PHẨM “TƯỚNG
KHÔNG”
Phần sau
quyển 515, cho đến phần đầu quyển 517, Hội thứ III, ĐBN.
Gợi ý:
Phẩm “Tướng
Không” cũng giống như một số phẩm khác thuộc Hội thứ III, thường nhập nhiều
phẩm của Hội thứ I hay Hội thứ II thành một phẩm lớn. Phẩm “Tướng Không” này
tương đương với ba phẩm của Hội thứ II là: 1. Phẩm “Nghĩa Thẳm Sâu”, 2. Phẩm
“Mộng Hành” và 3. Phẩm “Hạnh Nguyện” nhập lại. Chúng tôi cũng theo sự phân chia
này mà trình bày phẩm này thành ba đoạn, như sau:
Tóm lược:
1. Đoạn Kinh sau đây tương đương với phẩm “Giáo Nghĩa
Thẳm Sâu”,
phần cuối Q.449 đến hết Q.450, Hội thứ II, ĐBN.
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại bạch
Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ tát Bất thối
chuyển này thành tựu công đức hi hữu rộng lớn vô lượng, vô biên không thể nghĩ
bàn.
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như lời
ông nói! Vì sao? Vì đại Bồ tát này đã đạt được trí thù thắng vô lượng, vô biên,
không đồng hạng với Thanh văn và Độc giác. Trụ trong trí này sẽ phát khởi bốn
sự hiểu biết thông suốt thù thắng. Do bốn sự hiểu biết thông suốt này, trời,
người, A tu la v.v… ở thế gian không thể vấn nạn, khiến cho trí tuệ biện tài
của đại Bồ tát này cạn đi được.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Có thể trải qua hằng
hà sa số kiếp để tuyên thuyết các hành tướng trạng của đại Bồ tát Bất thối
chuyển mà Thế Tôn đã nói. Hoặc chỉ rõ các hành tướng trạng của đại Bồ tát Bất
thối chuyển đã thành tựu công đức thù thắng vô thượng. Cúi xin Như Lai Ứng
Chánh Đẳng Giác nói lại nghĩa lý sâu xa, khiến cho các đại Bồ tát an trụ trong
đó có thể hành bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật sớm được viên mãn. Có thể hành
pháp nội không cho đến pháp vô tánh tự tánh không mau được viên mãn. Có thể
hành chơn như cho cảnh giới bất tư nghì mau được viên mãn. Có thể hành Thánh đế
khổ, tập, diệt, đạo mau được viên mãn. Có thể hành bốn niệm trụ cho đến tám chi
Thánh đạo mau được viên mãn. Có thể hành bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô
sắc mau được viên mãn. Có thể tu hành tám giải thoát cho đến mười biến xứ mau
được viên mãn. Có thể hành pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện mau
được viên mãn. Có thể hành các bậc của đại Bồ tát mau được viên mãn. Có thể
hành tất cả pháp môn Đà la ni, pháp môn Tam ma địa mau được viên mãn. Có thể
hành năm loại mắt, sáu phép thần thông mau được viên mãn. Có thể hành mười lực
Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng mau được viên mãn. Có thể hành đại
từ, đại bi, đại hỷ, đại xả mau được viên mãn. Có thể hành ba mươi hai tướng,
tám mươi vẻ đẹp mau được viên mãn. Có thể hành pháp không quên mất, tánh luôn
luôn xả mau được viên mãn. Có thể hành Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất
thiết chủng trí mau được viên mãn. (Q.515,
ĐBN)
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Lành thay! Nay ông mới
có thể vì các chúng đại Bồ tát thỉnh hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về nghĩa
lý sâu xa, khiến cho các Bồ tát an trụ trong đó tu hành các công đức mau được
viên mãn.
Thiện Hiện
nên biết! Nghĩa lý sâu xa ấy là không, vô tướng, vô nguyện, vô tác, vô sanh, vô
diệt, lìa nhiễm, Niết bàn, chơn như, pháp giới, pháp tánh, thật tế. Tất cả
những pháp ấy là nghĩa lý sâu xa.
Thiện Hiện nên biết! Tất cả những
lời lẽ thù thắng mà Như Lai đã nói về nghĩa lý sâu xa này đều để chỉ rõ nghĩa
của Niết bàn là thậm thâm.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Chỉ có nghĩa của
Niết bàn là thậm thâm hay các pháp khác cũng gọi là thậm thâm?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Tất cả các pháp khác cũng gọi là thậm thâm. Đó là sắc uẩn cho đến
thức uẩn cũng gọi là thậm thâm. Nhãn xứ cho đến ý xứ cũng gọi là thậm thâm. Sắc
xứ cho đến pháp xứ cũng gọi là thậm thâm. Nhãn giới cho đến ý giới cũng gọi là
thậm thâm. Sắc giới cho đến pháp giới cũng gọi là thậm thâm. Nhãn thức giới cho
đến ý thức giới cũng gọi là thậm thâm. Nhãn xúc cho đến ý xúc cũng gọi là thậm
thâm. Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên
sanh ra cũng gọi là thậm thâm. Địa giới cho đến thức giới cũng gọi là thậm
thâm. Nhân duyên cho đến tăng thượng duyên cũng gọi là thậm thâm. Vô minh cho
đến lão tử cũng gọi là thậm thâm. Bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật cũng gọi là
thậm thâm. Pháp nội không cho đến pháp vô tánh tự tánh không cũng gọi là thậm
thâm. Chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì cũng gọi là thậm thâm. Nói rộng
ra, tất cả pháp Phật từ tứ Thánh đế cho đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề
cũng gọi là thậm thâm. (Q.515, ĐBN)
Bấy giờ, Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Vì sao sắc uẩn cũng gọi là thậm
thâm? Vì sao thọ, tưởng, hành, thức cũng gọi là thậm thâm? Nói rộng cho đến vì
sao quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề cũng gọi là thậm thâm?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Vì sắc uẩn như rất thậm thâm nên sắc uẩn cũng gọi là thậm thâm;
thọ, tưởng, hành, thức uẩn như rất thậm thâm nên thọ, tưởng, hành, thức uẩn
cũng gọi là thậm thâm. Nói rộng cho đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề như
rất thậm thâm nên quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề cũng gọi là thậm thâm.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Vì sao sắc uẩn như thậm thâm? Vì
sao thọ, tưởng, hành, thức uẩn như thậm thâm? Nói rộng cho đến vì sao quả vị Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề như thậm thâm?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Sắc uẩn như chẳng tức sắc uẩn, chẳng lìa sắc uẩn, vậy nên thậm thâm. Thọ tưởng hành thức uẩn như
chẳng tức thọ tưởng hành thức uẩn, chẳng lìa thọ tưởng hành thức uẩn, vậy nên
thậm thâm. Nói rộng, cho đến quả vị chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề như
chẳng tức chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, chẳng lìa chư Phật Vô Thượng
Chánh Đẳng Bồ đề, vậy nên thậm thâm.
Bấy giờ, Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Thật kỳ lạ! Phương
tiện nhiệm mầu vì đại Bồ tát Bất thối chuyển đem ví dụ khác về sắc uẩn để hiển
bày Niết bàn; đem ví dụ khác về thọ, tưởng, hành, thức uẩn để hiển bày Niết
bàn. Nói rộng cho đến đem ví dụ khác về quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của
chư Phật để hiển bày Niết bàn.
Bạch Thế Tôn! Thật kỳ lạ! Phương
tiện nhiệm mầu vì đại Bồ tát Bất thối chuyển đem ví dụ khác về tất cả pháp thế
gian, hoặc pháp xuất thế gian, hoặc cộng pháp, hoặc bất cộng pháp, hoặc pháp
hữu lậu, hoặc pháp vô lậu, hoặc pháp hữu tránh, hoặc pháp vô tránh, hoặc pháp
hữu tội, hoặc pháp vô tội, hoặc pháp hữu vi, hoặc pháp vô vi để hiển bày Niết
bàn.
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như lời
ông nói!
- Bạch Thế Tôn! Thật kỳ lạ! Với
phương tiện nhiệm mầu vì đại Bồ tát Bất thối chuyển mà Ngài đem ví dụ khác về
sắc uẩn để hiển bày Niết bàn; đem ví dụ khác về thọ, tưởng, hành, thức uẩn để
hiển bày Niết bàn. Nói rộng cho đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư
Phật để hiển bày Niết bàn.
Bạch Thế Tôn! Thật kỳ lạ! Với phương
tiện nhiệm mầu vì đại Bồ tát Bất thối chuyển, Ngài đã đem ví dụ khác về tất cả
pháp thế gian, hoặc pháp xuất thế gian, hoặc pháp cộng, hoặc pháp bất cộng,
hoặc pháp hữu lậu, hoặc pháp vô lậu, hoặc pháp hữu tránh, hoặc pháp vô tránh,
hoặc pháp có hữu tội, hoặc pháp vô tội, hoặc pháp hữu vi, hoặc pháp vô vi để
hiển bày Niết bàn.
- Thiện Hiện! Đối với nghĩa lý thâm
sâu này, các đại Bồ tát nên dựa vào nghĩa lý tương ưng với Bát Nhã thâm sâu,
suy nghĩ kỹ càng, so lường quán sát, nên nghĩ thế này: Ta nay phải trụ như Bát Nhã thâm sâu đã dạy. Nay ta phải học như Bát
Nhã thâm sâu đã nói.
(Phước đức của người thọ trì Bát Nhã so với người xa
lìa Bát Nhã)
- Thiện Hiện nên biết! Đối với nghĩa
lý thậm thâm như thế, đại Bồ tát có thể dựa vào nghĩa lý tương ưng với Bát Nhã
thâm sâu, suy nghĩ thật kỹ, quán sát so lường, như Bát Nhã đã dạy mà trụ, như Bát
Nhã nói mà học. Đại Bồ tát này do siêng năng tu học như vậy, do dựa vào Bát Nhã
thâm sâu chỉ khởi lên một tâm niệm mà còn có thể lãnh thọ vô số, vô lượng, vô
biên căn lành, vượt qua sanh tử luân hồi trong vô lượng kiếp, mau chứng quả vị
Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, huống chi thường tu Bát Nhã không gián đoạn, thường
trụ tác ý tương ưng Bồ đề.
Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ tát này
nương theo nghĩa lý thâm sâu của Bát Nhã suy nghĩ tu học mà được giải thoát và
có thể ngăn chận được những lỗi lầm trong khi tu tập. Thế nên, Bồ tát nương vào
Bát Nhã thâm sâu tinh tấn tu học, mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Thiện Hiện nên biết! Nếu đại Bồ tát an trụ vào Bát Nhã thậm thâm đã thuyết
trải qua một ngày đêm thì đạt được công đức. Nếu công đức này có hình tướng thì
hằng hà sa số Tam thiên đại thiên thế giới cũng không thể dung chứa hết. Giả sử
có các công đức khác nhiều như cát sông Hằng, đầy dẫy cả thế giới Phật tam
thiên đại thiên, đem so sánh với công đức này thì trăm phần không bằng một,
ngàn phần không bằng một, cho đến không bằng một mảy lông. (Q.515, ĐBN)
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát lìa Bát Nhã thậm thâm, trải qua hằng hà
sa số đại kiếp cúng dường Tam bảo: Phật Pháp Tăng. Ý ngươi nghĩ sao? Nhờ nhân
duyên này mà đại Bồ tát ấy đạt được phước đức nhiều chăng?
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch
Thiện Thệ! Rất nhiều! Vị ấy được phước vô lượng, vô số, vô biên không thể nghĩ
bàn, không thể tính đếm được. (Q.516,
ĐBN)
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Đúng vậy! Nhưng nếu
đại Bồ tát y vào Bát Nhã thậm thâm
mà lời nói đi đôi với việc làm suốt cả ngày đêm, công đức đạt được nhiều hơn
công đức của người kia vô lượng, vô biên. Vì sao? Vì Bát Nhã rất thâm sâu, đó
là cỗ xe của đại Bồ tát. Vì các đại Bồ tát nương vào cỗ xe này mà mau đạt đến
quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, chuyển pháp luân vi diệu, độ tất cả hữu
tình.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát lìa Bát Nhã thậm thâm, giả sử trải qua
hằng hà sa số đại kiếp cúng dường bậc Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, Ứng cúng (ý nói Thanh văn), Độc giác, Bồ tát, Như
Lai. Ý ngươi nghĩ sao? Nhờ sự cúng dường này mà đại Bồ tát ấy được phước có
nhiều chăng?
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch
Thiện Thệ! Rất nhiều. Phước của vị ấy vô lượng, vô số, vô biên, không thể nghĩ
bàn, không thể tính đếm được.
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Đúng vậy! Nhưng nếu
đại Bồ tát y vào Bát Nhã thậm thâm,
theo lời giảng nói mà tu học trong một ngày đêm, thì công đức đạt được nhiều
hơn công đức người kia vô lượng, vô biên. Vì sao? Vì các đại Bồ tát tu hành
vượt qua địa vị Thanh văn, Độc giác, mau nhập vào Bồ tát Chánh tánh ly sanh,
rồi dần dần tu Bồ tát hạnh, mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, chuyển
diệu pháp luân, cứu độ các hữu tình.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát lìa Bát Nhã thậm thâm, giả sử trải qua
hằng hà sa số đại kiếp tinh tấn tu học bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn,
tịnh lự, Bát Nhã. Ý ngươi nghĩ sao? Nhờ sự tu học này mà đại Bồ tát ấy đạt được
phước có nhiều chăng?
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch
Thiện Thệ! Rất nhiều! Phước của vị ấy vô lượng, vô số, vô biên, không thể nghĩ
bàn không thể tính đếm được.
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Đúng vậy! Nhưng nếu
đại Bồ tát thực hành đúng theo Bát Nhã
thậm thâm, suốt cả ngày đêm tinh tấn tu học bố thí, tịnh giới, an nhẫn,
tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã, thì công đức đạt được nhiều hơn công đức người kia
vô lượng, vô biên. Vì sao? Vì Bát Nhã
thâm sâu là mẹ của các đại Bồ tát. Vì sao? Vì Bát Nhã có thể sanh ra chúng
đại Bồ tát. Tất cả chúng đại Bồ tát đều y vào Bát Nhã mà mau viên mãn tất cả
Phật pháp.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát lìa Bát Nhã thậm thâm, giả sử trải qua
hằng hà sa số đại kiếp, bố thí pháp cho tất cả hữu tình. Ý ngươi nghĩ sao? Đại
Bồ tát ấy nhờ nhân duyên này mà đạt được phước có nhiều chăng?
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch
Thiện Thệ! Rất nhiều! Phước của vị ấy vô lượng, vô biên, không thể nghĩ bàn
không thể tính đếm được.
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Đúng vậy! Nhưng nếu
đại Bồ tát sống đúng với Bát Nhã thậm
thâm đã nói, suốt cả ngày đêm dùng pháp thí ban cho tất cả hữu tình thì
công đức đạt được nhiều hơn công đức người kia vô lượng, vô biên. Vì sao? Vì
đại Bồ tát lìa Bát Nhã thậm thâm,
tức là xa lìa Nhất thiết trí trí. Nếu đại Bồ tát không lìa Bát Nhã thâm sâu,
tức là không lìa Nhất thiết trí trí. Cho nên, này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát
muốn đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, thì không nên xa lìa Bát Nhã.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát lìa Bát Nhã thậm thâm, giả sử trải qua
hằng hà sa số đại kiếp tu hành bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. An trụ vào
pháp nội không cho đến pháp vô tính tự tính không. An trụ vào chơn như cho đến
cảnh giới bất tư nghì. Nói rộng ra, an trụ tất cả pháp Phật từ tứ Thánh đế cho
đến tu hành Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Tu hành các
Phật pháp vô biên khác. Ý ngươi ngĩ sao? Đại Bồ tát nhờ nhân duyên tu học ấy mà
đạt được phước có nhiều chăng?
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch
Thiện Thệ! Rất nhiều! Phước của vị ấy vô lượng, vô số, vô biên không thể nghĩ
bàn, không thể tính đếm được.
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Đúng vậy! Nhưng nếu đại Bồ tát sống đúng với Bát Nhã thậm thâm
đã nói, suốt cả ngày đêm tu hành bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật, nói rộng cho
đến Nhất thiết tướng trí, thì công đức đạt được nhiều hơn công đức người kia vô
lượng, vô biên. Vì sao? Vì đại Bồ tát không lìa Bát Nhã thậm thâm mà bị thối
chuyển Nhất thiết trí trí thì không có việc ấy. Nếu đại Bồ tát lìa Bát Nhã thậm
thâm, bị thối chuyển Nhất thiết trí trí thì việc này có xảy ra. Cho nên, này
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát muốn đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, thì
không nên xa lìa Bát Nhã.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát lìa Bát Nhã thậm thâm, giả sử trải qua
hằng hà sa số đại kiếp tu hành tất cả tài thí, pháp thí, ở nơi thanh vắng,
chánh niệm tư duy, đem tất cả phước nghiệp tu hành trước đây bình đẳng ban cho
các hữu tình, cùng nhau hồi hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Ý
ngươi ngĩ sao? Đại Bồ tát ấy nhờ đó đạt được phước có nhiều chăng?
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch
Thiện Thệ! Rất nhiều! Phước của vị ấy vô lượng, vô số, vô biên không thể nghĩ
bàn, không thể tính đếm được.
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Đúng vậy! Nhưng nếu đại Bồ tát sống đúng với Bát Nhã thậm thâm
đã nói, suốt cả ngày đêm tu hành tất cả tài thí, pháp thí, ở nơi thanh vắng,
chánh niệm tư duy, đem tất cả phước nghiệp tu hành trước đây bình đẳng ban cho
các hữu tình, rồi cùng nhau hồi hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề,
thì công đức đạt được nhiều hơn người kia vô lượng, vô biên. Vì sao? Vì y vào Bát
Nhã thậm thâm mà hồi hướng thì nên biết đó là hồi hướng vô thượng. Còn lìa Bát Nhã thậm thâm mà hồi hướng thì nên
biết đó là hồi hướng hữu thượng.
Cho nên, này Thiện Hiện! Đại Bồ tát
muốn đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, không bao giờ xa lìa Bát Nhã, đem
phước nghiệp tu hành trước đây bình đẳng ban cho các hữu tình, rồi cùng nhau
hồi hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát lìa Bát Nhã, giả sử trải qua
hằng hà sa số đại kiếp, nhờ vào công đức căn lành của tất cả Như Lai Ứng Chánh
Đẳng Giác và các đệ tử quá khứ, hiện tại, vị lai, tập hợp lại đầy đủ với sự tùy
hỷ trong hiện tại, rồi bình đẳng ban cho các hữu tình, cùng nhau hồi hướng đến
quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Ý ngươi nghĩ sao? Đại Bồ tát ấy do nhân
duyên này mà đạt được phước có nhiều chăng?
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch
Thiện Thệ! Rất nhiều! Phước của vị ấy vô lượng, vô số, vô biên không thể nghĩ
bàn, không thể tính đếm được.
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Đúng vậy! Nhưng nếu đại Bồ tát sống đúng với Bát Nhã thậm thâm
đã nói, suốt cả ngày đêm nhờ vào công đức căn lành của tất cả Như Lai Ứng Chánh
Đẳng Giác và các đệ tử quá khứ, hiện tại, vị lai, tập hợp đầy đủ với sự tùy hỷ
trong hiện tại, bình đẳng ban cho các hữu tình, cùng nhau hồi hướng quả vị Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, thì công đức đạt được nhiều hơn người kia vô lượng, vô
biên. Vì sao? Vì tất cả công đức căn
lành của sự tùy hỷ hồi hướng đều lấy Bát Nhã làm đầu. (Q.516, ĐBN)
Cho nên, này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ
tát muốn đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, thì không bao giờ xa lìa Bát
Nhã, đem các căn lành tùy hỷ hồi hướng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
(Vô lượng, vô số, vô biên khác nhau như thế nào?)
Bấy giờ, Thiện Hiện liền bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Như lời Phật nói,
các hành đều do phân biệt tạo ra, đã do vọng tưởng sanh nên hoàn toàn không
thật có. Vậy do đâu các đại Bồ tát ấy đạt được phước vô lượng, vô số, vô biên?
Bạch Thế Tôn! Do phân biệt mà tạo ra các phước nghiệp nên không thể có chánh
kiến thế gian, không thể hướng nhập vào Chánh tánh ly sanh, cũng không thể đắc
quả Dự lưu cho đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như lời
ông nói! Nhưng các đại Bồ tát hành sâu Bát
Nhã biết tất cả loại phân biệt đã tạo hoàn toàn không, không có sở hữu; là hư vọng,
không thật. Vì sao? Vì các đại Bồ tát học kỹ pháp nội không cho
đến pháp vô tánh tự tánh không. Sau khi an trụ vào tất cả (pháp) không như vậy rồi, như như quán sát những gì do phân biệt
tạo ra là hoàn toàn không, không có sở hữu, là hư vọng chẳng thật. Cho nên
không bao giờ xa lìa Bát Nhã. Không xa lìa Bát Nhã thì đạt được vô lượng, vô
số, vô biên phước đức. Do nhân duyên này mà phát sanh chánh kiến chân thật,
cũng có thể nhập vào Chánh tánh ly sanh, cho đến có thể chứng đắc quả vị Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. (Q.516, ĐBN)
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nói về vô lượng, vô
số, vô biên, nó khác nhau như thế nào?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Vô lượng là lường
không được, không thể lường pháp ở quá khứ, hiện tại, vị lai nên gọi là vô
lượng. Vô số nghĩa là đếm không thể được, không thể đếm được hết pháp trong
cảnh giới hữu vi, vô vi nên gọi là vô số. Vô biên là biên giới không thể nắm
bắt, không thể suy lường giới hạn của pháp kia, nên gọi là vô biên.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Có nhân duyên nào,
nên nói sắc cũng vô lượng, vô số, vô biên; còn thọ, tưởng, hành, thức có vô
lượng, vô số, vô biên không?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Có nhân duyên nên sắc
cũng vô lượng, vô số, vô biên; thọ, tưởng, hành, thức cũng vô lượng, vô số, vô
biên.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên nào mà
sắc cũng vô lượng, vô số, vô biên; thọ, tưởng, hành, thức cũng vô lượng, vô số,
vô biên?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Vì tánh sắc là Không, nên nói là vô lượng,
vô số, vô biên; tánh của thọ, tưởng, hành, thức là Không, nên nói là vô lượng,
vô số, vô biên.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Chỉ tánh của sắc là
Không; tánh của thọ, tưởng, hành, thức tánh Không, còn tánh của tất cả pháp
cũng đều Không chăng?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Trước đây Ta há không
nói tất cả pháp đều Không hay sao?
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Mặc dù Phật thường
nói các pháp đều Không, nhưng vì các hữu tình không biết, không thấy, không
hiểu cho nên nay con hỏi lại. Bạch Thế Tôn! Tánh Không của các pháp là vô tận, cũng là vô lượng, cũng là vô số,
cũng là vô biên.
Bạch Thế Tôn! Trong các pháp Không,
tận cùng không thể đạt, đo lường không thể được, số lượng không thể bắt, biên
giới không thể đắc. Do đó, mà là vô tận, vô lượng, vô số, vô biên, nghĩa và văn
cả hai đều không khác nhau?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như lời
ông nói! Vô tận, vô lượng, vô số, vô biên thì nghĩa và văn cả hai đều không
khác nhau, vì tất cả đều hiển bày rõ ràng về các pháp Không.
Thiện Hiện
nên biết! Lý Không của các pháp đều không thể nói. Như Lai chỉ dùng phương tiện
nói là vô tận, hoặc nói là vô lượng, hoặc nói là vô số, hoặc nói là vô biên,
hoặc nói là không, hoặc nói là vô tướng, hoặc nói là vô nguyện, hoặc nói là vô
tác, hoặc nói là vô vi, hoặc nói là vô sanh, hoặc nói là vô diệt, hoặc nói là
tạp nhiễm, hoặc nói là vĩnh viễn diệt trừ, hoặc nói là Niết bàn, hoặc nói là
chơn như, hoặc nói là thật tế. Các thật nghĩa v.v… như vậy không khác nhau, tất
cả đều do Như Lai dùng phương tiện để giảng nói. (Q.516, ĐBN)
Cụ thọ Thiện Hiện liền bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Phương tiện thiện
xảo thật kỳ diệu, không thể nào giảng nói hết thật tánh các pháp, nhưng vì hữu
tình mà dùng phương tiện để hiển bày. Như con hiểu nghĩa của Phật nói thì thật
tánh của các pháp đều không thể nói?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Đúng vậy! Thật tánh của các pháp đều không thể nói.
Vì sao? Vì tánh của tất cả pháp hoàn
toàn Không, không ai có thể giảng nói hết cái Không đó được.
Bấy giờ, Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nghĩa của bất khả
thuyết có tăng, có giảm không?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Nghĩa bất khả thuyết
không tăng, không giảm.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu nghĩa bất khả
thuyết không tăng, không giảm thì bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật cũng không
tăng, không giảm. Bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo cũng không tăng, không
giảm. Bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc cũng không tăng, không giảm.
Pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện cũng không tăng, không giảm. Tám
giải thoát cho đến mười biến xứ cũng không tăng, không giảm. Cực hỷ địa cho đến
Pháp vân địa cũng không tăng, không giảm. Tất cả pháp môn Đà la ni, pháp môn
Tam ma địa cũng không tăng, không giảm. Năm loại mắt, sáu phép thần thông cũng
không tăng, không giảm. Như lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng
cũng không tăng, không giảm. Đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả cũng không tăng,
không giảm. Pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả cũng không tăng, không giảm.
Nhất thiết trí, Đạo tướng trí Nhất thiết tướng trí cũng không tăng, không giảm.
Bạch Thế Tôn! Nếu bố thí Ba la mật
nói rộng cho đến Nhất thiết tướng trí cũng không tăng, không giảm thì bố thí Ba
la mật nói rộng cho đến Nhất thiết tướng trí đều vô sở hữu. Nếu bố thí Ba la
mật nói rộng cho đến Nhất thiết tướng trí đều vô sở hữu thì đại Bồ tát tu hành
bố thí Ba la mật nói rộng cho đến Nhất thiết tướng trí làm thế nào để chứng đắc
quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Đúng vậy! Nghĩa bất
khả thuyết không tăng, không giảm. Bố thí Ba la mật nói rộng cho đến Nhất thiết
tướng trí cũng không tăng, không giảm. Nghĩa bất khả thuyết vô sở hữu nên bố thí
Ba la mật nói rộng cho đến Nhất thiết tướng trí cũng vô sở hữu. Nhưng các đại
Bồ tát khi tu hành Bát Nhã thâm sâu, an trụ Bát Nhã, dùng phương tiện thiện
xảo, không suy nghĩ như vầy: Đối với Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật hoặc tăng
hay giảm, ta chỉ nghĩ: Nó chỉ do vọng tưởng mà có cái tên để gọi là Bát Nhã cho
đến bố thí Ba la mật. (Q.516, ĐBN)
Khi đại Bồ tát ấy tu hành bố thí cho
đến Bát nhã Ba la mật, đem bố thí cho đến Bát Nhã này tương ưng với tác ý,
nương theo tâm niệm ấy và các căn lành rồi bình đẳng ban cho các hữu tình, cùng
nhau hồi hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, giống như Phật hồi hướng
lên quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề vi diệu sâu xa. Nhờ năng lực phương tiện
thiện xảo của sự hồi hướng này mà chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
(Sao gọi là quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề?)
Thiện Hiện liền bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Sao gọi là quả vị Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Các pháp như (chơn như của
các pháp) gọi là quả vị Vô Thượng
Chánh Đẳng Bồ đề.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Sao nói là các pháp
như là quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Sắc uẩn như cho đến thức uẩn như là quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Mười hai xứ như cho đến mười tám giới như là quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Nhãn xúc như cho đến ý xúc như là quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Các thọ
như do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ như do ý xúc làm duyên sanh
ra là quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Địa giới như cho đến thức giới như là
quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Nhân duyên như cho đến tăng thượng duyên như
là quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vô minh như cho đến lão tử như là quả vị
Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Bố thí Ba la mật như cho đến Bát nhã Ba la mật như
là quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Pháp nội không như cho đến pháp vô tánh tự tánh không như là quả vị Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Nói rộng ra, tất cả pháp Phật từ tứ Thánh đế như cho
đến Nhất thiết tướng trí như là quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Sanh tử như,
Niết bàn như là quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Thiện Hiện nên biết! Vì tất cả pháp
như không tăng, không giảm nên quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật
cũng không tăng, không giảm.
Thiện Hiện nên biết! Các đại Bồ tát không xa lìa Bát Nhã thậm
thâm thì luôn được an lạc, an trụ vào các pháp như, và hoàn toàn không thấy
pháp có tăng hay giảm. Do đó, mà nghĩa của bất khả thuyết không tăng, không
giảm. Bố thí Ba la mật nói rộng cho đến Nhất thiết tướng trí cũng không tăng,
không giảm. Vì nghĩa của bất khả thuyết vô sở hữu nên bố thí Ba la mật nói rộng
cho đến Nhất thiết tướng trí cũng vô sở hữu.
Này Thiện Hiện! Như vậy, các đại Bồ
tát y vào không tăng, không giảm và vô sở hữu để làm phương tiện mà tu hành Bát
Nhã thậm thâm. Nhờ đó mà làm nơi chứa nhóm các công đức để đạt đến quả vị viên
mãn, chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. (Q.516,
ĐBN)
(Do tâm ban đầu phát sanh hay do tâm sau phát sanh để
chứng
Vô Thượng Bồ đề)
Cụ thọ Thiện Hiện liền bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ tát ấy do tâm
ban đầu phát sanh để chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề hay do tâm sau
phát sanh để chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề?
Bạch Thế Tôn! Đại Bồ tát ấy nếu tâm
ban đầu phát sanh để chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, vậy lúc ban đầu
phát sanh thì tâm sau chưa phát sanh, nghĩa ấy không hòa hợp. Nếu tâm sau phát
sanh để chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, vậy lúc tâm sau phát sanh thì
tâm trước đã diệt, nghĩa không hòa hợp.
Như vậy, tâm và tâm sở trước sau tấn
thối, tìm gạn không có nghĩa hòa hợp, thì làm sao có thể nói khá chứa nhóm căn
lành? Nếu các căn lành không thể chứa nhóm thì làm sao có thể chứng đắc quả vị
Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Ta sẽ lược nói ví dụ
với nghĩa đó để ông dễ hiểu. Những ai có trí, nghe ý nghĩa trong thí dụ đó liền
được liễu ngộ.
- Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Khi
đốt đèn, ngọn lửa lúc đầu làm cháy tim hay ngọn lửa sau làm cháy tim?
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Theo ý con hiểu thì
chẳng phải ngọn lửa ban đầu làm cháy tim, cũng không lìa ngọn lửa ban đầu làm
cháy tim. Chẳng phải ngọn lửa sau cháy tim, cũng không lìa ngọn lửa sau mà cháy
tim.
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Tim
đèn có cháy không?
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Thế gian hiện thấy
tim đèn ấy thật sự có cháy.
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Các đại Bồ tát tu hành
Bát Nhã thậm thâm chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề cũng như vậy.
Chẳng phải do tâm ban đầu phát sanh mà có thể chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng
Bồ đề, cũng chẳng lìa tâm ban đầu. Chẳng phải do tâm sau phát sanh mà có thể
chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, cũng chẳng lìa tâm sau, các đại Bồ tát
hành sâu Bát Nhã phải làm cho các căn lành mau phát triển viên mãn để chứng đắc
quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. (Q.
516, ĐBN)
Lại nữa, Thiện Hiện! Các đại Bồ tát
từ khi mới phát tâm tu hành Bát Nhã thâm sâu, cho đến tâm cuối cùng viên mãn
thập địa thì chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Bấy giờ, Thiện Hiện liền bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ tát tu
học viên mãn thập địa nào để chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Các đại Bồ tát tu Cực
hỷ địa cho đến Pháp vân địa được viên mãn thì chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh
Đẳng Bồ đề. Cũng học Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa được viên mãn thì chứng
đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Thiện Hiện nên biết! Các đại Bồ tát
siêng năng tinh tấn tu học mười địa ấy để đạt đến quả vị viên mãn. Khi đắc Bồ
đề, chẳng phải tâm ban đầu phát sanh mà chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng
Bồ đề, cũng không lìa tâm ban đầu. Chẳng phải tâm sau phát sanh mà chứng quả vị
Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, cũng không lìa tâm sau, các đại Bồ tát phải siêng
năng tinh tấn tu học thập địa như vậy để đạt đến quả vị viên mãn, chứng đắc quả
vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. (Q.516,
ĐBN)
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Ý nghĩa duyên khởi được Như Lai
nói ra rất là vi diệu, rất là sâu xa, nghĩa là các đại Bồ tát tu hành Bát Nhã
sâu xa, lấy vô sở đắc làm phương tiện để tu học thập địa. Khi đắc Bồ đề, chẳng
phải tâm ban đầu phát sanh mà chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, cũng
chẳng lìa tâm ban đầu. Chẳng phải tâm sau phát sanh mà chứng đắc quả vị Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, cũng chẳng lìa tâm sau, mà các đại Bồ tát từ khi mới
phát tâm tu hành Bát Nhã thậm thâm, đến tâm cuối cùng viên mãn thập địa thì
chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Nếu
tâm diệt rồi sanh lại nữa chăng?
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Không! Tâm đó diệt
rồi thì không thể sanh lại được.
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Tâm
đã sanh có pháp để diệt không?
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu tâm đã sanh nhất
định có pháp diệt.
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Có
pháp diệt thì tâm chẳng phải diệt không?
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Không! Nếu có pháp
diệt thì tâm nhất định phải diệt.
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Tâm
trụ có giống chơn như của tâm không?
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đúng vậy! Chơn như
của tâm cũng giống như sự trụ của tâm.
Phật bảo:
- Thiện
Hiện! Nếu sự trụ của tâm giống như chơn như thì tâm ấy là Như(chơn như). Tánh thật
tế thường trụ phải không?
Thiện Hiện
bạch Phật:
- Bạch Thế
Tôn! Không! Tâm ấy chẳng phải như chơn như. Thật tế tánh của nó thường trụ(1).
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Các
pháp như có sâu xa không?
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Các pháp như rất là
sâu xa.
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Như
có phải là tâm không?
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Không!
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Lìa
Như có tâm không?
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Không!
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Tâm
ấy là Như phải không?
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Không!
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Lìa
tâm có Như không?
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Không!
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Như
có thể thấy Như không?
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Không!
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Nếu
đại Bồ tát tu hành như vậy thì đó có phải là hành Bát Nhã thậm thâm không?
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đúng vậy! Nếu đại Bồ
tát có thể hành như vậy thì đó là hành sâu Bát nhã Ba la mật.
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Nếu
đại Bồ tát có thể hành như vậy là hành chỗ nào?
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ tát hành như vậy, hoàn toàn không có chỗ hành. Vì sao? Vì
đại Bồ tát tu hành Bát Nhã, trụ trong Như, không có tâm hiện hành, không có chỗ
hiện hành. Vì sao? Vì nếu đại Bồ tát tu hành Bát Nhã thậm thâm, trụ trong Như
đều không hiện hành, thời hiện hành, chốn hiện hành. (Q.516, ĐBN)
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Khi
đại Bồ tát tu hành Bát Nhã sâu xa, hành vào đâu?
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Khi đại Bồ tát tu
hành Bát Nhã thậm thâm thì hành thắng
nghĩa đế. Trong đây hai loại hiện hành đều không có.
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Khi
hành Bát Nhã thậm thâm, Bồ tát này hành trong thắng nghĩa đế là chẳng khiển
tướng tưởng chăng?
Thiện Hiện đáp:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng khiển!
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Bồ tát này khi hành Bát
Nhã thậm thâm, vì sao chẳng khiển tướng, hay chẳng khiển tưởng tướng?
Thiện Hiện đáp:
- Khi hành Bát Nhã, Bồ tát này chẳng
nghĩ: Ta sẽ khiển tướng và khiển tưởng tướng. Cũng chẳng khởi nghĩ đây: Ta phải
khiển vô tướng và khiển tưởng vô tướng. Đối tất cả thứ đó không phân biệt vậy.
Bạch Thế Tôn! Đại Bồ tát ấy hành Bát
Nhã, mặc dầu có thể lìa phân biệt như vậy nhưng chưa viên mãn Như Lai mười lực,
bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả,
mười tám pháp Phật bất cộng và vô lượng, vô biên công đức thù thắng khác mà
chưa viên mãn, thì chưa thể đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Bạch Thế Tôn! Đại Bồ tát ấy thành
tựu phương tiện thiện xảo tối thắng. Nhờ phương tiện thiện xảo tối thắng này mà
đối với tất cả pháp, chẳng thành chẳng hoại, chẳng lấy chẳng khiển. Vì sao? Vì
đại Bồ tát ấy hiểu rõ các pháp tự tướng Không.
Bạch Thế Tôn! Đại Bồ tát ấy trụ
trong tự tướng Không của các pháp là vì muốn thành thục hữu tình nên thể nhập
vào tam tam muội (không, vô tướng, vô
nguyện). Dùng phương tiện của ba đẳng trì này mà thành thục hữu tình. (Q.516, ĐBN)
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như lời
ông nói!
Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Đại Bồ tát ấy làm thế nào để thể
nhập vào ba thứ đẳng trì này, dùng phương tiện thành thục hữu tình?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Đại Bồ tát ấy trụ vào Không đẳng trì, thấy các hữu tình do hư
vọng phân biệt ngã và ngã sở, rồi dùng sức phương tiện chỉ dạy họ trụ vào Không
Tam ma địa. Đại Bồ tát ấy trụ vào Vô
tướng đẳng trì, thấy các hữu tình do hư vọng phân biệt tướng của các pháp,
nên dùng sức phương tiện chỉ dạy họ an trụ vào Vô tướng Tam ma địa. Đại Bồ tát
ấy trụ vào Vô nguyện đẳng trì, thấy
các hữu tình do hư vọng phân biệt nhiều ham muốn những dục lạc, nên dùng phương
tiện chỉ dạy họ an trụ vào Vô nguyện Tam ma địa. (Q.516, ĐBN)
Này Thiện Hiện! Đại Bồ tát ấy hành thâm
Bát Nhã, dùng phương tiện thiện xảo thể nhập vào ba đẳng trì, để thành thục các
loài hữu tình tùy theo sở thích của họ mà được lợi ích lớn.
2. (Đoạn Kinh sau đây tương đương với phẩm “Mộng
Hành”,
đầu quyển 451, Hội thứ II, ĐBN)
Bấy giờ, Xá lợi Tử hỏi cụ thọ Thiện
Hiện:
- Nếu đại Bồ tát ở trong mộng mà thể
nhập vào ba loại đẳng trì này thì đối với Bát Nhã sâu xa có tăng trưởng ích lợi
không?
Thiện Hiện đáp:
- Đại Bồ tát lúc thức, thể nhập vào
ba đẳng trì này thì đối với Bát Nhã thậm thâm có tăng trưởng ích lợi. Vậy thì
lúc mộng cũng có tăng trưởng ích lợi. Vì sao? Vì lúc tỉnh hay mộng đều không
khác nhau.
Xá lợi Tử! Nếu đại Bồ tát lúc tỉnh
tu hành Bát Nhã thậm thâm, thì gọi là tu tập Bát Nhã thậm thâm. Nếu đại Bồ tát
ấy trong mộng mà tu hành Bát Nhã thậm thâm cũng gọi là tu tập Bát Nhã thậm
thâm. Đối với Bát Nhã thậm thâm thì ba đẳng trì này có thể làm tăng ích tương
ưng như vậy.
Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện:
- Trong mộng, các đại Bồ tát tạo
nghiệp có tăng ích hay tổn giảm không?
Phật bảo:
- Các pháp được tạo ra là do hư
vọng, không thật, là như mộng, thì nghiệp kia làm sao có thể tăng ích lợi tổn
giảm? Vì sao? Vì các nghiệp trong mộng tạo ra chẳng có tăng ích, chủ yếu là lúc
tỉnh nhớ tưởng lại, phân biệt những gì đã tạo ra trong mộng, lúc đó mới có tăng
ích hay tổn giảm.
Thiện Hiện hỏi Xá Lợi Tử:
- Có những người lúc thức giết người
rồi, sau đó ở trong mộng nhớ tưởng lại, phân biệt tự mình lấy làm thích thú.
Hoặc có người nằm mộng, thấy giết người rồi, lúc tỉnh sanh lòng vui sướng. Với
hai nghiệp này, ý ông nghĩ sao?
Xá Lợi Tử hỏi lại Thiện Hiện:
- Nếu không có duyên sự thì cả nghĩ
và nghiệp đều không phát sanh. Chủ yếu có sở duyên thì nghĩ, nghiệp mới phát
sanh. Trong mộng duyên vào đâu để sanh nghĩ và nghiệp?
Thiện Hiện đáp:
- Đúng vậy!
Nếu lúc mộng hoặc lúc tỉnh không có duyên sự thì nghĩ và nghiệp không sanh; chủ
yếu có duyên sự thì nghĩ nghiệp mới phát sanh. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Ở trong
sự thấy nghe hay biết các pháp, cần phải có giác tuệ chuyển biến. Do đây mà có
nhiễm có tịnh. Nếu không thấy nghe hay biết các pháp, không có giác tuệ chuyển
biến thì cũng không có nhiễm tịnh. Do đó, nếu lúc mộng hay tỉnh có duyên sự thì
nghĩ nghiệp mới phát sanh, còn không có duyên sự thì nghĩ nghiệp không phát
sanh.
Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện:
- Đức Phật nói nghĩ nghiệp đều lìa
tự tánh. Vậy sao nói nghĩ và nghiệp có duyên mới sanh, còn không thì không
sanh?
Thiện Hiện đáp:
- Mặc dù tự tánh của nghĩ nghiệp và
sở duyên đều là Không, nhưng do tâm chấp
lấy tướng mà phân biệt, nên nói nghĩ nghiệp có sở duyên mới sanh, còn nếu
không có sở duyên thì nghĩ nghiệp không sanh.
Xá lợi Tử hỏi Thiện Hiện:
- Nếu đại Bồ tát ở trong mộng mà tu
hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã, đem những căn lành
này bình đẳng ban cho các hữu tình, cùng nhau hồi hướng đến quả vị Vô Thượng
Chánh Đẳng Bồ đề, thì đại Bồ tát ấy có thật hồi hướng đại Bồ đề không?
Thiện Hiện đáp:
- Bồ tát Từ Thị đã từ lâu được thọ
ký đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề Bất thối chuyển. Còn một đời nữa nhất
định thành Phật, có thể trả lời vấn nạn một cách thông suốt, hiện đang ở trong
hội này. Hãy thỉnh Ngài nói, Bổ Xứ Từ Tôn nhất định sẽ trả lời.
Theo lời Thiện Hiện nói, Xá lợi Tử
cung kính thỉnh hỏi Bồ tát Từ Thị. Bồ tát Từ Thị hỏi lại Xá Lợi Tử:
- Những gì gọi là Từ Thị mà có thể
trả lời? Là sắc uẩn? Là thọ, tưởng, hành, thức uẩn? Là Không của sắc uẩn? Là
Không của thọ, tưởng, hành, thức uẩn? Là sắc uẩn như? Là của thọ, tưởng, hành,
thức uẩn như? Vả lại, sắc uẩn không thể trả lời; thọ, tưởng, hành, thức uẩn
cũng không thể trả lời. Không của sắc uẩn không thể trả lời; Không của thọ,
tưởng, hành, thức uẩn cũng không thể trả lời. Sắc uẩn như không thể trả lời;
thọ, tưởng, hành, thức uẩn như cũng không thể trả lời. Vì sao? Vì tôi hoàn toàn
không thấy có pháp để trả lời, pháp được trả lời, thời chốn trả lời, và theo đó
trả lời cũng đều không thấy. Tôi hoàn toàn không thấy có pháp để ghi nhận, pháp
được ghi nhận, thời chốn ghi nhận, và theo đó ghi nhận cũng đều không thấy. Vì
sao? Này Xá Lợi Tử! Do bản tánh của tất cả pháp là Không, hoàn toàn không có sở
hữu, không hai, không khác, nên thành tựu hay hư hoại đều bất khả đắc. (Q.516, ĐBN)
Bấy giờ, Xá Lợi Tử lại hỏi Bồ tát Từ
Thị:
- Pháp mà Ngài nói là theo sở chứng
chăng?
Bồ tát Từ Thị nói:
- Pháp của tôi nói, chẳng phải theo
sở chứng. Vì sao? Vì các pháp của tôi chứng không thể nói ra.
Cụ thọ Thiện Hiện nói với Xá Lợi Tử:
- Giác tuệ của đại Bồ tát Từ Thị rất
rộng sâu, đã tu tập thành tựu viên mãn tất cả bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh
tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật lâu rồi, đã lấy vô sở đắc làm phương tiện, có
thể trả lời tất cả vấn nạn.
Khi ấy, Phật dạy Xá Lợi Tử:
- Ý ngươi thế nào? Ông nhờ pháp này
mà thành A la hán, ông có thấy pháp đó khả thuyết không?
Xá Lợi Tử bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Không!
Phật bảo:
- Xá Lợi Tử! Các đại Bồ tát tu hành Bát
Nhã thâm sâu, tánh của các pháp được chứng cũng như vậy, không thể giảng nói.
Này Xá Lợi Tử! Đại Bồ tát ấy không
nghĩ: Ta nhờ pháp này mà đối với quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề đã được thọ
ký, đang được thọ ký và sẽ được thọ ký. Không nghĩ: Nhờ pháp này ta gần chứng
quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Này Xá lợi Tử! Đại Bồ tát ấy tu hành
Bát Nhã sâu xa không sanh nghi ngờ: Ta đắc hay không đắc quả vị Vô Thượng Chánh
Đẳng Bồ đề. Chỉ nghĩ như vầy: Ta nhất định phải đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng
Bồ đề. (Q.516, ĐBN)
Xá Lợi Tử! Bồ tát thực hành Bát Nhã
thậm thâm khi nghe pháp thậm thâm tâm họ không khiếp, không hãi, không ngại,
không hối, không thối, không lo buồn, tự biết mình chắc chắn sẽ chứng Vô Thượng
Bồ đề đã mong cầu và làm lợi lạc hữu tình cho đến tận đời vị lai.
3. (Đoạn Kinh sau đây tương đương với phẩm “Hạnh
Nguyện”,
phần giữa quyển 451, Hội thứ II, ĐBN)
Bấy giờ, Phật bảo cụ thọ Thiện Hiện:
- Có đại Bồ tát tu hành bố thí Ba la mật, thấy các hữu tình bị đói khát hành hạ, áo
quần rách rưới, vật dụng đồ nằm, cơm ăn thức uống v.v… thiếu thốn, mong muốn
của cải đều không như ý. Thấy như vậy liền suy nghĩ: Ta phải làm thế nào để cứu
giúp các loài hữu tình xa lìa xan tham, đầy đủ không thiếu thốn. Sau khi suy
nghĩ như vậy, liền phát nguyện: Ta
phải siêng năng tinh tấn, không tham đắm vật gì cả, tu hành bố thí Ba la mật,
thành thục hữu tình, trang nghiêm cõi Phật, để mau viên mãn chứng đắc quả vị Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Trong cõi Phật của ta không có các loài hữu tình bị
thiếu thốn vật dụng như vậy mà tất cả đều giống như chúng trời Lục Dục, hưởng
thọ những vật ưa thích thượng hạng, nhưng ở trong đó không có chấp trước.
Thiện Hiện nên biết! Nhờ bố thí Ba
la mật này nên đại Bồ tát ấy chóng được viên mãn, mau chứng quả vị Vô Thượng
Chánh Đẳng Bồ đề.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Có đại Bồ
tát tu hành tịnh giới Ba la mật,
thấy các hữu tình bị phiền não nung nấu nên giết hại lẫn nhau, cho đến tà kiến.
Do đó, mà mệnh yểu, nhiều bệnh, dung nhan tiều tụy, không có oai đức, thiếu
thốn của cải, sanh vào nhà hạ tiện, thân thể tàn tật, các việc nhơ bẩn v.v…
Thấy việc như vậy, đại Bồ tát suy nghĩ: Ta phải làm thế nào để cứu vớt các loài
hữu tình này, mau xa lìa quả báo của các nghiệp ác. Sau khi suy nghĩ như vậy,
lại nguyện: Ta nên siêng năng tinh tấn, không tham luyến. Phải tu hành tịnh
giới Ba la mật, thành thục hữu tình, trang nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên
mãn và mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Trong cõi Phật của ta không
có quả báo của các nghiệp ác như vậy. Tất cả hữu tình đều tu hành mười điều
thiện, sống lâu và được các quả báo tốt đẹp.
Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ tát ấy
nhờ tịnh giới Ba la mật này, chóng được viên mãn, mau chứng quả vị Vô Thượng
Chánh Đẳng Bồ đề.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ tát tu hành an nhẫn Ba la mật, thấy các hữu
tình sân giận nhau, miệng phát ra những lời như gươm giáo, mắng chửi, mạ nhục
nhau, dùng dao gậy v.v... tàn hại lẫn nhau, cho đến bỏ mạng mà tâm ác không xả.
Thấy việc này rồi, đại Bồ tát ấy suy nghĩ: Ta phải làm thế nào để cứu vớt các loài
hữu tình này xa lìa những điều ác ấy. Sau khi suy nghĩ rồi, lại nguyện: Ta phải
tinh tấn siêng năng, không tham đắm. Phải tu hành an nhẫn Ba la mật, thành thục
hữu tình, trang nghiêm cõi Phật, khiến mau được viên mãn và mau chứng quả vị Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Trong cõi Phật của ta không có các loài hữu tình bị
nghiệp ác phiền não. Tất cả hữu tình gần gũi, thân thiết nhau như cha mẹ, bạn
thân, quyến thuộc, không chống trái nhau, đem lòng từ sống với nhau để làm lợi
ích an lạc cho nhau.
Thiện Hiện nên biết! đại Bồ tát ấy
nhờ an nhẫn Ba la mật này chóng được viên mãn, mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh
Đẳng Bồ đề.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ tát tu hành tinh tấn Ba la mật, thấy các
hữu tình biếng nhác giải đãi, chẳng siêng năng tinh tấn, xả bỏ ba thừa, cũng
không tu hành nghiệp thiện của trời, người. Thấy vậy, đại Bồ tát ấy suy nghĩ:
Ta phải làm thế nào để cứu vớt các loài hữu tình này xa lìa biếng nhác, giải
đãi. Sau khi suy nghĩ rồi, lại nguyện: Ta phải tinh tấn siêng năng, không tham
đắm. Phải tu hành tinh tấn Ba la mật, thành thục hữu tình, trang nghiêm cõi
Phật, khiến mau được viên mãn và mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Trong cõi Phật của ta không có các loài hữu tình biếng nhác, giải đãi, mà tất
cả hữu tình cõi của ta siêng năng dõng mãnh, siêng năng gieo nhân về cõi lành
và ba thừa, sanh trong cõi trời, người mau chứng giải thoát.
Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ tát ấy
nhờ tinh tấn Ba la mật này, chóng được viên mãn, mau chứng quả vị Vô Thượng
Chánh Đẳng Bồ đề.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ tát tu hành tịnh lự Ba la mật, thấy các hữu
tình bị năm triền cái ngăn che nên xa lìa tịnh lự, vô lượng, vô sắc, lại tán
loạn buông lung, không tu tập các việc thiện. Thấy vậy, đại Bồ tát ấy suy nghĩ:
Ta phải làm thế nào để cứu vớt các loài hữu tình này xa lìa các tán động của
các triền cái. Sau khi suy nghĩ rồi, lại nguyện: Ta phải tinh tấn siêng năng,
không tham đắm. Phải tu hành tịnh lự Ba la mật, thành thục hữu tình, trang
nghiêm thanh tịnh cõi Phật, khiến mau được viên mãn và mau chứng quả vị Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Trong cõi Phật của ta không có các loài hữu tình bị
năm triền cái làm tán động như vậy, mà tất cả hữu tình được tự tại ra vào tịnh
lự, vô lượng, vô sắc thắng định.
Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ tát ấy
nhờ sáu pháp Ba la mật này, chóng được viên mãn, mau chứng quả vị Vô Thượng
Chánh Đẳng Bồ đề.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ tát tu hành Bát nhã Ba la mật, thấy các hữu
tình ngu si ác tuệ, chánh kiến về thế gian và xuất thế gian đều bị mất, bác bỏ
nói không có nghiệp thiện ác và quả báo của nghiệp, chấp đoạn, chấp thường,
chấp một, chấp khác, các loại tà pháp tương ưng hoặc không tương ưng v.v… Thấy
vậy, đại Bồ tát ấy suy nghĩ: Ta phải làm thế nào để cứu vớt các loài hữu tình
này, giúp họ xa lìa ác tuệ, tà kiến. Sau khi suy nghĩ rồi, lại nguyện: Ta phải
tinh tấn siêng năng, không tham đắm. Phải tu hành Bát nhã Ba la mật, thành thục
hữu tình, trang nghiêm cõi Phật, khiến mau được viên mãn và mau chứng quả vị Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Trong cõi Phật của ta không có các loài hữu tình có ác
hạnh, tà kiến mà tất cả hữu tình đều thành tựu chánh kiến, được trang nghiêm
đầy đủ các diệu tuệ.
Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ tát ấy
nhờ sáu pháp Ba la mật này, chóng được viên mãn, mau chứng quả vị Vô Thượng
Chánh Đẳng Bồ đề. (Q.516, ĐBN)
Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ tát
tu tập đầy đủ sáu pháp Ba la mật, thấy
sự sai khác của ba nhóm hữu tình: Một là nhóm chánh định; hai là nhóm tà
định; ba là nhóm bất định. Thấy vậy, đại Bồ tát ấy suy nghĩ: Ta phải làm thế
nào để cứu vớt các loài hữu tình ra khỏi nhóm tà định và bất định. Sau khi suy
nghĩ rồi, lại nguyện: Ta phải tinh tấn siêng năng, không tham đắm. Phải tu hành
sáu pháp Ba la mật, thành thục hữu tình, trang nghiêm cõi Phật, mau được viên
mãn, mau chứng đắc Nhất thiết trí trí. Trong cõi Phật của ta không có các loài
hữu tình nhóm tà định và bất định, cũng không có nghe tên của hai nhóm ấy, mà
tất cả hữu tình đều trụ vào nhóm chánh định.
Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ tát ấy
nhờ sáu pháp Ba la mật này chóng được viên mãn, nên năng chứng đắc Nhất thiết trí
trí.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ tát
tu tập đầy đủ sáu pháp Ba la mật, thấy
các hữu tình đọa ba đường ác, chịu đủ các khổ, đó là địa ngục, bàng sanh và
ngạ quỷ. Thấy vậy, đại Bồ tát suy nghĩ: Ta phải làm thế nào để cứu vớt khiến họ
vĩnh viễn đoạn trừ khổ trong ba đường ác. Suy nghĩ như vậy rồi, liền nguyện: Ta
sẽ tinh tấn siêng năng, không tham đắm. Phải tu hành sáu pháp Ba la mật, thành
thục hữu tình, trang nghiêm cõi Phật, mau được viên mãn, mau chứng đắc Nhất
thiết trí trí. Trong cõi Phật của ta không có địa ngục, bàng sanh, ngạ quỷ,
cũng không có tên của cõi ác ấy. Tất cả hữu tình đều ở cảnh giới thiện.
Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ tát ấy
nhờ sáu pháp Ba la mật này chóng được viên mãn, nên năng chứng đắc Nhất thiết
trí trí. (Q.516, ĐBN)
Lại nữa, này Thiện Hiện! Có đại Bồ
tát tu đủ sáu pháp Ba la mật, thấy các hữu tình do nghiệp chướng xấu ác, ở nơi đất lồi lõm không bằng phẳng, đồi
gò, khe hố gai góc um tùm, dơ bẩn tràn lan v.v… Thấy vậy, đại Bồ tát ấy suy
nghĩ: Ta phải làm thế nào để cứu vớt các loài hữu tình vĩnh viễn đoạn trừ các
nghiệp chướng ác, được ở nơi đất bằng phẳng như lòng bàn tay, không có những
cây cỏ nhớp nhúa, rậm rạp. Sau khi suy nghĩ, lại nguyện: Ta phải siêng năng
tinh tấn, không tham đắm. Phải tu hành sáu pháp Ba la mật, thành thục hữu tình,
trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, mau được viên mãn và có thể mau chứng đắc
Nhất thiết trí trí. Trong cõi Phật của ta, không có các nghiệp nhớp nhúa như
vậy, tất cả hữu tình được ở đất đai bằng phẳng, có vườn rừng, ao hồ, các thứ
hoa thơm đẹp, nhiều cảnh sắc màu chen lẫn rất là khả ái.
Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ tát ấy
nhờ sáu pháp Ba la mật này chóng được viên mãn, nên năng chứng đắc Nhất thiết
trí trí.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Có đại Bồ
tát tu đủ sáu pháp Ba la mật, thấy các hữu tình phước đức mỏng ít, ở nơi đất đai không có các trân bảo,
chỉ có các loại gạch ngói, đất đá v.v… Thấy vậy, đại Bồ tát ấy suy nghĩ: Ta
phải làm thế nào để cứu giúp các loài hữu tình tội nhiều, phước ít này được ở
nơi giàu có trân bảo. Sau khi suy nghĩ, lại nguyện: Ta phải siêng năng tinh
tấn, không tham đắm. Phải tu hành sáu pháp Ba la mật, thành thục hữu tình,
trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, mau được viên mãn và có thể mau chứng đắc
Nhất thiết trí trí. Trong cõi Phật của ta, không có các loài hữu tình có tội nhiều
phước ít như thế, mà nơi đó có cát vàng ròng rải khắp nơi. Chỗ nào cũng có các
trân bảo đặc biệt như Pha lê, lưu ly v.v... Mặc dù luôn được hưởng thụ nhưng
không đắm nhiễm.
Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ tát ấy
nhờ sáu pháp Ba la mật này chóng được viên mãn, nên năng chứng đắc Nhất thiết
trí trí.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Có đại Bồ
tát ấy tu đủ sáu pháp Ba la mật, thấy các hữu tình phần nhiều bị lệ thuộc, đắm chìm trong tham ái, mà tạo ra nhiều
nghiệp ác bất thiện. Thấy vậy, đại Bồ tát ấy suy nghĩ: Ta phải làm thế nào để
cứu vớt các loài hữu tình này, để họ vĩnh viễn xa lìa những lệ thuộc tham ái mà
tạo ra những nghiệp ác bất thiện. Sau khi suy nghĩ, lại nguyện: Ta phải siêng
năng tinh tấn, không tham đắm. Phải tu hành sáu pháp Ba la mật, thành thục hữu
tình, trang nghiêm cõi Phật, mau được viên mãn và có thể mau chứng đắc Nhất
thiết trí trí. Trong cõi Phật của ta, không có các loài hữu tình bị lệ thuộc
tham ái mà tạo ra các nghiệp ác. Tất cả hữu tình không bị lệ thuộc vào sắc,
thanh v.v... không chấp thủ của cải v.v…
Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ tát ấy
nhờ sáu pháp Ba la mật này chóng được viên mãn, nên năng chứng đắc Nhất thiết
trí trí.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Có đại Bồ
tát tu đủ sáu pháp Ba la mật, thấy các hữu
tình có bốn chủng loại tôn quí, thấp hèn khác nhau, đó là Sát đế lợi cho
đến Thủ đà la. Thấy vậy, đại Bồ tát ấy suy nghĩ: Ta phải làm thế nào để cứu vớt
các loài hữu tình này không còn có sự khác nhau giữa tôn quí và thấp hèn. Sau
khi suy nghĩ, lại nguyện: Ta phải siêng năng tinh tấn, không tham đắm. Phải tu
hành sáu pháp Ba la mật, thành thục hữu tình, trang nghiêm cõi Phật, mau được
viên mãn và sớm chứng đắc Nhất thiết trí trí. Trong cõi Phật của ta, không có
sự khác nhau giữa bốn chủng loại tôn quí, thấp hèn. Tất cả hữu tình đều cùng
một hình sắc, hết thảy đều thuộc lớp người tôn quí.
Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ tát ấy
nhờ sáu pháp Ba la mật này chóng được viên mãn, nên năng chứng đắc Nhất thiết
trí trí. (Q.517, ĐBN)
Lại nữa, này Thiện Hiện! Có đại Bồ
tát tu đủ sáu pháp Ba la mật, thấy các hữu tình có sự khác nhau giữa các gia tộc thượng trung hạ. Thấy vậy, đại
Bồ tát ấy suy nghĩ: Ta phải làm thế nào để cứu vớt các loài hữu tình không còn
sự khác nhau giữa các gia tộc thượng trung hạ. Sau khi suy nghĩ, lại nguyện: Ta
phải siêng năng tinh tấn, không tham đắm. Phải tu hành sáu pháp Ba la mật,
thành thục hữu tình, trang nghiêm cõi Phật, mau được viên mãn và mau chứng đắc
Nhất thiết trí trí. Trong cõi Phật của ta, không có sự khác nhau giữa các gia
tộc thượng trung hạ. Tất cả hữu tình đều đồng một thượng phẩm.
Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ tát ấy
nhờ sáu pháp Ba la mật này chóng được viên mãn, nên năng chứng đắc Nhất thiết
trí trí.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Có đại Bồ
tát tu đủ sáu pháp Ba la mật, thấy các hữu
tình có dung mạo đẹp xấu khác nhau. Thấy vậy, đại Bồ tát ấy suy nghĩ: Ta
phải làm thế nào để cứu vớt các loài hữu tình không còn có dung mạo đẹp xấu
khác nhau như vậy. Sau khi suy nghĩ, lại nguyện: Ta sẽ siêng năng tinh tấn,
không tham đắm, tu hành sáu pháp Ba la mật, thành thục hữu tình, trang nghiêm
cõi Phật, mau được viên mãn và sớm chứng đắc Nhất thiết trí trí. Trong cõi Phật
của ta, không có các loài hữu tình có dung mạo đẹp xấu khác nhau như vậy. Tất
cả đều có màu vàng ròng trang nhã, xinh đẹp, mọi người đều thích nhìn, thành
tựu sắc thân thanh tịnh viên mãn tối thắng.
Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ tát ấy
nhờ sáu pháp Ba la mật này chóng được viên mãn, nên năng chứng đắc Nhất thiết
trí trí.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Có đại Bồ
tát tu đủ sáu pháp Ba la mật, thấy các hữu
tình bị lệ thuộc vào chủ nhân, nên làm ra việc gì cũng không được tự do.
Thấy vậy, đại Bồ tát ấy suy nghĩ: Ta phải làm thế nào để cứu vớt các loài hữu
tình được tự do. Sau khi suy nghĩ, lại nguyện: Ta phải siêng năng tinh tấn,
không tham đắm. Phải tu hành sáu pháp Ba la mật, thành thục hữu tình, trang
nghiêm thanh tịnh cõi Phật, mau được viên mãn, sớm chứng đắc Nhất thiết trí
trí. Trong cõi Phật của ta, các loài hữu tình không có chủ tớ. Những việc làm
đều được tự do, cho đến không thấy hình dáng của chủ nhân, cũng không nghe đến tên
ấy. Chỉ có Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác dùng pháp để thống nhiếp gọi là Pháp
Vương. (Q.517, ĐBN)
Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ tát ấy
nhờ sáu pháp Ba la mật này chóng được viên mãn, nên năng chứng đắc Nhất thiết
trí trí.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Có đại Bồ
tát tu tập đầy đủ sáu pháp Ba la mật, thấy các hữu tình có sự khác nhau giữa các cõi địa ngục v.v... Thấy vậy, đại
Bồ tát ấy suy nghĩ: Ta phải làm thế nào để cứu vớt các loài hữu tình không còn
có sự khác nhau giữa các cõi thiện ác. Sau khi suy nghĩ, lại nguyện: Ta phải
siêng năng tinh tấn, không tham đắm. Phải tu hành sáu pháp Ba la mật, thành
thục hữu tình, trang nghiêm cõi Phật, mau được viên mãn và sớm chứng đắc Nhất
thiết trí trí. Trong cõi Phật của ta, không có sự khác nhau giữa các cõi thiện
ác, cho đến không có tên các cõi ác. Tất cả hữu tình đều đồng một loại, cùng tu
một nghiệp, nghĩa là tất cả đều cùng nhau tu hành bố thí cho đến Bát nhã Ba la
mật. An trụ trong pháp nội không cho đến pháp vô tính tự tính không. An trụ
trong chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì. Nói rộng ra, an trụ vào tất cả
pháp Phật tu hành tứ Thánh đế cho đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ tát ấy
nhờ sáu pháp Ba la mật này chóng được viên mãn, nên năng chứng đắc Nhất thiết
trí trí.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Có đại Bồ
tát tu đủ sáu pháp Ba la mật, thấy các hữu
tình có bốn loại sanh khác nhau (hóa
sanh, thai sanh, noãn sanh và thấp sanh). Thấy vậy, đại Bồ tát ấy suy nghĩ:
Ta phải làm thế nào để cứu vớt các loài hữu tình không còn có bốn loại sanh
khác nhau như vậy. Sau khi suy nghĩ, lại nguyện: Ta phải siêng năng tinh tấn,
không tham đắm. Phải tu hành sáu pháp Ba la mật, thành thục hữu tình, trang
nghiêm cõi Phật, mau được viên mãn, sớm chứng đắc Nhất thiết trí trí. Trong cõi
Phật của ta, không có sự khác nhau của bốn loại sanh như vậy. Tất cả hữu tình
đều đồng một loại hóa sanh.
Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ tát ấy
nhờ sáu pháp Ba la mật này chóng được viên mãn, nên năng chứng đắc Nhất thiết
trí trí.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Có đại Bồ
tát tu đủ sáu pháp Ba la mật, thấy các hữu tình không có năm tuệ thần thông, làm việc gì cũng không được tự tại.
Thấy vậy, đại Bồ tát ấy suy nghĩ: Ta phải làm thế nào để cứu vớt các loài hữu
tình đạt được năm tuệ thần thông. Suy nghĩ như vậy, liền nguyện: Ta phải siêng
năng tinh tấn, không tham đắm. Phải tu hành sáu pháp Ba la mật, thành thục hữu
tình, trang nghiêm cõi Phật, mau được viên mãn và mau chứng đắc Nhất thiết trí
trí. Trong cõi Phật của ta, các loài hữu tình đều thành tựu đủ năm thần thông
thù thắng.
Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ tát ấy
nhờ sáu pháp Ba la mật này chóng được viên mãn, nên năng chứng đắc Nhất thiết
trí trí. (Q.517, ĐBN)
Lại nữa, này Thiện Hiện! Có đại Bồ
tát tu đủ sáu pháp Ba la mật, thấy các hữu
tình ăn bằng đoạn thực, thân thể có các đại tiểu tiện và máu mủ hôi thối,
rất là nhàm chán. Thấy vậy, đại Bồ tát ấy suy nghĩ: Ta phải làm thế nào để cứu
vớt các loài hữu tình làm cho trong thân không có dơ nhớp như vậy. Sau khi suy
nghĩ, lại nguyện: Ta phải siêng năng tinh tấn, không tham đắm. Phải tu hành sáu
pháp Ba la mật, thành thục hữu tình, trang nghiêm cõi Phật, mau được viên mãn
và sớm chứng đắc Nhất thiết trí trí. Trong cõi Phật của ta, các loài hữu tình
chỉ đồng thọ dụng thức ăn bằng pháp hỷ lạc diệu, thân của họ thơm khiết, không
có các thứ nhơ nhớp.
Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ tát ấy
nhờ sáu pháp Ba la mật này chóng được viên mãn, nên năng chứng đắc Nhất thiết
trí trí.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Có đại Bồ
tát tu đủ sáu pháp Ba la mật, thấy các hữu
tình sống thiếu ánh sáng, khi
làm việc gì đều phải có đèn đuốc. Thấy vậy, đại Bồ tát ấy suy nghĩ: Ta phải làm
thế nào để cứu vớt các loài hữu tình sống trong tăm tối như vậy. Sau khi suy
nghĩ, lại nguyện: Ta phải siêng năng tinh tấn, không tham đắm. Phải tu hành sáu
pháp Ba la mật, thành thục hữu tình, trang nghiêm cõi Phật, mau được viên mãn
và sớm chứng đắc Nhất thiết trí trí. Trong cõi Phật của ta, các loài hữu tình thân thể đều có đủ ánh sáng, chẳng nhờ ánh
sáng bên ngoài chiếu vào.
Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ tát ấy
nhờ sáu pháp Ba la mật này chóng được viên mãn, nên năng chứng đắc Nhất thiết
trí trí
Lại nữa, này Thiện Hiện! Có đại Bồ
tát tu đủ sáu pháp Ba la mật, thấy các hữu
tình ở đêm, ngày, một tháng hoặc nửa tháng, bị thời tiết xấu thay đổi bất
thường. Thấy vậy, đại Bồ tát ấy suy nghĩ: Ta phải làm thế nào để cứu vớt
các loài hữu tình, khiến cho chỗ họ ở không có sự thay đổi thời tiết của ngày
đêm. Sau khi suy nghĩ, lại nguyện: Ta phải siêng năng tinh tấn, không tham đắm.
Phải tu hành sáu pháp Ba la mật, thành thục hữu tình, trang nghiêm cõi Phật,
mau được viên mãn và sớm chứng đắc Nhất thiết trí trí. Trong cõi Phật của ta,
không có thời tiết và tên của ngày, đêm, một tháng, nửa tháng.
Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ tát ấy
nhờ sáu pháp Ba la mật này chóng được viên mãn, nên năng chứng đắc Nhất thiết
trí trí.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Có đại Bồ
tát tu đủ sáu pháp Ba la mật, thấy các hữu
tình tuổi thọ ngắn ngủi. Thấy vậy, đại Bồ tát ấy suy nghĩ: Ta phải làm thế
nào để cứu vớt các loài hữu tình xa lìa tuổi thọ ngắn ngủi như thế. Sau khi suy
nghĩ, lại nguyện: Ta phải siêng năng tinh tấn, không tham đắm. Phải tu hành sáu
pháp Ba la mật, thành thục hữu tình, trang nghiêm cõi Phật, mau được viên mãn
và sớm chứng đắc Nhất thiết trí trí. Trong cõi Phật của ta, các loài hữu tình
tuổi thọ lâu dài, kiếp số cũng khó biết được.
Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ tát ấy
nhờ sáu pháp Ba la mật này chóng được viên mãn, nên năng chứng đắc Nhất thiết
trí trí.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Có đại Bồ
tát tu đủ sáu pháp Ba la mật, thấy các hữu
tình không có tướng tốt. Thấy vậy, đại Bồ tát ấy suy nghĩ: Ta phải làm thế
nào để cứu vớt các loài hữu tình được tướng tốt đẹp. Sau khi suy nghĩ, lại
nguyện: Ta phải siêng năng tinh tấn, không tham đắm. Phải tu hành sáu pháp Ba
la mật, thành thục hữu tình, trang nghiêm cõi Phật, mau được viên mãn và sớm
chứng đắc Nhất thiết trí trí. Trong cõi Phật của ta, các loài hữu tình đều có
đủ ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp trang nghiêm viên mãn, hữu tình nào
thấy đều phát sanh lòng hoan hỷ thanh tịnh.
Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ tát ấy
nhờ sáu pháp Ba la mật này chóng được viên mãn, nên năng chứng đắc Nhất thiết
trí trí.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Có đại Bồ
tát tu đủ sáu pháp Ba la mật, thấy các loài hữu tình thiếu các căn lành. Thấy vậy, đại Bồ tát ấy suy nghĩ: Ta
phải làm thế nào để cứu vớt các loài hữu tình, giúp cho đầy đủ căn lành. Sau
khi suy nghĩ, lại nguyện: Ta phải siêng năng tinh tấn, không tham đắm. Phải tu
hành sáu pháp Ba la mật, thành thục hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật,
mau được viên mãn và sớm chứng đắc Nhất thiết trí trí. Trong cõi Phật của ta,
các loài hữu tình tất cả căn lành đều được hoàn hảo, thù thắng thanh tịnh. Nhờ
căn lành này mà đem những vật cúng dường thượng hạng để cúng dường chư Phật.
Nương nhờ phước lực này mà sanh nơi nào cũng có thể cúng dường chư Phật Thế
Tôn.
Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ tát ấy
nhờ sáu pháp Ba la mật này chóng được viên mãn, nên năng chứng đắc Nhất thiết
trí trí.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Có đại Bồ
tát tu đủ sáu pháp Ba la mật, thấy các hữu
tình thân tâm bị bệnh hoạn. Thân bệnh có bốn là: Gió, nóng, đàm và các bệnh
lẫn lộn khác. Tâm bệnh cũng bốn là: Tham, sân, si và mạn. Thấy vậy, đại Bồ tát
ấy suy nghĩ: Ta phải làm thế nào để cứu vớt các loài hữu tình thân tâm hết bệnh
khổ. Sau khi suy nghĩ, lại nguyện: Ta phải siêng năng tinh tấn, không tham đắm.
Phải tu hành sáu pháp Ba la mật, thành thục hữu tình, trang nghiêm cõi Phật,
mau được viên mãn và có thể sớm chứng đắc Nhất thiết trí trí. Trong cõi Phật
của ta, không có các loài hữu tình thân tâm bị bệnh khổ, cho đến không có cái
tên bệnh của thân tâm.
Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ tát ấy
nhờ sáu pháp Ba la mật này chóng được viên mãn, nên năng chứng đắc Nhất thiết
trí trí. (Q.517, ĐBN)
Lại nữa, này Thiện Hiện! Có đại Bồ
tát tu đủ sáu pháp Ba la mật, thấy các hữu
tình có những sở thích sai khác về ba thừa. Thấy vậy, đại Bồ tát ấy suy
nghĩ: Ta phải làm thế nào để cứu vớt các loài hữu tình có sở thích hẹp hòi,
khiến họ xả bỏ sở thích về Nhị thừa mà chỉ hướng về Đại thừa vô thượng. Sau khi
suy nghĩ, lại nguyện: Ta phải siêng năng tinh tấn, không tham đắm. Phải tu hành
sáu pháp Ba la mật, thành thục hữu tình, trang nghiêm cõi Phật, mau được viên
mãn và sớm chứng đắc Nhất thiết trí trí. Trong cõi Phật của ta, các loài hữu
tình chỉ cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, không thích quả Thanh văn, Độc
giác thừa cho đến không có tên của Nhị thừa. (Q.517, ĐBN)
Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ tát ấy
nhờ sáu pháp Ba la mật này chóng được viên mãn, nên năng chứng đắc Nhất thiết
trí trí.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Có đại Bồ
tát tu đủ sáu pháp Ba la mật, thấy các hữu
tình tăng thượng mạn, chưa xả nói là xả, chưa đắc nói là đắc. Thấy vậy, đại
Bồ tát ấy suy nghĩ: Ta phải làm thế nào để cứu vớt các loài hữu tình xả bỏ sự
trói buộc của tăng thượng mạn. Sau khi suy nghĩ, lại nguyện: Ta phải siêng năng
tinh tấn, không tham đắm. Phải tu hành sáu pháp Ba la mật, thành thục hữu tình,
trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, mau được viên mãn và sớm chứng đắc Nhất thiết
trí trí. Trong cõi Phật của ta, không có những người tăng thượng mạn như vậy.
Tất cả hữu tình như thật tri kiến về những điều đã xả, đã đắc.
Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ tát ấy
nhờ sáu pháp Ba la mật này chóng được viên mãn, nên năng chứng đắc Nhất thiết
trí trí.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Có đại Bồ
tát tu đủ sáu pháp Ba la mật, thấy các hữu
tình sanh chấp trước, nghĩa là chấp trước sắc uẩn; chấp trước thọ, tưởng,
hành, thức uẩn. Nói rộng cho đến chấp trước hạnh Bồ tát; chấp trước quả vị Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Thấy vậy, đại Bồ tát ấy suy nghĩ: Ta phải làm thế nào
để cứu vớt các loài hữu tình xả bỏ những sự chấp trước ấy. Sau khi suy nghĩ,
lại nguyện: Ta phải siêng năng tinh tấn, không tham đắm. Phải tu hành sáu pháp Ba
la mật, thành thục hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, mau được viên
mãn và có thể sớm chứng đắc Nhất thiết trí trí. Trong cõi Phật của ta, các loài
hữu tình không có những sự chấp trước như thế.
Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ tát ấy
nhờ sáu pháp Ba la mật này chóng được viên mãn, nên năng chứng đắc Nhất thiết
trí trí.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Có đại Bồ
tát tu đủ sáu pháp Ba la mật, thấy có
Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác với tuổi thọ, ánh sáng cùng chúng đệ tử nhiều không
đếm hết. Thấy vậy, đại Bồ tát ấy suy nghĩ: Ta phải làm thế nào để được tuổi
thọ, ánh sáng và chúng đệ tử nhiều không giới hạn. Sau khi suy nghĩ, lại
nguyện: Ta phải siêng năng tinh tấn, không tham đắm. Phải tu hành sáu pháp Ba
la mật, thành thục hữu tình, trang nghiêm cõi Phật, mau được viên mãn và sớm
chứng đắc Nhất thiết trí trí. Tất cả tuổi thọ, ánh sáng, chúng đệ tử của ta đều
không có giới hạn.
Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ tát ấy
nhờ sáu pháp Ba la mật này chóng được viên mãn, nên năng chứng đắc Nhất thiết
trí trí.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Có đại Bồ
tát tu đủ sáu pháp Ba la mật, thấy chu
vi vùng đất của Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác không giới hạn. Thấy vậy, đại
Bồ tát ấy suy nghĩ: Ta phải làm thế nào cho cõi Phật ta được ở vùng đất với chu
vi không giới hạn, an ổn, phong phú và thái bình. Sau khi suy nghĩ, lại nguyện:
Ta phải siêng năng tinh tấn, không tham đắm. Phải tu hành sáu pháp Ba la mật,
thành thục hữu tình, trang nghiêm cõi Phật, mau được viên mãn và có thể sớm
chứng đắc Nhất thiết trí trí. Hằng hà sa số thế giới khắp mười phương hợp lại
thành một cõi, an ổn, yên vui. Ta ở cõi đó thuyết pháp giáo hóa vô lượng, vô
số, vô biên hữu tình.
Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ tát ấy
nhờ sáu pháp Ba la mật này chóng được viên mãn, nên năng chứng đắc Nhất thiết
trí trí. (Q.517, ĐBN)
Lại nữa, này Thiện Hiện! Có đại Bồ
tát tu đủ sáu pháp Ba la mật, thấy vô số cõi hữu tình đường sanh tử quá
dài, ác số ấy vô biên. Thấy vậy, đại Bồ tát ấy suy nghĩ: Thời giai sanh tử
và cõi hữu tình đều như hư không. Mặc dù không có người thật sự luân hồi sanh
tử và giải thoát, nhưng do các hữu tình hư vọng chấp trước, nên luôn luân hồi
sanh tử, chịu khổ vô cùng tận. Ta làm sao để cứu giúp họ. Sau khi suy nghĩ, lại
nguyện: Ta phải siêng năng tinh tấn, không tham đắm. Phải tu hành sáu pháp Ba
la mật, thành thục hữu tình, trang nghiêm cõi Phật, mau được viên mãn và sớm
chứng đắc Nhất thiết trí trí. Vì các hữu tình thuyết Vô thượng pháp, đều khiến
giải thoát đại khổ sanh tử, cũng khiến chứng biết sanh tử, giải thoát đều vô sở
hữu, rốt ráo đều không.
Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ tát ấy
nhờ sáu pháp Ba la mật này chóng được viên mãn, nên năng chứng đắc Nhất thiết
trí trí. (Q.517, ĐBN)
Thích nghĩa:
(1). Nguyên văn bằng chữ Hán của đoạn Kinh đậm
nét trên là:
“佛Phật 告cáo 善Thiện 現Hiện 。 於ư 意ý 云vân 何hà 。 若nhược 心tâm 住trụ 如như 真Chân 如Như 。 是thị 心tâm 為vi 如như 真Chân 如Như 。 實thật 際tế 性tánh 常thường 住trụ 不phủ 。 善Thiện 現Hiện 答đáp 言ngôn 。 不phủ 也dã 。 世Thế 尊Tôn 。 是thị 心tâm 非phi 如như 真Chân 如Như 。 實thật 際tế 其kỳ 性tánh 常thường 住trụ” 。
Cũng như hai pháp Hội trước, trong pháp hội thứ III
này, chúng tôi gặp một vài khó khăn trong vấn đề chuyển ngữ từ Hán sang Việt,
mặc dầu đọc và so chiếu với các bản dịch khác như tuvienquangduc.com,
thuvienhoasen.org, Quangduc.com hay hoavouu.com.
Đoạn Kinh
Việt dịch in đậm nét trên, chúng tôi trích từ bản dịch của thuvienhoasen.org.
Điểm đáng lưu ý là tâm như (chơn như của tâm)
và tâm trụ (chỗ trụ của tâm). Tâm như
là chơn tâm thì bất biến, không đổi dời; còn tâm trụ có thể trụ ở lành dữ, có
không. Còn thật tế thì cũng giống như chơn như không hai không khác. Nếu hiểu
như vậy thì có thể hiểu đoạn Kinh đối thoại giữa Phật và Thiện Hiện nói trên.
Sơ giải:
Phẩm “Tướng
Không” này tương đương với ba phẩm là: 1. Phẩm “Phương Tiện Thiện Xảo”, quyển
328 cho đến hết quyển 330, Hội thứ I, 2. Phẩm “Phương Tiện Thiện Xảo”, quyển
330, Hội thứ I, và 3. Phẩm cùng tên là “Hạnh Nguyện”, phần đầu quyển 331, Hội
thứ I, ĐBN. Chúng tôi đã thích nghĩa và lược giải ba phẩm này rồi. Nên ở đây
chúng tôi không muốn trùng tuyên nữa. Hội thứ IV chúng tôi sẽ đúc kết sau.
Quý vị cứ
theo chỉ dẫn của Hội thứ I và Hội thứ II mà ôn tập.
---o0o---