PHẨM “CHƠN NHƯ”
Cuối quyển 446 cho đến phần đầu
quyền 448, Hội thứ II, ĐBN.
(Tương đương phẩm “Chơn Như”, phần
sau Q.318 cho đến
phần đầu quyển 324, Hội thứ I, ĐBN)
Tóm lược:
Bấy giờ, chư Thiên cõi Dục, cõi Sắc
đều dùng bột hương chiên đàn, bột hương Đa yết la (Linh lăng hương), bột hương
Đa ma la (Hoắc hương), và hoa sen xanh, đỏ, trắng, vàng trên trời một lượt đồng
rải lên đức Phật, rồi đi đến chỗ đức Phật, đảnh lễ sát chân, lui đứng một bên,
chấp tay cung kính thưa:
- Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la
mật như thế rất
sâu xa khó thấy, khó hiểu, không thể suy lường, vượt cảnh
suy lường, vi diệu,
vắng lặng, người thông tuệ mới có thể biết được, không phải thế gian ai cũng có
thể tin thọ được. Chỉ có đấng Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác sau khi chứng đắc,
đối với Bát nhã Ba la mật sâu xa mới có thể tuyên
nói: Sắc tức là Nhất thiết trí trí, Nhất thiết trí trí tức là sắc; thọ, tưởng,
hành, thức tức là Nhất thiết trí trí; Nhất thiết trí trí tức là thọ, tưởng,
hành, thức. Như vậy, cho đến Nhất thiết trí tức là Nhất thiết trí trí, Nhất
thiết trí trí tức là Nhất thiết trí; Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí tức là
Nhất thiết trí trí; Nhất thiết trí trí tức là Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng
trí. Vì sao? Vì hoặc sắc như, hoặc Nhất thiết trí trí như, hoặc tất cả pháp
như, đều một như, không hai không khác, cũng không cùng tận; hoặc thọ, tưởng,
hành, thức như, hoặc Nhất thiết trí trí như, hoặc tất cả pháp như, đều một như,
không hai không khác, cũng không cùng tận. Như vậy, cho đến hoặc Nhất thiết trí
như, hoặc Nhất thiết trí trí như, hoặc tất cả pháp như, đều một như, không hai
không khác, cũng không cùng tận; hoặc Đạo tướng trí như, Nhất thiết tướng trí
như, hoặc Nhất thiết trí trí như, hoặc tất cả pháp như, đều một như, không hai
không khác, cũng không cùng tận. (Q.446,
ĐBN)
Phật bảo chư Thiên tử cõi Dục, cõi
Sắc:
- Đúng vậy! Đúng như các ông đã nói!
Chư Thiên nên biết, Ta quán nghĩa này nên tâm thường hướng đến vắng lặng, không
muốn thuyết pháp. Vì sao? Vì pháp này sâu xa khó thấy, khó hiểu, không thể suy
lường, vượt cảnh
suy lường, vi diệu,
vắng lặng, chỉ có người thông tuệ mới có thể biết được, không phải thế gian ai
cũng có thể tin thọ được. Đó là Bát nhã Ba la mật sâu xa tức là quả vị
Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề mà Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đã chứng. Chư Thiên
nên biết, quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề như thế không năng chứng, không sở
chứng, không chỗ nương, không thời chứng.
Chư Thiên nên biết, pháp vi diệu
nhiệm mầu này (tức Bát nhã Ba la mật) chỉ xuất hiện độc nhất, không phải
chỗ thế gian có thể so lường được. Chư Thiên nên biết, hư không sâu xa nên pháp
này sâu xa. Chơn như sâu xa nên pháp này sâu xa. Pháp giới, pháp tánh, tánh
chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định,
pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì sâu xa nên pháp
này sâu xa. Vô lượng, vô biên sâu xa nên pháp này sâu xa. Không đi, không đến
sâu xa nên pháp này sâu xa. Không sanh, không diệt sâu xa nên pháp này sâu xa.
Không nhiễm, không tịnh sâu xa nên pháp này sâu xa. Không biết, không đắc sâu
xa nên pháp này sâu xa. Không tạo, không tác sâu xa nên pháp này sâu xa. Ngã
sâu xa nên pháp này sâu xa. Hữu tình, mạng giả, sanh giả, dưỡng giả, sĩ phu, bổ
đặc già la, ý sanh, nho đồng, tác giả, thọ giả, tri giả, kiến giả sâu xa nên
pháp này sâu xa. Sắc sâu xa nên pháp này sâu xa; thọ, tưởng, hành, thức sâu xa
nên pháp này sâu xa. Như vậy, cho đến Nhất thiết trí sâu xa nên pháp này sâu
xa; Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí sâu xa nên pháp này sâu xa. Tất cả Phật
pháp sâu xa nên pháp này sâu xa.
Khi ấy, chư Thiên thưa:
- Bạch Thế Tôn! Pháp đã nói đây sâu
xa, vi diệu các thế gian không thể vội tin thọ được. Vì sao? Vì pháp vi diệu
này không vì nắm giữ sắc nên nói; không vì xả bỏ sắc nên nói, không vì
nắm giữ thọ, tưởng, hành, thức nên nói; không vì xả bỏ thọ, tưởng, hành, thức
nên nói. Như vậy, cho đến không vì nắm giữ Nhất thiết trí nên nói, không vì xả
bỏ Nhất thiết trí nên nói; không vì nắm giữ Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí
nên nói, không vì xả bỏ Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí nên nói. Không vì
nắm giữ tất cả pháp Phật nên nói, không vì xả bỏ tất cả pháp Phật nên nói. Thế
gian, hữu tình phần nhiều tu hành vì nhiếp thủ mà khởi chấp ngã, ngã sở cho sắc
là ta, là của ta; chấp thọ, tưởng, hành, thức là ta, là của ta. Như vậy, cho
đến Nhất thiết trí là ta, là của ta; Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí là ta,
là của ta.
Phật bảo chư Thiên:
- Đúng vậy! Đúng như các ông đã nói!
Pháp này vi diệu, không vì nắm giữ sắc nên nói, không vì xả bỏ sắc nên nói;
không vì nắm giữ thọ, tưởng, hành, thức nên nói, không vì xả bỏ thọ, tưởng,
hành, thức nên nói. Như vậy, cho đến không vì nắm giữ Nhất thiết trí nên nói,
không vì xả bỏ Nhất thiết trí nên nói; không vì nắm giữ Đạo tướng trí, Nhất
thiết tướng trí nên nói, không vì xả bỏ Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí nên
nói. Không vì nắm giữ tất cả Phật pháp nên nói, không vì xả bỏ tất cả Phật pháp
nên nói. Thế gian, hữu tình phần nhiều tu hành vì nhiếp thủ mà khởi chấp
ngã, ngã sở cho sắc là ta, là của ta; thọ, tưởng, hành, thức là ta, là của
ta. Như vậy, cho đến Nhất thiết trí là ta, là của ta; Đạo tướng trí, Nhất thiết
tướng trí là ta, là của ta. Chư Thiên nên biết, nếu Bồ tát vì nắm giữ sắc nên
hành, vì xả bỏ sắc nên hành; vì nắm giữ thọ, tưởng, hành, thức nên hành, vì xả
bỏ thọ, tưởng, hành, thức nên hành. Như vậy, cho đến vì nắm giữ Nhất thiết trí
nên hành, vì xả bỏ Nhất thiết trí nên hành; vì nắm giữ Đạo tướng trí, Nhất
thiết tướng trí nên hành, vì xả bỏ Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí nên hành
thì Bồ tát này không thể tu Bát nhã Ba la mật, cũng không thể tu tịnh lự,
tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật. Như vậy, cho đến không thể tu
Nhất thiết trí, cũng không thể tu Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí.
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa
Phật:
- Bạch Thế Tôn! Bạch Thế Tôn! Pháp
sâu xa này thường tùy thuận tất cả pháp. Tùy thuận tất cả pháp là những
pháp nào? Bạch Thế Tôn! Pháp sâu xa này thường tùy thuận Bát Nhã, cũng thường tùy
thuận tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật. Pháp sâu xa này
thường tùy thuận pháp nội Không, cũng thường tùy thuận pháp ngoại Không cho đến
pháp vô tánh tự tánh Không. Pháp sâu xa này thường tùy thuận chơn như, cũng
thường tùy thuận pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì. Pháp sâu xa này
thường tùy thuận tứ Thánh đế, thường tùy thuận ba mươi bảy pháp
trợ đạo. Pháp sâu
xa này thường tùy thuận bốn tịnh lự, cũng thường tùy thuận bốn vô lượng, bốn
định vô sắc. Pháp sâu xa này thường tùy thuận tám giải thoát, cũng thường tùy
thuận tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ. Pháp sâu xa này thường tùy
thuận pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Pháp sâu xa này thường
tùy thuận Tịnh quán địa, cũng thường tùy thuận Chủng tánh địa cho đến Như Lai
địa (Bồ tát thập vị cộng Tam thừa). Pháp sâu xa này thường tùy thuận Cực
hỷ địa, cũng thường tùy thuận Ly cấu địa cho đến Pháp vân địa (Bồ tát thập
địa). Pháp sâu xa này thường tùy thuận năm loại mắt, sáu phép thần thông.
Pháp sâu xa này thường tùy thuận Phật mười lực, bốn điều không sợ cho đến mười
tám pháp Phật bất cộng. Pháp sâu xa này thường tùy thuận ba mươi hai tướng Đại
sĩ, cũng thường tùy thuận tám mươi vẻ đẹp. Pháp sâu xa này thường tùy thuận
pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả. Pháp sâu xa này thường tùy thuận Đà la
ni, Tam ma địa môn. Pháp sâu xa này thường tùy thuận quả Dự lưu, cũng thường
tùy thuận quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề. Pháp sâu xa này
thường tùy thuận tất cả Bồ tát hạnh, cũng thường tùy thuận quả vị Vô Thượng
Chánh Đẳng Bồ đề. Pháp sâu xa này thường tùy thuận Nhất thiết trí, cũng thường
tùy thuận Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. (Q.446, ĐBN)
Bạch Thế Tôn! Pháp sâu xa này hoàn
toàn không bị ngăn ngại. Bạch Thế Tôn! Pháp sâu xa này đối với những gì là
vô ngại? Bạch Thế Tôn! Pháp sâu xa này đối với sắc là vô ngại; thọ, tưởng,
hành, thức là vô ngại. Như vậy, cho đến đối với Nhất thiết trí là vô ngại; đối
với Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí là vô ngại.
Bạch Thế Tôn! Pháp sâu xa này lấy
vô ngại là tướng. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì tánh hư không bình đẳng. Tánh
chơn như bình đẳng. Tánh pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì bình đẳng.
Tánh không, vô tướng, vô nguyện bình đẳng. Tánh không tạo, không tác bình đẳng.
Tánh không nhiễm, không tịnh bình đẳng.
Bạch Thế Tôn! Pháp sâu xa này vô
sanh, vô diệt. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì sắc vô sanh, vô diệt; thọ, tưởng,
hành, thức vô sanh, vô diệt. Như vậy, cho đến Nhất thiết trí vô sanh, vô diệt;
Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí vô sanh, vô diệt. Đã là vô sanh vô diệt thì
bất khả đắc!
Bạch Thế Tôn! Pháp sâu xa này hoàn
toàn không có dấu vết. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì dấu vết sắc chẳng thể nắm
bắt được; dấu vết thọ, tưởng, hành, thức chẳng thể nắm bắt được. Như vậy, cho
đến dấu vết Nhất thiết trí bất khả đắc; dấu vết Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng
trí cũng chẳng thể nắm bắt được.
(Như Lai tùy sanh)
Khi ấy, chư Thiên cõi Dục, cõi Sắc
lại thưa Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đại đức Thiện Hiện
là chơn đệ tử đức Phật, tùy Như Lai sanh. Vì sao? Vì đại đức Thiện Hiện đã
thuyết tất cả pháp đều tương ưng với không. (Q.447, ĐBN)
Cụ thọ Thiện Hiện bảo chư Thiên cõi
Dục, cõi Sắc:
- Chư Thiên các ông nói Thiện Hiện
tôi là chơn đệ tử đức Phật, tùy Như Lai sanh. Thế nào là Thiện Hiện tùy Như Lai
sanh? Nghĩa là tùy Như Lai như sanh. Vì sao? Vì Như Lai như không đến,
không đi, Thiện Hiện như cũng không đến, không đi, nên nói Thiện Hiện tùy Như
Lai sanh. Như Lai như tức tất cả pháp như, tất cả pháp như tức Như Lai như.
Như, như thế là không tánh như, cũng không phải không tánh như. Thiện Hiện như
cũng lại như vậy, nên nói Thiện Hiện tùy Như Lai sanh. Như Lai như thường trụ
là tướng, Thiện Hiện như cũng lại như vậy, nên nói Thiện Hiện tùy Như Lai sanh.
Như Lai như không biến đổi, không phân biệt, chuyển khắp các pháp. Thiện Hiện
như cũng lại như vậy, nên nói Thiện Hiện tùy Như Lai sanh. Như Lai như không bị
chướng ngại, tất cả pháp như cũng không bị chướng ngại. Hoặc Như Lai như, hoặc
tất cả pháp như, đều đồng một như không hai, không khác, không tạo, không tác.
Như, như thế là tướng thường như, không thời nào chẳng như. Vì tướng thường
như, không thời nào chẳng như nên không hai, không khác. Thiện Hiện như cũng
lại như vậy, nên nói Thiện Hiện tùy Như Lai sanh. Như Lai như khắp mọi nơi
không nhớ nghĩ, không phân biệt. Thiện Hiện như cũng lại như vậy, nên nói Thiện
Hiện tùy Như Lai sanh. Như Lai như không đổi khác, bất khả đắc. Thiện Hiện như
cũng lại như vậy, nên nói Thiện Hiện tùy Như Lai sanh. Như Lai như không lìa
tất cả pháp như, tất cả pháp như không lìa Như Lai như. Như, như thế là tướng thường
như, không thời nào chẳng như. Thiện Hiện như cũng lại như vậy, nên nói Thiện
Hiện tùy Như Lai sanh. Tuy nói tùy sanh nhưng không chỗ tùy sanh, vì Thiện Hiện
như không khác Phật.
Như Lai như không quá khứ, không vị
lai, không hiện tại. Tất cả pháp như cũng không quá khứ, không vị lai, không
hiện tại. Thiện Hiện như cũng lại như vậy, nên nói Thiện Hiện tùy Như Lai sanh.
Quá khứ như tức thị Như Lai như, Như Lai như tức thị quá khứ như. Vị lai như
tức thị Như Lai như, Như Lai như tức thị vị lai như. Hiện tại như tức thị Như
Lai như, Như Lai như tức thị hiện tại như. Hoặc quá khứ như, hoặc vị lai như,
hoặc hiện tại như, hoặc Như Lai như, đều đồng một như không hai, không khác.
Sắc như tức thị Như Lai như, Như Lai
như tức thị sắc như. Thọ, tưởng, hành, thức như tức thị Như Lai như, Như Lai
như tức thị thọ, tưởng, hành, thức như. Hoặc sắc như, hoặc thọ, tưởng, hành,
thức như, hoặc Như Lai như, đều đồng một như không hai, không khác. Mười hai xứ như,
mười tám giới như tức thị Như Lai như, Như Lai như tức thị mười hai
xứ, mười tám giới như. Hoặc mười
hai xứ như, hoặc mười tám giới như, hoặc Như Lai như đều đồng một như không hai
không khác. Ngã như tức thị Như Lai như, Như Lai như tức thị ngã như. Hữu tình,
mạng giả, sanh giả, dưỡng giả, sĩ phu, Bổ đặc già la, ý sanh, nho đồng, tác
giả, thọ giả, tri giả, kiến giả như tức thị Như Lai như, Như Lai như tức thị
hữu tình cho đến kiến giả như. Hoặc ngã như, hoặc hữu tình cho đến kiến giả
như, hoặc Như Lai như, đều đồng một như không hai, không khác. Bố thí Ba la mật
như tức thị Như Lai như, Như Lai như tức thị bố thí như. Tịnh giới, an nhẫn,
tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã như tức thị Như Lai như, Như Lai như tức thị tịnh
giới cho đến Bát Nhã như. Hoặc bố thí Ba la mật như, hoặc tịnh giới cho đến Bát
Nhã như, hoặc Như Lai như, đều đồng một như không hai, không khác. Pháp nội
không như tức thị Như Lai như, Như Lai như tức pháp nội không như cho đến Vô
tánh tự tánh không như tức thị Như Lai như, Như Lai như vô tánh tự tánh không
như. Hoặc pháp nội không như, hoặc pháp ngoại không cho đến pháp vô tánh tự
tánh không như, hoặc Như Lai như, đều đồng một như không hai, không khác. Chơn
như, như tức Như Lai như, Như Lai như tức thị chơn như như.
Pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, bình đẳng tánh,
ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất
tư nghì như tức thị Như Lai như, Như Lai như tức thị pháp giới cho đến cảnh
giới bất tư nghì như. Hoặc chơn như như, hoặc pháp giới cho đến cảnh giới bất
tư nghì như, hoặc Như Lai như, đều đồng một như không hai, không khác. Tất cả
pháp Phật như tức thị Như Lai như, Như Lai như tức thị tất cả pháp Phật như.
Hoặc tất cả pháp Phật như hoặc Như Lai như, đều đồng một như không hai, không
khác.
Thiên chúng nên biết, các đại Bồ tát
đang chứng tất cả pháp như như thế. Thưa Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác! Con tin
hiểu sâu sắc các pháp như như thế nên nói Thiện Hiện tùy Như Lai sanh(1).
Đang lúc Thiện Hiện thuyết tướng như
như vậy, ở thế giới Tam thiên đại thiên này, các núi lớn biến động sáu cách. Khi
ấy, Thiên chúng cõi Dục, cõi Sắc lại dùng bột hương chiên đàn, bột hương Đa yết
la, bột hương Đa ma la và hoa sen xanh, đỏ, trắng, vàng trên trời một lượt rải
lên Như Lai và Thiện Hiện sau đó đồng thưa Phật:
- Bạch Như Lai! Thật là chưa từng
có. Do như nên đại đức Thiện Hiện tùy Như Lai sanh.
Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện bảo chư
Thiên:
- Chư Thiên nên biết, Thiện Hiện tôi
không do sắc nên tùy Như Lai sanh, không do sắc như nên tùy Như Lai sanh; không
lìa sắc nên tùy Như Lai sanh, không lìa sắc như nên tùy Như Lai sanh. Không do
thọ, tưởng, hành, thức nên tùy Như Lai sanh, không do thọ, tưởng, hành, thức
như nên tùy Như Lai sanh; không lìa thọ, tưởng, hành, thức nên tùy Như Lai
sanh, không lìa thọ, tưởng, hành, thức như nên tùy Như Lai sanh. Như vậy, cho
đến không do Nhất thiết trí nên tùy Như Lai sanh, không do Nhất thiết trí như
nên tùy Như Lai sanh; không lìa Nhất thiết trí nên tùy Như Lai sanh, không lìa
Nhất thiết trí như nên tùy Như Lai sanh. Không do Đạo tướng trí, Nhất thiết
tướng trí nên tùy Như Lai sanh, không do Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí
như nên tùy Như Lai sanh; không lìa Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí nên tùy
Như Lai sanh, không lìa Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí như nên từ Như Lai
sanh. Không do hữu vi nên tùy Như Lai sanh, không do hữu vi như nên tùy Như Lai
sanh; không lìa hữu vi nên tùy Như Lai sanh, không lìa hữu vi như nên tùy Như
Lai sanh. Chẳng do vô vi nên tùy Như Lai sanh, chẳng do vô vi như nên tùy Như
Lai sanh. Chẳng lìa vô vi nên tùy Như Lai sanh, chẳng lìa vô vi như nên tùy Như
Lai sanh. Vì sao? Chư Thiên chúng! Tất cả pháp này đều vô sở hữu. Các kẻ tùy
sanh, hoặc sở tùy sanh, do đây tùy sanh, thời tùy sanh, tùy chỗ sanh đều bất
khả đắc.
Bấy giờ, Xá lợi Tử thưa Phật:
- Bạch Thế Tôn! Các pháp chơn như,
pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, bình đẳng tánh,
ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất
tư nghì đều rất sâu xa. Nghĩa là trong đó sắc bất khả đắc, sắc như cũng bất khả
đắc. Vì sao? Vì trong đó sắc còn bất khả đắc, huống nữa có sắc như khả đắc.
Trong đó thọ, tưởng, hành, thức bất khả đắc; thọ, tưởng, hành, thức như cũng
bất khả đắc. Vì sao? Vì trong đó thọ, tưởng, hành, thức còn bất khả đắc, huống
nữa có thọ, tưởng, hành, thức như khả đắc. Như vậy, cho đến trong đó Nhất thiết
trí bất khả đắc, Nhất thiết trí như cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì trong đó Nhất
thiết trí còn bất khả đắc, huống nữa có Nhất thiết trí như khả đắc. Trong đó
Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí bất khả đắc; Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng
trí như cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì trong đó Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng
trí còn bất khả đắc, huống chi có Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí như khả
đắc.
Phật dạy:
- Xá lợi Tử! Đúng vậy! Đúng như ông
đã nói! Các pháp chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì đều rất sâu xa. Nghĩa
là trong đó sắc bất khả đắc, sắc như cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì trong đó sắc
còn bất khả đắc, huống nữa có sắc như khả đắc. Như thế cho đến trong đó Nhất
thiết tướng trí bất khả đắc. Nhất thiết tướng trí như cũng bất khả đắc. Vì sao?
Vì trong đó Nhất thiết tướng trí còn bất khả đắc, huống chi có Nhất thiết tướng
trí như khả đắc.
Khi đức Phật thuyết tướng Chơn như
như vậy, có hai trăm Bí sô dứt hết các lậu, tâm được giải thoát, thành A la
hán; lại có năm trăm chúng Bí sô ni xa lìa trần cấu, ở trong các pháp sanh pháp
nhãn thanh tịnh; năm ngàn Bồ tát sanh trong trời, người được vô sanh nhẫn; sáu
ngàn Bồ tát dứt hết các lậu, tâm được giải thoát, thành A la hán.
Bấy giờ, Phật dạy Xá lợi Tử:
- Nay trong chúng đây có sáu ngàn Bồ
tát đã ở quá khứ gần gũi cúng dường năm trăm chư Phật. Ở chỗ mỗi đức Phật, phát
hoằng thệ nguyện chánh tín xuất gia. Có tu bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh
tấn, tịnh lự mà không thọ trì Bát nhã Ba la mật, xa lìa phương tiện thiện xảo,
liền suy nghĩ khác, hành hạnh khác. Khi tu bố thí, suy nghĩ như vầy: Đây là bố
thí, đây là vật bố thí, đây là người nhận, ta hành bố thí. Khi tu tịnh giới,
suy nghĩ như vầy: Đây là tịnh giới, đây là tội, là nghiệp, đây là cảnh được hộ,
ta thường trì giới. Khi tu an nhẫn, suy nghĩ như vầy: Đây là an nhẫn, đây là
chướng nhẫn, đây là cảnh được nhẫn, ta hành an nhẫn. Khi tu tinh tấn, suy nghĩ
như vầy: Đây là tinh tấn, đây là lười nhác, đây là việc nên làm, ta thường tinh
tấn. Khi tu tịnh lự, suy nghĩ như vầy: Đây là tịnh lự, đây là tán động, đây là
việc nên tu, ta thường tu định. Đó là họ không thọ trì Bát nhã Ba la mật, xa
lìa phương tiện thiện xảo, nương suy nghĩ và hành lục Ba la mật sai khác. Do
suy nghĩ sai khác, hành sai khác. Do đó, nên không nhập Bồ tát Chánh tánh ly
sanh. Do không được vào ngôi Bồ tát Chánh tánh ly sanh, nên đắc quả Dự lưu, lần
đến quả A la hán. Thế nên, Xá lợi Tử! Đại Bồ tát dù có Bồ đề và có tùy thuận
giải thoát không, vô tướng, vô nguyện mà không thọ trì Bát nhã Ba la mật và xa
lìa phương tiện thiện xảo, bèn chứng thật tế, rơi vào bậc Thanh văn hoặc Độc
giác.
Cụ thọ Xá lợi Tử lại thưa Phật:
- Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên gì có
những vị Bổ đặc già la Thanh văn thừa hoặc Độc giác thừa tu pháp không, vô
tướng, vô nguyện không thọ trì Bát nhã Ba la mật, xa lìa phương tiện thiện xảo,
bèn chứng thật tế rơi vào bậc Thanh văn hoặc Độc giác? Có những vị Bổ đặc già
la Bồ tát thừa tu pháp không, vô tướng, vô nguyện, lại thọ trì Bát nhã Ba la
mật, nương phương tiện thiện xảo, chứng thật tế đến được quả vị Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề?
Phật dạy:
- Xá lợi Tử! Những vị Bổ đặc già la
Thanh văn thừa hoặc Độc giác thừa xa lìa tâm Nhất thiết trí trí, không thọ
trì Bát nhã Ba la mật, không có phương tiện thiện xảo, tu pháp không, vô
tướng, vô nguyện nên chứng thật tế, rơi vào bậc Thanh văn hoặc Độc giác.
Những vị Bổ đặc già la Bồ tát thừa
chẳng xa lìa tâm Nhất thiết trí trí, thọ trì Bát nhã Ba la mật, có phương
tiện thiện xảo, lấy đại bi tâm làm đầu tu pháp không, vô tướng, vô nguyện,
nên có khả năng vào ngôi Bồ tát Chánh tánh ly sanh, có khả năng chứng quả vị Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Xá lợi Tử! Thí như có con chim, thân
dài lớn trăm do tuần, hoặc hai trăm, hoặc ba trăm do tuần mà không có cánh. Từ
trời Ba mươi ba gieo mình rơi xuống châu Thiệm bộ, lúc rơi giữa đường liền suy
nghĩ: Ta muốn trở lại trời Ba mươi ba. Xá lợi Tử! Ý ông nghĩ nào? Chim này có
thể về lại trời Ba mươi ba được không?
Xá lợi Tử thưa:
- Bạch Thế Tôn! Không! Bạch Thiện
Thệ! Không!
Phật dạy:
- Xá lợi Tử! Nhưng giữa đường
chim này lại mong muốn đến châu Thiệm bộ mà thân không bị tổn thương. Xá lợi
Tử! Ý ông thế nào? Sự mong muốn này có được như ý không?
Xá lợi Tử thưa:
- Bạch Thế Tôn! Không! Bạch Thiện
Thệ! Không! Chim này khi đến châu Thiệm bộ, chắc chắn bị tổn thương, có thể mất
mạng, hoặc đau đến gần chết. Vì sao? Vì thân chim này lớn, từ cao rơi xuống lại
không có cánh.
Phật dạy:
- Xá lợi Tử! Đúng vậy! Đúng như ông
đã nói! Xá lợi Tử! Những vị Bổ đặc già la Bồ tát thừa cũng lại như vậy. Tuy
trải qua vô lượng, vô số đại kiếp, siêng tu bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh
tấn, tịnh lự cũng tu Bát Nhã cầu đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, nhưng
không thọ trì Bát nhã Ba la mật, xa lìa phương tiện thiện xảo, tu pháp
không, vô tướng, vô nguyện chứng thật tế, thì cũng rơi vào bậc Thanh văn hoặc
Độc giác. Vì sao? Xá lợi Tử! Những vị Bổ đặc già la Bồ tát thừa này xa lìa tâm
Nhất thiết trí trí, dù trải qua vô lượng, vô số đại kiếp, siêng tu bố thí, tịnh
giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, cũng tu Bát Nhã mà không thọ trì Bát nhã Ba
la mật, xa lìa phương tiện thiện xảo, thì sẽ rơi vào bậc Thanh văn hoặc Độc
giác.
Xá lợi Tử! Những vị Bổ đặc già la Bồ
tát thừa này dù nhớ chư Phật Thế Tôn quá khứ, vị lai, hiện tại có giới uẩn,
định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát trí kiến uẩn, cung kính cúng
dường, tùy thuận tu hành, nhưng trong đó chấp trước tướng, nên hiểu
không đúng lý công đức viên mãn về giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn,
giải thoát trí kiến uẩn của chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Các Đại Bồ tát này
vì không hiểu đúng lý công đức của chư Phật, nên dù nghe đạo Vô thượng Chánh
đẳng giác và pháp không, vô tướng, vô nguyện nhưng nương âm thanh này chấp
trước tướng. Chấp trước tướng rồi lại hồi hướng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ
đề. Những vị Bồ tát thừa này tuy hồi hướng như thế nhưng không đắc quả vị Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, lại rơi vào bậc Thanh văn hoặc Độc giác. Vì sao? Xá
lợi Tử! Những vị Bồ tát thừa này, do không thọ trì Bát nhã Ba la mật và xa
lìa phương tiện thiện xảo, nên dù đem các căn lành đã tu hồi hướng quả vị
Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề nhưng vẫn rơi vào bậc Thanh văn hoặc Độc giác.
Lại nữa, Xá lợi Tử! Có những vị Bổ
đặc già la Bồ tát thừa, từ sơ phát tâm không xa lìa tâm Nhất thiết trí trí, lấy
đại bi làm đầu, siêng tu bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, cũng tu
diệu tuệ thọ trì Bát nhã Ba la mật, không xa lìa phương tiện thiện xảo, vẫn nhớ
giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát trí kiến uẩn của chư
Phật Thế Tôn quá khứ, vị lai, hiện tại nhưng không chấp trước tướng; tuy
tu pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện nhưng cũng không chấp tướng.
Vẫn nhớ các thứ công đức của mình và người, đem cho các hữu tình một cách bình
đẳng, rồi cùng nhau hồi hướng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề cũng không chấp
tướng.
Xá lợi Tử! Nên biết, Bổ đặc già la
Bồ tát thừa trụ như thế thẳng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, không rơi
vào bậc Thanh văn và Độc giác. Vì sao? Xá lợi Tử! Vì những vị Bổ đặc già la Bồ
tát thừa này, từ sơ phát tâm cho đến rốt ráo không xa lìa tâm Nhất thiết trí
trí, trong tất cả thời luôn luôn lấy đại bi làm đầu. Vẫn tu bố thí, tịnh giới,
an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, cũng tu Bát Nhã nhưng không chấp tướng. Tuy nhớ
giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát trí kiến uẩn của chư
Phật Thế Tôn quá khứ, vị lai, hiện tại, nhưng cũng không chấp tướng. Vẫn tu đạo
Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề và pháp không, vô tướng, vô nguyện cũng không chấp
tướng.
Xá lợi Tử! Những vị Bổ đặc già la Bồ
tát thừa này vì có phương tiện thiện xảo nên đem tâm ly tướng tu hành bố
thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự và Bát Nhã. Như vậy, cho đến đem tâm
ly tướng tu hành Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Do đó,
quyết chắc chứng được mong cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Khi ấy, Xá lợi Tử thưa Phật:
- Bạch Thế Tôn! Con đã hiểu lời Phật
thuyết Đại Bồ tát nào từ sơ phát tâm cho đến rốt ráo, thọ trì Bát nhã Ba la mật,
không xa lìa phương tiện thiện xảo thì Đại Bồ tát này gần được quả vị Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì sao? Vì Đại Bồ tát này từ sơ phát tâm cho đến rốt
ráo đều không thấy có một chút pháp nào khả đắc. Nghĩa là hoặc năng chứng, hoặc
sở chứng, hoặc chỗ chứng, hoặc thời chứng, hoặc do đây chứng đều bất khả đắc.
Đó là hoặc sắc, hoặc thọ, tưởng, hành, thức, cho đến hoặc Nhất thiết trí, Đạo
tướng trí, Nhất thiết tướng trí đều bất khả đắc.
Lại nữa, Bạch Thế Tôn! Các thiện
nam, thiện nữ… Bồ tát thừa không thọ trì Bát nhã Ba la mật, xa lìa phương
tiện thiện xảo mà cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, nên biết sự mong
cầu này còn nghi hoặc, do dự chỗ đắc, hoặc không đắc. Vì sao? Vì các thiện nam,
thiện nữ… Bồ tát thừa này không thọ trì Bát Nhã, xa lìa phương tiện thiện xảo,
nên đối với sự tu hành sáu pháp Ba la mật chấp tướng. Như vậy, cho đến sự tu
hành Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí đều chấp tướng.
Do đó, nên các thiện nam, thiện nữ… Bồ tát thừa này còn nghi hoặc do dự hoặc
đắc, hoặc không đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Thế nên, bạch Thế Tôn! Đại Bồ tát
nào muốn chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, quyết định không nên xa lìa Bát
nhã Ba la mật phương tiện thiện xảo. Đại Bồ tát này an trụ Bát nhã Ba la mật
phương tiện thiện xảo, dùng vô sở đắc làm phương tiện, đem tâm vô tướng tu hành
sáu pháp Ba la mật. Như vậy, cho đến đem tâm vô tướng tu hành Nhất thiết trí,
Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Đại Bồ tát nào không xa lìa phương tiện
thiện xảo, an trụ Bát nhã Ba la mật, dùng vô sở đắc mà làm phương tiện, đem tâm
vô tướng tu hành tất cả Phật pháp như thế chắc chắn chứng đắc quả vị Vô Thượng
Chánh Đẳng Bồ đề.
Khi ấy, Thiên chúng cõi Dục, cõi Sắc
đồng thưa Phật:
- Bạch Thế Tôn! Quả vị Vô Thượng
Chánh Đẳng Bồ đề rất khó tin hiểu, rất khó chứng đắc. Vì sao? Vì các Đại Bồ tát
đối với tất cả pháp tự tướng cộng tướng đều chứng biết, nên mới có thể đạt được
sự mong cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, nhưng sự hiểu biết pháp tướng
của các chúng đại Bồ tát đều vô sở hữu bất khả đắc?
Phật bảo chư Thiên:
- Đúng vậy! Đúng như các ông đã nói.
Quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề rất khó tin hiểu, rất khó chứng đắc. Chư
Thiên nên biết: Ta cũng giác ngộ tướng tất cả pháp, chứng đắc quả vị Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, nhưng đều không đắc thắng nghĩa pháp tướng có thể gọi
đây là năng chứng, đây là sở chứng, đây là chỗ chứng, đây là thời chứng, do đây
mà chứng. Vì sao? Vì tất cả pháp rốt ráo vốn tịnh, hữu vi, vô vi rốt ráo
không. Do đó nên quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề rất khó tin hiểu, rất khó
chứng đắc.
Cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật:
- Bạch Thế Tôn! Như Thế Tôn đã nói,
quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề rất khó tin hiểu, rất khó chứng đắc, nhưng
con suy nghĩ quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề rất dễ tin hiểu, rất dễ chứng
đắc. Vì sao? Vì nếu tin hiểu: Không có pháp năng chứng, không pháp sở chứng,
không có chỗ chứng, không có thời chứng, cũng không do đây mà có chứng đắc, thì
tin hiểu được quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Nếu chứng biết không có pháp
năng chứng, không có pháp sở chứng, không có chỗ chứng v.v… thì chứng được sự
mong cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì sao? Vì tất cả pháp rốt ráo
không. Trong rốt ráo không, đều không có pháp có thể gọi năng chứng, có thể gọi
sở chứng, có thể gọi chỗ chứng, có thể gọi thời chứng, có thể gọi do đây mà có
chứng đắc. Vì sao? Vì tất cả pháp tánh tướng đều không, hoặc tăng, hoặc giảm
đều vô sở hữu, bất khả đắc. Do đó, sự tu hành sáu pháp Ba la mật của các đại Bồ
tát đều vô sở hữu, bất khả đắc. Như vậy, cho đến Nhất thiết trí, Đạo tướng trí,
Nhất thiết tướng trí đều vô sở hữu, bất khả đắc.
Các Đại Bồ tát quán sát các pháp,
hoặc hữu sắc, hoặc vô sắc, hoặc hữu kiến, hoặc vô kiến, hoặc hữu đối, hoặc vô
đối, hoặc hữu lậu, hoặc vô lậu, hoặc hữu vi, hoặc vô vi đều vô sở hữu, bất khả
đắc. Do đó nên con suy nghĩ ý nghĩa Phật nói quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề
của chư Phật rất dễ tin hiểu, rất dễ chứng đắc.
Các đại Bồ tát không nên bảo điều
này khó tin khó hiểu và khó chứng đắc. Vì sao? Vì sắc, tự tánh sắc là không;
thọ, tưởng, hành, thức, tự tánh thọ, tưởng, hành, thức là không. Như vậy, cho
đến Nhất thiết trí, tự tánh Nhất thiết trí là không; Đạo tướng trí, Nhất thiết
tướng trí, tự tánh cũng không. Đại Bồ tát đối với nghĩa tự tánh không như
thế, sanh lòng thâm hiểu, y như vậy mà tu hành sẽ đắc quả vị Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Khi ấy, Xá Lợi Tử bảo với Thiện
Hiện:
- Này Đại đức! Nếu quả vị Giác ngộ
tối cao rất dễ tin, dễ hiểu, rất dễ chứng, thì tại sao lại có hằng hà
sa số đại Bồ tát mặc áo giáp đại công đức phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ
tối cao, nửa đường lại thối chuyển, mặc dầu các đại Bồ tát ấy
quán tất cả pháp hoàn toàn không có tự tánh, tất cả đều không, giống như hư
không. Vì vậy, nên tôi nói: Quả vị Giác ngộ tối cao rất khó tin, khó hiểu, rất
khó chứng!
Cụ thọ Thiện Hiện hỏi Xá lợi Tử:
- Xá lợi Tử! Ý ông nghĩ sao? Sắc đối
với quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề có thối chuyển không?
Xá lợi Tử đáp:
- Thiện Hiện! Không!
- Xá lợi Tử! Ý ông nghĩ sao? Thọ,
tưởng, hành, thức đối với quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề có thối chuyển
không?
Xá lợi Tử đáp:
- Thiện Hiện! Không!
- Xá lợi Tử! Ý ông nghĩ sao? Cho đến
Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí đối với quả vị Vô Thượng
Chánh Đẳng Bồ đề có thối chuyển không?
Không! Xá lợi Tử đáp:
- Thiện Hiện! Không!
- Xá lợi Tử! Ý ông nghĩ sao? Sắc
như đối với quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề có thối chuyển không?
Xá lợi Tử đáp:
- Thiện Hiện! Không!
- Xá lợi Tử! Ý ông nghĩ sao? Lìa
thọ, tưởng, hành, thức như có pháp đối với quả vị Vô Thượng
Chánh Đẳng Bồ đề có thối chuyển không?
Xá lợi Tử đáp:
- Thiện Hiện! Không!
- Xá lợi Tử! Ý ông nghĩ sao? Cho đến
lìa Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí như đối với
quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề có thối chuyển không?
Xá lợi Tử đáp:
- Thiện Hiện! Không!
- Xá lợi Tử! Ý ông nghĩ sao? Lìa sắc
có pháp đối với quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề có thối chuyển không?
Xá lợi Tử đáp:
- Thiện Hiện! Không!
- Xá lợi Tử! Ý ông nghĩ sao? Lìa
thọ, tưởng, hành, thức có pháp đối với quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề có
thối chuyển không?
Xá lợi Tử đáp:
- Thiện Hiện! Không!
- Xá lợi Tử! Ý ông nghĩ sao? Cho đến
lìa Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí có pháp đối với quả vị
Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề có thối chuyển không?
Xá lợi Tử đáp:
- Thiện Hiện! Không!
- Xá lợi Tử! Ý ông nghĩ sao? Lìa sắc
như có pháp đối với quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề có thối chuyển không?
Xá lợi Tử đáp:
- Thiện Hiện! Không!
- Xá lợi Tử! Ý ông nghĩ sao? Lìa
thọ, tưởng, hành, thức như có pháp đối với quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề có
thối chuyển không?
Xá lợi Tử đáp:
- Thiện Hiện! Không!
- Xá lợi Tử! Ý ông nghĩ sao? Cho đến
lìa Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí như, có pháp đối với
quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề có thối chuyển không?
Xá lợi Tử đáp:
- Thiện Hiện! Không!
- Xá lợi Tử! Ý ông nghĩ sao? Các
pháp như đối với quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề có thối chuyển không?
Xá lợi Tử đáp:
- Thiện Hiện! Không!
- Xá lợi Tử! Ý ông nghĩ sao? Pháp
giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, bình đẳng tánh, ly
sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư
nghì đối với quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề có thối chuyển không?
Xá lợi Tử đáp:
- Thiện Hiện! Không!
- Xá lợi Tử! Ý ông nghĩ sao? Lìa
pháp như có pháp đối với quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề có thối chuyển
không?
Xá lợi Tử đáp:
- Thiện Hiện! Không!
- Xá lợi Tử! Ý ông nghĩ sao? Lìa
pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, bình đẳng tánh,
ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất
tư nghì có pháp đối với quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề có thối chuyển không?
Xá lợi Tử đáp:
- Thiện Hiện! Không!
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Xá
Lợi Tử rằng:
- Nếu tất cả pháp đều vô sở hữu, đều
bất khả đắc, thời nói pháp nào đối Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề có thối chuyển?
Khi ấy, Xá Lợi Tử bảo Thiện Hiện
rằng:
- Như nhân giả đã nói, trong vô sanh
pháp nhẫn đều không có pháp, cũng không Bồ tát đối với Vô Thượng Bồ đề nói có
thối chuyển. Nếu vậy tại sao Phật thuyết có ba thứ bổ đặc già la trụ Bồ tát
thừa (nhất định có thối chuyển, nhất định không thối chuyển hay bất định),
chỉ nên nói có một. Lại như nhân giả nói, lẽ ra không có Tam thừa Bồ tát sai
khác (Thanh văn thừa, Độc giác thừa và Vô Thượng thừa), mà chỉ nên có
một là Vô Thượng thừa mà thôi?
Khi ấy, Mãn Từ Tử nói với Xá Lợi Tử
rằng:
- Trước hết, nên hỏi Tôn giả Thiện
Hiện có thừa nhận chỉ có một Bồ tát thừa chăng? Nhiên hậu mới hỏi lẽ không nên
kiến lập Tam thừa sai khác?
Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện
rằng:
- Này Đại đức! Có phải chỉ chấp nhận
có một Bồ tát thừa chăng?
Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện hỏi lại Xá
Lợi Tử rằng:
- Xá Lợi Tử! Ý ông nghĩ sao trong tất
cả pháp như có tướng ba thứ bổ đặc già la sai khác trụ Bồ tát thừa là Thanh
văn thừa, hoặc Độc giác thừa, hoặc Vô thượng thừa chăng?
Xá Lợi Tử nói:
- Thiện Hiện! Chẳng có.
Xá Lợi Tử! Ý ông nghĩ sao trong tất
cả pháp như, có Tam thừa (Bồ tát thừa) sai khác chăng?
Xá Lợi Tử nói:
- Thiện Hiện! Chẳng có.
Xá Lợi Tử! Ý ông nghĩ sao trong tất
cả pháp như, thật chỉ có “nhất định bất thối chuyển Bồ tát thừa” chăng?
Xá Lợi Tử nói:
- Thiện Hiện! Chẳng có.
Xá Lợi Tử! Ý ông nghĩ sao trong tất
cả pháp như, thật chỉ có các Bồ tát Vô Thượng thừa chăng?
Xá Lợi Tử nói:
- Thiện Hiện! Chẳng có.
Xá Lợi Tử! Ý ông nghĩ sao trong các pháp
như có một như, có hai như, có ba như chăng(1)?
Xá Lợi Tử nói:
- Thiện Hiện! Chẳng có.
Xá Lợi Tử! Ý ông nghĩ sao trong tất
cả pháp như chỉ có một pháp hoặc một Bồ tát mà khá được chăng?
Xá Lợi Tử nói:
- Thiện Hiện! Chẳng có.
Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện bảo Xá Lợi
Tử rằng:
- Nếu tất cả pháp đều vô sở hữu, đều
không thể nắm bắt được, tại sao Xá Lợi Tử có thể khởi nghĩ này: “Bồ tát như
thế, đối Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề nhất định có thối chuyển; Bồ tát như thế
đối Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề nhất định không thối chuyển; Bồ tát như thế đối
Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề chẳng quyết định; Bồ tát như thế là Thanh văn thừa;
Bồ tát như thế là Độc giác thừa; Bồ tát như thế là Vô Thượng thừa; như thế là
ba hay như thế là một”?
Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ tát đối với
tất cả pháp, đối với tất cả pháp như, năng khéo tin hiểu đều vô sở đắc, đối với
Bồ tát cũng vô sở đắc, đối với Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề cũng vô sở đắc. Phải
biết đấy là chơn Bồ tát.
Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ tát nghe
thuyết tướng các pháp như bất khả đắc, chẳng kinh chẳng hãi, chẳng nghi chẳng
hối, chẳng thối chẳng chìm, Bồ tát này mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, ở
thời gian giữa nhất định không bị thối chuyển. (Q. 447, ĐBN)
(Đoạn sau đây thuộc phẩm “Bồ Tát An
Trụ”,
phần sau quyển 324 đến phần đầu
quyển 325, Hội thứ I, ĐBN)
Bấy giờ, đức Thế Tôn khen cụ thọ
Thiện Hiện:
- Hay thay! Hay thay! Nay ông vì các
đại Bồ tát giỏi thuyết pháp yếu. Pháp ông đã thuyết đều là do oai thần của Như
Lai, chẳng phải ông tự thuyết.
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát đối với tướng pháp
như bất khả đắc thậm sanh tin hiểu, biết tướng tất cả pháp không sai khác, nghe
thuyết tướng các pháp như bất khả đắc như thế, chẳng kinh, chẳng
hãi, chẳng nghi chẳng hối, chẳng thối, chẳng chìm. Đại Bồ tát này mau được
thành tựu sở cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Cụ thọ Xá lợi Tử thưa Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ tát nào thành
tựu pháp này thì mau thành tựu sự mong cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề
chăng?
Phật bảo Xá lợi Tử:
- Đúng vậy! Đúng như ông đã nói, đại
Bồ tát nào thành tựu pháp này thì mau thành tựu mong cầu quả vị Vô Thượng Chánh
Đẳng Bồ đề.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ tát nào mau
thành tựu mong cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thì phải trụ ở đâu
và nên trụ thế nào?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát nào
muốn mau thành tựu sự mong cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thì phải đối
với tất cả hữu tình trụ tâm bình đẳng, không nên trụ tâm không bình đẳng.
Phải đối với tất cả hữu tình sanh tâm bình đẳng, không nên sanh tâm không bình
đẳng. Phải đối với tất cả hữu tình sanh tâm đại từ, không nên sanh tâm
giận dữ. Phải đối với tất cả hữu tình sanh tâm đại bi, không nên
sanh tâm não hại. Phải đối với tất cả hữu tình sanh tâm đại hỷ, không
nên sanh tâm ganh ghét. Phải đối với tất cả hữu tình sanh tâm đại xả,
không nên khởi tâm thiên vị. Phải đối với tất cả hữu tình sanh tâm
khiêm hạ, không nên sanh tâm kiêu mạn. Phải đối với tất cả hữu tình sanh
tâm ngay thẳng, không nên sanh tâm nịnh dối. Phải đối với tất cả hữu
tình sanh tâm mềm mỏng, không nên sanh tâm cứng rắn. Phải đối với
tất cả hữu tình sanh tâm lợi ích, không nên khởi tâm vô tích sự.
Phải đối với tất cả hữu tình sanh tâm an vui, không nên khởi tâm không
an vui. Phải đối với tất cả hữu tình sanh tâm không ngăn ngại, không nên
sanh tâm chướng ngại. Phải đối với tất cả hữu tình sanh tâm như cha
mẹ, như anh em... Phải đối với tất cả hữu tình sanh tâm bằng hữu,
cũng dùng tâm này nên cùng họ nói năng, đối xử. Phải đối với tất cả hữu tình sanh
tâm như thầy, như người khuôn mẫu, như đệ tử, như bạn đồng môn.
Phải đối với tất cả hữu tình sanh tâm Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán,
Độc giác, Bồ tát, Phật, cũng dùng tâm này cùng họ trau đổi nói năng. Phải
đối với tất cả hữu tình sanh tâm cúng dường cung kính, tôn trọng, ngợi khen.
Phải đối với tất cả hữu tình sanh tâm cứu vớt, thương xót, thủ hộ.
Phải đối với tất cả hữu tình sanh tâm rốt ráo Không, vô sở hữu, bất
khả đắc. Phải đối với tất cả hữu tình sanh tâm không, vô tướng, vô
nguyện. (Q.448, ĐBN)
Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ tát nào
muốn mau thành tựu sự mong cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, thì nên tự xa
lìa sự giết hại, cũng khuyên người xa lìa sự giết hại, luôn ngợi khen pháp
xa lìa sự giết hại, vui mừng tán thán người xa lìa giết hại. Cho đến nên tự lìa
tà kiến, cũng khuyên người lìa tà kiến, luôn ngợi khen pháp xa lìa tà kiến, vui
mừng tán thán người xa lìa tà kiến.
Nên tự tu bốn tịnh lự, cũng
khuyên người tu bốn tịnh lự, luôn ngợi khen pháp tu bốn tịnh lự, vui mừng tán
thán người tu bốn tịnh lự. Nên tự tu bốn vô lượng, bốn định vô sắc, cũng
khuyên người tu bốn vô lượng, bốn định vô sắc, luôn ngợi khen pháp tu bốn vô
lượng, bốn định vô sắc vui mừng tán thán người tu bốn vô lượng, bốn
định vô sắc. Nên tự viên mãn sáu pháp Ba la mật, cũng khuyên người viên mãn sáu
pháp Ba la mật, luôn ngợi khen pháp viên mãn sáu pháp Ba la mật, vui mừng tán
thán người viên mãn sáu pháp Ba la mật. Nên tự trụ mười tám pháp không, cũng
khuyên người trụ mười tám pháp không, luôn ngợi khen pháp trụ mười tám pháp
không, vui mừng tán thán người trụ mười tám pháp không. Nên tự trụ chơn như, pháp
giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định,
pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, cũng khuyên người
trụ chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì, luôn ngợi khen pháp trụ chơn như
cho đến cảnh giới bất tư nghì, vui mừng tán thán người trụ chơn như cho đến
cảnh giới bất tư nghì. Nên tự trụ bốn Thánh đế, ba mươi bảy pháp trợ đạo, cũng
khuyên người trụ bốn Thánh đế, ba mươi bảy pháp trợ đạo, luôn ngợi khen pháp
trụ bốn Thánh đế, ba mươi bảy pháp trợ đạo, vui mừng tán thưởng người trụ
bốn Thánh đế, ba mươi bảy pháp trợ đạo. Nên tự tu ba giải thoát môn, cũng
khuyên người tu ba giải thoát môn, luôn ngợi khen pháp tu ba giải thoát môn,
vui mừng tán thán người tu ba giải thoát môn. Nên tự tu tám giải thoát, tám
thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; cũng khuyên người tu tám giải thoát,
tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; luôn ngợi khen pháp tu tám giải
thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; vui mừng tán thán người tu
tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ. Nên tự viên mãn
thập địa Bồ tát, cũng khuyên người viên mãn thập địa Bồ tát, luôn ngợi khen
pháp tu viên mãn thập địa Bồ tát, vui mừng tán thán người tu viên mãn thập địa
Bồ tát. Nên tự viên mãn năm loại mắt, sáu phép thần thông; cũng khuyên người
viên mãn năm loại mắt, sáu phép thần thông; luôn ngợi khen pháp viên mãn năm
loại mắt, sáu phép thần thông; vui mừng tán thán người viên mãn năm loại mắt,
sáu phép thần thông. Nên tự viên mãn Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp
Phật bất cộng, cũng khuyên người viên mãn Như Lai mười lực cho đến mười tám
pháp Phật bất cộng, luôn ngợi khen pháp viên mãn Như Lai mười lực cho đến mười
tám pháp Phật bất cộng, vui mừng tán thán người viên mãn Như Lai mười lực cho
đến mười tám pháp Phật bất cộng. Nên tự viên mãn pháp không quên mất, tánh luôn
luôn xả; cũng khuyên người viên mãn pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả;
luôn ngợi khen pháp viên mãn pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; vui mừng
tán thán người viên mãn pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả. Nên tự khởi trí
chứng quả Dự lưu mà chẳng chứng thật tế được quả Dự lưu, cũng khuyên người khởi
trí chứng quả Dự lưu và chứng thật tế được quả Dự lưu, luôn ngợi khen pháp khởi
trí chứng quả Dự lưu và chứng thật tế được quả Dự lưu, vui mừng ngợi khen kẻ
khởi trí chứng quả Dự lưu và chứng thật tế được quả Dự lưu. Nên tự khởi trí
chứng quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề mà chẳng chứng thật tế
được quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề; cũng khuyên người khởi
trí chứng quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề và chứng thật tế
được quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề; luôn ngợi khen pháp khởi
trí chứng quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề và chứng thật tế
được quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề; vui mừng tán thán kẻ
khởi trí chứng quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề và chứng thật
tế được quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề. Nên tự vào ngôi Bồ
tát Chánh tánh ly sanh, cũng khuyên người vào ngôi Bồ tát Chánh tánh ly sanh,
luôn ngợi khen pháp vào ngôi Bồ tát Chánh tánh ly sanh, vui mừng tán thán người
vào ngôi Bồ tát Chánh tánh ly sanh. Nên tự nghiêm tịnh cõi Phật, thành thục hữu
tình; cũng khuyên người nghiêm tịnh cõi Phật, thành thục hữu tình; luôn ngợi
khen pháp nghiêm tịnh cõi Phật, thành thục hữu tình; vui mừng tán thán người
nghiêm tịnh cõi Phật, thành thục hữu tình. Nên tự phát khởi thần thông Bồ tát,
cũng khuyên người phát khởi thần thông Bồ tát, luôn ngợi khen pháp phát khởi
thần thông Bồ tát, vui mừng tán thán người phát khởi thần thông Bồ tát. Nên tự
phát sanh Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí; cũng khuyên
người phát sanh Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí; luôn ngợi
khen pháp phát sanh Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí; vui
mừng tán thán người phát sanh Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng
trí. Nên tự đoạn tất cả phiền não tập khí nối nhau, cũng khuyên người đoạn tất
cả phiền não tập khí nối nhau, luôn ngợi khen pháp đoạn tất cả phiền não tập
khí nối nhau, vui mừng tán thán người đoạn tất cả phiền não tập khí nối nhau.
Nên tự thọ trì viên mãn thọ mạng, cũng khuyên người thọ trì viên mãn thọ mạng,
luôn ngợi khen pháp thọ trì viên mãn thọ mạng, vui mừng tán thán người thọ trì
viên mãn thọ mạng. Nên tự chuyển pháp luân, cũng khuyên người chuyển pháp luân,
luôn ngợi khen pháp chuyển pháp luân, vui mừng tán thán người chuyển pháp luân.
Nên tự gìn giữ hộ trì Chánh pháp khiến trụ, cũng khuyên người gìn giữ hộ trì
Chánh pháp khiến trụ, luôn ngợi khen pháp gìn giữ hộ trì Chánh pháp khiến trụ,
vui mừng tán thán người gìn giữ hộ trì Chánh pháp khiến trụ.
Thiện Hiện! Đại Bồ tát nào muốn
mau thành tựu sự mong cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, thì đối với pháp
như thế dùng vô sở đắc làm phương tiện và nên trụ như vậy.
Thiện Hiện! Các Đại Bồ tát nên học Bát
Nhã sâu xa, phương tiện thiện xảo như thế. Nếu học như thế mới có thể an trụ
pháp đáng trụ. Nếu học như thế, an trụ như thế, thì đối với các sắc không bị
chướng ngại, đối với thọ, tưởng, hành, thức không bị chướng ngại. Cho đến đối
với việc chuyển pháp luân không bị chướng ngại, đối với Chánh pháp trụ không bị
chướng ngại. Vì sao? Thiện Hiện! Vì đại Bồ tát này từ trước đến nay không nhiếp
thọ sắc, không nhiếp thọ thọ, tưởng, hành, thức. Cho đến không nhiếp thọ chuyển
pháp luân, không nhiếp thọ Chánh pháp trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì sắc không thể
nhiếp thọ, nếu sắc không thể nhiếp thọ thì không phải sắc; vì thọ, tưởng, hành,
thức không thể thọ trì, nếu thọ, tưởng, hành, thức không thể nhiếp thọ, thì
không phải thọ, tưởng, hành, thức. Cho đến vì chuyển pháp luân không thể nhiếp
thọ, nếu chuyển pháp luân không thể nhiếp thọ, thì không phải chuyển pháp luân.
Vì chánh pháp trụ không thể nhiếp thọ, nếu Chánh pháp trụ không thể nhiếp thọ,
thì không phải Chánh pháp trụ.
Khi đức Phật thuyết Bồ tát trụ thì
có hai ngàn Bồ tát đắc Vô sanh pháp nhẫn.
Thích nghĩa:
(1). Không những trong đoạn Kinh tóm
lược này, mà hầu hết trong toàn bộ bản Tổng luận, chúng tôi dùng từ “như”
thay thế cho “Chơn như”, chỉ trừ trường hợp bắt buộc phải gọi đích danh
là chơn như, pháp giới, pháp tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế v.v… Thích
nghĩa trong phần lược giải nói về “Như Lai tùy sinh” do Tuệ sĩ ghi chú, được
chúng tôi trích dẫn trong phẩm “Chơn như”, phần sau quyển 318 đến phần đầu
quyển 324, tập 13, Hội thứ I trước đây,
đã đưa đến quyết định này. Từ “như” hay “như như” dùng trong trường hợp này
diễn tả thật đầy đủ chơn như tánh, pháp tánh v.v… của tất cả pháp trong thế
gian.
(2). Các pháp như
có một như, có hai như, có ba như chăng? Tất cả pháp như là đồng một như, không
hai, không khác. Đã đồng một như thì dĩ nhiên không phải hai, không phải ba,
không phải khác.
Sơ giải:
Phẩm “Chơn Như” của Hội thứ II tương
đương với 2 phẩm của Hội thứ I:
1. Phẩm “Chơn Như”, phần sau quyển
318 cho đến phần đầu quyển 324, Hội thứ I, và
2. Phẩm “Bồ Tát An Trụ”, phần
sau quyển 324 đến phần đầu quyển 325, Hội thứ I.
Chúng tôi đã lược giải kỹ hai phẩm
này, ở đây không lặp lại nữa. Quý vị có thể trở lui tham khảo, nếu muốn!
Chúng tôi đã chú giải hai phẩm này
của Hội thứ I, đáng lẽ không cần lặp lại nữa. Tuy nhiên, phẩm “Chơn Như” là
phẩm rất quan trọng trong việc thấu hiểu thật tướng các pháp, nên không gì hơn
chúng tôi trình bày lại phẩm “Chơn Như” của Hội thứ I một lần nữa vì tánh cách
quan trọng của nó. Như nhiều lần chúng tôi lưu ý “người nào
tri kiến được chơn như tức là giác ngộ”. Vậy, phần lặp lại này không đến nỗi
thừa thải lắm. Thú thật là phải trì tụng nhiều lần, phải tư duy nhiều mới có
thể hiểu pháp sâu diệu này.
1. Các pháp Như thật:
Phẩm “Vô Sở Đắc", quyển 69, Hội
thứ I, ĐBN Ngài Huyền Trang dịch:
Thiện Hiện Tu Bồ Đề nói với Xá Lợi
Phất:
“Xá Lợi Tử! Nói tóm lại, tất cả pháp
thiện chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy. Tất
cả pháp phi thiện chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh như
vậy là như vậy. Tất cả pháp hữu ký chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao?
Vì bản tánh như vậy là như vậy. Tất cả pháp vô ký chẳng phải thường, chẳng phải
hoại. Vì sao? Vì bản tánh như vậy là như vậy. Tất cả pháp hữu lậu chẳng phải
thường, chẳng phải hoại. Vì bản tánh như vậy là như vậy. Tất cả pháp vô lậu
chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì bản tánh như vậy là như vậy. Tất cả pháp
hữu vi chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì bản tánh như vậy là như vậy. Tất
cả pháp vô vi chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì bản tánh như vậy là như
vậy.
Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi
nói là các pháp cũng như vậy, đều không có tự tánh”.
Tất cả pháp tuy thiên sai vạn biệt
biểu hiện dưới nhiều hình tướng khác tùy theo cái nhìn (cảm quan và ý thức) của
mỗi cá thể. Hình tướng thì có khác, nhưng tánh thì như nhau. Các pháp hiện hữu
“như thực trong chơn như thật tánh”của nó. Nó như vậy bởi vì như vậy. Hòn sỏi
đứng bên đường ngàn năm vẫn là hòn sỏi cũ. Nó không tự biết nó là xấu hay đẹp,
to hay nhỏ, sạch hay dơ… Nó cũng không biết các hòn sỏi khác chung quanh nó.
Các pháp tự tánh là không, nó không tự biết nó và cũng không biết các pháp
khác, từ xưa đã vậy, nay vẫn vậy, nó là nó, nó là như như. Những biểu
lộ đây kia đều là vọng tình do cảm quan và ý thức phân biệt của con người. Con
người vì để dễ phân biệt vật nầy với vật khác, nên mới đặt tên: Đây là đá, đây
là sỏi. Một khi các pháp có tên gọi thì ngay đó có cảm thọ, có phân biệt chấp
nhất, tâm từ đó "hết như", đành theo khách trần mà lưu chuyển.
Các pháp vốn bình đẳng, chân thật,
như như. Nên Phật bảo:
“Sắc tức là Bát nhã Ba la mật, Bát
nhã Ba la mật tức là sắc. Nhẫn đến Nhất thiết chủng trí là Bát nhã Ba la mật, Bát
nhã Ba la mật là Nhất thiết chủng trí. Sắc tướng như, nhẫn đến Nhất thiết chủng
trí tướng như là một như, không hai, không khác”.
Vì vậy, có thể nói: Bát Nhã có khả
năng soi thấy thế giới như thế là như thế, thấy các pháp trong bản tính như
thực của chúng. Đấy là cái thấy xuyên qua tướng trạng để trực ngộ được chân
tánh của vạn hữu mà tuyên bố rằng thấy như thế là thấy các pháp như trong chơn
như thật tướng của chúng.
2. “Tùy Như Lai sinh”:
Đây là nguyên văn đoạn Kinh nói về
“Như Lai tùy sinh”, phẩm “Chơn Như”,
quyển 447, Hội thứ II, ĐBN do Ngài Huyền
Trang dịch:
“Chư Thiên cõi Dục, cõi Sắc lại thưa
Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đại đức Thiện Hiện
là chơn đệ tử Phật, tùy Như Lai sanh. Vì sao? Vì đại đức Thiện Hiện đã thuyết
tất cả pháp đều tương ưng với không.
Cụ thọ Thiện Hiện bảo chư Thiên cõi
Dục, cõi Sắc:
- Chư Thiên các ông nói Thiện Hiện
là chơn đệ tử Phật, tùy Như Lai sanh. Thế nào là Thiện Hiện tùy Như Lai sanh?
Nghĩa là tùy Như Lai như sanh. Vì sao? Vì Như Lai như không đến, không đi,
Thiện Hiện như cũng không đến, không đi, nên nói Thiện Hiện tùy Như Lai sanh.
Như Lai như tức tất cả pháp như, tất cả pháp như tức Như Lai như. Như,
như thế là không tánh như, cũng không phải không tánh như. Thiện Hiện
như cũng lại như vậy, nên nói Thiện Hiện tùy Như Lai sanh. Như Lai như
thường trụ là tướng, Thiện Hiện như cũng lại như vậy, nên nói Thiện Hiện
tùy Như Lai sanh. Như Lai như không biến đổi, không phân biệt, chuyển khắp
các pháp. Thiện Hiện như cũng lại như vậy, nên nói Thiện Hiện tùy Như Lai
sanh. Như Lai như không quái ngại, tất cả pháp như cũng không quái ngại.
Hoặc Như Lai như, hoặc tất cả pháp như, đều đồng một như không hai,
không khác, không tạo, không tác. Như, như thế là tướng thường như, không
thời nào chẳng như. Vì tướng thường như, không thời nào chẳng như nên không
hai không khác. Thiện Hiện như cũng lại như vậy, nên nói Thiện Hiện tùy Như Lai
sanh. Như Lai như khắp mọi nơi không nhớ nghĩ, không phân biệt. Thiện
Hiện như cũng lại như vậy, nên nói Thiện Hiện tùy Như Lai sanh. Như Lai như không
đổi khác, bất khả đắc. Thiện Hiện như cũng lại như vậy, nên nói Thiện Hiện
tùy Như Lai sanh. Như Lai như không lìa tất cả pháp như, tất cả pháp như
không lìa Như Lai như. Như, như thế thường như, không thời nào chẳng tướng như.
Thiện Hiện như cũng lại như thế nên nói Thiện Hiện tùy Như Lai sanh. Dù nói tùy
sanh mà không có chỗ tùy sanh, vì Thiện Hiện như chẳng khác Phật vậy.
Như Lai như không quá khứ, không vị
lai, không hiện tại. Tất cả pháp như cũng không quá khứ, không vị lai, không
hiện tại. Thiện Hiện như cũng lại như vậy, nên nói Thiện Hiện tùy Như Lai sanh.
Quá khứ như tức Như Lai như, Như Lai như tức quá khứ như. Vị lai như tức Như
Lai như, Như Lai như tức vị lai như. Hiện tại như tức Như Lai như, Như Lai như
tức hiện tại như. Hoặc quá khứ như, hoặc vị lai như, hoặc hiện tại như, hoặc
Như Lai như, đều đồng một như không hai, không khác.
Sắc như tức Như Lai như, Như Lai như
tức sắc như. Thọ, tưởng, hành, thức như tức Như Lai như, Như Lai như tức thọ,
tưởng, hành, thức như. Hoặc sắc như, hoặc thọ, tưởng, hành, thức như, hoặc Như
Lai như, đều đồng một như không hai, không khác. Mười hai xứ như, mười tám giới
như, tứ thiền như, tứ vô sắc định như, mười tám pháp bất cộng như, Nhất thiết
trí như, Đạo tướng trí như, Nhất thiết chủng trí như… cho đến quả vị Giác ngộ
tối cao như tức Như Lai như, Như Lai như tức mười hai xứ như, mười tám giới
như, tứ thiền như, tứ vô sắc định như, mười tám pháp bất cộng như, Nhất thiết
trí như, Đạo tướng trí như, Nhất thiết chủng trí như… cho đến quả vị Giác ngộ
tối cao như đều đồng một như không hai, không khác. Bồ tát hạnh như tức Như Lai
như, Như Lai như tức Bồ tát hạnh như. Quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề như tức
Như Lai như, Như Lai như tức quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề như. Hoặc tất cả
Bồ tát hạnh như, hoặc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề như, hoặc Như Lai như,
đều đồng một như không hai, không khác. Nhất thiết trí như tức Như Lai như, Như
Lai như tức Nhất thiết trí như. Đạo tướng trí, Nhất thiết chủng trí như tức Như
Lai như, Như Lai như tức Đạo tướng trí, Nhất thiết chủng trí như. Hoặc Nhất
thiết trí như, hoặc Đạo tướng trí, Nhất thiết chủng trí như, hoặc Như Lai như,
đều đồng một như không hai, không khác.
Thiên chúng nên biết, các Đại Bồ tát
đang chứng tất cả pháp như như thế nên gọi là Như Lai ứng Chánh Đẳng Giác. Thưa
Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác! Con tin hiểu sâu sắc các pháp như như thế nên nói
Thiện Hiện tùy Như Lai sanh”.
Để giải thích “các pháp như thật” và
“Như Lai tùy sinh”, không gì hơn là chúng tôi lấy một đoạn luận giải “Bát Nhã như
là soi thấy các Pháp Như thực” trong Thiền Luận III, của Thiền sư D.T. Suzuki
để quí vị thưởng thức thêm:
“Do công năng vô chấp đó, chúng ta
có thể nói rằng Bát Nhã có khả năng nhìn thấy thế giới như thế là như thế, thấy
các pháp trong bản tính như thực (yathàbhùtum) của chúng. Đây là hoạt dụng
đặc sắc nhất của Bát Nhã mà Bồ tát sở đắc khi Ngài chứng ngộ rằng đến thì như
thế mà đến, đến từ Bát Nhã, và do đó biết rằng Bát Nhã sinh ra Ngài cũng như
sinh ra hết thảy chư Phật. Một khi đôi mắt của Bồ tát mở ra cho sự thực này, Bồ
tát quan sát thế gian và hết thảy thiên sai vạn biệt của thế gian trong tổng
trạng chân thực của chúng. Nói thế tức là, trong tầm tri giác của chúng ta, thế
gian không ngừng biến đổi, chịu đủ hình thái thành và hoại. Nhưng Bồ tát khi mà
trí Bát Nhã của Ngài đã khai ngộ hoàn toàn, nhận thấy rằng, năm uẩn tạo thành
thế gian này dù có những biến dịch bên ngoài của chúng, trong tự tánh
(svabhava) chúng không hề bị hoại diệt, chúng không mang những hoại tướng,
không bị chi phối bởi những thành hoại, không bị chi phối bởi sinh tử, không bị
chi phối bởi những tham dục và phiền não.
Kinh điển Bát nhã Ba la mật vừa là
một nền triết học và vừa là một nền tôn giáo, nên giáo thuyết của nó luôn luôn
hỗn hợp bản thể học và tâm lý học. Sự thực, nó không nói tới sự hữu là như thế
nào, nhưng nói tới những gì có nơi con người. Biết rõ thế gian tức biết rõ tinh
thần của con người và những tạo tác của nó. Không có những vấn đề siêu hình nào
mà cùng lúc không là những vấn đề về giải thoát và giác ngộ. Do đó khi Bồ tát
nhận thấy thế gian như là như thực (yathàbhùtam) Ngài cũng nhận thấy các loại
tâm của con người như thế là như thế; thế rồi Ngài mới thi thiết các phương
tiện thiện xảo (upàya) của mình. Vậy, Kinh nói, bằng con mắt của trí Bát Nhã,
Bồ tát thấy rõ các loại tâm của tất cả các loại hữu tình, và Ngài biết rõ chúng
sai biệt như thế nào, sai biệt về cá tính, sai biệt về hoạt dụng, sai biệt về
thọ báo, sai biệt về giá trị đạo đức, về tâm tính, vân vân. Rồi tri kiến như
thực (yathàbhùtam) của Ngài thấu triệt qua những giả tướng này và nhận ra rằng
các tâm của chúng; tịnh hay bất tịnh, nhiếp tâm hay loạn tâm, nhiễm tâm hay ly
nhiễm tâm, tất cả đều không tự tánh, không thủ trước, không phân biệt. Đấy được
coi là nhìn vạn hữu trong chân như tướng của chúng, trong đó mọi sai biệt tan
biến hết, đồng thời tự hiển lộ tự thân như thực trong ánh sáng của trí Bát Nhã(1).
Do đó, đương nhiên tri kiến như thực
trong các Kinh Bát nhã Ba la mật có nghĩa là tri kiến xuyên qua bức màn trùng
điệp phủ tối đôi mắt chúng ta, và rồi dùng trí Bát Nhã nắm lấy vạn hữu trong
chân như của chúng. Chân như (tathatà)(2) là một chữ quá lạ, nhưng trong thuật
ngữ Phật giáo, nó là một trong những chữ ý vị nhất. Hiểu rõ nghĩa của nó là
hiểu toàn bộ hệ thống tư tưởng của đạo Phật. Chân như là như như và đừng có
hiểu lộn thành như nhau hay như một. Khi người ta nói đến vô dị tướng, thì có
thể tưởng rằng các dị tướng bị biến thành vô sở tri hay vô sở hữu, để bộc lộ
cái tướng như một của chúng. Nhưng cái mà các hành giả Bát Nhã muốn nói là
những cái được thấu hiểu trong những tương quan chân thực của chúng, không chỉ
tương quan giữa cái này với cái kia mà tương quan với lý tính hiện hữu của
chúng.
“Kinh Bát Nhã có một đoạn(3) dành
cho Tu Bồ Đề (Subhùti) luận về Như lai Tùy sinh (Tathàgata-anujata)(4). Tùy
sinh (Anujàta) có nghĩa, sinh sau hay “sinh ra tùy theo”. Chính Tu Bồ Đề
(Subhuti), người nói triết học Bát Nhã, sinh ra sau Như lai, tức em ruột của
Như lai, hay nói đúng hơn, Tu Bồ Đề được sinh ra tùy theo tự tướng của Như lai.
Đó là một trong các đoạn quan trọng nhất của Bát Nhã, nhất là khi xét tới
liên hệ với giáo thuyết Chân như. Như Lai (Tathagata) thông thường
được coi như là một biệt hiệu của Phật, nghĩa đen hoặc “người đến như thế” hoặc
“người đi như thế”. Điểm quan trọng ở đây là ý nghĩa của chữ Như (tatha) hơn là
Lai (agata, đến hay gata, đi); hình như tác giả của Kinh Bát Nhã nhấn mạnh trên
chữ tatha coi đó là chìa khóa để hiểu giáo pháp Tathata (Chân như) hay
Yathabhutam (Như thực). Khi ông nói tới Chân như của Như Lai (tathagata-
tathata), ông muốn nói lý tánh, căn nguyên, hay lý tắc cho sự xuất hiện có thể
có của Như Lai trong thế gian. Vì vậy, Tu Bồ Đề mà được sinh ra sau (anujata)
Chân như của Như Lai, thì có nghĩa là Tu Bồ Đề và Như Lai cùng đến từ bào thai
vũ trụ mà Kinh Lăng già (Lankavatara) và các Kinh Phật khác gọi là Như Lai tạng
(tathagatagarbha). Với giải thích sơ khởi này, đoạn dưới đây nói về Tùy sinh
(Anujata) và Như Lai (Tathagata) sẽ trở nên dễ hiểu hơn.
“Khi nói Tu Bồ Đề sinh ra sau Như
Lai, nói thế có nghĩa như vầy: Như của Như Lai là Như của Tu Bồ Đề, Như Như
không hai không khác, vì Chân Như là một trong hết thảy các loại hữu tình và ở
đây không hai tưởng, không phân biệt, không phân đôi; trong hết thảy Chân Như
không có đến và cũng không có đi vì bản lai vô sinh; chúng không chỗ trụ nơi
chúng thường trụ như là những pháp sai biệt; chúng là vô tác, vì có nghĩa rằng
chúng không phải là sở tri như là đang hoạt dụng trong một phương thế quyết
định nào đó để biểu lộ những tự tướng sai biệt của chúng; thế nhưng chúng cũng
không phải là thường tịch và vô sở tác; chúng luôn luôn như Như trong tất cả
mọi xứ sở, trong tất cả mọi thời gian, trong tất cả mọi cảnh giới, trong tất cả
mọi tụ tập nhân duyên; trong chúng không từng có quá khứ, không từng có hiện
tại, không từng có vị lai mặc dù chúng hữu tình được coi như đang hiện hữu, tồn
tại và biến mất; chúng không lệ thuộc sự phân biệt, không sắc tướng sai biệt,
là bất khả đắc; và sau hết dù với những phẩm tính đó chúng vẫn xuất hiện như là
những thực tại, có thể được định danh, được định nghĩa và được phân biệt, mặc
dù như thế chúng không còn là Chân như nữa. Vì những lý do đó, Chân như của Tu
Bồ Đề là Chân như của Như Lai, và Chân như của Như Lai là Chân như của hết thảy
các pháp, cả hai không hai không khác. Chân như nhất như hiển hiện ở đây, nhưng
ngay khi nói về Chân như như thế, Chân như không còn là Chân như nữa. Chân như
chỉ là giả danh, nhưng nếu không có giả danh đó không có Như Lai, không có Tu
Bồ Đề, không có Phật, không có A la hán, không có các loại hữu tình. Duy chỉ
Như Lai mới thấu triệt như thế, không một chúng sinh nào có thể nắm nổi lý này.
Tu Bồ Đề, vì Ngài thấu hiểu, nên có thể diễn nói những huyền diệu sâu xa của Bát
nhã Ba la mật-đa, và vì lý do đó, Ngài là Tùy sinh của Như Lai”(5).
Thêm nữa, chúng ta đọc trong chương
XVII, “Tướng Bất thối chuyển của Bồ tát” (Avinivartaniyakaralinganimitta
parivarta):
“Phật tử hành đạo trải qua các giai
đoạn khác nhau của tâm linh(6), nhưng ở trong Chân như chúng không hai, không
phân biệt. Bồ tát từ Chân như nhất tướng đó mà có thể nhập vào Pháp tánh (nói
gọn: Chân lý). Sau khi nhập vào Pháp tánh, ở đó cũng không sinh ra phân
biệt. Dù khi nghe những giáo pháp khác, Bồ tát cũng không hủy báng, vì biết
rằng có nhiều pháp môn sai khác dẫn vào Pháp tánh. Dù khi nghe những danh tướng
và ngôn thuyết, Bồ tát cũng không sinh nghi hoặc đối với công năng thù thắng
của Chân như mà Ngài đang hộ trì trong mình".
Một trong những hoạt dụng của Bát
Nhã, vậy thì, chính là tri nhận các pháp Như thực hay thấy Chân như tướng
của chúng. Trong Chân như đó, thấy rằng hết thảy mọi loài, mọi sự hữu,
không bị nhiễm ô, do đó chúng là một với chư Phật và trong phương diện đặc biệt
này có thể gọi các Ngài là chư Như Lai. Vì tất cả là một như thế, nên tất cả
cùng là anh em (anujatà) với nhau, kể cả chư Phật và Bồ tát. Cái thai mẹ sinh
ra hết thảy những anh em này đích danh là Như Lai tạng (Tathagata- garbha(7)).
Vai trò làm mẹ của Bát Nhã ở đây thành xác chứng hơn bao giờ hết, và ý nghĩa đó
thường được dùng để tán dương Bát Nhã càng là tự nhiên”.
3. Chân Như Quan Bát Nhã:
Giữa hai lập trường vạn hữu là đổi
dời, biến động hay là thường hằng, bất biến hay nói khác nó là tương đối hay
tuyệt đối. Tương đối mà Bát Nhã thường diễn đạt là sinh tử, tuyệt đối là Niết
bàn. Bát Nhã cũng diễn đạt thế giới tục đế là thế giới tương đối, thế giới
Thánh đế hay đệ nhất nghĩa đế là tuyệt đối. Nhưng cho dù là tương đối
hay tuyệt đối, dù nhiễm hay tịnh, dù đa thù hay
nhất thể, dù thường hằng hay bất biến cũng phát
suất từ một cái tâm. Tâm sinh diệt, đổi dời là sinh tử, tâm tịch tịnh bất biến
là Niết bàn hay gọi là chân như.
Vấn đáp sau đây giữa Phật và Tu Bồ
Đề, phẩm “Phương Tiện Thiện Xảo”, quyển thứ 330, Hội thứ I, ĐBN, nói lên
quan điểm đó như sau:
“Thiện Hiện! Theo ý ngươi, chân như
tức là tâm chăng?
Thiện Hiện đáp rằng: Bạch Thế Tôn!
Chẳng phải vậy.
Phật bảo: Thiện Hiện! Theo ý ngươi,
rời chân như có tâm chăng?
Thiện Hiện đáp rằng: Bạch Thế Tôn!
Chẳng phải vậy.
Phật bảo: Thiện Hiện! Theo ý ngươi,
tâm tức chân như chăng?
Thiện Hiện đáp rằng: Bạch Thế Tôn!
Chẳng phải vậy.
Phật bảo: Thiện Hiện! Theo ý ngươi,
rời tâm có chân như chăng?
Thiện Hiện đáp rằng: Bạch Thế Tôn!
Chẳng phải vậy.
Phật bảo: Thiện Hiện! Theo ý ngươi,
chân như thấy chân như chăng?
Thiện Hiện đáp rằng: Bạch Thế Tôn!
Chẳng phải vậy.
Phật bảo: Thiện Hiện! Theo ý ngươi,
nếu đại Bồ tát năng hành như thế, là hành Bát nhã Ba la mật-đa thậm
thâm chăng?
Thiện Hiện đáp rằng: Nếu đại Bồ tát
năng hành như thế là hành Bát nhã Ba la mật-đa thậm thâm.
Phật bảo: Thiện Hiện! Theo ý ngươi,
nếu Bồ tát năng hành như thế là hành chỗ nào?
Thiện Hiện đáp rằng: Nếu đại Bồ tát
năng hành như thế đều không chỗ hành. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì nếu đại
Bồ tát hành Bát nhã Ba la mật không tâm hiện hành, không chỗ hiện hành. Bạch
Thế Tôn! Vì trụ trong chân như đều không hiện hành và chỗ hiện hành vậy.
Phật bảo: Thiện Hiện! Theo ý ngươi,
đại Bồ tát khi hành Bát Nhã là hành ở chỗ nào?
Thiện Hiện đáp rằng: Nếu đại Bồ tát
hành Bát Nhã là hành ở trong thắng nghĩa đế, trong đây hiện hành và chỗ
hiện hành đều vô sở hữu, vì năng lấy bị lấy chẳng thể được vậy.
Phật bảo: Thiện Hiện! Theo ý ngươi,
nếu đại Bồ tát khi hành Bát Nhã là hành trong thắng nghĩa đế, tuy chẳng lấy
tướng mà hành tướng chăng?
Thiện Hiện đáp rằng: Bạch Thế Tôn!
Chẳng phải vậy.
Phật bảo: Thiện Hiện! Theo ý ngươi,
đại Bồ tát khi tu hành Bát Nhã là hành trong thắng nghĩa đế vì hoại tướng mà
hành chăng?
Thiện Hiện đáp rằng: Bạch Thế Tôn!
Chẳng phải vậy. Phật bảo: Thiện Hiện! Theo ý ngươi, đại Bồ tát khi hành Bát Nhã,
hành trong thắng nghĩa đế vì hoại tướng tưởng chăng?
Thiện Hiện đáp rằng: Bạch Thế Tôn!
Chẳng phải vậy.
Phật hỏi: Thiện Hiện! Đại Bồ tát nầy
khi tu hành Bát Nhã vì sao chẳng hoại tướng, cũng chẳng hoại tướng tưởng?
Thiện Hiện đáp rằng: Đại Bồ tát khi
tu hành Bát Nhã, chẳng liền nghĩ: Ta sẽ hoại tướng, cũng chẳng liền nghĩ: Ta sẽ
hoại tướng và hoại tướng tưởng, cũng chẳng liền nghĩ: Ta sẽ hoại vô tướng và
hoại vô tướng tưởng. Vì đối tất cả pháp không có phân biệt”.
Cảm quan và ý thức phân biệt đưa đến
chấp trước. Bát Nhã là vô trước mà vô trước thì tâm như như bất động. Tâm như
như bất động thì chân như thật tướng hiện tiền.
Vì vậy, Chân Như Quan rốt cuộc được
coi là pháp tối cao của Phật đạo. Người nào hiểu được chân như người đó được
coi là giác ngộ. Cuộc đối thoại giữa Phật và Thiện Hiện ở quyển 320, ĐBN, chứng
tỏ điều này:
“Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
Bạch Thế Tôn! Sao gọi là quả vị Giác ngộ tối cao?
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Chân
như của các pháp là quả vị Giác ngộ tối cao.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch: Bạch Thế
Tôn! Chân như của pháp nào mà nói là tất cả pháp như là quả vị Giác ngộ tối cao?
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Sắc như là
quả vị Giác ngộ tối cao; thọ, tưởng, hành, thức như là quả vị Giác ngộ tối cao;
mười hai xứ như, mười tám giới như, tứ thiền, tứ vô sắc định, mười tám pháp bất
cộng như là quả vị Giác ngộ tối cao; Nhất thiết trí như… cho đến Vô Thượng
Chánh đẳng Chánh giác như là quả vị Giác ngộ tối cao. Sanh tử như là quả vị Giác
ngộ tối cao; cho đến Niết bàn như là quả vị Giác ngộ tối cao”.
Và Kinh cũng thường lặp đi lặp lại
rằng “người biết các pháp như như thế thì gọi là Như Lai”.
---o0o---