XVIII. PHẨM
“TƯỚNG KHÔNG”(1)
Phần cuối
quyển 549 đến đầu quyển 550, Hội thứ IV, TBBN.
Tóm lược:
(Nghĩa xứ tương ưng Bát nhã sâu xa là không, vô tướng,
vô nguyện…)
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch
Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ tát Bất thối
chuyển thành tựu công đức rộng lớn thật hi hữu.
Bạch Thế Tôn! Các tướng trạng của
đại Bồ tát Bất thối chuyển giảng nói nhiều hằng hà sa số kiếp, do đức Phật đã
giảng về các tướng trạng, chỉ rõ sự thành tựu vô lượng công đức thù thắng của
đại Bồ tát Bất thối chuyển. Cúi xin đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác giảng lại
nghĩa xứ tương ưng Bát nhã sâu xa, để các Bồ tát được an trụ trong ấy và tu các
công đức mau được viên mãn.
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Hay thay! Hay
thay! Nay ngươi mới có thể vì các chúng đại Bồ tát thỉnh hỏi đức Như Lai Ứng
Chánh Đẳng Giác nghĩa xứ tương ưng Bát nhã sâu xa, để các Bồ tát được an trụ
trong ấy và tu các công đức mau được viên mãn.
Thiện Hiện nên biết: Nghĩa xứ tương ưng Bát nhã sâu xa đó là
không, vô tướng, vô nguyện, vô tác, vô sanh, vô diệt, vô tánh, lìa nhiễm, Niết
bàn tịch tĩnh.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Chỉ có pháp này được
gọi là nghĩa xứ tương ưng Bát nhã sâu xa, hay tất cả pháp đều được gọi là nghĩa
xứ tương ưng Bát nhã sâu xa?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Tất cả các pháp
cũng được gọi là nghĩa xứ tương ưng Bát nhã sâu xa. Vì sao? Vì tất cả sắc, thọ,
tưởng, hành, thức cũng được gọi là nghĩa xứ tương ưng Bát nhã sâu xa.
Thiện Hiện! Vì sao nói tất cả sắc,
thọ, tưởng, hành, thức cũng được gọi là nghĩa xứ tương ưng Bát nhã sâu xa?
Thiện Hiện nên biết: Như như sâu xa
nên sắc sâu xa; như như sâu xa nên thọ, tưởng, hành, thức cũng sâu xa. Thế nên
tất cả sắc, thọ, tưởng, hành, thức được gọi là nghĩa xứ tương ưng Bát nhã sâu
xa.
Này Thiện Hiện! Sắc như sâu xa nên
sắc cũng sâu xa; thọ, tưởng, hành, thức như sâu xa nên thọ, tưởng, hành, thức
cũng sâu xa. Thế nên tất cả sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng được gọi là nghĩa
xứ tương ưng Bát nhã sâu xa.
Này Thiện Hiện! Nếu không có sắc,
thì đó là sắc sâu xa. Nếu không có thọ, tưởng, hành, thức, thì đó là thọ,
tưởng, hành, thức sâu xa. Thế nên tất cả sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng được
gọi là nghĩa xứ tương ưng Bát nhã sâu xa. (Q.549,
TBBN)
Khi ấy, Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Phương tiện sâu xa
vi diệu đem các ví dụ khác về các sắc để hiển thị Niết bàn; đem các ví dụ khác
về các thọ, tưởng, hành, thức để hiển thị Niết bàn?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như lời ngươi nói!
Thiện Hiện nên biết: Các đại Bồ tát
nên đối với nghĩa xứ tương ưng Bát nhã sâu xa này suy tư chắc chắn, kỹ càng và
nghĩ: Nay ta nên như Bát nhã sâu xa đã dạy mà trụ. Nay ta nên như Bát nhã sâu
xa đã dạy mà học.
(Nương Bát nhã hành pháp thí, thì công đức đó vô lượng
vô biên)
Thiện Hiện nên biết: Đại Bồ tát nào
có thể đối với nghĩa xứ tương ưng Bát nhã sâu xa này suy tư chắc chắn, kỹ càng,
như Bát nhã sâu xa đã dạy mà trụ, như Bát nhã sâu xa đã dạy mà học. Đại Bồ tát
này do nương vào Bát nhã sâu xa này suy tư chắc chắn, kỹ càng, tinh tấn tu học
cho đến chỉ một ngày, phước đức đạt được
cũng vô lượng, vô biên.
Thiện Hiện nên biết: Đại Bồ tát này
nương vào Bát nhã sâu xa, suy tư chắc chắn, kỹ càng, tinh tấn tu học, tùy theo
đó có thể giải thoát được bao nhiêu tội lỗi làm chướng ngại đạo quả Vô Thượng
Chánh Đẳng Bồ đề. Vì vậy, đại Bồ tát nương vào Bát nhã sâu xa, suy tư chắc
chắn, kỹ càng, tinh tấn tu học, chóng chứng đạo quả Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Thiện Hiện nên biết: Nếu đại Bồ tát
nương vào Bát nhã sâu xa, suy tư chắc chắn, kỹ càng, tinh tấn tu học trải qua một ngày đêm, thì công đức này đạt được
vượt hơn tất cả công đức rộng hành bố thí của các Bồ tát xa lìa Bát nhã sâu xa
trải qua hằng hà sa số đại kiếp.
Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát nương
vào Bát nhã sâu xa, suy tư chắc chắn, kỹ càng, tinh tấn tu học trải qua một
ngày đêm, công đức đạt được vô lượng vô biên, vuợt hơn các Bồ tát xa lìa Bát
nhã sâu xa, trải qua hằng hà sa số đại kiếp đem các vật cúng dường các bậc Dự
lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác, Bồ tát, Như Lai.
Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát nương vào Bát nhã sâu xa đã dạy mà trụ,
trải qua một ngày đêm tinh tấn tu học bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn,
tịnh lự, Bát nhã, công đức đạt được vô lượng vô biên, vượt hơn các Bồ tát xa
lìa Bát nhã sâu xa trải qua hằng hà sa số đại kiếp tinh tấn tu học bố thí, tịnh
giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã.
Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát nương
vào Bát nhã sâu xa đã dạy mà trụ, trải qua một ngày đêm, đem pháp vi diệu bố
thí cho các hữu tình, công đức đạt được vô lượng, vô biên, vượt hơn các Bồ tát
xa lìa Bát nhã sâu xa trải qua hằng hà sa số đại kiếp đem pháp vi diệu bố thí
cho các hữu tình.
Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát nương
vào Bát nhã sâu xa đã dạy mà trụ, trải qua một ngày đêm tu hành các thứ tài thí và pháp thí, ở chỗ vắng vẻ,
chánh niệm tư duy, trước đã tu các loại phước đức nghiệp, cho các hữu tình một
cách bình đẳng và cùng nhau hồi hướng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, công
đức đạt được vô lượng, vô biên vượt hơn các Bồ tát xa lìa Bát nhã sâu xa trải
qua hằng hà sa số đại kiếp tu hành các thứ tài thí và pháp thí, ở chỗ vắng vẻ,
chánh niệm tư duy, trước đã tu hành các loại phước đức nghiệp, cho các hữu tình
một cách bình đẳng và cùng nhau hồi hướng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát nương
vào Bát nhã sâu xa đã dạy mà trụ, trải qua một ngày đêm duyên khắp công đức căn lành của chư Phật Thế Tôn và các đệ tử ba
đời, hòa hợp tương xứng, hiện tiền tùy hỷ, cho các hữu tình một cách bình đẳng,
cùng nhau hồi hướng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, công đức đạt được vô
lượng, vô biên vượt hơn các Bồ tát xa lìa Bát nhã sâu xa trải qua hằng hà sa số
đại kiếp duyên khắp công đức căn lành của chư Phật Thế Tôn và các đệ tử ba đời,
hòa hợp tương xứng, hiện tiền tùy hỷ, cho các hữu tình một cách bình đẳng, cùng
nhau hồi hướng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. (Hết Q.549, TBBN)
Quyển thứ
550
Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:
- Như Thế Tôn dạy: Các hành đều do
phân biệt tạo ra, sanh từ vọng tưởng nên hoàn toàn chẳng thật có. Do nhân duyên
nào mà các Bồ tát đó đạt được công đức vô lượng, vô biên như vậy?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như
lời ngươi nói! Nhưng các Bồ tát hành sâu
Bát nhã Ba la mật cũng nói các hành đều do phân biệt tạo ra, không, vô sở hữu,
hư vọng không thật. Vì sao?
Vì các đại Bồ tát này đã khéo học
pháp nội Không cho đến pháp vô tánh tự tánh Không, đã tự quán sát các hành đều
do phân biệt tạo ra, là Không, thật vô sở hữu, hư vọng không thật. Như vậy, nên
không lìa Bát nhã sâu xa; vì không lìa Bát nhã, nên đã đạt được công đức vô
lượng, vô biên. (Q.550, TBBN)
(Tất cả pháp đều không)
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Vô lượng, vô biên có
gì sai khác?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Vô lượng là quá
các phần lượng; vô số là không thể đếm hết.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Phải chăng có nhân
duyên, sắc cũng có thể nói vô lượng, vô biên; thọ, tưởng, hành, thức cũng có
thể nói vô lượng, vô biên?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Vì có nhân duyên
nên sắc cũng nói vô lượng, vô biên; thọ, tưởng, hành, thức cũng nói vô lượng,
vô biên.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nhân duyên nào mà
sắc cũng nói vô lượng, vô biên; thọ, tưởng, hành, thức cũng nói vô lượng, vô
biên?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Tánh sắc Không, nên cũng nói là vô lượng,
vô biên. Tánh thọ, tưởng, hành, thức Không, nên cũng nói là vô lượng, vô biên. (Q.550, TBBN)
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Chỉ có sắc, thọ,
tưởng, hành, thức là Không hay tất cả pháp cũng đều Không?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Trước đây Ta đã
chẳng từng nói tất cả pháp đều không đó sao?
Thiện Hiện bạch Phật:
- Tuy Phật thường nói các pháp đều
Không, nhưng các hữu tình không có kiến thức hiểu biết, nên nay con hỏi lại như
vậy.
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Không phải chỉ có
sắc, thọ, tưởng, hành, thức là Không, mà Ta nói tất cả các pháp đều Không.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Vô lượng, vô biên là
nghĩa gì?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Vô lượng, vô biên
là nghĩa của không, vô tướng, vô nguyện.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Vô lượng, vô biên
chỉ là không, vô tướng, vô nguyện. Ngoài ra còn có nghĩa nào khác?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao?
Ta đâu chẳng nói tất cả pháp môn đều Không đó sao?
Thiện Hiện bạch Phật:
- Đức Như Lai thường dạy tất cả pháp
môn đều Không.
Phật dạy:
Thiện Hiện! Không tức vô tận, không tức vô lượng, không tức vô biên, không tức các
nghĩa. Vậy nên, Thiện Hiện! Tất cả pháp môn tuy có nhiều thứ lời nói sai biệt
mà nghĩa không khác.
Thiện Hiện nên biết: Các pháp Không, lý đều không thể nói, Như
Lai phương tiện nói là vô tận, hoặc nói vô lượng, nói vô biên, nói là không,
nói vô tướng, nói vô nguyện, nói vô tác, vô sanh, vô diệt, phi hữu, lìa nhiễm,
Niết bàn tịch tĩnh v.v…
Thật nghĩa vô lượng pháp môn của các
pháp như thế không khác, đều do Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vì các hữu tình
phương tiện giảng nói.
Khi ấy, Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Hi hữu thay! Ngài đã
dùng phương tiện thiện xảo, thật tánh các pháp vốn không thể giảng nói nhưng vì
hữu tình nên phương tiện chỉ rõ. Như con hiểu nghĩa Phật nói, thật tánh các
pháp đều không thể nói.
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Thật tánh các pháp đều không thể nói. Vì
sao? Vì tánh tất cả pháp rốt ráo đều Không, không có người có thể giảng nói rốt
ráo Không đó được.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nghĩa không thể nói
có thêm bớt chăng?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Nghĩa không thể
nói không có thêm bớt.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu nghĩa không thể
nói không thêm bớt thì bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật cũng sẽ không thêm bớt.
Nếu sáu pháp Ba la mật này cũng không
thêm bớt, thì sáu pháp Ba la mật đều vô
sở hữu. Nếu sáu pháp Ba la mật đều vô sở
hữu, thì tại sao đại Bồ tát tu hành bố thí cho đến Bát nhả Ba la mật , cầu
chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, có thể đến gần quả vị Vô Thượng Chánh
Đẳng Bồ đề?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Bố thí,
trì giới v.v..., sáu pháp Ba la mật đều
không thêm bớt, cũng vô sở hữu. Nhưng khi các đại Bồ tát tu hành Bát nhã Ba la
mật phương tiện thiện xảo không nghĩ như vầy: Như vậy, bố thí cho đến Bát nhã
Ba la mật có thêm, có bớt. Chỉ nên nghĩ: Chỉ có danh tướng gọi là bố thí cho
đến Bát nhã Ba la mật .
Đại Bồ tát khi tu hành bố thí cho
đến Bát nhã Ba la mật , đem bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật đây cùng hành tác
ý, và nương đấy khởi tâm cùng hành với các hữu tình bình đẳng chung có, hồi
hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, đúng như Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề mà
khởi hồi hướng. Do hồi hướng đây phương tiện khéo léo tăng thượng thế lực năng
chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. (Q.550,
TBBN)
(Như như của các pháp gọi là Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ
đề)
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là quả
vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Như Như của các pháp gọi là quả vị Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Thiện Hiện nên biết: Vì các pháp như
không có thêm bớt nên quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật cũng không
thêm bớt. Nếu đại Bồ tát thường an trụ tác ý tương ưng với Như Như như vậy, thì
liền gần quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Thế nên, này Thiện Hiện! Nghĩa không
thể nói, tuy không thêm bớt nhưng không thối chuyển tác ý Như như. Ba la mật tuy không thêm bớt nhưng không thối lui sự
mong cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Đại Bồ tát nào an trụ tác ý Như Như
như như vậy mà tu hành bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật , liền gần quả vị Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Lược giải:
Phẩm này của cả hai Kinh: Kinh Tiểu Bản Bát nhã
(thuộc ĐBN) do Ngài Huyền Trang dịch hay Phật Mẫu Bát nhã Kinh do Thí Hộ dịch,
đều nêu ra bốn vấn đề: 1. Thế nào là nghĩa xứ Bát nhã? 2. Công đức của người
thọ trì Bát nhã và người làm công việc pháp thí như thế nào? 3. Nói về Tánh
Không của Bát nhã và 4. Thế nào gọi là quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề? Đó là
tất cả tinh yếu của phẩm này nói riêng và cũng là cốt tủy của ĐBN nói chung.
Chúng ta lần lượt khảo cứu từng vấn đề, như sau:
1. Nghĩa xứ thậm thâm mà Bồ tát chứng đắc trí
rộng lớn đó là không, vô tướng, vô
nguyện, vô tác, vô sanh, vô diệt, tịch tịnh, Niết bàn, chơn như, pháp giới,
pháp tánh, thật tế v.v… Tên của nghĩa xứ thậm thâm đã nói như vậy đều chỉ
rõ Niết bàn là chỗ thậm thâm. Không những thế tất cả các pháp khác cũng gọi là
thậm thâm: Sắc thậm thâm; thọ, tưởng, hành, thức thậm thâm. Mười hai xứ, mười
tám giới, tứ thiền, tứ định, mười tám pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến
quả vị Vô Thượng Bồ đề là thậm thâm. Vì sao? Vì sắc như thậm thâm nên sắc cũng
thậm thâm; vì thọ, tưởng, hành, thức như thậm thâm nên thọ, tưởng, hành, thức
cũng thậm thâm. Vì 12 xứ như, 18 giới như và tất cả pháp như thậm thâm nên xứ,
giới và tất cả pháp cũng thậm thâm. Vì sao tất cả pháp như thậm thâm? Vì sắc
như chẳng phải là sắc, chẳng lìa sắc, cho nên thậm thâm; vì thọ, tưởng, hành,
thức như chẳng phải là thọ, tưởng, hành, thức, chẳng lìa thọ, tưởng, hành,
thức, cho nên thậm thâm. Vì tất cả pháp như chẳng phải là tất cả pháp, chẳng
phải lìa tất cả pháp, cho nên thậm thâm.
Đó là phương tiện rất vi diệu, vì đại Bồ tát Bất thối chuyển trừ khiển(1) sắc để
chỉ rõ Niết bàn, trừ khiển thọ, tưởng, hành, thức để chỉ rõ Niết bàn. Đó là
phương tiện rất vi diệu, vì đại Bồ tát Bất thối chuyển trừ khiển mười hai xứ,
mười tám giới, tứ thiền, tứ định, mười tám pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cho
đến quả vị Giác ngộ tối cao để chỉ rõ Niết bàn. Đó cũng là phương tiện rất vi diệu, vì đại Bồ tát Bất thối chuyển trừ khiển tất cả pháp
hoặc thế gian, hoặc xuất thế gian, hoặc cộng, hoặc bất cộng, hoặc hữu lậu, hoặc
vô lậu, hoặc hữu vi, hoặc vô vi để chỉ rõ Niết bàn.
Nếu đại Bồ
tát đối với các chỗ thậm thâm như thế, thường nương vào ý nghĩa tương ưng Bát
nhã Ba la mật thậm thâm thẩm xét, tư duy, suy lường quán sát, tu học an trụ như
Bát nhã thậm thâm đã nói thì đại Bồ tát ấy do thường tin cần tu học như vậy,
nương vào Bát nhã, khởi tâm nhất niệm, còn có khả năng thâu nhiếp vô số, vô
lượng, vô biên công đức, vượt vô lượng kiếp sanh tử lưu chuyển, mau chứng quả
vị Giác ngộ tối cao, huống là thường tu Bát nhã không gián đoạn, thường an trụ
tác ý tương ưng quả vị Giác ngộ tối cao.
2. Nếu đại Bồ
tát an trụ như Bát nhã Ba la mật thậm thâm đã dạy, trải qua một ngày một đêm
thì công đức đạt được này giả sử có hình tướng thì cả Tam thiên đại thiên thế
giới cũng chẳng thể dung chứa hết. Nếu đại Bồ tát xa lìa Bát nhã, giả sử trải
qua hằng hà sa số đại kiếp bố thí cúng dường tam bảo Phật, Pháp, Tăng tuy cũng
được vô số, vô lượng, vô biên công đức, nhưng không bằng đại Bồ tát nương vào Bát
nhã chỉ trải qua một ngày một đêm như lời dạy mà tu học, thì công đức đạt được
còn nhiều hơn công đức kia gấp bội phần.
Nếu đại Bồ
tát xa lìa Bát nhã, giả sử trải qua
hằng hà sa số đại kiếp tinh cần tu học bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn,
tịnh lự phước đức tuy vô lượng, vô biên. Nhưng, nếu đại Bồ tát ấy nương vào lời dạy của Bát nhã thậm thâm
mà an trụ, trải qua một ngày một đêm tinh cần tu học bố thí, tịnh giới, an
nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã thì công đức đạt được hơn công đức kia rất
nhiều. Vì sao? Vì Bát nhã Ba la mật thậm thâm là mẹ các đại Bồ tát, vì Bát nhã có
khả năng sanh ra chúng đại Bồ tát. Tất cả chúng đại Bồ tát nương vào Bát nhã
mau viên mãn tất cả pháp Phật.
Nếu đại Bồ
tát nương vào lời dạy của Bát nhã thậm thâm mà an trụ, trải qua một ngày một
đêm tu hành bốn tịnh lự, tu hành bốn vô lượng, bốn định vô sắc, mười tám pháp
bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến quả vị Vô Thượng Bồ đề thì công đức đạt được
rất nhiều so với công đức của người đã từng tu hành các Ba la mật trong vô lương kiếp mà xa lìa Bát nhã Ba la
mật thậm thâm.
Vì vậy, nếu
đại địa vị Bồ tát, muốn chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao, thì chẳng nên xa lìa
Bát nhã v.v… và v.v…
3. Nói về Không, Tánh Không hay Bản tánh không của Bát
nhã Ba la mật .
- Phẩm“Bất Khả Động”, quyển 386, Hội thứ I. ĐBN. Nói:
"Pháp
bản tánh không chưa từng chẳng không".
Đây là câu
nói căn bản mà hành giả Bát nhã phải ghi nhớ nằm lòng khi thọ trì Bát nhã Ba la
mật này.
- Phẩm 18, “Tánh Không”, quyển thứ 17, “Phật
Mẫu Bát nhã Kinh”. Tu Bồ Đề bạch Phật:
“Phật bảo Tu Bồ Đề: Sắc vô lượng,
thọ tưởng hành thức cũng vô lượng.
Tu Bồ Đề bạch Phật:
- Bạch Thế
Tôn! Vô lượng có nghĩa là gì?
Phật bảo Tu
Bồ Đề:
- Vô lượng
nghĩa là Không, nghĩa là Vô tướng, nghĩa là Vô nguyện.
Tu Bồ Đề
bạch Phật:
- Bạch thế
tôn! Vô lượng chỉ có nghĩa là tam muội Không, Vô tướng, Vô nguyện, không phải
là nghĩa của tất cả pháp sao?
Phật bảo Tu
Bồ Đề:
- Ý ngươi
thế nào? Chẳng lẽ ngươi không nghe Phật nói tất cả pháp đều không sao?
Tu Bồ Đề
bạch Phật:
- Đúng thế!
Bạch Thế Tôn! Phật nói tất cả pháp đều không.
Phật bảo Tu
Bồ Đề:
- Không tức
là vô lượng. Vì thế, trong này nghĩa của tất cả các pháp không có phân biệt,
lìa mọi tạo tác. Tu bồ đề, nói như thế chính là Phật thuyết. Vì sao? Nếu nói
như thế tức là vô lượng, vô lượng tức vô số, vô số tức Không, Không tức Vô
tướng, Vô tướng tức Vô nguyện, Vô nguyện tức Vô sinh, Vô sinh tức Vô diệt, Vô
diệt tức Vô tác, Vô tác tức Vô tri, Vô tri tức Vô tánh, Vô tánh tức Vô nhiễm,
Vô nhiễm tức Niết bàn tịch tĩnh. Pháp môn như thế do chính Như Lai Ứng Cúng
Chính Đẳng Chính Giác thuyết. Thuyết như thế tức là tất cả các pháp không có
thuyết”.
- Phẩm “Khen
Tánh Chẳng Chắc Thật”, quyển 346, Hội thứ I, ĐBN thuyết:
“Các đại Bồ
tát tu hành sâu sắc Bát nhã Ba la mật , quán
tất cả pháp đều không, đó là quán tất cả pháp hữu sắc không, pháp vô sắc
cũng không; quán tất cả pháp hữu kiến không, pháp vô kiến cũng không; quán tất
cả pháp hữu đối không, pháp vô đối cũng không; quán tất cả pháp hữu lậu không,
pháp vô lậu cũng không; quán tất cả pháp hữu vi không, pháp vô vi cũng không;
quán tất cả pháp thế gian không, pháp xuất thế gian cũng không; quán tất cả
pháp tịch tịnh không, pháp chẳng tịch tịnh cũng không; quán tất cả pháp viễn ly
không, pháp chẳng viễn ly cũng không; quán tất cả pháp quá khứ không, pháp vị
lai, hiện tại cũng không; quán tất cả pháp thiện không, pháp bất thiện, vô ký
cũng không; quán tất cả pháp Dục giới không, pháp Sắc, Vô sắc giới cũng không;
quán tất cả pháp học không, pháp vô học, phi học, phi vô học cũng không; quán
tất cả pháp kiến sở đoạn không, pháp tu sở đoạn, phi sở đoạn cũng không; quán
tất cả pháp hữu không, pháp vô, phi hữu, phi vô cũng không”.
Tất cả đều không. Nếu thấy biết tất cả pháp đều không
như vậy thì không còn vướng mắc, quái ngại nữa. Tâm mới rỗng rang tự tại.
- Phẩm “Thật
Ngữ”, quyển 458, Hội thứ II, ĐBN. Phật bảo Khánh Hỷ:
“Khánh Hỷ
phải biết: Tất cả pháp tánh không không kẻ năng kiến, không kẻ năng tri, không
kẻ năng chứng, không động không tác. Vì sao? Vì tất cả pháp đều như hư không, không có tác dụng, vì năng lấy bị lấy
tánh xa lìa vậy. Vì tất cả pháp chẳng thể nghĩ bàn, vì năng sở nghĩ bàn tánh xa
lìa vậy. Vì tất cả pháp đều như huyễn như mộng..., nhiều duyên hòa hợp giả có. Vì tất
cả pháp không kẻ tác thọ, vọng hiện như có, nhưng không bền
chắc vậy”.
- Phẩm "Pháp Tánh Vô
Động", quyển 397, Hội thứ I, ĐBN. Phật bảo:
“Này Thiện Hiện! Không có bất cứ một
pháp nào dầu nhỏ nhặt bằng đầu mảy lông mà tự tánh chẳng không, tự tánh không này không do ai làm ra,
tánh nó thường không, đây tức là Niết bàn. Vì không ai làm ra, tự tánh thường
không, chẳng lúc nào chẳng không, nên mới gọi là Niết bàn. Niết bàn là vô sanh,
vô diệt, phi hóa”.
- Phẩm “Phật
Mẫu”, Q.306, Hội thứ I, ĐBN. Nói:
“Bát nhã Ba la mật thậm thâm lấy không làm tướng; Bát nhã lấy vô tướng, vô nguyện làm tướng; Bát nhã
lấy vô tác, vô sanh vô diệt, vô nhiễm vô
tịnh, vô tánh làm tướng; Bát nhã lấy
vô tự tánh, vô sở y, phi đoạn phi thường, phi nhất phi dị, vô lai vô khứ
làm tướng; Bát nhã lấy hư không làm
tướng; Bát nhã Ba la mật có vô lượng tướng như thế”.
Chúng ta có thể tóm tắt Tánh không hay Bán tánh không
bằng câu nói sau đây: “Chẳng chấp thật
có, chẳng chấp thật không, chẳng chấp thật chân, chẳng chấp thật giả, được như
thế thì các pháp tự không, chẳng cần đoạn diệt, không cần khiển hay trừ khiển
tất cả tướng rồi mới thành không, nên gọi là Tánh không”.
Toàn thể Đại Bát Nhãnói về Tánh không này. Nên ở đây
chúng tôi trích dẫn các đoạn Kinh ngắn này để cùng học cùng tu. Hẹn trở lại vấn
đề khi luận về Tánh không với những nguyên lý chỉ đạo của nó trong phần thứ III
của thiên Tổng luận này.
4. Thế nào gọi
là quả vị Vô Thượng Bồ đề?
“Phật dạy:
- Này Thiện
Hiện! Như như của các pháp gọi là quả vị
Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề”.
Vì thấu hiểu Như nầy nên tu luyện thì được tâm như như
bất động. Tâm như như bất động tức thấy sắc trần là không. Một khi thấy sắc
trần không thì tâm cũng theo đó mà được an nhiên tịch lặng. Khi đạt đến chỗ này
thì huệ mở tức trở thành Như Lai. Vì vậy, Kinh nói Phật chứng Như rất viên mãn,
nên gọi là Như Lai ứng Chánh Đẳng Giác(2), Như đó cũng gọi là Phật, Như đó cũng
gọi là Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Không có chúng sanh nào hiểu được Như này,
chỉ có Như Lai với Như Lai mới hiểu thấu Như này. Nên nói nếu những ai chứng
được Như này thì đồng với chư Như Lai không khác.
Thích nghĩa
cho phần lược giải này:
(1). Trừ khiển có nghĩa là bỏ, không khiển, không trách
như câu nói "trừ khiển sắc để chỉ Niết bàn", nghĩa là không trách cứ
sắc. Nếu không trách cứ, không khen chê sắc nữa thì sắc không phải là sắc hay
nói khác sắc tức không, không sanh không diệt, không tốt không xấu, không nhiễm
không tịnh... như vậy tất cả đều tịch lặng. Tịch lặng chính là Niết bàn. Vì
khiển lại là một thứ động niệm, nên khiển cũng bỏ, trừ khiển cũng bỏ nốt. Như
thế, thì mọi thứ đều tốt đẹp như như hết!
(2). Câu nói
“Phật chứng
chơn như rất viên mãn, nên gọi là Như Lai ứng Chánh Đẳng Giác”. (Phẩm “Tấn Tốc”, quyển 552, Hội thứ IV,
TBBN). Từ ghép chơn như, được La Thập dịch là Như hay Như Như.
---o0o---