HỘI THỨ XIV
(Bố cục)
14. Hội thứ XIV: Phần “Tinh Tấn
Ba La Mật”, 1 quyển. Nội dung đức Phật giải thích rõ cho Mãn Từ Tử về việc
an trụ nơi Bát Nhã, ngăn dứt sáu tình, siêng chăm ba học(1): Đó là con đường
dẫn đến hoàn thành hạnh Bồ tát.
--- o0o ---
PHẨM “TINH TẤN BA LA MẬT”
Tóm lược:
Quyển thứ 590
(Thế nào là an trụ tinh tấn Ba la mật?)
Tôi nghe như vầy:
Một thời đức Bạc già phạm cùng với một ngàn hai trăm năm
mươi vị đại Bí sô trú tại vườn Cấp Cô Độc, ở rừng Thệ đa, tại thành Thất la
phiệt.
Bấy giờ, cụ thọ Mãn Từ Tử bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ tát muốn chứng quả vị Vô Thượng
Chánh Đẳng Bồ đề, phải dùng phương tiện
gì để an trụ tinh tấn Ba la mật?
Phật dạy:
- Mãn Từ Tử! Nếu đại Bồ tát muốn chứng quả vị Vô Thượng
Chánh Đẳng Bồ đề, khi mới phát tâm nên nghĩ: Các vật sở hữu của ta, hoặc thân hoặc tâm, trước hết phải vì người khác
làm việc lợi ích để tất cả sở nguyện được đầy đủ.
Ví như người hầu phải suy nghĩ: Đi, đứng, nằm, ngồi đều theo
ý chủ, không nên tự tại làm theo ý mình. Muốn từ nhà đi đến chợ phố v.v...,
trước hết phải thưa hỏi chủ, sau đó mới đi. Muốn ăn uống chủ cho phép mới thọ
dụng. Tất cả mọi việc đều theo ý chủ.
Đại Bồ tát cũng vậy, muốn chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng
Bồ đề, lúc mới phát tâm phải nghĩ như vầy: Sở hữu của ta, hoặc thân hoặc tâm
đều không nên tự tại mà chuyển, tùy theo sự nghiệp lợi ích của người khác, tất
cả đều phải vì họ mà thành tựu đầy đủ.
Đại Bồ tát như thế là nương tựa vào tinh tấn Ba la mật,
không xa lìa tinh tấn Ba la mật, vì hữu tình nên làm việc đáng làm. Các Bồ tát
đối với tinh tấn Ba la mật nên trụ như thế.
Ví như ngựa quý, nếu có người cưỡi, nó liền nghĩ: Ta không
nên làm cho thân thể người cưỡi lay động, mệt mỏi, khổ nhọc, hoặc hư tổn yên
cương. Qua, lại, tới, lui, đi, đứng, nhanh, chậm đều theo ý người cưỡi để nhiếp
hộ người ấy, không nên vì ta mà làm cho người kia phải khởi lên các tội lỗi
giận dữ v.v...
Như thế chúng đại Bồ tát muốn hành tinh tấn Ba la mật, không
nên hành động tùy theo ý mình, phải theo ý thích người khác để làm lợi ích,
nhiếp hộ người kia, để họ không khởi tất cả phiền não ác nghiệp với ta.
Người kia đối với đại Bồ tát, tuy trước không mang ơn, nhưng
các đại Bồ tát vì người kia tưởng nhớ báo ơn để thành tựu các sự nghiệp. Đại Bồ
tát như vậy là thành tựu tinh tấn Ba la mật, nhiếp hộ tâm người khác, tùy theo
ý của người khác mà làm các việc lợi ích an lạc.
Đại Bồ tát như thế là nhiếp hộ tinh tấn Ba la mật, làm cho
các hữu tình được lợi ích an lạc, giống như sự nghiệp của mình, thường không
nhàm chán. Đó là chúng đại Bồ tát an trụ tinh tấn Ba la mật.
Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu đại Bồ tát vì muốn mau chứng đắc
Nhất thiết trí trí, làm lợi ích lớn cho các hữu tình, thường nên tinh cần tu
học bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật, tâm không
thối chuyển. Đại Bồ tát này an trụ tinh tấn Ba la mật.
Nếu đại Bồ tát vì muốn mau chứng đắc Nhất thiết trí trí, làm
lợi ích lớn cho các hữu tình, thường nên tinh cần tu học, quán mười tám pháp
Không, thập nhị chân như, quán mười hai duyên khởi theo hai chiều thuận nghịch,
quán Tứ đế khổ tập diệt đạo, tinh cần tu học bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn
định vô sắc, 37 pháp trợ đạo, tam giải thoát môn, tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ lớp, mười biến xứ, tu
học tất cả pháp môn Đà la ni, Tam ma địa, tinh cần tu học trí của Tam thừa cộng
Thập địa hay Bồ tát thập địa, tu học năm loại mắt, sáu phép thần thân, Như Lai mười lực, bốn điều không sợ,
bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật
bất cộng v.v... và vô biên Phật pháp, tâm không thối chuyển. Đại Bồ tát này an
trụ tinh tấn Ba la mật.
Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu đại Bồ tát
vì muốn làm cho cõi Phật thật trang nghiêm thanh tịnh, muốn thành thục các loài hữu tình thì nên ở lâu trong sanh tử, tu học
các công đức, tâm không thối chuyển. Đại Bồ tát này an trụ tinh tấn Ba la mật.
Nếu đại Bồ tát lúc mới phát tâm quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng
Bồ đề, giả sử các loài hữu tình trong ba ngàn đại thiên thế giới đều thành Bồ
tát, hoặc còn ràng buộc một đời, hoặc còn ràng buộc hai đời, hoặc còn ràng buộc
ba đời, hoặc còn ràng buộc bốn đời mới được thành Phật, nên nói như vầy: “Các
vị phải tinh cần tu học Bồ tát hạnh, để các vị chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề
trước, ta sẽ chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề sau”. Bấy giờ, Bồ tát theo lời
nói kia, tinh cần dõng mãnh, tâm không khiếp sợ. Đại Bồ tát này an trụ tinh tấn
Ba la mật.
Nếu đại Bồ tát hoặc còn ràng buộc một đời, hoặc còn ràng
buộc hai đời, hoặc còn ràng buộc ba đời, hoặc còn ràng buộc bốn đời mới được
thành Phật, giả sử các loài hữu tình ở ba ngàn đại thiên thế giới mới phát tâm
quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, nói như vầy: “Ngài hãy đợi chúng tôi chứng
quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề trước, rồi Ngài chứng quả vị Vô Thượng Chánh
Đẳng Bồ đề sau”. Bấy giờ, Bồ tát theo lời nói kia, ở lâu trong sanh tử, tâm
không thối chuyển. Đại Bồ tát này an trụ tinh tấn Ba la mật.
Nếu đại Bồ tát thấy người hành khất đến xin những vật cần
dùng, thì mặt không nên nhăn nhó, mắt không hiện tướng sân, chỉ nghĩ như vầy:
Hữu tình như thế là thuận theo sự cầu Nhất thiết trí trí của ta, mau chóng tạo
phương tiện cho người cầu xin. Đại Bồ tát này an trụ tinh tấn Ba la mật.
Nếu đại Bồ tát vì muốn tất cả hữu tình được an lạc, nên hoặc
trải qua một kiếp, hoặc hơn một kiếp ở trong địa ngục lớn, chịu các khổ dữ dội,
nhưng thân không động chuyển, tâm không thối lui. Đại Bồ tát này an trụ tinh
tấn Ba la mật.
Nếu đại Bồ tát, giả sử số lượng ngày đêm đồng như đại kiếp,
tích chứa ngày đêm này lại thành đại kiếp, trải qua nhiều thời gian như hằng hà
sa số đại kiếp, ở trong đại địa ngục, chịu nhiều khổ não dữ dội, do chịu nhiều
khổ não này nên muốn giúp cho một hữu tình được ra khỏi địa ngục, sanh ở cõi
lành. Bấy giờ, Bồ tát hoan hỷ lãnh chịu.
Đại Bồ tát này an trụ tinh tấn Ba la mật.
Nếu đại Bồ tát nào nghe nói những việc này mà bộc lộ sự vui
mừng, thề vì hữu tình lãnh chịu tất cả, tâm không thối chuyển, nên biết đây gọi
là Bồ tát an trụ tinh tấn Ba la mật. Nếu đại Bồ tát nào nghe những việc như
thế, mà tâm kia khiếp nhược, không hoan hỷ, lòng không muốn lãnh thọ, nên biết
đây gọi là Bồ tát giải đãi.
Nếu đại Bồ tát nào nghe các việc lành, tâm liên tục ưa thích
thọ hành, nên biết đây gọi là Bồ tát tinh tấn, an trụ tinh tấn Ba la mật. Nếu
đại Bồ tát nào nghe các việc lành, không buộc niệm liên tục thọ hành, thì nên
biết đây là Bồ tát giải đãi.
Lại nữa, Mãn Từ Tử! Giả sử đại Bồ tát quét đất ở châu Thiệm
bộ này từ một chỗ rồi đến chỗ khác, quét khắp nơi rồi quay về chỗ cũ, khởi ý
nghĩ: Ta phải xa lánh chỗ này lâu mới được. Nên biết đây gọi là Bồ tát giải
đãi. Nếu đại Bồ tát làm việc này rồi, khởi ý nghĩ: Ta phải trở lại chỗ này mau.
Nên biết đây gọi là Bồ tát tinh tấn, an trụ tinh tấn Ba la mật.
Nếu đại Bồ tát xây cất, sửa
chữa Bảo tháp trải qua 1 ngày,
rồi nghĩ: Ngày hôm nay sao dài quá! Nên biết đây gọi là Bồ tát giải đãi. Nếu
đại Bồ tát làm việc này rồi, khởi nghĩ: Ngày hôm nay sao ngắn quá! Nên biết đây
gọi là Bồ tát tinh tấn, an trụ tinh tấn Ba la mật.
Nếu đại Bồ tát xây cất, sửa
sang Tăng già lam (chùa) trải qua 1 ngày, rồi nghĩ: Ngày hôm
nay sao lại quá dài! Nên biết đây gọi là Bồ tát giải đãi. Nếu đại Bồ tát làm
việc này rồi, khởi nghĩ: Ngày hôm nay sao lại ngắn! Nên biết đây gọi là Bồ tát
tinh tấn, an trụ tinh tấn Ba la mật.
Nếu đại Bồ tát coi sự
nghiệp đã làm trong nửa năm, khởi tưởng lâu dài, nên biết đây gọi là Bồ tát
giải đãi. Nếu đại Bồ tát coi sự nghiệp đã làm trong nửa năm như sự nghiệp đã
làm trong một ngày, nên biết đây gọi là Bồ tát tinh tấn, an trụ tinh tấn Ba la
mật.
Nếu đại Bồ tát coi sự
nghiệp đã làm trong một năm, khởi tưởng lâu dài, nên biết đây gọi là Bồ tát
giải đãi. Nếu đại Bồ tát coi sự nghiệp đã làm trong một năm như làm trong một
ngày, nên biết đây gọi là Bồ tát tinh tấn, an trụ tinh tấn Ba la mật.
Nếu đại Bồ tát coi sự
nghiệp đã làm trong nửa kiếp, khởi tưởng lâu dài, nên biết đây gọi là Bồ
tát giải đãi. Nếu đại Bồ tát coi sự nghiệp đã làm trong nửa kiếp giống như sự
nghiệp đã làm trong một ngày, nên biết đây gọi là Bồ tát tinh tấn, an trụ tinh
tấn Ba la mật.
Nếu đại Bồ tát coi sự
nghiệp đã làm trong một kiếp, khởi tưởng lâu dài, nên biết đây gọi là Bồ
tát giải đãi. Nếu đại Bồ tát coi sự nghiệp đã làm trong một kiếp giống như sự
nghiệp đã làm trong một ngày, nên biết đây gọi là Bồ tát tinh tấn, an trụ tinh
tấn Ba la mật.
Lại nữa, Mãn Từ Tử! Các đại Bồ tát tu Bồ tát hạnh không nghĩ kiếp số nhiều ít, nghĩa là nghĩ ta phải
trải qua bao nhiêu số kiếp mới chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Nếu đại
Bồ tát suy nghĩ kiếp số mà phân biệt hạn kỳ, rồi mới tinh tấn dõng mãnh tu Bồ
tát hạnh cầu chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, nên biết đây gọi là Bồ
tát giải đãi. Nếu đại Bồ tát suy nghĩ như vầy: Dù trải qua vô lượng, vô biên
đại kiếp, tinh tấn dõng mãnh tu Bồ tát hạnh, mới chứng được quả vị Vô Thượng
Chánh Đẳng Bồ đề, ta nhất định không sanh tâm thối lui, siêng năng cầu quả vị
Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Nên biết đây gọi là Bồ tát tinh tấn, an trụ tinh
tấn Ba la mật, tu hành tinh tấn Ba la mật khiến cho mau viên mãn, xa lìa sanh
tử, mau chứng đắc Nhất thiết trí trí, làm lợi ích lớn cho các hữu tình.
Nếu đại Bồ tát suy nghĩ kiếp số mà giới hạn, phân biệt, tuy
rất dõng mãnh thường siêng năng tu học bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn,
tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật, nhưng cũng gọi là Bồ tát giải đãi. Nếu đại Bồ tát
suy nghĩ như vầy: Dù trải qua vô lượng, vô biên đại kiếp, nỗ lực dõng mãnh
thường xuyên tu học bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát nhã Ba
la mật mới được viên mãn, mới chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, ta nhất định không sanh tâm thối lui. Nên
biết đây gọi là Bồ tát tinh tấn, an trụ tinh tấn Ba la mật, mau chứng đắc Nhất
thiết trí trí.
Nếu đại Bồ tát suy
nghĩ kiếp số mà giới hạn, phân biệt, tuy rất dõng mãnh thường siêng năng tu
học trí 18 pháp Không, 12 pháp chân như, 12 duyên khởi theo hai chiều thuận
nghịch, siêng năng tu học trí Thánh đế khổ, hoặc khổ, hoặc vô thường, hoặc
Không, hoặc vô ngã; trí Thánh đế tập, hoặc nhân, hoặc tập, hoặc sanh, hoặc
duyên; trí Thánh đế diệt, hoặc diệt, hoặc tĩnh, hoặc diệu, hoặc ly; trí Thánh
đế đạo, hoặc đạo, hoặc như, hoặc hành, hoặc xuất(2), tu học bốn tĩnh lự, bốn vô
lượng, bốn định vô sắc, 37 pháp trợ đạo, tam giải thoát môn, tám giải thoát,
tám thắng xứ, chín định thứ lớp, mười biến xứ, siêng năng tu học pháp môn Đà la
ni, pháp môn Tam ma địa, tu học các Bồ tát địa và các trí địa, năm loại mắt,
sáu phép thần thông, Như Lai mười lực, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết
thông suốt, siêng năng tu học đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp
Phật bất cộng, siêng năng tu học pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, tu học
Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí, siêng năng tu học tất cả
Bồ tát hạnh... nhưng cũng gọi là Bồ tát giải đãi. Nếu đại Bồ tát suy nghĩ như
vầy: Dù trải qua vô lượng, vô biên đại
kiếp, nỗ lực dõng mãnh thường xuyên tu học tất cả các pháp mầu Phật đạo nói
trên, mới được viên mãn, mới chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, ta nhất
định không sanh tâm thối chuyển. Nên biết đây gọi là Bồ tát tinh tấn, an trụ
tinh tấn Ba la mật, mau chứng đắc Nhất thiết trí trí.
Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu có lời khuyến thỉnh đại Bồ tát:
“Ngài nên vì tôi trong một ngày phá vỡ núi chúa Diệu Cao”. Nếu hỏi lại: “Lượng
núi chúa Diệu Cao thế nào mà ông bắt tôi đập phá làm bao nhiêu phần?” Nên biết
đây gọi là Bồ tát giải đãi. Nếu suy nghĩ như vầy: Dù núi chúa Diệu Cao lớn hay
nhỏ, trong một ngày tôi sẽ vì ông mà đập phá ra như hạt cải, hoặc như vi trần.
Tuy trải qua nhiều thời gian mới đập phá được, nhưng ý vị kia cho rằng như chỉ
trong chốc lát. Nên biết đây gọi là Bồ tát tinh tấn.
Nếu đại Bồ tát suy nghĩ: Giả sử hằng hà sa số đại kiếp làm
thành một ngày đêm, tích lũy ngày đêm lại thành đại kiếp, dù trải qua vô lượng
đại kiếp như vậy tu Bồ tát hạnh mới chứng quả vị Vô thượng Bồ đề, thì trong
thời gian đó tâm tôi cũng không thối chuyển, huống chi không có việc này mà
chẳng siêng năng cầu? Nên biết đây gọi là Bồ tát tinh tấn.
Nếu Bồ tát khi nghe thuyết tướng tinh tấn như thế, bộc lộ sự
vui mừng, tâm không khiếp sợ, nên biết đây gọi là Bồ tát tinh tấn. Nếu Bồ tát
khi nghe thuyết tướng tinh tấn như thế, tâm kia thối lui, hoang mang, sanh lòng
sợ hãi, nên biết đây gọi là Bồ tát giải đãi, không thể mau đắc Nhất thiết trí
trí.
Nếu đại Bồ tát nghe thuyết tinh tấn Ba la mật, suy nghĩ như
vầy: Biết khi nào mới thành tựu công đức thù thắng khó chứng như thế. Nên biết
đây gọi là Bồ tát giải đãi. Nếu đại Bồ tát nghe thuyết tinh tấn Ba la mật, suy
nghĩ như vầy: Công đức như thế ta đều có đủ, ta phải nhất định tu tập để mau
tiến đến bờ bên kia. Nên biết đây gọi là Bồ tát tinh tấn.
Nếu có người đến xin tay, chân... đại Bồ tát, Bồ tát liền
nghĩ: Nếu ta cho người kia thì sẽ không tay, không chân, không đầu! Nên biết
đây gọi là Bồ tát giải đãi. Nếu có người đến xin tay, chân, đầu của đại Bồ tát,
Bồ tát liền suy nghĩ: Ta đem cho người kia, sẽ được tay, chân, đầu vô thượng vi
diệu của trời, người, A tu la v.v... Nên biết đây gọi là Bồ tát tinh tấn.
Nếu có người đến xin mắt, tai của đại Bồ tát, Bồ tát liền
nghĩ: Ta đem cho người kia, thì không còn mắt, tai. Nên biết đây gọi là Bồ tát
giải đãi. Nếu có người đến xin mắt, tai của đại Bồ tát, Bồ tát liền nghĩ: Ta bố
thí cho người kia thì sẽ được mắt, tai vô thượng giống như thắng trí của trời,
người, A tu la v.v... Nên biết đây gọi là Bồ tát tinh tấn, xa lìa nhị thừa,
thân cận Nhất thiết trí trí.
Nếu có người đến xin lóng đốt từng phần nơi thân của đại Bồ
tát, Bồ tát liền nghĩ: Nếu ta đem cho người kia thì bị thiếu các lóng đốt nơi
thân. Nên biết đây gọi là Bồ tát giải đãi. Nếu có người đến xin lóng đốt từng
phần nơi thân của đại Bồ tát, Bồ tát liền nghĩ: Ta đem cho người ấy, sẽ được
các lóng đốt thân phần Phật pháp Vô thượng, pháp Nhất thiết trí của trời,
người, A tu la v.v... Nên biết đây gọi là Bồ tát tinh tấn.
Nếu có người đến xin nhiều thứ của đại Bồ tát, Bồ tát liền
nghĩ: Người này xin rất nhiều, như vậy thì làm sao thực hiện đầy đủ ý nguyện
đó. Nên biết đây gọi là Bồ tát giải đãi. Nếu có người đến xin nhiều thứ của đại
Bồ tát, Bồ tát liền nghĩ: Xin như thế chưa là nhiều. Giả sử các loài hữu tình ở
hằng hà sa số thế giới, trong một ngày đều đến xin ta các thứ cần dùng, ta nên
dùng phương tiện tìm kiếm tiền tài, châu báu khắp nơi để cho họ đầy đủ; huống
chi chỉ bấy nhiêu đó mà không cho? Nên biết đây gọi là Bồ tát tinh tấn.
Vì sao? Vì nếu các đại Bồ tát muốn dẫn dắt hiển lộ vô lượng
Phật pháp, pháp Nhất thiết trí, chẳng phải dùng tinh tấn có hạn lượng bố thí mà
có thể dẫn dắt hiển lộ vô lượng Phật pháp, pháp Nhất thiết trí, cốt yếu là phải
mặc áo giáp, đội mũ tinh tấn bố thí vô lượng rộng lớn, mới có thể dẫn dắt hiển
lộ vô lượng Phật pháp, pháp Nhất thiết trí.
Ví như có người muốn qua biển lớn, điều cốt yếu trước hết là
phải chuẩn bị đầy đủ các thứ tư lương nhiều do tuần, hơn trăm do tuần, hơn ngàn
do tuần, hơn trăm ngàn do tuần, sau đó mới đi. Chúng đại Bồ tát cũng vậy, muốn
chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, cần phải trải qua vô lượng trăm ngàn
muôn ức kiếp, tu tập tư lương, sau đó mới chứng. Nếu đại Bồ tát nào suy nghĩ:
Ta có hạn lượng, có bến bờ đại kiếp cầu chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ
đề. Nên biết đây gọi là Bồ tát giải đãi. Nếu đại Bồ tát nào suy nghĩ: Ta không
giới hạn số lượng, không giới hạn bến bờ đại kiếp cầu chứng quả vị Vô Thượng
Chánh Đẳng Bồ đề. Nên biết đây gọi là Bồ tát tinh tấn.
Bấy giờ, Mãn Từ Tử bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ tát tinh tấn như thế đâu gọi là
khó?
Thế Tôn dạy:
- Ngươi cho rằng chúng đại Bồ tát tinh tấn như thế chẳng
phải là khó sao?
Mãn Từ Tử bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ tát tinh tấn như thế, con cho
rằng chẳng phải khó. Vì sao? Vì Phật thuyết các pháp đều như huyễn, cảm thọ vui
buồn... và các điều dẫn đến sự cảm thọ khác đều như huyễn, Bồ tát đã thông đạt
thật tánh các pháp như thế thì tinh tấn có gì khó?
Thế Tôn bảo Mãn Từ Tử:
- Nên biết, chúng đại Bồ tát tuy
biết các pháp đều là việc như huyễn, nhưng vẫn phát khởi tinh tấn thân tâm, an
trụ tinh tấn Ba la mật, cầu đại Bồ đề thường không ngưng nghỉ. Do đó, tinh tấn
như vậy rất là khó đối với chúng đại Bồ tát.
Mãn Từ Tử liền bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Thật kỳ lạ. Bạch Thiện Thệ! Thật hi hữu.
Khéo thuyết tinh tấn rất khó của chúng đại Bồ tát. Nên biết chúng đại Bồ tát có
thể làm những việc khó. Tuy biết các pháp hoàn toàn vô sở hữu nhưng vẫn cầu quả
vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, vì muốn thuyết cho vô biên các loài hữu tình, chấm
dứt Chánh pháp vô trí. Nhưng các pháp vô trí thật vô sở hữu, cũng không thật,
chấp vô trí là vì ngã và ngã sở, cũng không có hữu tình nghĩ như vầy: Đây là
ngã và ngã sở chơn thật.
Như vậy, vô trí là do
nhân duyên hòa hợp cho nên sanh mà thật không sanh; duyên xa lìa cho nên diệt
mà thật không diệt.
Đại Bồ tát tuy biết như thế nhưng tâm không thối chuyển, đại
Bồ tát này an trụ tinh tấn Ba la mật. Nên biết đây gọi là Bồ tát tinh tấn.
Nếu đại Bồ tát nghĩ như vầy: Các pháp đều Không, bây giờ ta phải làm sao phát khởi tinh tấn Ba
la mật? Nên biết đây gọi là Bồ tát giải đãi. Nếu đại Bồ tát nghĩ như vầy: Vì
tất cả pháp hoàn toàn Không, cho nên ta cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề,
hiểu rõ các pháp là Không, thuyết cho hữu tình khiến cho họ thoát các khổ sanh
tử trong năm đường. Nên biết đây gọi là Bồ tát tinh tấn.
Nếu đại Bồ tát nghĩ như vầy: Sanh tử không ngằn mé, ta đâu
có thể làm cho họ đều được diệt độ. Nên biết đây gọi là Bồ tát giải đãi. Nếu
đại Bồ tát nghĩ như vầy: Sanh tử vô thủy nhưng có chấm dứt, sao ta lại không
làm cho họ diệt độ. Giả sử tinh tấn cầu đại Bồ đề dù từ vô thỉ đến nay đã trải
qua nhiều kiếp số, sau đó mới chứng, ta cũng cầu huống chi không trải qua nhiêu
kiếp số. Lại nghĩ: Các Bồ tát ưa thích tu tập tác ý tương ưng với Nhất thiết
trí trí, như lúc phát tâm thời gian trôi qua thấm thoát một ngày, nửa tháng,
một tháng, một năm, hai năm v.v... mà vẫn không hay không biết. Nếu các Bồ tát
ưa thích tu tập bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát nhã Ba la
mật, làm cho tâm thanh tịnh hoàn toàn chẳng có suy nghĩ. Hiểu rõ bao nhiêu ngày
đêm, nửa tháng, một tháng, một năm, hai năm v.v... đã qua. Vì vậy, việc cầu Bồ
đề rất dễ đắc, không nên sợ hãi thời gian dài mà càng tinh tấn. Nên biết đây
gọi là Bồ tát tinh tấn.
Ví như trưởng giả cầu nhiều của cải, ngày đêm siêng năng suy
nghĩ tìm phương tiện, thường nghĩ: Phải cần thời gian bao lâu, ta mới được
nhiều của cải cho thỏa mãn sở nguyện. Do đó không rảnh để mong cầu việc uống
ăn.
Đại Bồ tát cũng vậy, muốn cầu sáu pháp Ba la mật để tâm được
thanh tịnh, nên tinh cần tu tập tác ý tương ưng với Nhất thiết trí trí, như vừa
mới phát tâm đã qua ngày đêm, nửa tháng, một tháng, một năm, hai năm v.v...,
thường suy nghĩ: Chừng nào ta sẽ được vật báu Nhất thiết trí lợi ích cho hữu
tình?
Khi ấy, Mãn Từ Tử liền bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Các Bồ tát mặc áo giáp đại tinh tấn như tinh
cần cầu báu công đức Vô thượng của Phật, làm lợi ích hữu tình. Đúng thật như
Thế Tôn thường thuyết: Tất cả Bồ tát có thể làm những việc khó làm.
Phật bảo Mãn Từ Tử:
- Ta xem tất cả thế gian, trời, người v.v... không đầy đủ
công đức hiếm có như các đại Bồ tát, ngoại trừ Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác.
Khi ấy, Mãn Từ Tử bèn rời khỏi tòa đứng dậy, chệch y che vai
bên trái, gối phải quỳ chấm đất, chắp tay cung kính, bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Các loài hữu tình ở Đông, Tây, Nam, Bắc, bốn
góc, trên, dưới, vô biên thế giới trụ Bồ tát thừa. Ai chưa phát tâm Vô thượng
Bồ đề nguyện mau chóng phát tâm. Ai đã phát tâm Vô thượng Bồ đề nguyện cho vĩnh
viễn không thối chuyển. Nếu ai đối với quả vị Vô thượng Bồ đề không thối
chuyển, thì nguyện cho mau viên mãn Nhất thiết trí trí.
Phật hỏi Mãn Từ Tử:
- Ngươi quán nghĩa nào mà nguyện các Bồ tát mau được viên
mãn Nhất thiết trí trí?
Mãn Từ Tử bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu không có Bồ tát, thì không có chư Phật
xuất hiện thế gian. Nếu không có chư Phật xuất hiện thế gian, thì không có
chúng Bồ tát và Thanh văn. Cần có Bồ tát tu Bồ tát hạnh mới có chư Phật xuất
hiện thế gian. Vì có chư Phật xuất hiện thế gian mới có chúng Bồ tát và Thanh
văn.
Ví như cây lớn do có gốc thân nên có nhánh lá. Do có nhánh
lá nên có hoa quả. Do có hoa quả nên lại sanh cây lớn. Như vậy, thế gian do có
Bồ tát nên có chư Phật xuất hiện thế gian. Do có chư Phật xuất hiện thế gian
nên có chúng Bồ tát và Thanh văn. Do có Bồ tát tu Bồ tát hạnh, lại có Như Lai
Ứng Chánh Đẳng Giác xuất hiện thế gian làm lợi ích lớn.
Phật khen Mãn Từ Tử:
- Lành thay! Lành thay! Đúng như lời thầy nói.
Khi ấy, Phật bảo A Nan Đà:
- Ngươi nên thọ trì tu tinh tấn Ba la mật như áo giáp tinh
tấn mà các chúng Bồ tát đã mặc, đừng để quên mất.
A Nan Đà bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Con đã thọ trì tu tinh tấn Ba la mật như áo
giáp tinh tấn của các chúng Bồ tát đã mặc, chắc chắn không bao giờ quên mất.
Khi đức Bạc già phạm thuyết Kinh này, cụ thọ Mãn Từ Tử, cụ
thọ Xá Lợi Tử, cụ thọ A Nan Đà và các chúng Thanh văn, Bồ tát cùng tất cả trời,
rồng, Dược xoa, A tu la v.v... nghe Phật thuyết đều rất vui mừng, tín thọ phụng
hành.
Thích nghĩa:
(1). Ba học hay gọi là ba thứ học.
Có hai loại: 1- Tam hữu lậu học, và 2- Tam vô lậu học. Tuy Kinh không nói rõ
loại nào, nhưng Kinh nói về tinh tấn Ba la mật của Bồ tát, nên có thể hiểu Kinh
muốn đề cập đến Tam vô lậu học. Tuy nhiên, chúng tôi thích nghĩa cả hai:
1- Tam hữu lậu học
còn gọi là tam tuệ, là cái học của thế nhân: Văn tư tu. Văn tuệ là đọc nghe, Tư
tuệ là hỏi tư duy, Tu tuệ là học. Nhờ nghe, hỏi và học mà có kiến thức. Từ điển
Phật Quang giải thích rằng: Phạm: Tisra# prajĩà#.
Chỉ cho 3 thứ tuệ có khả năng phân biệt sự lý các pháp. Đó là: 1. Văn tuệ
(Phạm:Zrutamayì prajĩà): Tuệ do nghe từ 3 tạng 12 phần giáo hoặc từ thiện tri
thức mà biết; tuệ này có khả năng sinh ra Thánh tuệ vô lậu, vì thế gọi là Văn
sở thành tuệ (tuệ do chỗ nghe mà thành). Đây là tuệ do Thanh văn thành tựu
được. 2. Tư tuệ (Phạm: Cintàmayì prajĩà): Thánh tuệ vô lậu sinh ra từ sự tư duy
về đạo lý đã nghe, đã thấy. Tuệ này do Duyên giác thành tựu. 3. Tu tuệ (Phạm:
Bhàvanàmayì prajĩà): Thánh tuệ vô lậu nương vào sự tu tập mà phát sinh; tuệ này
do Bồ tát thành tựu được. Trong Tam tuệ thì Văn tuệ là nhân, nếu chúng sinh thụ
trì chuyển đọc, truyền bá rốt ráo các Kinh tạng thì phát sinh Tuệ; nương theo
Văn tuệ này thì phát sinh Tư tuệ; nương vào Tư tuệ mà có Tu tuệ. Đây là tiến
trình đoạn trừ phiền não, chứng đắc Niết bàn, giống như nương vào hạt giống mà
nảy mầm, từ mầm mà sinh ra thân, từ thân chuyển sinh ra cành lá, hoa quả. Cho
nên 2 tuệ trước là tán trí, chỉ là trợ duyên để phát khởi Tu tuệ; Tu tuệ thì là
định trí, có đủ tác dụng đoạn hoặc chứng lý. Nếu nói theo giai vị của Bồ tát
Đại thừa thì Thập trụ được Văn tuệ, Thập hành được Tư tuệ và Thập hồi hướng
được Tu tuệ. Còn nói theo giới hệ của Tì đàm thì Dục giới có Văn tuệ và Tư tuệ,
vì Dục giới là cõi bất định, không phải nơi tu hành, cũng không phải nơi lìa
nhiễm, nếu khi muốn tu thì rơi vào Tư tuệ, cho nên Dục giới không có tuệ do tu
mà thành. Sắc giới có Văn tuệ và Tu tuệ, còn Vô sắc giới thì chỉ có tuệ do tu
mà thành; vì Sắc giới và Vô sắc giới là các cõi định, là những nơi tu hành,
cũng là những nơi lìa nhiễm, nếu khi muốn tư duy thì đã rơi vào trong tu rồi,
cho nên ở Sắc giới và Vô sắc giới không có tuệ do Tư mà thành. Hơn nữa, ở cõi
Vô sắc không dùng căn tai để lắng nghe Phật pháp, cho nên không có tuệ do Văn
mà thành.
2- Tam vô lậu học
là cái học của bậc xuất thế gọi là Giới, định và Huệ. Từ
điển Phật Quang giải thích theo hai cách:
1/. Tam
học (Phạm: Tisra# zikwà#. Pàli: Tisso
sikkhà). Cũng gọi Tam thắng học. Gọi đủ: Giới định tuệ tam học. Ba môn giới,
định, tuệ mà người học Phật phải tu. 1. Tăng giới học (Phạm: Adhizìla) cũng gọi
Giới học, Tăng thượng giới học: Giới có năng lực tu thiện, đồng thời ngăn ngừa
các nghiệp ác do thân, khẩu, ý tạo ra. 2. Tăng tâm học (Phạm: Addhicitta), cũng
gọi Định học, Tăng ý học, Tăng thượng ý học, Tăng thượng tâm học: Định có năng
lực nhiếp tâm tán loạn, diệt trừ các niệm tạp nhạp, thấy tính ngộ đạo. 3. Tăng
tuệ học (Phạm: Adhiprajĩà), cũng gọi Tuệ học, Tăng thượng tuệ học: Tuệ có năng
lực hiển phát bản tính, đoạn trừ phiền não, thấy thực tướng của chư Phật. Ba
môn học này là giềng mối thực hành của Phật giáo, tức nhờ giới sinh định, do
định phát ra tuệ. Vì thế, Kinh Bồ tát địa trì quyển 10 đem Lục độ phối hợp với
Tam học, tức 4 Ba la mật: Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến là Giới học,
Thiền Ba la mật là Định học và Bát nhã Ba la mật là Tuệ học. [X. Kinh Đại Bát
Niết Bàn Q.17, (bản Bắc); Kinh Bản sự Q.6; Luật Tứ phần Q.58; luật Ma ha tăng
kỳ Q.2; Đại thừa nghĩa chương Q.10]. (xt. Giới Định Tuệ).
2/. Tam
Học. Chỉ cho Hữu học, Vô học và Phi hữu
học phi vô học. Cứ theo sự giải thích trong luận Đại trí độ quyển 18 và luận
Câu xá quyển 24 thì: 1. Hữu học (Phạm: Zaikwa): Chỉ cho Tứ hướng tam quả. Còn
Hữu học trí thì chỉ cho Khổ pháp trí nhẫn, cho đến Kim cương tam muội tuệ trong
Vô ngại đạo thứ 9 của A la hán hướng. Hữu học pháp chỉ cho Ngũ uẩn của Hữu học
thuộc vô lậu hữu vi. 2. Vô học (Phạm: Asaikwa): Chỉ cho quả A la hán. Vô học
trí thì chỉ cho giải thoát trí thứ 9 của A la hán. Còn Vô học pháp thì chỉ cho
Ngũ uẩn của Vô học thuộc Vô lậu hữu vi. 3. Phi học phi vô học (Phạm:
Naivazaikwa-nàzaikwa): Chỉ cho dị sinh (tức phàm phu). Phi học phi vô học trí
thì chỉ cho pháp bất tịnh của Can tuệ địa, an na ban na, tứ niệm xứ thuộc Dục
giới hệ, noãn pháp, đính pháp, nhẫn pháp, và thế đệ nhất pháp... Còn phi học
phi vô học pháp thì chỉ cho Ngũ uẩn hữu lậu và pháp vô vi.
(2). Tứ đế hay Tứ Thánh đế
chúng ta thường đọc qua rất nhiều lần trong suốt 600 quyển Đại Bát Nhã, nhưng
chúng ta không được giải thích rõ như đoạn Kinh ghi đậm nét như trên. Phật Học
Tinh Tuyển giải thích rất tỉ mỉ, nên chúng tôi trích lại để cùng học: (s:
catur-ārya-satya, p: catu-ariya-sacca, 四諦): Đế (s: satya, p: sacca, 諦) ở đây nghĩa là chân thật, bất hư, chân lý. Tứ đế chỉ cho 4
loại chân lý đúng đắn, không sai lầm, không hư dối, gồm: Khổ (苦), Tập (集),
Diệt (滅)
và Đạo (道);
còn gọi là Tứ Chân Đế (四眞諦); 4 chân lý này do
bậc Thánh thấy được nên gọi là Tứ Thánh Đế (四聖諦),
Tứ Diệu Đế (四妙諦). Đại thể, Tứ đế là
Phật Giáo dùng để giải thích hiện tượng vũ trụ theo quy nạp của thuyết Thập Nhị
Nhân Duyên (s: dvādaśāṅga-pratītya-samutpāda, p: dvādasaṅga-paṭicca-samuppāda, 十二因緣), là đại
cương giáo nghĩa của Phật Giáo Nguyên Thủy, là bài thuyết pháp đầu tiên của đức
Phật. Theo thứ tự, 4 chân lý này là Khổ Thánh Đế (苦聖諦), Khổ Tập Thánh Đế (苦集聖諦),
Khổ Diệt Thánh Đế (苦滅聖諦), Khổ Diệt Đạo Thánh
Đế (苦滅道聖諦);
hoặc Khổ Thánh Đế (苦聖諦), Khổ Tập Đế (苦習諦),
Khổ Diệt Đế (苦滅諦), Khổ Diệt Đạo Thánh
Đế (苦滅道聖諦);
hay Khổ Đế (苦諦), Khổ Tập Đế (苦集諦),
Khổ Tận Đế (苦盡諦), Khổ Xuất Yếu Đế (苦出要諦);
hoặc Khổ Thánh Đế (苦聖諦), Tập Thánh Đế (集聖諦),
Chơn Thánh Đế (眞聖諦), Đạo Thánh Đế (道聖諦).
Trong đó, Khổ và Tập biểu thị quả và nhân của thế giới mê lầm; Diệt và Đạo biểu
thị quả và nhân của thế giới chứng ngộ; nghĩa là quả của thế gian Hữu Lậu là
Khổ Đế, quả của xuất thế gian Vô Lậu là Diệt Đế; nhân của thế gian Hữu Lậu là
Tập Đế, quả của xuất thế gian Vô Lậu là Đạo Đế. Theo Trung A Hàm Kinh (中阿含經,
Taishō Vol. 1, No. 26) quyển 7, Phân Biệt Thánh Đế Kinh (分別聖諦經),
A Tỳ Đạt Ma Đại Tỳ Bà Sa Luận (阿毘達磨大毘婆沙論, Taishō Vol. 27, No. 1545) quyển
77, Đại Thừa A Tỳ Đạt Ma Tạp Tập Luận (大乘阿毘達磨雜集論, Taishō Vol. 31, No. 1606) quyển 7,
v.v., cụ thể Tứ đế là:
1- Khổ Đế (s: duḥkha-satya, p: dukkha-sacca, 苦諦), còn gọi là Khổ Thánh Đế (s:
duḥkhārya-satya, 苦聖諦); khổ tức chỉ trạng thái bức bách
thân tâm khổ não; mọi sự vật trên thế gian, dù hữu tình hay chẳng phải hữu
tình, đều phải chịu khổ; hết thảy thế gian bản chất là khổ. Khổ Đế tức là chân
lý về cái khổ thật sự liên quan đến vấn đề sanh tử.
2- Tập Đế (s: samudaya-satya, p: samudaya-sacca, 集諦), còn gọi là Tập Thánh Đế (s:
samudayārya-satya, 集聖諦); tập đây nghĩa là sự thật về tất
cả phiền não hoặc nghiệp thật sự có thể chiêu tập quả của khổ sanh tử trong Ba
Cõi. Tập Đế là chân lý liên quan đến sự sanh khởi cũng như căn nguyên các nỗi
khổ của con người trên cõi đời này.
3- Diệt Đế (s: nirodha-satya, p: nirodha-sacca, 滅諦), còn gọi là Diệt Thánh Đế (s: nirodhārya-satya, 滅聖諦); diệt ở đây nghĩa là tịch diệt, vắng lặng, thật sự đoạn trừ căn bản của khổ là ái dục
thì sẽ được diệt khổ, có thể nhập vào cảnh giới Niết Bàn. Diệt Đế là chân
lý liên quan đến sự diệt tận Khổ và Tập.
4-
Đạo Đế (s: mārga-satya, p: magga-sacca, 道諦), còn gọi là Đạo Thánh Đế (s:
mārgārya-satya, 道聖諦);
đạo nghĩa là có thể thông suốt, tức là con đường diệt khổ, như Chánh Kiến (正見),
Chánh Tư Duy (正思惟),
v.v…, của Bát Chánh Đạo (s:
āryāṣṭāṇga-mārga, p: ariyāṭṭhaṅgika-magga, 八正道); nếu nương vào đây mà tu hành, tức có thể
siêu thoát hai sự thật Khổ và Tập, đạt đến cảnh giới Niết Bàn vắng lặng. Đạo Đế
là chân lý liên quan đến Bát Chánh Đạo ấy.
Sau khi thành đạo, đức Phật thuyết
Tứ đế này cho 5 vị Tỳ Kheo, được xem như là lần chuyển Pháp Luân đầu tiên. Đây
là giáo nghĩa căn bản nhất trong các giáo lý Phật Giáo, là phương pháp duy nhất
để giải thoát khỏi sanh tử luân hồi. Về sau, Tứ đế được xem như là pháp của
Thanh Văn; ngoại trừ Phật Giáo Nguyên Thủy thuyết về giáo lý này, trong các
Kinh điển của Phật Giáo Đại Thừa cũng có đề cập đến giáo thuyết này, tỷ dụ như
Thắng Man Sư Tử Hống Nhất Thừa Đại Phương Tiện Phương Quảng Kinh (勝鬘獅子吼一乘大方便方廣經, Taishō Vol. 12, No.
353), Bắc Bản Đại Bát Niết Bàn Kinh (大般涅槃經, Taishō Vol. 12, No. 374)
quyển 12, 13, v.v…, không những có giải thích theo quan điểm Đại Thừa mà còn
phát huy áo nghĩa của Tứ đế nữa. Về tự tánh của Tứ đế, các bộ phái đều có những
dị thuyết. Căn cứ A Tỳ Đạt Ma Đại Tỳ Bà Sa Luận quyển 77, các luận sư của A Tỳ
Đạt Ma (s: Abhidharma, 阿毘達磨)
lấy Ngũ Uẩn (s: pañca-skandha, p: pañca-khandha, 五蘊) là Khổ Đế; nhân của Hữu Lậu là Tập Đế; pháp Trạch Diệt (s:
pratisaṃkhyā-nirodha, p: patisaṅkhā-nirodha, 擇滅)
là Diệt Đế; pháp Học, Vô Học là Đạo Đế. Về thứ tự hiện quán của Tứ đế,
theo A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Luận (阿毘達磨俱舍論, Taishō Vol. 29, No. 1558) quyển
22, A Tỳ Đạt Ma Đại Tỳ Bà Sa Luận quyển 78 cho biết rằng trước quán Khổ Đế, kế
đến quán Tập Đế, Diệt Đế, Đạo Đế. Căn cứ vào Hiển Dương Thánh Giáo Luận (顯揚聖敎論, Taishō Vol. 31, No. 1602)
quyển 7 Trung, Đại Thừa Phật Giáo lấy nội dung của Tứ đế diễn thành 8 loại, gọi
là Bát Đế (八諦, Tám Đế); gồm Hành
Khổ Đế (行苦諦), Hoại Khổ Đế (壞苦諦),
Khổ Khổ Đế (苦苦諦), Lưu Chuyển Đế (流轉諦),
Tạp Nhiễm Đế (雜染諦, tương đương với Khổ Đế và Tập Đế),
Lưu Tức Đế (流息諦,
tương đương với Diệt Đế), Thanh Tịnh
Đế (清淨諦, tương đương với Diệt Đế và Đạo Đế),
Chánh Phương Tiện Đế (正方便諦, tương đương với Đạo Đế).
Bên cạnh đó, Đại Sư Trí Khải của Thiên Thai Tông căn cứ vào thuyết của Thắng
Man Sư Tử Hống Nhất Thừa Đại Phương Tiện Phương Quảng Kinh, Đại Bát Niết Bàn
Kinh lại lập ra 4 loại Tứ đế có sâu cạn bất đồng, tương đương với 4 giáo tướng
Tạng, Thông, Biệt, Viên; gồm: 1- Sanh Diệt Tứ đế (生滅四諦),
do Tạng Giáo (藏敎) thuyết ra, tùy theo
việc sanh diệt Hữu Vi mà quán nhân quả của Tứ đế là thật có sanh, diệt. 2- Vô
Sanh Tứ đế (無生四諦), hay Vô Sanh Diệt Tứ
đế (無生滅四諦),
do Thông Giáo (通敎) thuyết ra, tùy theo
nhân duyên các pháp tức là Không, Vô Sanh mà quán nhân quả mê ngộ của Tứ đế,
đều là không vô vốn chẳng có sanh diệt. 3- Vô Lượng Tứ đế (無量四諦),
do Biệt Giáo (別敎) thuyết ra, tùy theo
trong cõi ngoài cõi với vô số sai biệt, vô số nhân, mà Tứ đế cũng có vô lượng
các tướng. 4- Vô Tác Tứ đế (無作四諦), do Viên Giáo (圓敎)
thuyết ra, tùy theo đương thể của mê ngộ tức là thật tướng, mà quán sự đối lập
mâu thuẫn giữa mê với ngộ tức chẳng phải mâu thuẫn, và tất cả đều là thật
tướng. Ngoài ra, Pháp Tướng Tôn lấy Diệt Đế lập ra Ba Diệt Đế, gồm: Hữu Tự Tánh
Diệt (有自性滅), Nhị Thủ Diệt (二取滅) và Bản Tánh Diệt (本性滅); đối với Đạo Đế thì
lập ra Ba Đạo Đế, gồm: Biến Tri Đạo (徧知道), Vĩnh Đoạn Đạo (永斷道)
và Tác Chứng Đạo (作證道).
Lược giải:
1. Bồ tát phải dùng phương tiện gì để an trụ tinh tấn Ba la
mật?
Muốn chứng quả vị Vô Thượng Chánh
Đẳng Bồ đề, từ lúc mới phát tâm Bồ tát phải nghĩ như vầy: Sở hữu của ta hoặc
thân hoặc tâm đều không nên tự tại mà chuyển, mà phải tùy thuận lợi ích của
người khác, tất cả đều phải vì hữu tình mà thành tựu đầy đủ.
Các đại Bồ tát như thế là nương vào
tinh tấn Ba la mật, vì hữu tình nên làm việc đáng làm. Các đại Bồ tát đối với
tinh tấn Ba la mật nên trụ như thế. Giống như ngựa khôn, không muốn làm cho chủ
mệt nhọc, tức giận, nên không chạy nhảy theo ý mình mà chạy theo ý muốn của
chủ, dù bị hành hạ hay ngược đãi. Cũng vậy, đại Bồ tát muốn hành tinh tấn Ba la
mật, không nên hành động tùy theo ý mình, phải theo ý thích người khác để làm
lợi ích, nhiếp hộ người kia, để họ không khởi phiền não ác nghiệp với ta. Đại
Bồ tát như vậy là thành tựu tinh tấn Ba la mật, nhiếp hộ tâm người khác, tùy
theo ý của người khác làm các việc lợi ích an lạc. Đó là đại Bồ tát an trụ tinh tấn Ba la mật.
2. Thế nào là an trụ tinh tấn Ba la mật?
- Nếu đại Bồ tát vì muốn mau chứng
đắc Nhất thiết trí trí, làm lợi ích lớn cho các hữu tình, thường nên tinh cần
tu học bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật, tâm
không thối chuyển. Đại Bồ tát này an trụ tinh tấn Ba la mật.
- Nếu đại Bồ tát vì muốn mau chứng
đắc Nhất thiết trí trí, làm lợi ích lớn cho các hữu tình, thường nên tinh cần
tu học, quán 18 pháp Không, các pháp chơn như, pháp giới cho tới bất tư nghị
giới, tứ Thánh đế, thập nhị nhân duyên, 37 pháp trợ đạo, tam giải thoát môn,
tám thứ đệ định, mười biến xứ, Như Lai mười lực, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu
biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả v.v… nói chung là tất cả các
pháp mầu Phật đạo, tâm không thối chuyển, tức đại Bồ tát này an trụ tinh tấn Ba
la mật.
- Nếu đại Bồ tát vì muốn làm cho cõi
Phật thật trang nghiêm thanh tịnh, thì nên ở lâu trong sanh tử, tu học các công
đức, tâm không thối chuyển. Đó là đại Bồ tát này an trụ tinh tấn Ba la mật.
- Nếu đại Bồ tát muốn giúp cho một
hữu tình ra khỏi địa ngục, sanh ở cõi lành mà phải chịu nhiều khổ ải trong vô
số kiếp, Bồ tát vẫn hoan hỷ lãnh chịu. Bồ tát này như vậy là an trụ tinh tấn Ba
la mật. Nếu đại Bồ tát nào nghe những việc như thế, tâm sanh khiếp nhược, không
muốn lãnh thọ, nên biết đây gọi là Bồ tát giải đãi tức xa lìa an trụ tinh tấn
Ba la mật.
3. Thế nào là tinh tấn? Thế nào giải đãi?
Tu tập, học hành kiên nhẫn với quyết
tâm dũng mãnh… không kể là công việc lớn nhỏ, nhiều ít, khó dễ hay lâu mau. Nếu
Bồ tát luôn nghĩ tới thời gian, số kiếp, tâm phân biệt, giới hạn… tuy rất dõng
mãnh thường siêng tu học bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát nhã
Ba la mật, nhưng cũng gọi là Bồ tát giải đãi. Nếu đại Bồ tát suy nghĩ như vầy:
Dù trải qua vô lượng, vô biên đại kiếp, nỗ lực dõng mãnh thường xuyên tu học bố
thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật mới được viên
mãn, mới chứng được quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, ta nhất định không sanh
tâm thối lui. Nên biết đây gọi là Bồ tát tinh tấn, an trụ tinh tấn Ba la mật,
mau chứng đắc Nhất thiết trí trí.
Nếu đại Bồ tát suy nghĩ kiếp số mà giới hạn, phân biệt, tuy rất dõng mãnh thường
siêng năng tu học trí 18 pháp Không, 12 pháp chân như, 12 duyên khởi theo hai
chiều thuận nghịch, siêng năng tu học trí Thánh đế khổ, hoặc khổ, hoặc vô
thường, hoặc Không, hoặc vô ngã; trí Thánh đế tập, hoặc nhân, hoặc tập, hoặc
sanh, hoặc duyên; trí Thánh đế diệt, hoặc diệt, hoặc tĩnh, hoặc diệu, hoặc ly;
trí Thánh đế đạo, hoặc đạo, hoặc như, hoặc hành, hoặc xuất, tu học bốn tĩnh lự,
bốn vô lượng, bốn định vô sắc, 37 pháp trợ đạo, tam giải thoát môn, tám giải
thoát, tám thắng xứ, chín định thứ lớp, mười biến xứ; siêng năng tu học pháp
môn Đà la ni, pháp môn Tam ma địa, tu học các Bồ tát địa và các trí địa, năm loại
mắt, sáu phép thần thông, Như Lai mười lực, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết
thông suốt; siêng năng tu học đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp
Phật bất cộng; siêng năng tu học pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; tu học
Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí; siêng năng tu học tất cả
Bồ tát hạnh... nhưng cũng gọi là Bồ tát giải đãi. Nếu đại Bồ tát suy nghĩ như
vầy: Dù trải qua vô lượng, vô biên đại kiếp, nỗ lực dõng mãnh thường xuyên tu
học tất cả các pháp mầu Phật đạo nói trên, mới được viên mãn, mới có thể chứng
đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, ta nhất định không sanh tâm thối chuyển.
Nên biết đây gọi là Bồ tát tinh tấn, an trụ tinh tấn Ba la mật, mau chứng đắc
Nhất thiết trí trí.
Nếu đại Bồ tát suy nghĩ: Giả sử hằng
hà sa số đại kiếp thu lại thành một ngày, rồi tích lũy ngày đêm lại thành đại
kiếp, dù trải qua vô lượng đại kiếp như vậy tu Bồ tát đạo mới chứng được quả vị
Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, thì trong thời gian đó tâm cũng không thối chuyển.
Nên biết đây gọi là Bồ tát tinh tấn.
Nếu Bồ tát khi nghe thuyết tướng
tinh tấn như thế, bộc lộ sự vui mừng, tâm không khiếp sợ, nên biết đây gọi là
Bồ tát tinh tấn. Nếu Bồ tát khi nghe thuyết tướng tinh tấn như thế, tâm thối
lui, nên biết đây gọi là Bồ tát giải đãi, chẳng thể chứng Nhất thiết trí trí.
Nếu không chứng nổi Nhất thiết trí trí thì làm sao thành thục hữu tình, thanh
tịnh Phật độ.
---o0o---
Đến đây chấm dứt phần mười bốn,
(Hội thứ XIV).
Tinh tấn là một đức tánh cần thiết
đối với Đời cũng như Đạo. Người lười biếng, giải đãi không thể nào thành công.
Nếu sống cuộc đời thường, không có nghị lực, không có chí phấn đấu, không có
quyết tâm... thì không thể thăng tiến trên bước đường công danh sự nghiệp,
không thể tự giúp mình nói chi đến việc giúp ích nhân quần xã hội. Còn kẻ xuất
gia, không chịu thức khuya dậy sớm, tham thiền nhập định, tụng kinh niệm Phật,
nhất là không chịu hoằng dương chánh pháp, sống nương nhờ hột cơm manh áo của
đàn na thí chủ, biếng nhác qua ngày, không có tâm nguyện rộng lớn, tu hành hời
hợt thì tự độ đã khó nói chi đến độ tha.
Quyết tâm, nghị lực, ý chí, lòng
nhiệt thành là năng lượng, là sức mạnh của tinh tấn để đưa mình, người từ
bờ mê đến bến giác. Giống như chiếc phản lực cơ, cần năng lượng và sức tống để
tạo sức mạnh giúp nó rời phi đạo (take off). Nếu không có năng lượng tốt, không
có sức tống mạnh, chiếc phản lực chạy mãi trên phi đạo và không bao giờ cất
cánh nổi. Năng lượng và sức tống cũng giúp cho chiếc phản lực giải phóng áp lực
của không khí, phá bức tường âm thanh để bay lượn tự do trên khoảng không gian
vô tận. Năng lượng và sức tống chính là tinh tấn. Vì vậy, đức Phật trước khi
nhập Niết bàn nhắn nhủ các đệ tử thiết tha như sau:
“Hỡi các người thân yêu của ta, hãy
tinh tấn lên, tinh tấn lên để giải thoát!”
--- o0o ---