Thứ Sáu, 18 tháng 6, 2021

Hội thứ II - 79. Phẩm "Đạo Sĩ"

 

PHẨM “ĐẠO SĨ”

 

Quyển 476, tập 20. Hội thứ II, ĐBN.

(Tương đương phẩm “Nghiêm Tịnh Cõi Phật”, phần sau Q.393

cho đến phần đầu Q.394, Hội thứ I, ĐBN) 

 

Gợi ý:

Một trong những tiêu đề lớn của Phật đạo là phá ngã, diệt tội, thành thục chúng sanh, thanh tịnh Phật độ. Nếu thực hiện được những mục tiêu lớn này thì tất cả cõi nước sẽ biến thành cõi Tịnh độ cho tất cả mọi chúng sanh. Đó là ước nguyện của Tỳ kheo Pháp Tạng nói riêng và tất cả Bồ tát nói chung. Đạo Khổng với chiêu bài: Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ cũng đáng được xem là những chiêu bài quan trọng trong việc xây dựng cá nhân và quốc độ, đã một thời ngự trị trên dòng lịch sử cổ đại thời phong kiến mãi cho tới cận đại. Bây giờ, các nhà được mệnh danh là “Kinh bang tế thế” cũng không ngớt hô hào chấn hưng đạo đức và phát triển quốc gia trên phương diện văn hóa, kinh tế, khoa học, kỹ thuật v.v... Tất cả đều phát xuất từ Bồ đề tâm, Bồ tát đạo không ngừng được cổ động suốt dòng lịch sử trong việc tạo dựng thế gian này.

Phẩm trước có phẩm tựa là “Vô Khuyết”, nhưng nói nhiều về thành thục hữu tình; phẩm này có tên là “Đạo Sĩ” lại nói về thanh tịnh Phật độ. Hội thứ I có ba phẩm có tình tiết và giáo lý giống với Hội này có phẩm tựa là “Thành Thục Hữu Tình”, “Nghiêm Tịnh Cõi Phật” và “Phương Tiện Tịnh Độ”. Cả hai Hội có cùng một thứ rượu chỉ khác bình, Quý vị tụng qua sẽ rõ!

 

Tóm lược:

 

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện suy nghĩ: Đạo của đại Bồ tát như thế nào mà các đại Bồ tát an trụ vào đạo này có thể mặc những loại áo giáp công đức thù thắng và như thật làm lợi ích cho tất cả hữu tình?

Biết tâm niệm của cụ thọ Thiện Hiện, đức Thế Tôn liền bảo:

- Này Thiện Hiện! Nên biết, bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật là đạo của các đại Bồ tát. Bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo là đạo của các đại Bồ tát. Pháp nội không cho đến pháp vô tính tự tính không là đạo của các đại Bồ tát. Chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì là đạo của các đại Bồ tát. Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo là đạo của các đại Bồ tát. Bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc là đạo của các đại Bồ tát. Tám giải thoát cho đến mười biến xứ là đạo của các đại Bồ tát. Pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện là đạo của các đại Bồ tát. Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa là đạo của các đại Bồ tát. Tất cả môn Đà la ni, môn Tam ma địa là đạo của các đại Bồ tát. Năm loại mắt, sáu phép thần thông là đạo của các đại Bồ tát. Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng là đạo của các đại Bồ tát. Pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả là đạo của các đại Bồ tát. Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí là đạo của các đại Bồ tát. Vô lượng, vô biên Phật pháp khác là đạo của các đại Bồ tát.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nói chung tất cả pháp Phật đều là đạo của các đại Bồ tát.

- Này Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Vậy thì có pháp nào mà các đại Bồ tát không nên học không? Nếu các đại Bồ tát không học pháp thì có thể chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Đúng vậy! Đúng vậy! Nhất định không có một pháp nào mà đại Bồ tát không nên học. Nếu các đại Bồ tát không học pháp ấy thì chắc chắn không thể cầu được quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì sao? Vì nếu đại Bồ tát không học tất cả pháp, thì nhất định không thể đạt được Nhất thiết trí trí.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Nếu tự tánh của tất cả các pháp đều không thì tại sao đại Bồ tát cần phải học? Và như vậy thì học ở chỗ nào? Nếu có thì Bạch Thế Tôn không lẽ đối với pháp không hý luận mà làm ra hý luận, cho là có các pháp đây, hoặc thế này, thế nọ: Đây là thế gian, đây là xuất thế gian, đây là hữu lậu, đây là vô lậu, đây là hữu vi, đây là vô vi; đây là pháp phàm phu, đây là pháp Dự lưu, đây là pháp Nhất lai, pháp Bất hoàn, A la hán, đây là pháp Độc giác, đây là pháp Bồ tát, đây là pháp Như Lai?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Này Thiện Hiện! Như ông đã nói, tự tánh của các pháp sở hữu đều không, nếu tất cả các pháp tự tánh chẳng không, thì đại Bồ tát sẽ không chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Do tự tánh của tất cả pháp đều không, cho nên đại Bồ tát có thể chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Này Thiện Hiện! Như ông đã nói, nếu tự tánh của tất cả pháp đều không. Vì sao đại Bồ tát cần phải học, và như vậy thì học ở chỗ nào v.v…? Này Thiện Hiện! Nếu các hữu tình biết tự tánh tất cả pháp đều không, thì các đại Bồ tát không cần học tất cả pháp để chứng đắc Nhất thiết trí trí, hãy vì các hữu tình mà tìm phương cách để giáo hóa, bởi vì các hữu tình không biết tự tánh các pháp đều không. Các đại Bồ tát nhất định phải học tất cả pháp, để chứng đắc Nhất thiết trí trí, vì các hữu tình mà lập những phương cách để giáo hóa.

Này Thiện Hiện! Ông nên biết các đại Bồ tát khi mới tu học Bồ tát đạo, nên quán sát thật kỹ các pháp tự tánh đều không thể đắc, chỉ do chấp trước, hòa hợp mà tạo ra, nên quán sát thật kỹ tự tánh của các pháp hoàn toàn không, ở trong đó không nên chấp trước. Nghĩa là không nên chấp trước sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Không nên chấp trước mười hai xứ cho đến mười tám giới. Không nên chấp trước nhãn xúc cho đến ý xúc. Không nên chấp trước các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra. Không nên chấp trước địa giới cho đến thức giới. Không nên chấp trước nhân duyên cho đến tăng thượng duyên. Không nên chấp trước các pháp do duyên sanh. Không nên chấp trước vô minh cho đến lão tử. Không nên chấp trước bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Không nên chấp trước pháp nội không cho đến pháp vô tính tự tính không. Không nên chấp trước chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì. Nói rộng ra, không nên chấp trước tất cả pháp Phật. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp đều không. Tánh không chẳng lẽ chấp trước tánh không. Trong tánh không không hãy bất khả đắc, huống chi có tánh không năng chấp trước không.

Này Thiện Hiện! Khi các đại Bồ tát quán sát tất cả pháp như vậy, đối với tánh của các pháp tuy không chấp trước, nhưng với các pháp phải học hỏi không nhàm chán. Đại Bồ tát ấy trụ trong sự học này mà quán tâm hành sai khác của các hữu tình. Nghĩa là quán sát tâm hành của các hữu tình ở đâu. Sau khi quán sát rồi biết rõ như thật tâm của họ chỉ do hư vọng chấp đắm. Bấy giờ, Bồ tát suy nghĩ: Tâm kia chỉ do hư vọng chấp đắm. Nay ta hãy làm cho họ giải thoát chắc chắn không khó. Suy nghĩ như vậy rồi, đại Bồ tát an trụ vào Bát nhã Ba la mật, dùng phương tiện thiện xảo khuyên răn, dạy bảo nói với các hữu tình: Bây giờ các ngươi hãy tránh xa những kiến chấp do hư vọng để đi vào chánh pháp, tu tập các hạnh lành. Lại nói: Bây giờ các ngươi nên thực hành bố thí để được đầy đủ tư lương không còn thiếu kém, chớ nên ỷ vào đó mà sanh lòng kiêu mạn, buông lung. Vì sao? Vì trong ấy hoàn toàn không có gì lâu bền chắc thật. Bây giờ các ngươi nên tu hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã sẽ được đầy đủ những loại công đức, nhưng đừng ỷ vào đó mà sanh lòng kiêu mạn, buông lung. Vì sao? Vì trong ấy hoàn toàn không có gì lâu bền, chắc thật. Bây giờ các ngươi nên hành pháp nội không cho đến pháp vô tính tự tính không. Nên hành chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì. Nói rộng ra, nên tu hành vô lượng các Phật pháp khác, nhưng đừng ỷ vào đó mà sanh tâm ngã mạn, buông lung. Vì sao? Vì trong ấy đều không có gì bền vững, chắc thật.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ tát ấy an trụ vào Bát nhã Ba la mật khi dùng phương tiện thiện xảo khuyên răn, dạy bảo cho các hữu tình hành Bồ tát đạo nhưng không chấp trước. Vì sao? Vì không nên chấp trước vào tánh của tất cả pháp, hoặc năng chấp trước, hoặc sở chấp trước, hoặc thời chấp, hoặc xứ chấp hoàn toàn không có tự tánh, vì tự tánh của tất cả pháp là không. (Q.476, ĐBN)

Này Thiện Hiện! Khi các đại Bồ tát tu hành đạo của Bồ tát như vậy, thì đối với tất cả pháp đều không có chỗ trụ. Lấy vô sở trụ làm phương tiện. Tuy hành bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật nhưng trong đó cũng vô sở trụ. Tuy hành pháp nội không cho đến pháp vô tánh tự tánh không, nhưng trong đó không có chỗ trụ. Tuy hành chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì nhưng trong đó đều vô sở trụ. Nói rộng ra tuy hành vô lượng các Phật pháp khác nhưng trong đó đều vô sở trụ. Vì sao? Vì tự tánh của hành giả và hành tướng tất cả đều không, ở trong đó hoàn toàn vô sở trụ.

Thiện Hiện! Phải biết các đại Bồ Tát tuy có khả năng đắc quả Dự lưu cho đến Độc giác Bồ đề, mà với trong ấy chẳng muốn chứng trụ. Vì sao? Có hai duyên cớ: Một là quả kia đều vô tự tánh, năng trụ sở trụ đều bất khả đắc. Hai là đối với quả kia chẳng sanh hoan hỷ. Vậy nên, đối trong chẳng muốn chứng trụ. Nghĩa là các Bồ Tát thường khởi nghĩ này: Đối với quả Dự lưu cho đến Độc giác Bồ đề, ta chẳng nên thủ đắc, cũng chẳng nên chứng trụ. Sở dĩ vì sao? Vì ta từ sơ phát tâm muốn hướng đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề đến nay, đối tất cả thời không có tưởng nào khác, chỉ một mực cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Ta sẽ chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, không lẽ ở thời gian giữa lại đi trụ các quả khác.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ tát ấy từ lúc chứng đắc sơ địa lần lượt chứng đắc địa thứ mười chưa từng có tư tưởng nào khác, chỉ mong cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ tát ấy một lòng cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, đối với tất cả thời tâm không tán loạn. Hoạt động, tạo tác của thân, khẩu, ý hoàn toàn tương ưng với Bồ đề tâm.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ tát ấy trụ vào tâm Bồ đề để hành Bồ đề đạo, không bị những việc khác khuấy nhiễu tâm mình.

Cụ thọ Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp rốt ráo chẳng sanh, đại Bồ Tát làm sao khởi đạo Bồ đề?

Phật bảo:

- Đúng vậy! Đúng như ngươi nói! Tất cả pháp đều chẳng sanh, nhưng làm sao các kẻ không sở tác không sở thú biết tất cả pháp đều chẳng sanh vậy?

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Dầu chư Phật xuất hiện hoặc chẳng xuất hiện ở đời thì pháp tánh, pháp giới các pháp vẫn thường trụ chăng?

Phật bảo:

- Đúng vậy! Nhưng các hữu tình không thể hiểu rõ pháp giới của các pháp là pháp thường trụ như vậy, nên luân hồi trong sanh tử, chịu các khổ não. Các đại Bồ tát vì làm lợi ích cho họ, mà hành Bồ đề đạo. Nhờ Bồ đề đạo mà làm cho các hữu tình hoàn toàn giải thoát các khổ sanh tử và chứng đắc Niết bàn thường lạc thanh tịnh.

 

(Đại Bồ tát làm sao chứng Vô Thượng Giác Ngộ?)

 

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ tát nhờ dùng sanh đạo mà chứng Bồ đề phải không?

Phật bảo:

- Không!

Cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nhờ dùng bất sanh đạo nên đắc Bồ đề phải không?

Phật bảo:

- Không!

Cụ thọ Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Nhờ dùng sanh đạo hay bất sanh đạo mà đắc Bồ đề chăng?

Phật bảo:

- Không! Thiện Hiện!

Cụ thọ Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Nhờ dùng đạo chẳng sanh, chẳng phải chẳng sanh mà đắc Bồ đề chăng?

Phật bảo:

- Không! Thiện Hiện!

Cụ thọ Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Nếu vậy thì do đâu mà đắc Bồ đề?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Bồ đề không do đạo, chẳng phải đạo mà đạt được. Vì sao? Vì Bồ đề tức là đạo, đạo tức là Bồ đề. Cho nên không do đạo, phi đạo mà được.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu Bồ đề tức là đạo, đạo tức là Bồ đề phải chăng đại Bồ tát đã đắc Bồ đề đạo thì cũng phải chứng Bồ đề? Nếu vậy thì Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác do duyên gì mà vì chư Bồ tát nói mười lực của Như Lai, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của Phật và vô lượng, vô biên các Phật pháp khác để khiến cho họ tu chứng?

Phật bảo:

- Này Thiện Hiện: Ý ông nghĩ sao? Chẳng lẽ ông cho là Phật thật có đắc Bồ đề sao?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Không! Vì sao? Vì Phật tức là Bồ đề, Bồ đề tức là Phật. Nên không nên nói Phật thật có đắc Bồ đề.

Phật bảo:

- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Nhưng theo điều ông hỏi phải chăng đại Bồ tát đã đắc đạo Bồ đề thì là chứng Bồ đề. Này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát tu Bồ đề đạo chưa viên mãn thì làm sao nói đã chứng Bồ đề.

Này Thiện Hiện! Nên biết, các đại Bồ tát nếu đã viên mãn bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Nếu đã viên mãn pháp nội không cho đến pháp vô tánh tự tánh không. Nếu đã viên mãn chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì. Nói rộng ra, nếu đã viên mãn vô lượng, vô biên các Phật pháp khác. Từ đây không xen hở dùng Kim cương dụ định tương ưng với diệu tuệ (Bát Nhã) chỉ trong sát na, đoạn trừ vĩnh viễn hai chướng(1) tập khí tương tục thô trọng mà chứng đắc quả vị Vô thượng Bồ đề. Tới đây mới gọi là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Với tất cả pháp đều được đại tự tại cho đến tận đời vị lai luôn làm lợi ích cho hữu tình.

 

(Nói về nghiêm tịnh cõi Phật)

 

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ tát trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật như thế nào?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Chư đại Bồ tát từ mới phát tâm cho đến đời vị lai, luôn làm thanh tịnh ba nhgiệp thô trọng thuộc về thân, khẩu, ý của mình và làm thanh tịnh ba nghiệp thô trọng ấy cho người thì có thể trang nghiêm cõi Phật.

Cụ thọ Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là ba nghiệp thô trọng thuộc thân, khẩu, ý của đại Bồ tát?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Nếu sát hại sanh mạng (sát=giết hại), không cho mà lấy (đạo hay trộm cướp) và dục tà hạnh (dâm) đó là thô trọng thuộc về thân. Nếu nói lời hư dối, lời ly gián, lời hung ác, lời tạp uế đó là sự thô trọng thuộc về khẩu. Nếu tham muốn, sân hận, tà kiến đó là sự thô trọng thuộc về ý.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát trí kiến uẩn của đại Bồ tát mà không thanh tịnh thì cũng gọi là thô trọng.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát có tâm xan tham, tâm phạm giới, tâm tức giận, tâm biếng nhác, tâm tán loạn, tâm ác tuệ, cũng gọi là thô trọng.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát có tâm xa lìa bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo cũng gọi là thô trọng. Nếu đại Bồ tát có tâm xa lìa pháp nội không cho đến pháp vô tính tự tính không cũng gọi là thô trọng. Nếu đại Bồ tát có tâm xa lìa chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì, cũng gọi là thô trọng. Nói rộng ra, cho đến nếu đại Bồ tát có tâm xa lìa tất cả pháp Phật cũng gọi là thô trọng.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát tham trước quả Dự lưu cho đến Độc giác Bồ đề cũng gọi là thô trọng.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát có tưởng về sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về mười hai xứ cho đến mười tám giới cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về nhãn xúc cho đến ý xúc cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về địa giới cho đến thức giới cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về nhân duyên cho đến tăng thượng duyên cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về các pháp do duyên sanh ra cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về vô minh cho đến lão tử cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về pháp nội không cho đến pháp vô tính tự tính không cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì cũng gọi là thô trọng. Nói rộng ra, cho đến có tưởng về tất cả pháp Phật cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về địa ngục, tưởng về bàng sanh, tưởng về ngạ quỷ, tưởng về người, tưởng về trời, tưởng về nam, tưởng về nữ cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về cõi Dục, tưởng về cõi Sắc, cõi Vô sắc cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về pháp thiện, tưởng về pháp phi thiện cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về pháp hữu ký, tưởng về pháp vô ký cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về pháp hữu lậu, tưởng về pháp vô lậu, có tưởng về pháp thế gian, tưởng về pháp xuất thế gian, có tưởng về pháp hữu vi, có tưởng về pháp vô vi cũng gọi là thô trọng.

Này Thiện Hiện! Tất cả vô lượng, vô biên sự chấp trước các pháp như vậy cho đến các phân biệt do hư vọng của hữu tình tạo ra, cùng với thân, khẩu, ý nghiệp phát khởi và các chủng loại mà không kham nhận nổi đều gọi thô trọng. Các đại Bồ Tát đều nên xa lìa.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát hành sâu Bát Nhã nên xa lìa tất cả thô trọng như đã nói trên. Tự mình hành bố thí Ba la mật và dạy bảo người khác hành bố thí Ba la mật. Nếu các hữu tình cần thức ăn thì bố thí thức ăn, cần thức uống thì bố thí thức uống, cần xe cộ thì bố thí xe cộ, cần y phục thì bố thí y phục, theo những gì họ cần thì giúp đỡ đầy đủ. Tùy thời, tùy nơi mà bố thí tất cả. Mình tu hành những gì thì dạy bảo người khác tu hành như vậy. Bố thí như vậy rồi đem những căn lành ấy ban cho các hữu tình một cách bình đẳng, cùng nhau hồi hướng làm trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật mình đang ở, để mau viên mãn làm lợi lạc cho hữu tình. Đại Bồ tát ấy tự mình hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật và dạy bảo người khác cũng hành tịnh giới cho đến Bát nhã Ba la mật. Làm những việc ấy rồi, đem căn lành ban cho tất cả hữu tình một cách bình đẳng và cùng nhau hồi hướng làm trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật mình đang ở, để mau viên mãn làm lợi lạc hữu tình.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát dùng nguyện lực thần thông tóm thâu bảy báu thượng diệu trong tam thiên đại thiên thế giới để cúng dường Phật, Pháp, Tăng. Cúng dường rồi đại Bồ tát hoan hỷ phát lời thệ nguyện rộng lớn như vầy: Con đem tất cả những căn lành đã trồng được đây ban cho các hữu tình một cách bình đẳng, cùng nhau hồi hướng làm trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật. Con sẽ làm cho cõi của con trang nghiêm bằng bảy báu và tất cả hữu tình tùy ý hưởng thụ các trân bảo tốt đẹp nhưng không có nhiễm trước.      

Đại Bồ tát dùng nguyện lực thần thông làm cho Tam thiên đại thiên thế giới đầy đủ các thứ hương hoa, kỹ nhạc, lương thực, y phục vi diệu cúng dường Tam Bảo và tháp Phật. Cúng dường xong hoan hỷ, phát thệ rộng lớn: Con nay nguyện đem thiện căn đã gieo trồng như thế ban cho các hữu tình cùng có như nhau, hồi hướng sở cầu là nghiêm tịnh cõi Phật, sẽ làm cho quốc độ của con thường có các loại hương hoa, âm nhạc thượng diệu, thức ăn trăm món, y phục đủ loại như thế, hữu tình tùy ý thọ dụng thân tâm thoải mái mà không nhiễm trước.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát dùng nguyện thần thông làm năm cảnh diệu dục phát sanh tùy ý trong cõi người, cõi trời, để cúng dường chư Phật và tháp Phật, Độc giác, Thanh văn và chúng đại Bồ tát, bố thí cho các hữu tình khác. Cúng dường xong đại Bồ tát hoan hỷ phát thệ nguyện rộng lớn như vầy: Con đem những căn lành này ban cho các hữu tình một cách bình đẳng và cùng nhau hồi hướng làm trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật mình đang ở. Khi chứng được quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, khiến cho các loại hữu tình trong quốc độ của con, tùy tâm ưa thích cảnh sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp tốt đẹp thì ứng với ý nghĩ đó mà hiện ra, vui sướng hưởng thọ nhưng không nhiễm trước.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát hành sâu Bát Nhã, dõng mãnh siêng năng, phát thệ nguyện rộng lớn như vầy: Tự mình trụ trong pháp nội không cho đến pháp vô tính tự tính không, và dạy người khác trụ trong pháp nội không cho đến pháp vô tính tự tính không. Làm những việc như vậy rồi, đại Bồ tát phát nguyện: Khi chứng được quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, nguyện cho tất cả loài hữu tình trong quốc độ của con không lìa pháp nội không cho đến pháp vô tính tự tính không.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát hành sâu Bát Nhã, dõng mãnh siêng năng, phát thệ nguyện như vầy: Tự mình trụ trong chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì, và dạy bảo người trụ trong chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì. Làm như vậy rồi, Bồ tát phát nguyện: Khi chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, nguyện cho các loài hữu tình trong quốc độ của con không xa lìa chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát hành sâu Bát Nhã, dõng mãnh tinh tấn và phát thệ nguyện rộng lớn: Tự mình trụ trong tất cả pháp Phật và dạy bảo người khác cũng trụ trong tất cả pháp Phật. Làm những việc như vậy xong đại Bồ tát lại phát thệ nguyện như vầy: Khi chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, con nguyện cho các loài hữu tình trong quốc độ của con không lìa bỏ tất cả pháp Phật v.v…

Như vậy, này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát hành sâu Bát Nhã, do các hạnh nguyện trên nên đại Bồ tát có thể nghiêm tịnh cõi Phật.

Thiện Hiện nên biết: Chúng đại Bồ tát ấy tùy theo nơi chốn và thời gian mà hành Bồ đề đạo nên được viên mãn hạnh nguyện đã phát thệ. Tức là bất cứ nơi nào, lúc nào cũng tinh tấn tu học. Do nhân duyên này mà tự mình có thể thành tựu tất cả pháp lành, cũng có thể khiến cho người khác tuần tự thành tựu tất cả pháp lành. Tự mình có thể tu đắc tướng tốt đẹp, thù thắng để trang nghiêm thân, cũng có thể khiến người khác lần lượt tu được tướng tốt đẹp thù thắng để trang nghiêm, đó là do phước đức rộng lớn bảo hộ.

Thiện Hiện, nên biết: Chúng đại Bồ tát ấy hạnh nguyện tu tập đã được viên mãn, và đều được ở chỗ Phật trang nghiêm thanh tịnh. Khi chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, loài hữu tình được giáo hoá cũng sanh vào cõi đó cùng nhau thọ hưởng pháp lạc Đại thừa của tịnh độ.

Thiện Hiện nên biết: Các đại Bồ tát nên tu hành trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật như vậy, bởi vì trong cõi đó không nghe có ba đường ác, cũng không nghe có các cảnh giới thuộc ác kiến; không nghe có ba độc tham, sân, si; không nghe có hình tướng nam nữ; không nghe có Thanh văn, Độc giác; không nghe có khổ, vô thường, những việc không vừa ý; không nghe có cất chứa của cải; không nghe có chấp ngã, ngã sở, tùy miên, kiết sử, điên đảo, chấp trước; không nghe có an lập quả vị sai khác của hữu tình. Chỉ nghe nói về không, vô tướng, vô nguyện, vô sanh, vô diệt, vô tánh; nghĩa là tùy theo những điều ưa thích riêng biệt của hữu tình. Tất cả những vật trong ngoài ở trong rừng thường có gió nhẹ làm va chạm vào nhau phát ra những loại âm thanh vi diệu. Trong âm thanh đó nói tất cả pháp đều không có tự tánh. Vì không có tự tánh nên nó là không. Vì không nên vô tướng. Vì vô tướng nên vô nguyện. Vì vô nguyện nên vô sanh. Vì vô sanh nên vô diệt. Cho nên các pháp xưa nay tịch tịnh, tự tánh Niết bàn. Như Lai xuất hiện ở đời hay không xuất hiện ở đời pháp giới của các pháp vẫn là pháp thường trụ như vậy, nghĩa là tất cả pháp đều vô tánh v.v... Trong cõi Phật đó các loại hữu tình hoặc đêm, hoặc ngày, hoặc đi đứng, nằm, ngồi thường nghe những âm thanh diệu pháp như vậy.

Thiện Hiện nên biết: Chúng đại Bồ tát đó đều trụ ở cõi Phật trang nghiêm thanh tịnh khi chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trong mười phương đều khen ngợi danh hiệu của các vị Phật ấy. Nếu hữu tình nào nghe danh hiệu của chư Phật như thế thì nhất định đối quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề được đắc Bất thối chuyển.

Thiện Hiện nên biết: Chúng đại Bồ tát đều trụ ở cõi Phật trang nghiêm thanh tịnh, khi chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, tuyên nói Chánh pháp cho các hữu tình. Hữu tình nào nghe rồi nhất định không còn nghi ngờ: Đó là pháp hay phi pháp. Vì sao? Vì các hữu tình đó thấu đạt tất cả pháp đều là chơn như, pháp giới, pháp tánh v.v... tất cả là chánh pháp chẳng phải phi pháp.

Như vậy, này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát ấy đều có thể trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật như vậy.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Chúng đại Bồ tát có vị do hóa sanh mà thiện căn chưa đầy đủ, chưa trồng các căn lành với chư Phật, Bồ tát, Độc giác và Thanh văn, vì bị các bạn ác khống chế. Vì xa lìa bạn lành nên không nghe được chánh pháp, thường bị chấp trước vào những loại ngã kiến, hữu tình kiến và các cảnh giới kiến chấp, rơi vào đoạn kiến và thường kiến. Các hữu tình đó tự phát sanh tà chấp, và thường dạy bảo người khác phát sanh tà kiến. Chẳng phải Tam bảo mà tưởng Tam bảo, ở trong Tam bảo mà cho là chẳng phải Tam bảo, chê bai chánh pháp, khen ngợi tà pháp. Do nhân duyên ấy, sau khi qua đời đọa vào các đường ác, chịu khổ sở. Các đại Bồ tát mỗi vị ở cõi của mình, khi chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề rồi, thấy các hữu tình kia chìm đắm trong sanh tử bị vô lượng khổ, dùng lực thần thông và phương tiện để giáo hóa khiến cho họ xả bỏ ác kiến mà sống trong chánh kiến. Ra khỏi đường ác được sanh vào cõi người. Sanh vào cõi người rồi, lại dùng phương tiện thần thông giáo hóa khiến họ trụ trong chánh định tụ, nhờ vậy mà hoàn toàn không bị đọa vào đường ác. Lại khuyên họ tu tập hạnh nguyện thù thắng để sau khi qua đời được sanh về cõi Phật trang nghiêm thanh tịnh, thọ hưởng pháp lạc Đại thừa của tịnh độ.

Như vậy, này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát đều có thể ở cõi Phật trang nghiêm thanh tịnh. Nhờ được ở cõi trang nghiêm thanh tịnh mà các hữu tình ấy đối với các pháp không có nghi ngờ. Nói đây là pháp thế gian, đây là pháp xuất thế gian, đây là pháp hữu lậu, đây là pháp vô lậu, đây là pháp hữu vi, đây là pháp vô vi. Tất cả phân biệt nghi ngờ hoàn toàn không sanh. Do nhân duyên này mà các loài hữu tình ấy nhất định chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Này Thiện Hiện! Như vậy là đại Bồ tát trang nghiêm cõi Phật thanh tịnh.

 

Thích nghĩa:

(1). Hai chướng: 1. Phiền não chướng và 2. Sở tri chướng. Phiền não chướng gây nên bởi tình cảm như mừng, giận, buồn, vui, yêu, ghét, ham thích và dục vọng do lục căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, thức tạo ra phiền não chướng ngại đạo Bồ đề. Còn sở tri chứng là chướng ngại của lý trí, còn gọi là “tri chướng”, chướng ngại của nhận thức . Đây là chướng ngại vi tế khó chữa.

 

Sơ giải:

 

Phẩm “Đạo Sĩ” của Hội thứ II, có những giáo lý rất tương đồng với các phẩm: “Thành Thực Hữu Tình”, “Nghiêm Tịnh Cõi Phật” và “Phương tiện Tịnh Độ” của Hội thứ I, tương đối dễ hiểu. Nếu có thắc mắc hay trở ngại về tình tiết hay giáo lý Quý vị có thể quay lại ba Hội trên tham khảo đọc tụng cũng được, không cần trùng tuyên nữa.

 

---o0o---