu các thiện pháp. Dù có làm nhưng đối với việc ấy không đắm
trước. Vì sao? Vì đại Bồ tát này biết các thiện pháp tự tánh đều Không, chẳng
phải tự tánh không mà có chấp trước. Nếu có chấp trước thì có vị ngọt của ái.
Do không chấp trước nên không có vị ngọt của ái, vì trong tự tánh không vị ngọt
của ái, người hưởng vị, sự hưởng vị và pháp được hưởng vị, ở trong pháp không
đều bất khả đắc.
Thiện Hiện nên biết! Các đại Bồ tát
này hành sâu Bát nhã Ba la mật, an trụ thần thông Ba la mật, phát sanh thiên nhãn thanh tịnh hơn người. Dùng
thiên nhãn này quán tất cả pháp tự tánh đều Không. Vì thấy tất cả pháp tự tánh
đều Không, nên chẳng nương theo pháp tướng tạo ra các nghiệp. Tuy vì hữu tình
thuyết pháp như vậy, nhưng cũng không đắc tướng các hữu tình và thi thiết kia.
Đại Bồ tát này đem vô sở đắc làm phương tiện phát sanh thần thông thù thắng của
Bồ tát, dùng thần thông này làm tất cả sự nghiệp đáng làm.
Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ tát này
dùng thiên nhãn hoàn toàn thanh tịnh hơn người, xem khắp hằng hà sa số thế giới
của chư Phật khắp mười phương, xem rồi phát
sanh thần cảnh trí thông, qua thế giới khác làm lợi ích cho các loài hữu
tình. Hoặc dùng bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật để làm lợi ích. Hoặc dùng ba
mươi bảy Bồ đề phần pháp để làm lợi ích. Hoặc dùng tịnh lự, vô lượng, vô sắc để
làm lợi ích. Hoặc dùng giải thoát, đẳng trì, đẳng chí để làm lợi ích. Hoặc dùng
pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện để làm lợi ích. Hoặc dùng các
thiện pháp thù thắng khác để làm lợi ích. Hoặc dùng Thanh văn, Độc giác, Bồ tát
và các Phật pháp khác để làm lợi ích.
Đại Bồ tát này dạo khắp mười phương
thế giới, nếu thấy hữu tình nào nhiều bỏn xẻn tham lam thì sanh tâm thương xót,
thuyết pháp khuyên như vầy: “Hữu tình các ông phải tu bố thí, người nào tham lam, bỏn xẻn sẽ chịu khổ vô cùng. Vì
nghèo túng nên không có oai đức, không thể làm lợi ích cho mình, huống là làm
lợi ích cho người khác. Vì vậy, nên các ông phải luôn bố thí để an vui cho mình
và cũng làm cho người khác được an vui. Đừng vì sự bần cùng mà sát hại lẫn
nhau, đó không phải là giải pháp để thoát khỏi khổ trong các đường”.
Nếu thấy hữu tình nào hủy phá tịnh
giới thì sanh lòng thương xót, thuyết pháp khuyên như vầy: “Hữu tình các ông
phải giữ gìn tịnh giới, người nào
phá giới chịu khổ nơi đường ác. Người phá giới không có oai đức, không làm lợi
ích cho mình, huống là cho người khác. Nhân duyên phá giới đọa vào các đường
ác, chịu khổ quả báo đau đớn, không thể chịu đựng nổi, không thể tự cứu mình
huống là cứu người khác. Vì vậy, nên các ông phải giữ gìn tịnh giới, không nên
chấp chứa tâm phá giới dù chỉ một niệm, huống là lâu dài. Chớ buông lung tâm ý,
sau này phải ăn năn”.
Nếu thấy hữu tình nào sân giận nhau,
kết oán thù tổn hại nhau, Bồ tát sanh tâm thương xót, thuyết pháp khuyên như
vầy: “Hữu tình các ông phải tu an nhẫn,
đừng sân giận với nhau, kết oán thì tổn hại nhau. Tâm thù hận như vậy chẳng
thuận với thiện pháp, tăng trưởng ác pháp, hiện đời thọ lấy sự tổn hại. Qua đời
sau sẽ bị đọa vào đường ác, chịu khổ vô cùng, khó mong ra khỏi. Vì vậy, nên các
ông chẳng nên chấp chứa tâm thù hận, dù chỉ một niệm, huống là nối nhau lâu
dài. Ngày nay các ông tuần tự duyên nhau, nên sanh lòng từ bi làm việc lợi
ích”.
Nếu thấy hữu tình nào giải đãi biếng
nhác, sanh lòng thương xót, thuyết pháp khuyên như vầy: “Hữu tình các ông nên siêng năng tinh tấn, không nên đối
với thiện pháp giải đãi, biếng nhác. Những người biếng nhác đối với các thiện
pháp và các thắng sự đều không thể thành công được. Do đây, các ông đọa vào
đường ác, chịu khổ vô biên. Vì vậy, các ông chẳng nên chấp chứa tâm biếng nhác,
dù chỉ một niệm, huống là nối nhau lâu dài”.
Nếu thấy hữu tình nào thất niệm, tán
loạn, tâm chẳng vắng lặng, sanh lòng thương xót, thuyết pháp khuyên như vầy:
“Hữu tình các ông nên tu tịnh lự,
không nên sanh tâm thất niệm, tán loạn. Tâm như vậy chẳng thuận với thiện pháp,
tăng trưởng ác pháp, hiện đời thọ lấy sự tổn suy. Do nhân duyên này, sau khi
thân hoại mạng chung, các ông phải đọa vào đường ác, chịu khổ vô biên. Vì vậy,
các ông chẳng nên chấp chứa tâm tương ưng với thất niệm, tán loạn dù chỉ một
niệm, huống là nối nhau lâu dài”.
Nếu thấy hữu tình nào ngu si ác tuệ,
sanh lòng thương xót, thuyết pháp khuyên như vầy: “Hữu tình các ông nên tu thắng tuệ, không nên sanh ác
tuệ. Người nào sanh tâm ác tuệ, đối với các cảnh giới thiện còn chẳng đến được,
huống là giải thoát. Do nhân duyên ác tuệ này mà các ông phải đọa vào đường ác,
chịu khổ vô biên. Vì vậy, các ông chẳng nên chấp chứa tâm tương ưng với ngu si
ác tuệ dù chỉ một niệm, huống là nối nhau lâu dài”.
Nếu thấy hữu tình nào nhiều tham
dục, sanh lòng thương xót, dùng phương tiện làm cho họ tu quán bất tịnh. Nếu thấy hữu tình nào nhiều sân giận, sanh lòng
thương xót, dùng phương tiện khuyên họ tu quán
từ bi. Nếu thấy hữu tình nào nhiều ngu si sanh lòng thương xót, dùng phương
tiện khuyên họ tu quán duyên khởi. Nếu
thấy hữu tình nào nhiều kiêu mạn, sanh lòng thương xót, dùng phương tiện khuyên
họ tu quán giới phân biệt. Nếu thấy
hữu tình nào nhiều tầm tứ, sanh lòng thương xót, dùng phương tiện khuyên họ tu quán hơi thở.
Nếu thấy hữu tình nào mất chánh đạo,
sanh lòng thương xót, dùng phương tiện khuyên họ trở về với chánh đạo, đó là đạo Thanh văn, đạo Độc giác, đạo Bồ
tát, đạo Như Lai. Dùng phương tiện thuyết pháp cho họ như vầy: “Điều mà các ông
chấp lấy, tự tánh đều Không. Chẳng phải trong pháp không mà có thể chấp lấy. Vì
vô sở chấp là tướng không”.
Như vậy, này Thiện Hiện! Các đại Bồ
tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, an trụ trong thần thông Ba la mật, mới có thể
tự tại giảng thuyết Chánh pháp, làm lợi ích an vui cho các loài hữu tình.
Thiện Hiện nên biết! Nếu đại Bồ tát
nào xa lìa thần thông Ba la mật, thì không thể tự tại giảng thuyết Chánh pháp,
làm lợi ích an vui cho các loài hữu tình.
Thiện Hiện nên biết! Cũng như chim
không cánh, không thể tự tại bay lượn giữa hư không, hay bay đến nơi xa tận.
Các đại Bồ tát cũng lại như vậy, nếu không có thần thông Ba la mật, thì không
thể tự tại giảng thuyết Chánh pháp, làm lợi ích an vui cho các loài hữu tình.
Vì vậy, này Thiện Hiện! Các đại Bồ
tát hành sâu Bát nhã Ba la mật phát sanh thần thông Ba la mật. Nếu vị nào phát
sanh thần thông Ba la mật, thì có thể tự tại giảng thuyết Chánh pháp, tùy ý làm
lợi ích an vui cho các loài hữu tình.
Thiện Hiện nên biết! Các đại Bồ tát dùng thiên nhãn thanh tịnh hơn người,
xem hằng hà sa số thế giới chư Phật khắp mười phương và xem các loài hữu tình
sanh vào thế giới ấy. Quán rồi, phát sanh thần cảnh trí thông, trải qua trong
sát na liền đến thế giới ấy, dùng tha tâm trí như thật
biết rõ các tâm và tâm sở của các hữu tình kia, tùy theo chỗ thích ứng mà nói
pháp cho họ. Nghĩa là nói pháp bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Hoặc nói bốn
niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo. Hoặc nói bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn
định vô sắc. Hoặc nói pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Hoặc nói
tám giải thoát cho đến mười biến xứ. Hoặc nói pháp môn Đà la ni, Tam ma địa.
Hoặc nói pháp nội không cho đến pháp vô tính tự tính không. Hoặc nói chơn như
cho đến cảnh giới bất tư nghì. Hoặc nói Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo. Hoặc nói
nhân duyên cho đến tăng thượng duyên. Hoặc nói các pháp theo duyên sanh ra.
Hoặc nói vô minh cho đến lão tử. Hoặc nói các môn uẩn xứ giới. Hoặc nói đạo
Thanh văn, hoặc nói đạo Độc giác, hoặc nói đạo Bồ tát, hoặc nói đạo Bồ đề, hoặc
nói Niết bàn, làm cho các hữu tình kia nghe pháp này rồi đều được lợi ích an
vui thù thắng.
Thiện Hiện
nên biết! Đại Bồ tát này dùng thiên nhĩ
thanh tịnh hơn người, có thể nghe tất cả tiếng người chẳng phải người. Do thiên
nhĩ này nghe được sự thuyết pháp của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trong
hằng hà sa số thế giới chư Phật khắp mười phương. Nghe rồi thọ trì, tư duy
nghĩa lý, tùy pháp đã nghe có thể vì hữu tình mà như thật giảng thuyết. Hoặc
nói bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật, nói rộng cho đến hoặc nói Bồ đề, hoặc nói
Niết bàn, làm cho hữu tình kia nghe pháp này rồi đều được lợi ích an vui thù
thắng.
Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ tát này
biết rõ tâm và tâm sở pháp của các loài hữu tình, tùy theo sự thích ứng mà nói
pháp, hoặc là nói bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Nói rộng, cho đến hoặc nói
Bồ đề, hoặc nói Niết bàn, làm cho hữu tình kia nghe pháp này rồi đều được lợi
ích an vui thù thắng.
Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ tát này
dùng tịnh túc trụ tùy niệm trí thông,
như thật nhớ rõ đời quá khứ của chư Phật và chúng đệ tử đều sai khác. Nếu
các hữu tình nào ưa nghe các việc túc trụ đời quá khứ mà được lợi ích, nên vì
giảng thuyết các việc túc trụ. Nhân đó, Bồ tát dùng phương tiện vì họ mà nói
Chánh pháp, hoặc là nói bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Nói rộng, cho đến
hoặc nói Bồ đề, hoặc nói Niết bàn, làm cho hữu tình kia nghe pháp này rồi đều
được lợi ích an vui thù thắng.
Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ tát này
dùng thần cảnh trí thông trong một sát na qua đến hằng hà sa thế giới của chư
Phật khắp mười phương, gần gũi cúng dường chư Phật Thế Tôn, trồng các thiện căn
với chư Phật, rồi trở về bổn quốc, vì các hữu tình mà nói những việc như ở cõi
Phật kia. Nhân đó, Bồ tát dùng phương tiện vì họ thuyết Chánh pháp. Nghĩa là
nói bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Nói rộng, cho đến hoặc nói Bồ đề, hoặc
nói Niết bàn, làm cho hữu tình kia nghe pháp này rồi đều được lợi ích an vui
thù thắng.
Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ tát này
dùng lậu tận trí thông, tùy chỗ
chứng đắc, như thật biết rõ các lậu của hữu tình đã đoạn hay chưa đoạn, cũng
như thật biết dùng phương tiện để đoạn trừ các lậu. Vì kẻ chưa đoạn mà giảng
thuyết pháp yếu, nghĩa là nói bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Nói rộng, cho
đến hoặc nói Bồ đề, hoặc nói Niết bàn, làm cho hữu tình kia nghe pháp này rồi
đều được lợi ích an vui thù thắng.
Như vậy, này Thiện Hiện! Các đại Bồ
tát hành sâu Bát nhã Ba la mật nên phát sanh thần thông Ba la mật. Đại Bồ tát
này tu tập thần thông Ba la mật được viên mãn, nên tùy ý ưa thích để thọ các
loại thân, nhưng không bị các khổ, vui, tội lỗi làm ô nhiễm. Như hóa thân Phật,
tuy có thể kiến tạo ra những sự nghiệp nhưng không bị khổ, vui, tội lỗi ấy làm
tạp nhiễm.
Như vậy, này Thiện Hiện! Các đại Bồ
tát hành sâu Bát nhã Ba la mật nên dùng du hý thần thông Ba la mật. Nếu dùng du
hý thần thông Ba la mật, thì có thể thành thục hữu tình, trang nghiêm thanh
tịnh cõi Phật, và có thể mau chứng đắc Nhất thiết trí trí.
Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ tát nào
chẳng thành thục hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật thì nhất định không
thể chứng được Nhất thiết trí trí. Vì sao? Vì tư lương Bồ đề của các đại Bồ tát
này chưa viên mãn, nên chắc chắn chẳng thể chứng đắc Nhất thiết trí trí.
Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Thế nào là tư lương
Bồ đề của các đại Bồ tát? Làm thế nào các đại Bồ tát viên mãn tư lương Bồ đề để
có thể chứng đắc Nhất thiết trí trí?
Phật dạy:
- Này Thiện
Hiện! Tất cả thiện pháp đều là tư lương Bồ đề của Bồ tát. Các đại Bồ tát nào
viên mãn tư lương Bồ đề như vậy mới có thể chứng đắc Nhất thiết trí trí.
(Những gì là tất cả thiện pháp, cũng gọi là
tư lương Bồ đề Bồ tát,
cũng gọi là Bồ tát đạo?)
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Những gì gọi là tất cả thiện pháp?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát từ
lúc mới phát tâm tu hành bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Ở trong pháp ấy không
còn phân biệt chấp trước, như suy nghĩ: Đây là pháp bố thí cho đến Bát nhã Ba
la mật, do đây, vì đây mà tu bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Ba sự phân biệt
chấp trước đều không. Vì biết tất cả pháp tự tánh đều Không. Do đây pháp tu sáu
pháp Ba la mật như bố thí v.v... có thể tự lợi, cũng có thể làm lợi ích cho tất
cả hữu tình ra khỏi sanh tử, được vui Niết bàn, nên nói là thiện pháp, cũng gọi là tư lương Bồ đề của Bồ tát, cũng gọi
là Bồ tát đạo. Vì chúng đại Bồ tát ở
đời quá khứ, vị lai, hiện tại đều hành đạo này, nên đã, đang và sẽ đắc quả vị
Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề; cũng làm cho hữu tình đã, đang và sẽ được thoát ra
biển lớn sanh tử, được vui Niết bàn.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Các đại Bồ
tát từ lúc mới phát tâm tu bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Tu bốn
niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo. An trụ pháp nội Không cho đến pháp vô tánh
tự tánh Không. An trụ vào chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì. An trụ Tứ đế
khổ, tập, diệt, đạo. Tu pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Tu tám
giải thoát cho đến mười biến xứ. Tu các bậc Bồ tát. Tu pháp môn Đà la ni, Tam
ma địa. Tu Phật mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Tu đại từ, đại
bi, đại hỷ, đại xả. Tu pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả. Tu Nhất thiết
trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí.
Đối trong pháp ấy đều không phân
biệt chấp trước, như nghĩ: Đây là bốn tịnh lự, nói rộng cho đến Nhất thiết
tướng trí. Do đây, vì đây mà tu bốn tịnh lự, nói rộng cho đến Nhất thiết tướng
trí. Ba sự phân biệt chấp trước đều không. Vì biết tất cả pháp tự tánh đều
Không, nên do đây tu bốn tịnh lự v.v... có thể tự lợi ích, cũng có thể làm lợi
ích cho tất cả hữu tình ra khỏi sanh tử, được vui Niết bàn, nên nói là thiện
pháp, cũng gọi là tư lương Bồ đề của Bồ tát, cũng gọi là đạo Bồ tát. Chúng đại
Bồ tát ở đời quá khứ, vị lai, hiện tại hành đạo này nên đã, đang và sẽ được đắc
quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, cũng làm cho hữu tình đã, đang và sẽ được
thoát ra biển lớn sanh tử, được vui Niết bàn.
Thiện Hiện nên biết! Lại có vô lượng
các chúng Bồ tát sở tu công đức đều gọi
thiện pháp, cũng gọi là tư lương Bồ đề của Bồ tát, cũng gọi là Bồ tát đạo. Các đại Bồ tát nào chuyên tu các
thiện pháp thù thắng cho được viên mãn hoàn toàn như thế mới có thể chứng đắc
Nhất thiết trí trí. Chủ yếu là chứng đắc Nhất thiết trí trí mới có thể tùy
thuận chuyển pháp luân vi diệu, độ các hữu tình thoát khỏi khổ sanh tử, chứng
đắc Niết bàn an vui rốt ráo.
2. (Đoạn Kinh sau đây tương đương với phẩm “Phật
Pháp”,
phần sau quyển 477, Hội thứ II, ĐBN)
Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu các pháp này là
pháp của Bồ tát thì còn pháp nào gọi là pháp của Phật không?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Pháp của Bồ tát
cũng gọi là pháp của Phật. Bởi vì các Bồ tát đối với tất cả pháp hiểu tất cả
tướng. Do đây sẽ chứng được Nhất thiết tướng trí, đoạn trừ vĩnh viễn tất cả tập
khí tương tục. Còn chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đối với tất cả pháp chỉ một
sát na tương ưng với Bát Nhã liền hiện Đẳng giác rồi, chứng đắc quả vị Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, đó gọi là Bồ tát khác với chư Phật. Quả vị có khác,
pháp tu chẳng khác, nên chẳng thể nói
tánh của các pháp có khác.
Như vậy, này Thiện Hiện! Nếu hành vô
gián đạo đối với tất cả pháp chưa lìa ám chướng, chưa đến bờ giác, chưa được tự
tại, khi chưa đạt được quả thì gọi là Bồ tát. Còn nếu ở trong đạo giải thoát,
hành tất cả pháp đã lìa ám chướng, đã đến bờ giác, đã được tự tại, khi đã được
quả thì mới gọi là Phật. Đây gọi là Bồ tát khác với chư Phật. Do địa vị có
khác, nhưng pháp không khác, nên không thể nói tánh của các pháp có khác. (Q.536, ĐBN)
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp tự
tướng đều Không thì trong Không của tự tướng làm sao có được các loại sai biệt,
nói đây là địa ngục, cho đến đây là trời, đây là chủng tánh, nói rộng cho đến
đây là Như Lai? Như vậy, đã nói Bổ đặc già la bất khả đắc thì sự tạo nghiệp của
họ cũng bất khả đắc. Sự tạo nghiệp đã bất khả đắc, quả dị thục kia cũng bất khả
đắc, thì làm sao có được các loại sai khác?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như
lời ngươi nói. Tất cả
pháp tự tướng đều Không, trong tự tướng Không đó Bổ đặc già la đã vô sở hữu thì
nghiệp quả dị thục cũng vô sở hữu. Trong vô sở hữu không có tướng sai biệt.
Nhưng các hữu tình đối với tất cả pháp, lý của tự tướng Không chẳng thể
biết hết được, nên tạo ra các nghiệp hoặc thiện, hoặc ác, hoặc là vô ký. Do nơi
nghiệp thiện tạo ra được tăng trưởng nên sanh trong cõi trời, người. Do nơi ác
nghiệp tăng trưởng nên đọa vào ba đường ác. Ở trong nghiệp thiện, do nơi thiền
định tạo ra tăng trưởng nên được sanh vào cõi Sắc, hoặc cõi Vô sắc. Do vô lậu
nghiệp gia hạnh căn bản có các chủng tánh Hiền Thánh sai khác. Do
nhân duyên này, nên có các đại Bồ tát tu hành bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật,
cho đến tu hành Nhất thiết tướng trí và vô lượng, vô biên các Phật pháp
khác.
Đại Bồ tát này đối với Bồ đề phần
pháp đã nói đây không gián đoạn, không khuyết, tu hành cho viên mãn. Đã viên
mãn rồi liền có thể phát sanh định Kim cương dụ, gần tiến đến Bồ đề, chứng đắc
quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề và làm lợi ích lớn cho các hữu tình thường
không hoại diệt. Vì không hoại diệt, nên làm cho các hữu tình giải thoát sanh
tử, chứng đắc thanh tịnh Niết bàn thường lạc.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Phật đã chứng được
quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề rồi, có còn bị các pháp sanh tử đưa đến các
cảnh giới khác không?
Phật đáp:
- Không có.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Phật đã chứng được
quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề rồi, có bị hắc nghiệp, bạch nghiệp, hắc bạch
nghiệp, chẳng phải hắc bạch nghiệp không?
Phật đáp:
- Không có.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu Phật chẳng bị
các cảnh giới sanh tử và nghiệp khác nhau thì làm sao nói đây là địa ngục cho
đến trời, người, đây là chủng tánh cho đến phần vị khác nhau của Như Lai?
Phật hỏi Thiện Hiện:
- Các loài hữu tình có biết tự tướng
của các pháp là Không chăng?
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng biết!
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Nếu các hữu tình
tự biết tự tướng của các pháp là Không thì các đại Bồ tát đối với quả vị Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề chẳng nên cầu chứng đắc, dùng phương tiện thiện xảo độ
các hữu tình thoát khỏi đường ác sanh tử. Vì các hữu tình chẳng biết tự tướng
các pháp là Không, nên luân hồi trong các nẻo, chịu khổ vô cùng. Vì vậy, nên Bồ
tát đã nghe chư Phật thuyết tất cả pháp tự tướng là Không rồi, vì muốn làm lợi
ích cho các hữu tình nên cầu chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, dùng
phương tiện thiện xảo độ các hữu tình thoát khỏi đường ác sanh tử.
Thiện Hiện
nên biết! Các đại Bồ tát này thường nghĩ: Chẳng phải tất cả pháp thật có tự
tướng như các phàm phu ngu muội đã chấp. Nhưng vì do sức phân biệt điên đảo,
nên trong ấy chẳng phải thật có, mà vọng tưởng là thật có. Nghĩa là trong vô
ngã vọng tưởng là có ngã, nói rộng cho đến trong không có người thấy vọng tưởng
là có người thấy. Lại trong không có sắc vọng tưởng có sắc, trong không có thọ,
tưởng, hành, thức vọng tưởng có thọ, tưởng, hành, thức. Nói rộng, cho đến trong
không vô vi vọng tưởng vô vi. Vì sức phân biệt điên đảo như vậy, nên trong
chẳng phải thật có vọng tưởng thật có. Hư dối, chấp trước, đảo loạn nơi tâm,
tạo nghiệp thiện hay bất thiện nơi thân, khẩu, ý, không thể giải thoát được
đường ác sanh tử. Ta phải cứu độ giúp cho họ được giải thoát.
Đại Bồ tát này nghĩ như vậy rồi,
hành sâu Bát nhã Ba la mật, dùng các thiện pháp tóm thâu vào trong ấy, tùy
thuận tu hành Bồ tát hạnh, tuần tự viên mãn tư lương Bồ đề. Tư lương Bồ đề đã
được viên mãn, chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Bồ đề viên mãn rồi,
vì các hữu tình mà giảng thuyết, khai thị, phân biệt, thành lập nghĩa bốn Thánh
đế. Nói đây là Thánh đế khổ, đây là Thánh đế khổ tập, đây là Thánh đế khổ diệt,
đây là con đường đưa đến Thánh đế khổ diệt. Lại dùng tất cả Bồ đề phần pháp tóm
thâu vào trong bốn Thánh đế như vậy, rồi nương vào tất cả Bồ đề phần pháp, thành
lập, tạo dựng Phật, Pháp, Tăng bảo. Nhờ Tam bảo này có mặt ở thế gian, nên các
loài hữu tình giải thoát sanh tử. Các hữu tình nào không chịu quy hướng Phật,
Pháp, Tăng bảo, tạo ra các nghiệp thì phải luân hồi các nẻo, chịu khổ vô cùng.
Vì vậy, nên phải quy y Phật, Pháp, Tăng bảo, cần cầu lợi ích an vui cho mình và
người.
Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Vì nhờ Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo mà các loài hữu tình chứng nhập Niết bàn,
hay vì nhờ Thánh trí khổ, tập, diệt,
đạo mà các loài hữu tình chứng nhập Niết bàn? [Ở đây phân biệt Thánh đế và Thánh trí (khổ tập diệt đạo)]
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Chẳng phải nhờ
Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo mà các loài hữu tình chứng nhập Niết bàn; cũng
chẳng phải nhờ Thánh trí khổ, tập, diệt, đạo mà các loài hữu tình chứng nhập
Niết bàn. (Q. 536, ĐBN)
Này Thiện Hiện! Ta nói tánh bình đẳng của bốn Thánh đế tức là Niết
bàn. Như vậy, Niết bàn chẳng phải nhờ Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo, cũng
chẳng nhờ Thánh trí khổ, tập, diệt, đạo. Chỉ nhờ chứng tánh bình đẳng của Bát
nhã Ba la mật nên gọi là chứng nhập Niết bàn.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Tánh bình đẳng của
bốn Thánh đế là thế nào?
Phật dạy:
- Này Thiện
Hiện! Nếu ở nơi mà không có khổ, tập, diệt, đạo đế; không có khổ, tập, diệt,
đạo trí thì gọi là tánh bình đẳng của bốn Thánh đế. Tánh bình đẳng này tức là
bốn Thánh đế, là cảnh giới chơn như, nói rộng cho đến cảnh giới bất tư nghì.
Như Lai dù ra đời hoặc chẳng ra đời thì tánh tướng vẫn thường trụ không hoại
diệt, không biến đổi. Như vậy, gọi là tánh bình đẳng của bốn Thánh đế.
Các đại Bồ tát khi hành sâu Bát nhã
Ba la mật, vì muốn hiểu rõ tánh bình đẳng của bốn Thánh đế đây, nên hành Bát
nhã Ba la mật. Nếu có thể hiểu rõ tánh bình đẳng của bốn Thánh đế này thì gọi
là hiểu biết hoàn toàn tất cả Thánh đế, mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng
Bồ đề. (Q.536, ĐBN)
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ
tát khi hành sâu Bát nhã Ba la mật, vì muốn hiểu rõ tánh bình đẳng của bốn
Thánh đế này nên hành Bát nhã Ba la mật? Nếu có thể hiểu rõ tánh bình đẳng của
bốn Thánh đế này thì gọi giác ngộ chơn chánh tất cả Thánh đế, không rơi vào địa
vị Thanh văn, Độc giác, thẳng đến Bồ tát Chánh tánh ly sanh?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát khi
hành sâu Bát nhã Ba la mật, đối với tất cả pháp, không có chút pháp nhỏ nhặt
nào mà không thấy như thật. Khi đối với tất cả pháp thấy như thật đều vô sở
đắc. Khi đối với tất cả pháp vô sở đắc
thì thấy như thật tất cả pháp đều Không. Nghĩa là như thật thấy biết các
pháp được thâu nhiếp hay không thâu nhiếp trong bốn đế đều là không. Khi thấy
như vậy có thể nhập vào Bồ tát Chánh tánh ly sanh. Do nhập vào Bồ tát Chánh
tánh ly sanh, nên trụ trong chủng tánh địa của Bồ tát. Trụ trong chủng tánh địa
của Bồ tát rồi thì nhất định không bị rơi từ đỉnh cao. Nếu rơi từ cao xuống thì
sẽ lui thụt vào địa vị Thanh văn hoặc Độc giác. Đại Bồ tát này an trụ bậc Bồ
tát chủng tánh phát khởi bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, Bồ tát này
an trụ trong Xa ma tha địa(1) như thế, mới có thể quyết trạch(2) tánh của tất
cả pháp và từ đó có thể giác ngộ lý của bốn Thánh đế.
Bấy giờ, Bồ tát tuy đã biết rõ các
khổ nhưng không khởi tâm duyên theo khổ. Tuy đoạn trừ vĩnh viễn tập nhưng không
khởi tâm duyên theo tập. Tuy có thể chứng diệt nhưng không khởi tâm duyên theo
diệt. Tuy có thể tu đạo nhưng không khởi tâm duyên theo đạo. Chỉ khởi tâm tùy
thuận hướng đến Bồ đề, như thật giác biết rõ tướng của các pháp.
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch
Phật:
- Bạch Thế Tôn! Làm thế nào các đại
Bồ tát biết rõ thật tướng của các pháp?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát quán tất cả pháp đều Không.
Đây là biết rõ thật tướng của các pháp.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ
tát quán tất cả pháp đều Không?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát quán tự tướng của tất cả pháp đều Không.
Đây là đại Bồ tát quán tất cả pháp đều Không.
Thiện Hiện nên biết! Các đại Bồ tát
do quán tướng Không Tỳ bát xá na (3), quán các pháp Không, đều không thấy có tự
tánh của các pháp, trụ ở trong ấy nên chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ
đề. Vì sao? Vì quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề và tất cả pháp đều lấy vô tánh
làm tự tánh. Đó là sắc uẩn cho đến thức uẩn đều lấy vô tánh làm tự tánh. Nói
rộng, cho đến tất cả Bồ tát hạnh, quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề cũng lấy vô
tánh làm tự tánh. Vô tánh như vậy chẳng phải chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác,
Độc giác, Bồ tát, các quả và hướng của Thanh văn làm ra, cũng chẳng phải ai
khác làm ra. Chỉ vì hữu tình đối với tất cả pháp chẳng biết, chẳng thấy như
thật đều Không. Vì vậy, nên chúng đại Bồ tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, dùng
phương tiện thiện xảo tự mình đã hiểu biết rồi, vì các hữu tình mà giảng
thuyết, khai thị, làm cho chúng xa lìa sự chấp trước, thoát khổ sanh tử, được
nhập Niết bàn, an vui rốt ráo.
Thích nghĩa cho đoạn 2. này:
(1). Xa ma tha: (Phạm: zamatha) nghĩa là ngưng
chỉ, tĩnh lặng, hay diệt, một trong bảy tên của Thiền định, là thu nhiếp tâm
không để ngoại cảnh làm lay động, xa lìa và đình chỉ tất cả sự tán loạn khiến
cho tâm tĩnh lặng.
(2). Quyết
trạch (決擇; C: juézé; J: ketchaku): Quyết định
và chọn lựa.
(3). Tỳ Bát
xá na hay Tỳ bà xá na (Vipasyana - skt): 1- Biện Biệt (Discernment), 2- Quán
(Insight), 3- Chánh Kiến (Correct perception, or views). - Từ điển Việt Anh -
Thiện Phúc.
3. (Đoạn Kinh nầy tương đương với phẩm “Vô sự”,
phần đầu quyển 478, Hội thứ II, ĐBN)
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp đều
lấy vô tánh làm tự tánh. Tự tánh như thế chẳng phải chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng
Giác, Độc giác, Bồ tát, Thanh văn v.v... làm ra, thì làm sao cho rằng các pháp
có khác nhau, nói đây là địa ngục, bàng sanh, cõi quỷ, trời, người v.v… nhiều
loại sai khác. Đây là trời Tứ đại thiên vương cho đến trời Phi tưởng phi phi
tưởng xứ và có phần vị của Tam thừa khác nhau. Do nghiệp như thế nói có địa
ngục, do nghiệp như thế nói có bàng sanh, do nghiệp như thế nói có cõi quỷ, do
nghiệp như thế nói có cõi người, có châu Thiệm bộ, châu Thắng thân, châu Ngưu
hóa, châu Câu lô v.v... các thứ khác nhau, do nghiệp như thế nói có cõi trời,
có trời Tứ đại thiên vương cho đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ các thứ khác
nhau, do nghiệp như thế nói có quả Dự lưu cho đến Độc giác, do nghiệp như thế
nói có Bồ tát và các đức Như Lai. (Q.537,
ĐBN)
Bạch Thế Tôn! Pháp vô tánh chắc chắn
không tác dụng, làm sao nói do nghiệp này nên sanh vào địa ngục? Như vậy, cho
đến do nghiệp này nên sanh vào Phi tưởng phi phi tưởng xứ, và do nghiệp này mà
đắc quả Dự lưu, nói rộng cho đến Độc giác Bồ đề? Do nghiệp này nên nhập vào địa
vị Bồ tát hành Bồ tát đạo? Do nghiệp này nên có thể chứng đắc Nhất thiết trí
trí, được gọi là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, làm lợi ích an vui cho tất cả hữu
tình?
Phật dạy:
Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như
lời ngươi nói! Trong
pháp vô tánh không thể nói rằng các pháp có khác nhau, không nghiệp, không quả,
cũng không tác dụng. Chỉ vì phàm phu ngu muội không hiểu rõ Thánh pháp và Tỳ
nại da, nên không như thật biết các pháp đều lấy vô tánh làm tánh, ngu si điên
đảo tạo ra các nghiệp, theo nghiệp khác nhau mà thọ các loại thân. Nương theo
phẩm loại thân khác nhau như thế nói có địa ngục, bàng sanh, cõi quỷ, người,
chư thiên, cho đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Vì muốn cứu độ những phàm phu
ngu muội điên đảo như thế bị khổ sanh tử nên nói có phần vị khác nhau của Thánh
pháp và Tỳ nại da. Nương vào phần vị này nói có quả Dự lưu cho đến Độc giác, Bồ
tát, Như Lai. Nhưng tất cả pháp tánh đều
lấy vô tánh làm tự tánh. Trong pháp vô tánh thật không có pháp nào khác, không
nghiệp, không quả, cũng không tác dụng, vì pháp vô tánh thường vô tánh vậy.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Như ông đã
nói, pháp vô tánh chắc chắn không tác dụng. Như vậy, làm sao nói do nghiệp như
thế được quả Dự lưu cho đến chứng đắc Nhất thiết trí trí, được gọi là Như Lai
Ứng Chánh Đẳng Giác làm lợi ích an vui cho tất cả hữu tình?
Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Có phải sự
tu đạo là vô tánh không? Các quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc
giác, Bồ tát đạo, Nhất thiết trí trí cũng vô tánh không?
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đúng vậy! Sự tu đạo,
nói rộng cho đến Nhất thiết trí trí đều là vô tánh.
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Pháp vô
tánh có thể đắc pháp vô tánh không?
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Không được!
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Vô tánh và đạo,
tất cả pháp này đều chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, vô sắc, vô kiến,
vô đối, nhất tướng, chỗ gọi vô tướng. Phàm phu ngu muội đối với pháp vô tướng
hư vọng phân biệt, vọng tưởng là hữu tướng, chấp trước các uẩn, các xứ, các
giới; ở trong vô thường vọng sanh tưởng là thường; ở trong các khổ vọng sanh
tưởng là vui; ở trong vô ngã vọng sanh tưởng có ngã; ở trong bất tịnh vọng sanh
tưởng là tịnh. Ngu si điên đảo đối với pháp vô tánh chấp trước là hữu tánh v.v…
Do nhân duyên này, các đại Bồ tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, thành tựu phương
tiện thiện xảo thù thắng, cứu vớt các loài hữu tình như thế xa lìa điên đảo hư
vọng phân biệt, dùng phương tiện an lập họ trong pháp vô tướng, giúp họ siêng
năng tu học, giải thoát sanh tử, chứng đắc Niết bàn an vui rốt ráo.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Ví như có chút vật
nhỏ là chơn thật, chẳng phải hư vọng, kẻ phàm phu ngu muội chấp trước nơi vật
ấy rồi tạo ra các nghiệp. Do đó bị luân hồi trong các nẻo, không thể giải thoát
khổ sanh tử phải không? Và nếu không có chút vật nhỏ là chơn thật, chẳng phải
hư vọng, thì làm sao kẻ phàm phu ngu muội chấp trước nơi vật ấy tạo ra các
nghiệp để bị luân hồi trong các nẻo?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Kẻ phàm phu ngu
muội đã chấp trước các vật, cho đến không có chút mảy may vật nhỏ nào là chơn
thật, chẳng phải hư vọng, vì chấp trước vào đó nên tạo ra các nghiệp. Do nhân
duyên này luân hồi trong các nẻo, không thể giải thoát các khổ sanh tử, chỉ vì
điên đảo hư vọng chấp trước. Nay Ta vì ngươi mà nói rộng thí dụ, làm rõ nghĩa
này để cho dễ hiểu, và những người có trí nhờ thí dụ này nên đối với nghĩa Ta
nói sẽ hiểu rõ một cách chính xác.
Phật bảo:
- Này Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Trong mộng thấy người thọ vui năm dục,
trong mộng vả có chút phần thật sự khá khiến người kia thọ vui dục lạc chăng?
Thiện Hiện thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng thật. Trong
mộng thấy người hãy chẳng thật có, huống có thật sự khá khiến người kia trụ ở
trong mộng thọ vui năm dục.
Phật bảo:
- Này Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao?
Trong mộng vả có việc các thú chơn thật qua lại trong sanh tử chăng?
Thiện Hiện thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng thật.
Phật bảo:
- Này Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao?
Trong mộng vả có chơn thật tu đạo, nương tu đạo ấy có lìa tạp nhiễm được thanh
tịnh chăng?
Thiện Hiện thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng thật. Vì sao?
Vì mộng và thấy pháp đều chẳng thật sự, chẳng năng thi thiết, chẳng sở thi
thiết. Tu đạo hãy không, huống nương tu đạo có lìa tạp nhiễm và được thanh
tịnh.
Phật bảo:
- Này Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Trong gương sáng thảy được thấy các
tượng là có thật sự, khá nương gây nghiệp đã thấy hoặc đọa ác thú, hoặc sanh
người trời, thọ khổ vui chăng?
Thiện Hiện thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng thật. Trong
gương sáng thảy được thấy các tượng đều không thật sự, chỉ gạt trẻ ngu, làm sao
khá năng gây làm các nghiệp, do nghiệp đã gây hoặc đọa ác thú hoặc sanh người
trời thọ các khổ vui.
Phật bảo:
- Này Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao?
Trong gương sáng thảy các tượng đã hiện, tượng kia vả có chơn thật tu đạo,
nương tu đạo kia có lìa tạp nhiễm được thanh tịnh chăng?
Thiện Hiện thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng thật. Vì sao?
Tượng đã hiện kia đều không thật sự, chẳng năng thi thiết, chẳng sở thi thiết.
Tu đạo hãy không, huống nương tu đạo có lìa tạp nhiễm và được thanh tịnh.
Phật bảo:
- Này Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Trong hang núi thảy phát ra tiếng vang,
vì có thật sự khá nương gây nghiệp, do nghiệp đã gây hoặc đọa ác thú, hoặc sanh
người trời thọ khổ vui chăng?
Thiện Hiện thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng thật. Trong
các hang núi phát ra tiếng vang chỉ gạt trẻ ngu, làm sao khá nương gây làm các nghiệp,
do nghiệp đã gây hoặc đọa ác thú, hoặc sanh người trời thọ các khổ vui.
Phật bảo:
- Này Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao?
Các tiếng vang cả có chơn thật tu đạo, nương tu đạo kia có lìa tạp nhiễm được
thanh tịnh chăng?
Thiện Hiện thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng thật. Vì sao?
Vì tiếng vang các hang núi đều không thật sự, chẳng năng thi thiết, chẳng sở
thi thiết. Tu đạo hãy không, huống nương tu đạo có lìa tạp nhiễm và được thanh
tịnh.
Phật bảo:
- Này Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Trong nắng nóng hiện tợ có nước thảy vì có thật sự khá nương gây nghiệp, do
nghiệp đã gây hoặc đọa ác thú, hoặc sanh người trời thọ khổ vui chăng?
Thiện Hiện thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng thật. Trong
các nắng nóng sở hiện tợ nước thảy đều không thật sự, chỉ gạt trẻ ngu, làm sao
khá nương gây làm các nghiệp, do nghiệp đã gây hoặc đọa ác thú hoặc sanh người
trời thọ các khổ vui.
Phật bảo:
- Này Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao?
Nước thảy trong các nắng nóng vả có chơn thật tu đạo, nương tu đạo kia có lìa
tạp nhiễm được thanh tịnh chăng?
Thiện Hiện thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng thật. Vì sao?
Nắng nóng hiện tợ nước thảy đều không thật sự, chẳng năng thi thiết, chẳng sở
thi thiết. Tu đạo hãy không, huống nương tu đạo có lìa tạp nhiễm và được thanh
tịnh.
Phật bảo:
- Này Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Trong các bóng sáng hiện ra sắc tướng
là có thật sự khá nương gây nghiệp, do nghiệp đã gây hoặc đọa ác thú hoặc sanh
người trời thọ khổ vui chăng?
Thiện Hiện thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng thật. Trong
các bóng sáng hiện ra sắc tướng đều không thật sự, chỉ gạt trẻ ngu, làm sao khá
nương gây làm các nghiệp, do nghiệp đã gây hoặc đọa ác thú hoặc sanh người trời
thọ các khổ vui.
Phật bảo:
- Này Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao?
Các sắc tướng trong bóng sáng vả có chơn thật tu đạo, nương tu đạo kia có lìa
tạp nhiễm được thanh tịnh chăng?
Thiện Hiện thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng thật. Vì sao?
Sắc tướng bóng sáng đều không thật sự, chẳng năng thi thiết, chẳng sở thi
thiết. Tu đạo hãy không huống nương tu đạo có lìa tạp nhiễm và được thanh tịnh.
Phật bảo:
- Này Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Thầy huyễn biến hóa các quân binh voi ngựa
thảy các thứ hình tượng là có thật sự khá nương gây nghiệp, do nghiệp đã gây
hoặc đọa ác thú, hoặc sanh người trời thọ khổ vui chăng?
Thiện Hiện thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng thật. Voi ngựa
thảy huyễn đều không thật sự, chỉ gạt trẻ ngu, làm sao khá nương gây làm các
nghiệp, do nghiệp đã gây hoặc đọa ác thú, hoặc sanh người trời thọ các khổ vui.
Phật bảo:
- Này Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao?
Việc huyễn vả có chơn thật tu đạo, nương tu đạo kia có lìa tạp nhiễm được thanh
tịnh chăng?
Thiện Hiện thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng thật. Vì sao?
Voi ngựa thảy huyễn đều không thật sự, chẳng năng thi thiết, chẳng sở thi
thiết. Tu đạo hãy không, huống nương tu đạo có lìa tạp nhiễm và được thanh
tịnh.
Phật bảo:
- Này Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Những thân mà kẻ biến hóa ra, hóa thân
ấy có thật tạo nghiệp, bởi nghiệp đã gây nên đọa địa ngục, hoặc đọa bàng sanh,
hoặc đọa cõi quỷ, hoặc sanh trong loài người, hoặc sanh trên trời hưởng các
khổ, vui chăng?
Thiện Hiện thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng thật. Các thân
biến hóa đều không thật sự, làm sao khá nương gây làm các nghiệp, do nghiệp đã
gây hoặc đọa ác thú, hoặc sanh người trời thọ các khổ vui.
Phật bảo:
- Này Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao?
Hóa thân vả có chơn thật tu đạo, nương tu đạo kia có lìa tạp nhiễm được thanh
tịnh chăng?
Thiện Hiện thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng thật. Vì sao?
Các thân biến hóa đều không thật sự, chẳng năng thi thiết, chẳng sở thi thiết.
Tu đạo hãy không, huống nương tu đạo có lìa tạp nhiễm mà được thanh tịnh.
Phật bảo:
- Này Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Trong thành tầm hương hiện ra vật loại
là có thật sự khá nương gây nghiệp, do nghiệp đã gây hoặc đọa ác thú, hoặc sanh
người trời thọ khổ vui chăng?
Thiện Hiện thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng thật. Trong
thành tầm hương hiện ra vật loại đều không thật sự, làm sao khá nương gây làm
các nghiệp, do các nghiệp đã gây hoặc đọa ác thú, hoặc sanh người trời thọ các
khổ vui.
Phật bảo:
- Này Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao?
Vật loại trong thành tầm hương vả có chơn thật tu đạo, nương tu đạo kia có lìa
tạp nhiễm được thanh tịnh chăng?
Thiện Hiện thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng thật. Vì sao?
Vật loại thành kia đều không thật sự, chẳng năng thi thiết, chẳng sở thi thiết.
Tu đạo hãy không, huống nương tu đạo có lìa tạp nhiễm mà được thanh tịnh.
Phật bảo:
- Này Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao?
Vả có các pháp hoặc là hữu lậu, hoặc vô lậu, hoặc thế gian, hoặc xuất thế gian,
hoặc hữu vi, hoặc vô vi, chẳng phải như tượng, vang, ánh nắng, bóng sáng, việc
huyễn biến hóa, vật loại trong thành tầm hương ấy chăng?
Thiện Hiện thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng có. Quyết định
không có pháp hoặc là hữu lậu, hoặc vô lậu, hoặc thế gian, hoặc xuất thế gian,
hoặc hữu vi, hoặc vô vi, chẳng phải như tượng thảy.
Phật bảo:
- Này Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao?
Trong đây vả có thật kẻ tạp nhiễm, kẻ thanh tịnh chăng?
Thiện Hiện thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng có. Trong ấy
đều không thật kẻ tạp nhiễm và kẻ thanh tịnh.
Phật bảo:
- Này Thiện Hiện! Như người tạp
nhiễm hoặc thanh tịnh thật vô sở hữu. Do nhân duyên này, tạp nhiễm và thanh
tịnh cũng chẳng thật có. Vì sao? Vì các loài hữu tình trụ nơi ngã hay ngã sở
đều hư vọng phân biệt, cho rằng có người tạp nhiễm và thanh tịnh. Do nhân duyên
này cho rằng có tạp nhiễm và có thanh tịnh; chẳng phải thật có người thấy cho
rằng có người tạp nhiễm và người thanh tịnh. Như người thật thấy biết không có
người tạp nhiễm và người thanh tịnh. Như vậy, sự tạp nhiễm và thanh tịnh cũng
không, vì tất cả pháp tự tướng đều Không.
4. (Đoạn Kinh sau đây tương đương với phẩm “Nói Thật”,
phần giữa quyển 478, Hội thứ II, ĐBN)
Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Những người thấy
thật không nhiễm, không tịnh, những người không thật thấy cũng không nhiễm,
không tịnh. Vì sao? Vì tất cả pháp đều
lấy vô tánh làm tự tánh.
Bạch Thế Tôn! Những người nói thật
không nhiễm, không tịnh, những người nói không thật cũng không nhiễm, không
tịnh. Vì sao? Vì tất cả pháp đều lấy vô tánh làm tự tánh.
Bạch Thế Tôn! Pháp vô tự tánh không
nhiễm, không tịnh, pháp có tự tánh cũng không nhiễm, không tịnh. Các pháp vô tự
tánh, có tự tánh cũng không nhiễm, không tịnh. Vì sao? Vì tất cả pháp đều lấy
vô tánh làm tự tánh.
Bạch Thế Tôn! Nếu người thật thấy và
người nói thật không nhiễm, không tịnh, người không thật thấy và người không
nói thật cũng không nhiễm, không tịnh thì tại sao có khi Thế Tôn lại nói có
pháp thanh tịnh?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Ta nói tánh bình đẳng của tất cả pháp tức
là pháp thanh tịnh.
(Thế nào là tánh bình đẳng của các pháp?)
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Thế nào là tánh bình
đẳng của tất cả pháp?
Phật dạy:
- Này Thiện
Hiện! Các pháp như, nói rộng cho đến cảnh giới bất tư nghì, Như Lai dù ra đời
hoặc không ra đời thì tánh tướng vẫn thường trụ. Đây gọi là tất cả tánh bình
đẳng của tất cả pháp. Tánh bình đẳng này gọi là pháp thanh tịnh. Ở đây nương
vào thế tục nói là thanh tịnh, chẳng nương vào thắng nghĩa. Vì sao? Vì trong
thắng nghĩa đế không có phân biệt, cũng không hý luận, dứt tất cả danh tự và
ngôn ngữ, nên không thể nói là có nhiễm hoặc có tịnh. (Q.537, ĐBN)
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp đều
như cảnh mộng, nói rộng cho đến như thành Tầm hương, tuy hiện ra tựa như có
nhưng không thật sự, thì làm sao đại Bồ tát nương vào pháp chẳng thật có, phát
tâm đạt đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, thệ nguyện: “Ta phải viên mãn
sáu pháp Ba la mật. Nói rộng, cho đến ta phải viên mãn ba mươi hai tướng, tám
mươi vẻ đẹp. Ta phải phát sanh vô lượng ánh sáng soi chiếu vô biên thế giới
khắp mười phương. Ta phải phát sanh âm thanh vi diệu vô biên thế giới vang khắp
mười phương, tùy theo tâm và tâm sở của các hữu tình hiểu rõ các pháp sai khác
nhau rồi, vì họ thuyết giảng các pháp môn vi diệu, làm cho họ siêng năng tu học,
tùy chỗ thích ứng đều được lợi ích”. (Q.537,
ĐBN)
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Ngươi đã nói các
pháp có giống như cảnh trong mộng cho đến như thành Tầm hương không?
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế
Tôn! Đúng vậy! Nhưng con còn nghi ngờ. Nếu tất cả
pháp như mộng cho đến như thành tầm hương đều không thật có, vì sao đại Bồ tát
khi hành sâu Bát nhã Ba la mật phát lời chắc thật: “Ta sẽ viên mãn tất cả Phật
pháp lợi ích an vui vô lượng hữu tình”. Chẳng phải mộng đã thấy, nói rộng cho
đến trong thành tầm hương hiện ra vật loại năng hành bố thí cho đến Bát nhã Ba
la mật, huống năng viên mãn. Nói rộng, cho đến ba mươi hai tướng, tám mươi tùy
hảo cũng nói như thế, chẳng phải mộng đã thấy nói rộng cho đến trong thành tầm
hương hiện ra vật loại năng thành tất cả sự nghiệp sở nguyện. Tất cả pháp khác
lẽ cũng như thế, đều chẳng phải thật vậy?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như
lời ngươi nói! Pháp
còn chẳng thật có, huống tu hành bố thí cho đến pháp Bát Nhã, huống là có thể
viên mãn. Nói rộng, cho đến ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp, pháp còn chẳng
thật có, huống là thành tựu sở nguyện sự nghiệp, cũng không thể chứng đắc Nhất
thiết trí trí.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Sáu pháp Ba
la mật như bố thí, trì giới v.v... và vô lượng, vô biên các Phật pháp khác đều
chẳng thật có, nên không thể chứng đắc Nhất thiết trí trí.
Thiện Hiện
nên biết! Tất cả các pháp như vậy đều do tư duy tạo tác. Các pháp do tư duy tạo
tác đều không thể chứng được Nhất thiết trí trí.
Lại nữa, này
Thiện Hiện! Các pháp như thế đối với đạo Bồ đề tuy có thể phát sanh, nhưng đối
với quả ấy chẳng giúp ích được gì. Bởi vì các pháp này không sanh, không diệt,
không thật tướng. Các đại Bồ tát từ lúc mới phát tâm, tuy phát sanh các thiện
pháp thù thắng, đó là tu bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật, nói rộng cho đến
Nhất thiết tướng trí, nhưng biết tất cả đều như cảnh trong mộng, nói rộng cho
đến như thành Tầm hương thật vô sở hữu.
Lại nữa, này
Thiện Hiện! Các pháp như thế tuy chẳng thật có, nếu chẳng viên mãn thì nhất
định không thể thành thục hữu tình, trang nghiêm cõi Phật, cũng không thể chứng
đắc Nhất thiết trí trí. Nghĩa là nếu đại Bồ tát chẳng viên sáu pháp Ba la mật,
nói rộng cho đến Nhất thiết tướng trí thì nhất định không thể thành thục hữu
tình, trang nghiêm cõi Phật, cũng không thể chứng được Nhất thiết trí trí.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Các đại Bồ
tát này khi hành sâu Bát nhã Ba la mật, theo sự tu hành an trụ vào tất cả thiện
pháp đều như thật biết như mộng cho đến như thành Tầm hương. Nghĩa là đại Bồ
tát tu hành sáu pháp Ba la mật nói rộng cho đến Nhất thiết tướng trí, thì có
thể như thật biết như mộng cho đến như thành Tầm hương. Nếu thành thục hữu
tình, trang nghiêm cõi Phật và cầu chứng đắc nhất Nhiết trí trí thì cũng có thể
như thật biết như mộng cho đến như thành Tầm hương, cũng như thật biết tâm hành
sai khác của các loài hữu tình như mộng cho đến như thành Tầm hương.
Lại nữa, Thiện Hiện! Khi các đại Bồ
tát này hành sâu Bát nhã Ba la mật, đối với tất cả pháp chẳng lấy đó làm có,
chẳng lấy đó làm không. Nếu do lấy như thế nên chứng được Nhất thiết trí trí
thì cũng biết pháp kia như mộng cho đến như thành Tầm hương, nên chẳng lấy đó
làm có, chẳng lấy đó làm không. Vì sao? Vì sáu pháp Ba la mật cho đến Nhất
thiết tướng trí đều chẳng thể lấy được. Pháp thiện, bất thiện cũng chẳng thể
lấy được. Pháp hữu ký, vô ký cũng chẳng thể lấy được. Pháp hữu lậu, vô lậu cũng
chẳng thể lấy được. Pháp thế gian, xuất thế gian cũng chẳng thể lấy được. Đại
Bồ tát này biết tất cả pháp chẳng thể lấy rồi cầu chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ
đề. Vì sao? Vì tất cả pháp đều chẳng thể lấy, đều chẳng thật có, như mộng cho
đến như thành Tầm hương. Chẳng thể lấy, chẳng thể chứng được pháp, nhưng các
hữu tình đối với pháp như thế chẳng biết, chẳng thấy. Đại Bồ tát này vì làm lợi
ích cho các hữu tình kia, nên cầu chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ tát
này từ lúc mới phát tâm, không vì thân mình, không vì việc gì khác, chỉ vì muốn
làm lợi ích cho tất cả hữu tình nên tu hành bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật.
Không vì mình, không vì việc gì khác, chỉ vì muốn làm lợi ích cho các hữu tình
mà cầu đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Các đại Bồ
tát này khi hành sâu Bát nhã Ba la mật, thấy những kẻ ngu si ở trong phi ngã
tưởng là có ngã, đối với chẳng phải kiến giả tưởng kiến giả. Đại Bồ tát này
thấy việc này rồi sanh lòng thương xót, dùng phương tiện dạy bảo, dẫn dắt làm
cho lìa điên đảo, vọng tưởng chấp trước, an trụ trong thế giới vô tướng cam lồ.
Trụ trong trường hợp này rồi không còn phát sanh tưởng ngã cho đến tưởng về
kiến giả. Bấy giờ, tất cả sự dao động, tán loạn, hý luận, phân biệt không còn
hiện hành, tâm được an trụ nơi vắng lặng, đạm bạc, không hý luận.
Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ tát này
do phương tiện hành sâu Bát nhã Ba la mật này, nên tự mình đối với các pháp
không chấp trước, cũng có thể dạy người khác đối với tất cả pháp không chấp
trước. Đây là nương vào thế tục, chẳng nương vào thắng nghĩa.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Khi Phật chứng quả
vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, Phật pháp đã đắc được là nương vào thế tục nói
gọi là đắc, hay nương vào thắng nghĩa nói gọi là đắc?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Khi Phật đắc Vô
thượng Chánh đẳng giác, pháp mà Phật chứng là nương vào thế tục mà nói là được,
chẳng nương vào thắng nghĩa. Nếu nương vào thắng nghĩa, thì năng đắc sở đắc đều
chẳng thể được. Vì sao? Vì nếu bảo người
này được pháp như vậy thì bèn có sở đắc. Kẻ có sở đắc thì liền chấp có hai. Kẻ
chấp có hai thì chẳng thể được quả, cũng không hiện quán.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu chấp có hai thì
không thể đắc quả, cũng không hiện quán. Như vậy, người chấp không hai, có thể
đắc quả và hiện quán không?
Phật dạy:
- Này Thiện
Hiện! Người nào chấp có hai không thể đắc quả, cũng không hiện quán. Người chấp
không hai cũng lại như vậy, do còn có sở chấp. Nếu chẳng chấp hai, chẳng
chấp không hai, hoặc chẳng chấp cả hai, thì gọi là đắc quả, cũng gọi hiện quán.
Vì sao? Vì chấp tất cả đây kia đều là hý luận. Vì chẳng phải trong tất cả pháp
tánh bình đẳng có các hý luận. Nếu lìa hý luận mới được gọi là pháp tánh bình
đẳng.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp đều
lấy vô tánh làm tự tánh, thì trong đây những pháp nào được coi là pháp tánh
bình đẳng?
Phật dạy:
- Này Thiện
Hiện! Đối với chỗ nào không có hữu tánh, không có vô tánh, cũng không thể nói
là tánh bình đẳng, thì như vậy mới gọi là pháp tánh bình đẳng. (Q.537,ĐBN)
Thiện Hiện nên biết! Pháp tánh bình
đẳng đã không thể nói, cũng không thể biết, trừ tánh bình đẳng không pháp có
thể đắc, lìa tất cả pháp không tánh bình đẳng.
(Đây là giáo lý sâu mầu của Bát nhã Ba la mật cần học
cần nhớ).
Thiện Hiện nên biết! Phàm phu hay
Thánh giả đều không thể hành pháp tánh bình đẳng, vì đó chẳng phải là cảnh giới
của họ.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Pháp tánh bình đẳng
há chẳng phải là cảnh sở hành của chư Phật sao?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Tất cả Thánh giả
đều không thể hành pháp tánh bình đẳng, cũng không thể chứng, nghĩa là những
bậc Dự lưu cho đến Độc giác, hoặc các Bồ tát, hoặc các Như Lai đều không thể
đem pháp tánh bình đẳng làm cảnh giới sở hành. Trong đây tất cả hý luận phân
biệt đều không hành.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Như Lai đối với các
pháp đều được tự tại, vậy tại sao cho rằng pháp tánh bình đẳng chẳng phải là
cảnh giới sở hành của Như Lai?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Phật đối với các
pháp tuy được tự tại, nếu tánh bình đẳng cùng Phật có khác, thì có thể nói là
cảnh giới sở hành của Phật. Nhưng tánh
bình đẳng cùng Phật không khác, làm sao có thể nói Phật hành cảnh ấy.
Này Thiện Hiện! Phải biết, nếu pháp
tánh bình đẳng của các phàm phu, hoặc pháp tánh bình đẳng của các Dự lưu, Nhất
lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác, Bồ tát, Như Lai, tất cả pháp tánh bình đẳng
như vậy đều đồng một tướng, chỗ gọi vô tướng. Một tướng bình đẳng đây không hai
không khác, nên chẳng thể nói đây là pháp tánh bình đẳng của phàm phu, nói rộng
cho đến đây là pháp tánh bình đẳng của Như Lai. Ở trong một pháp tánh bình đẳng
này, các tánh bình đẳng đã bất khả đắc. Ở trong tướng của phàm phu và Dự lưu
v.v… sai khác cũng bất khả đắc.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu trong tất cả
pháp tánh bình đẳng có các tướng sai khác đều bất khả đắc, thì các phàm phu và
Dự lưu v.v… pháp và hữu tình cũng không khác nhau?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như
lời ngươi nói! Ở
trong tất cả pháp tánh bình đẳng của phàm phu, Thánh giả, pháp và hữu tình đều
không khác nhau.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu trong tất cả
pháp tánh bình đẳng của phàm phu, Thánh giả, pháp và hữu tình đều không khác nhau,
thì tại sao lại có Tam bảo xuất hiện ở thế gian? Lại có Phật, Pháp, Tăng không
khác nhau?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Phật,
Pháp, Tăng bảo cùng với tánh bình đẳng có khác nhau không?
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Như theo con hiểu
nghĩa Phật nói thì Phật, Pháp, Tăng bảo cùng tánh bình đẳng đều không khác
nhau. Vì sao? Vì Phật, Pháp, Tăng bảo cùng tánh bình đẳng, tất cả như vậy đều
chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, vô sắc, vô kiến, vô đối, nhất
tướng chỗ gọi vô tướng. Nhưng vì chư Như Lai đối với pháp vô tướng dùng phương
tiện thiện xảo thành lập các pháp và hữu tình danh tướng khác nhau, đó là phàm
phu và pháp, cho đến đây là Như Lai và pháp?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như
lời ngươi nói! Chư
Phật đối với pháp, dùng phương tiện thiện xảo thành lập các pháp và hữu tình
danh tướng khác nhau.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Nếu Phật
không chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, giả sử có chứng nhưng nếu không
vì hữu tình lập ra các pháp, các loại danh tướng khác nhau, thì làm sao các
loài hữu tình có thể tự biết đây là địa ngục, nói rộng cho đến đây là Phi tưởng
phi phi tưởng xứ, đây là sắc, thọ, tưởng, hành, thức uẩn, nói rộng cho đến Nhất
thiết tướng trí, đây là tất cả tướng diệu nguyện trí, đây là Nhất thiết trí
trí, đây là Tam bảo, đây là Tam thừa? Các loài hữu tình đối với danh tướng khác
nhau như vậy có thể tự biết được không?
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Không biết! Nếu Phật
không vì hữu tình mà lập ra danh tướng khác nhau như vậy thì các loài hữu tình
không thể tự biết được.
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Vì vậy nên chư
Phật đối với pháp vô tướng dùng phương tiện thiện xảo, tuy vì hữu tình mà lập
ra các loại danh tướng khác nhau nhưng ở trong pháp tánh bình đẳng đều không bị
rối loạn.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Chư Phật đối với
pháp tánh bình đẳng đều không dao động, còn phàm phu cho đến Bồ tát ở trong
pháp tánh bình đẳng có bị rối loạn không?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì tất cả pháp và các hữu tình đều
chẳng vượt qua tánh bình đẳng vậy. Cũng như tánh bình đẳng, phải biết chơn như
nói rộng cho đến bất tư nghì giới cũng lại như thế, các pháp dị sanh và các
Thánh giả đối chơn như thảy không khác nhau vậy.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Như các hữu tình và
các Thánh giả cùng với tánh của tất cả pháp bình đẳng không sai khác. Nhưng
tướng của tất cả pháp đây và tướng của các hữu tình đều khác nhau nên tánh cũng
phải khác. Vậy thì pháp tánh cũng phải khác nhau. Nghĩa là sắc cho đến thức,
tướng đều khác nhau nên tánh cũng phải khác nhau. Nghĩa là tướng sắc uẩn v.v…
mỗi khác nên tánh cũng phải khác, nói rộng cho đến tướng hữu vi vô vi mỗi khác
nên tánh cũng phải khác
Bạch Thế Tôn! Các pháp như vậy nên
tánh khác nhau thì pháp tánh cũng phải khác nhau, như vậy làm sao đối với các
pháp, các tướng khác nhau này có thể an lập pháp tánh vào nhất tướng?
Các đại Bồ tát khi hành sâu Bát nhã
Ba la mật, làm sao không phân biệt pháp
và hữu tình có các loại tánh riêng biệt.
Nếu chẳng phân biệt pháp và hữu tình có các loại tánh riêng biệt thì thật ra
không thể hành sâu Bát nhã Ba la mật. Nếu không thể hành sâu Bát nhã Ba la mật,
thì thật ra không thể từ địa vị Bồ tát này đến địa vị Bồ tát kia được. Nếu nhất
định không thể từ địa vị Bồ tát này đến địa vị Bồ tát kia thì không thể nhập
vào Bồ tát Chánh tánh ly sanh. Nếu nhất định không thể nhập vào Bồ tát Chánh
tánh ly sanh thì không thể vượt qua các địa vị Thanh văn, Độc giác. Nếu nhất
định không thể vượt qua các địa vị Thanh văn, Độc giác thì không thể viên mãn thần
thông Ba la mật. Nếu nhất định không thể viên mãn thần thông Ba la mật thì
không thể tự tại du hý với các thần thông. Nếu nhất định không thể tự tại du hý
với các thần thông thì không thể viên mãn bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Nếu
nhất định không thể viên mãn bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật thì không thể từ
cõi Phật này đến cõi Phật khác, gần gũi cúng dường chư Phật Thế Tôn. Nếu nhất
định không thể từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, gần gũi cúng dường chư Phật
Thế Tôn, thì không thể lắng nghe, thọ trì chánh pháp với chư Phật và trồng các
căn lành. Nếu nhất định không thể lắng nghe, thọ trì chánh pháp với chư Phật và
trồng các căn lành thì không thể thành thục hữu tình, trang nghiêm cõi Phật.
Nếu nhất định không thể thành thục hữu tình, trang nghiêm cõi Phật, thì làm sao
có thể chứng đắc Nhất thiết trí trí, vận chuyển pháp luân vi diệu, độ chúng hữu
tình?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Như ngươi đã nói, các
phàm phu và các Thánh giả cùng với tất cả pháp tánh bình đẳng không sai khác.
Nhưng tướng của tất cả pháp đây và tướng của các hữu tình đều khác nhau nên
tánh cũng phải khác. Vậy thì pháp tánh cũng phải khác nhau. Đối với các pháp
tướng khác nhau, làm sao có thể an lập pháp tánh vào nhất tướng? Khi đại Bồ tát
hành sâu Bát nhã Ba la mật, làm sao chẳng phân biệt pháp và các hữu tình có các
thứ tánh riêng biệt, cho đến nói rộng như trên.
Này Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Pháp
tánh của các sắc là tánh không chăng? Pháp tánh của các thọ, tưởng, hành, thức
là tánh không chăng? Như vậy, cho đến tất cả pháp tánh hữu vi, vô vi là tánh
không chăng?
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đúng vậy! Tất cả pháp tánh đều là Không tánh.
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Ở trong
Không tánh, có tướng khác nhau của pháp v.v... có thể đắc không? Đó là tướng
khác nhau của sắc uẩn có thể đắc không? Tướng khác nhau của thọ, tưởng, hành,
thức uẩn có thể đắc không? Nói rộng, cho đến tướng khác nhau của pháp hữu vi có
thể đắc không? Tướng khác nhau của pháp vô vi có thể đắc không?
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Không đắc! Tất cả
tướng khác nhau ở trong Không tánh đều bất khả đắc.
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Do vậy nên biết,
pháp tánh bình đẳng chẳng phải là phàm phu, cũng chẳng phải lìa phàm phu. Nói
rộng, cho đến chẳng phải là chư Phật, cũng chẳng lìa chư Phật. Pháp tánh bình
đẳng chẳng phải là sắc uẩn, cũng chẳng lìa sắc uẩn; chẳng phải thọ, tưởng,
hành, thức uẩn, cũng chẳng lìa thọ, tưởng, hành, thức uẩn. Nói rộng, cho đến
chẳng phải là pháp hữu vi, cũng chẳng lìa pháp hữu vi; chẳng phải là pháp vô
vi, cũng chẳng lìa pháp vô vi.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Pháp tánh bình đẳng
là hữu vi hay vô vi?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Pháp tánh bình
đẳng chẳng phải là hữu vi, chẳng phải là vô vi. Nhưng lìa pháp hữu vi, pháp vô
vi bất khả đắc; lìa pháp vô vi, pháp hữu vi cũng bất khả đắc.
Thiện Hiện
nên biết! Trong giới hữu vi, hoặc giới vô vi, hai giới như vậy đều chẳng tương
ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, vô sắc, vô kiến, vô đối, nhất tướng chỗ gọi vô
tướng. Chư Phật Thế Tôn nương vào thế tục mà nói, chẳng nương vào thắng nghĩa.
Vì sao? Vì chẳng phải trong thắng nghĩa có được thân hành, ngữ hành, ý hành;
nhưng chẳng lìa thân hành, ngữ hành, ý hành mà có được thắng nghĩa. Tức là pháp
tánh bình đẳng của pháp hữu vi và pháp vô vi gọi là thắng nghĩa, chẳng phải lìa
tất cả hữu vi, vô vi mà có thắng nghĩa sai khác. Vì vậy, nên đại Bồ tát khi
hành sâu Bát nhã Ba la mật, chẳng rối loạn thắng nghĩa mà hành Bồ tát hạnh,
thành thục hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, có thể mau chứng đắc
Nhất thiết trí trí, trong đời vị lai làm lợi ích cho hữu tình.
5. (Đoạn Kinh sau đây tương đương với phẩm “Tánh
Không”,
phần cuối quyển 478, Hội thứ II, ĐBN)
Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu tánh bình đẳng
của các pháp v.v... bản tánh đều Không, bản tánh Không này đối với tất cả pháp
đều chẳng phải làm, cũng chẳng phải bị làm, thì đại Bồ tát khi hành sau Bát nhã
Ba la mật làm sao chẳng rối loạn thắng nghĩa, đem bốn nhiếp sự làm lợi ích cho
hữu tình?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như
lời ngươi nói! Tánh
bình đẳng của tất cả pháp v.v... bản tánh đều Không. Bản tánh Không này đối với
pháp hữu vi đều chẳng phải làm, cũng chẳng phải bị làm, nhưng các đại Bồ tát có
thể vì hữu tình mà đem bốn nhiếp sự làm lợi ích lớn. Các hữu tình nào tự biết
các pháp bản tánh đều Không, thì Phật cũng như Bồ tát không thị hiện thần thông
làm việc hy hữu, tức là ở trong các pháp bản tánh Không, tuy không bị rối loạn
nhưng làm cho hữu tình xa lìa các hư vọng phân biệt, trụ vào các pháp Không,
thoát khổ sanh tử. Nghĩa là làm cho hữu tình xa lìa tưởng ngã, nói rộng cho đến
tưởng về người thấy. Cũng làm cho hữu tình xa lìa tưởng sắc cho đến tưởng thức.
Cũng làm cho hữu tình xa lìa tưởng nhãn xứ cho đến tưởng ý xứ. Cũng làm cho hữu
tình xa lìa tưởng sắc xứ cho đến tưởng pháp xứ. Cũng làm cho hữu tình xa lìa
tưởng nhãn giới cho đến tưởng ý giới. Cũng làm cho hữu tình xa lìa tưởng sắc
giới cho đến tưởng pháp giới. Cũng làm cho hữu tình xa lìa tưởng nhãn thức giới
cho đến tưởng ý thức giới. Cũng làm cho hữu tình xa lìa tưởng nhãn xúc cho đến
tưởng ý xúc. Cũng làm cho hữu tình xa lìa tưởng các thọ do nhãn xúc làm duyên
sanh ra, cho đến tưởng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra. Cũng làm cho hữu
tình xa lìa địa giới cho đến tưởng thức giới. Cũng làm cho hữu tình xa lìa
tưởng nhân duyên cho đến tưởng tăng thượng duyên. Cũng làm cho hữu tình xa lìa
các pháp theo duyên sanh ra. Cũng làm cho hữu tình xa lìa vô minh cho đến lão
tử. Cũng làm cho hữu tình xa lìa pháp hữu lậu, vô lậu. Cũng làm cho hữu tình xa
lìa pháp thế gian, xuất thế gian. Cũng làm cho hữu tình xa lìa pháp hữu vi, vô
vi. (Q.537, ĐBN)
Làm cho hữu
tình xa lìa các tưởng rồi, an trụ vào giới vô vi, giải thoát tất cả sanh, lão,
bệnh, tử. Giới vô vi ấy tức là các pháp Không, nương theo thế tục gọi là vô vi.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Do cái gì không nên
nói các pháp không?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Vì sắc cho đến Nhất thiết trí trí đều tánh
Không, nên nói các pháp Không. Lại nữa, này Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Như thân
biến hóa lại hóa làm các việc, đây là sự thật nhưng chẳng phải là không sao?
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Không thật! Các sự
biến hóa ra đều không thật, tất cả đều Không.
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Sự biến hóa ra
cùng với Không, hai pháp như vậy chẳng hợp, chẳng tan. Hai pháp này đều lấy Không
Không cho nên Không, chẳng nên phân biệt là Không, là biến hóa. Vì sao? Vì
chẳng phải trong tánh Không có Không, có biến hóa. Hai việc ấy có thể đắc, vì
tất cả pháp hoàn toàn là Không.
Lại nữa,
Thiện Hiện! Không có sắc nào mà chẳng phải là biến hóa; không có thọ, tưởng,
hành, thức nào mà chẳng phải là biến hóa. Các pháp biến hóa này đều không. Đối
với các pháp khác, hữu tình cũng phải biết như vậy.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Nương vào
pháp như vậy lập ra nhiều hạng. Đó gọi là phàm phu, Thanh văn, Độc giác, Bồ
tát, Như Lai đều là sự biến hóa, những người được biến hóa này đều là Không.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Uẩn, xứ, giới v.v...
các pháp thế gian và các hữu tình có thể đều là sự biến hóa. Bốn niệm trụ
v.v... pháp xuất thế gian và các hữu tình cũng là biến hóa sao?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Tất cả pháp thế
gian và xuất thế gian v.v... đều là sự biến hóa. Nhưng ở trong ấy có hóa Thanh
văn, có hóa Độc giác, có hóa Bồ tát, có hóa Như Lai, có hóa phiền não, có hóa
các nghiệp. Do nhân duyên này, Ta nói tất cả pháp đều như huyễn hóa, bình đẳng
không khác nhau.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Có sự đoạn quả đó là
quả Dự lưu, quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác. Như Lai đoạn trừ vĩnh
viễn sự tương tục của tập khí phiền não cũng đều là sự biến hóa sao?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Các pháp như vậy
nên cùng hai tướng sanh diệt tương ưng cũng đều là sự biến hóa.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Pháp nào chẳng phải
là biến hóa?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Nếu pháp nào chẳng
tương ưng với sanh diệt, thì pháp này là chẳng biến hóa.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Pháp nào chẳng tương
ưng với sanh diệt?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Đó là pháp chẳng
dối gạt, tức là Niết bàn. Pháp này chẳng tương ưng với sanh diệt.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Như Ngài đã dạy:
Pháp tánh bình đẳng tất cả đều Không, không có người hoạt động, không hai, cũng
không có chút pháp nào chẳng phải tự tánh Không. Vậy thì làm sao có thể nói
Niết bàn chẳng biến hóa?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như
lời ngươi nói, không
có chút pháp nào chẳng phải tự tánh Không. Tự tánh Không này chẳng phải do
Thanh văn tạo tác, chẳng phải do Độc giác tạo tác, chẳng phải do Bồ tát tạo
tác, chẳng phải do chư Phật tạo tác, cũng chẳng phải có ai tạo tác. Có Phật hay
không Phật, tự tánh vẫn thường Không. Đây tức là Niết bàn. Vì vậy, nên Ta nói
Niết bàn chẳng biến hóa, chứ chẳng phải thật có pháp gọi là Niết bàn, có thể
nói không sanh, không diệt, không biến hóa.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Hàng Bồ tát
mới học nghe tất cả pháp đều hoàn toàn Không, cho đến Niết bàn cũng đều như
biến hóa, sanh lòng sợ hãi, không thể tu thiện pháp, nên Ta vì họ mà nói: Nếu pháp chẳng tương ưng với sanh diệt, thì
pháp này chẳng biến hóa, chứ chẳng phải riêng thật có Niết bàn, chẳng Không.
Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Làm thế nào Ngài
dùng phương tiện giáo giới dạy bảo cho các đại Bồ tát mới phát tâm quả vị Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, làm cho họ biết các pháp bản tánh thường Không, nghe
các pháp hoàn toàn Không mà chẳng sanh sợ hãi?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Chẳng lẽ tất cả
pháp trước có sau không, chẳng phải bản tánh Không. Nhưng tất cả pháp trước đã
chẳng có, sau cũng chẳng không, bản tánh thường Không, không bị sợ hãi, nên mới
giáo giới dạy bảo các đại Bồ tát mới phát tâm quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề
như vậy, làm cho họ biết các pháp bản tánh thường Không, nghe pháp hoàn toàn
Không, vui mừng tín thọ.
Khi đức Bạc già phạm (Phật) thuyết Kinh này rồi, vô lượng
chúng đại Bồ tát và các Thanh văn, người chẳng phải người v.v... cùng tất cả
đại chúng nghe Phật thuyết đều rất vui mừng, tín thọ phụng hành. (Q.537, ĐBN)
Sơ giải:
Như gợi ý
trên phẩm cuối cùng của Hội thứ III này cũng như hầu hết các phẩm khác của Hội
thứ III gồm 5 phẩm: “Chánh Định”, “Phật Pháp”, “Vô Sự”, “Nói Thật” và “Tánh
Không” của Hội thứ II, nhập lại thành một phẩm duy nhất, lấy tên là “Tuyên
Hóa”. Để giúp độc giả dễ tụng dễ tra cứu chúng tôi cũng chia phẩm này tương
đương với năm phẩm của Hội thứ II và Hội thứ I như sau:
1. Phẩm “Chánh Định” của Hội thứ II
tương đương với phẩm “Tịnh Độ Phương Tiện” của Hội thứ I;
2. Phẩm “Phật
Pháp” của Hội thứ II tương đương với phẩm “Vô Tánh Tự Tánh” của Hội thứ I;
3. Phẩm “Vô Sự” của Hội thứ II tương đương với phẩm “Vô
Tánh Tự Tánh” của Hội thứ I;
4. Phẩm “Nói Thật” của Hội thứ II tương đương với phẩm
“Thắng Nghĩa Du Già” của Hội thứ I; và
5. Phẩm “Tánh Không” của Hội thứ II tương đương với phẩm
“Pháp Tánh Vô Động” của Hội thứ I.
Cứ theo chỉ dẫn này Quý vị có thể tìm thấy đầy đủ
thích nghĩa và lược giải các giáo lý của phẩm “Tuyên Hóa” này. Chúng tôi rất
làm ái ngái là Hội thứ II và Hội thứ III chẳng có thích nghĩa nhiều cũng như
không lược giải. Quý vị cũng biết rồi, vì Hội thứ I đã thích nghĩa và lược giải
đầy đủ nên không thể trùng tuyên thêm nữa chỉ sợ Quý vị nhàm chán mệt mỏi. Đọc
chánh văn của hội thứ II và Hội thứ III cốt ôn lại các giáo lý của Đại Bát Nhã,
đồng thời tự mình suy nghĩ và tập luận giải lấy để tự thành tựu trí tuệ cho
chính mình.
Tụng tới đây là xong ba Hội chúng tôi nghĩ Quý vị có
thể thuộc nằm lòng một số giáo lý căn bản rồi. Nếu không nhớ hết thì Hội thứ IV
kế tiếp chúng tôi sẽ thích nghĩa và chiết giải tỉ mỉ sẽ bổ túc thêm.
--- o0o ---
Đến đây chấm dứt phần ba.
(Hội thứ
III)
Mở đầu bố
cục của Hội thứ III, chúng tôi có viết: “Hội
thứ III này còn ngắn hơn hai Hội trước nhiều”. Hội thứ I có cả thảy là 79 phẩm,
tổng cộng 400 quyển, chiếm hết 2/3 Kinh Đại Bát Nhã; Hội thứ II có tới 87 phẩm,
gồm 78 quyển; trong khi Hội thứ III vỏn vẹn chỉ có 31 phẩm, gói ghém trong 59
quyển, nên nói Hội thứ III ngắn hơn hai Hội trên là vậy.
Hội thứ I
quá dài vì quản diễn trùng tụng quá nhiều, kéo dài đến 400 quyển. Trái lại Hội
thứ II chỉ có 78 quyển nhưng số phẩm lại nhiều hơn Hội thứ I. Sở dĩ như vậy là
vì Hội thứ II phân chia thành nhiều thể tài riêng biệt, mỗi thể tài có phẩm tựa
riêng, thuyết minh chuyên biệt về thể tài ấy mà thôi.
Trái với hai
Hội trên, Hội thứ III có rất ít phẩm. Sở dĩ Hội thứ III quá ngắn, là vì Hội thứ
III lại nhập nhiều phẩm của các Hội trước, thuyết chung trong một phẩm lớn. Thí
dụ như phẩm “Thiện Hiện” của Hội thứ III có cùng một số lượng là 15 quyển như
Hội thứ II nhưng Hội thứ III lại nhập 20 phẩm của Hội thứ II thành một phẩm duy
nhất có tên là phẩm “Thiện Hiện”như chúng ta đã tụng qua. Đó là lý do tại sao
Hội thứ III ít phẩm hơn hai Hội trước.
Còn về hình
thức và nội dung thì cả ba Hội đều có giáo lý như nhau. Nếu quý vị không có
nhiều thời giờ để nghiền ngẫm thì có thể trì tụng Hội thứ II hay Hội thứ III
cũng tạm đủ. Riêng chúng tôi lấy Hội thứ II làm dàn bài hướng dẫn, vì Hội này
trình bày các giáo lý rõ ràng và ít trùng tuyên hơn. Đó cũng chính là lý do tại
sao Ngài La Thập chọn Hội thứ II để đúc kết và dịch thành Kinh MHBNBLMĐ và
quyển Kinh này cũng được xem là đại bản(hay đại phẩm). Tuy nhiên, trong ba Hội
thì chỉ có Hội thứ I là có lược giải và thích nghĩa đầy đủ hơn cả.
Như trước
đây chúng tôi nhiều lần lưu ý càng đọc nhiều thì càng vỡ ra. Học Phật là phải
siêng năng trì tụng. Có tinh tấn thì mới có thể thâm nhập, thông đạt các giáo
lý sâu xa được! Một tư tưởng gia đã nói: “Thiên tài chẳng qua chỉ là một sự tập
luyện lâu dài”.
Bây giờ,
chúng ta bước sang phần bốn, Hội thứ IV là phần mà chúng tôi đặt trọng tâm. Đa
số học giả, các nhà khảo cứu Phật học, hành giả Bát Nhã đều dựa vào phần này để
phân tích, chiết giải cũng như tu hành. Vì đây là phần cốt tủy của Đại Bát Nhã
Ba La Mật. Tuy ngắn gọn, nhưng vẫn thâu tóm được tất cả giáo lý cũng như kỹ
thuật tu trì, quán chiếu dưới danh từ là “tiểu bản” hay “tiểu phẩm”. Tuy gọi là
“tiểu” nhưng cũng rất đầy đủ, không kém phần thâm thúy như các đại bản hay đại
phẩm đã nói trên.
Như nhiều
lần lưu ý Hội này do các vị đi trước dịch, nhóm của Ngài Huyền Trang chỉ sao lại thôi, nhưng không có đặt tên như các tác phẩm khác
chẳng hạn như: Tiểu Phẩm Bát Nhã Kinh, Đạo Hành Kinh, Phật Mẫu Phát Sanh Tam
Pháp Tạng Bát nhã Ba La Mật Đa hay Bát Nhã Bát Thiên Tụng v.v… Chúng tôi tạm
gọi là “Tiểu Bản Bát Nhã” cho dễ nhớ. Tiểu Bản Bát Nhã (viết tắt là TBBN) được
ghi trong ĐBN bắt đầu từ quyển 538 đến hết quyển 555, tổng cộng 18 quyển, thu
gọn trong 29 phẩm, được Phật thuyết ở Hội thứ IV. Chúng tôi nghĩ với lối hành
văn ngắn gọn tỉnh lược và các giáo lý lại vi diệu của Hội thứ IV này có thể
mang lại nhiều hứng thú cho Quý vị.