PHẨM “NÓI
THẬT”
Phần giữa
quyển 478, Hội thứ II, ĐBN.
(Tương đương phẩm “Thắng Nghĩa Du Già”, phần sau Q.396
cho đến phần đầu Q.397, Hội thứ I, ĐBN)
Tóm lược:
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại thưa
Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Người thấy thật đã
không tạp nhiễm, không thanh tịnh, người chẳng thấy thật cũng không tạp nhiễm,
không thanh tịnh. Vì sao? Vì tất cả pháp
vô sở hữu.
Bạch Thế Tôn! Người nói thật đã
không tạp nhiễm, không thanh tịnh, người chẳng nói thật cũng không tạp
nhiễm, không thanh tịnh. Vì sao? Vì tất
cả pháp không có tự tánh.
Bạch Thế Tôn! Pháp không có tự tánh
là không tạp nhiễm, không thanh tịnh. Pháp có tự tánh cũng không tạp nhiễm,
không thanh tịnh. Các pháp có tự tánh và không có tự tánh cũng không tạp nhiễm,
không thanh tịnh. Vì sao? Vì tất cả pháp
đều lấy vô tánh làm tự tánh vậy.
Bạch Thế Tôn! Nếu người thấy thật và
người nói thật không nhiễm không tịnh, người chẳng thấy thật và người chẳng nói
thật cũng không nhiễm, thì tại sao đức Thế Tôn có lúc nói có pháp thanh tịnh?
Phật bảo:
- Này Thiện Hiện! Ta nói tất cả pháp tánh bình đẳng là pháp thanh
tịnh.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật
rằng:
- Bạch Thế Tôn! Sao gọi tất cả pháp
tánh bình đẳng?
Phật bảo:
- Này Thiện Hiện! Vì các pháp chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng
hư vọng, tánh chẳng đổi khác, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp
trụ, thật tế, cảnh giới như hư không, cảnh giới bất tư nghì, dù có Phật ra
đời hay không có Phật ra đời thì tánh tướng của các pháp vẫn thường trụ.
Đấy gọi là tất cả các pháp tánh bình đẳng. Tánh bình đẳng đây gọi là pháp thanh
tịnh. Đây nương vào thế tục nói là thanh tịnh, chẳng phải nương vào thắng
nghĩa. Vì sao? Vì trong thắng nghĩa đế không có sự phân biệt, ngôn ngữ dứt, bặt
hý luận.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật
rằng:
- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp như
mộng, như tượng, như tiếng vang, như quáng nắng, như ảo ảnh, như huyễn hóa, như
thành Tầm hương, tuy hiển hiện như có nhưng không thật có, vậy làm sao các đại
Bồ tát nương vào pháp chẳng thật có đây để phát tâm hướng tới Vô Thượng Chánh
Đẳng Bồ đề, rồi tuyên thệ như: Ta sẽ viên mãn bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật.
Ta sẽ viên mãn thù thắng thần thông Ba la mật. Ta sẽ viên mãn phương tiện thiện
xảo, diệu nguyện, lực, trí Ba la mật. Ta sẽ viên mãn bốn tĩnh lự, bốn vô lượng,
bốn định vô sắc. Ta sẽ viên mãn bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo. Ta sẽ
viên mãn pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Ta sẽ viên mãn tám
giải thoát cho đến mười biến xứ. Ta sẽ viên mãn nội không cho đến vô tính tự
tính không. Ta sẽ viên mãn chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì. Nói rộng ra,
Ta sẽ viên mãn tất cả pháp Phật. Ta sẽ phát khởi vô lượng quang minh chiếu khắp
mười phương vô biên thế giới. Ta sẽ phát khởi diệu âm biến khắp mười phương vô
biên thế giới, tùy theo tâm, tâm sở của các hữu tình hiểu biết khác nhau mà nói
nhiều thứ pháp môn vi diệu khiến được lợi vui?
Phật bảo:
- Này Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao?
Tất cả pháp mà ông đã nói đây há chẳng phải đều như mộng, như ảnh tượng, như
tiếng vang, như quáng nắng, như ảo ảnh, như huyễn hóa, như thành Tầm hương sao?
Thiện Hiện thưa rằng:
- Như vậy! Như vậy! Bạch Thế Tôn!
Nếu tất cả pháp như mộng cho đến như thành Tầm hương đều không thật có, thì tại
sao khi đại Bồ tát hành sâu Bát Nhã, phát đại thệ nguyện rằng: Ta sẽ viên mãn
tất cả công đức, làm lợi ích an vui cho vô lượng hữu tình?
Bạch Thế
Tôn! Các vật loại được thấy trong mộng, nói rộng cho đến hiện ra thành Tầm
hương, hành bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật còn chẳng có, huống nữa là có khả
năng viên mãn. Tất cả pháp khác cũng như vậy đều không thật có.
Bạch Thế Tôn! Các vật loại được thấy
trong mộng, nói rộng cho đến hiện ra như thành Tầm hương, hành ba mươi hai
tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của bậc Đại sĩ còn chẳng có, huống nữa là có khả
năng viên mãn. Tất cả pháp khác cũng như vậy đều chẳng thật có.
Bạch Thế Tôn! Các vật loại được thấy
trong mộng, nói rộng cho đến hiện ra như thành Tầm hương, thành tựu tất cả sự
nghiệp sở nguyện còn chẳng thật có, huống nữa là có khả năng viên mãn. Tất cả
pháp khác cũng như vậy đều chẳng thật có.
Phật bảo:
- Này Thiện
Hiện! Đúng vậy! Đúng như ông đã nói. Pháp chẳng thật có còn chẳng thể hành bố
thí cho đến Bát nhã Ba la mật, huống nữa là có khả năng viên mãn. Như vậy, cho
đến pháp chẳng thật có còn chẳng thể hành ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ
đẹp của bậc Đại sĩ, huống nữa là có khả năng viên mãn. Pháp chẳng thật có chẳng
thể thành tựu sự nghiệp sở nguyện. Pháp chẳng thật có chẳng thể chứng được sở
cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Lại nữa,
Thiện Hiện! Bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật và
vô lượng vô biên thiện pháp khác chẳng thật có, nên chẳng thể chứng được sở cầu
Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Này Thiện
Hiện! Ông phải biết các pháp như thế, tất cả đều là pháp suy nghĩ tạo tác. Các
pháp do suy nghĩ tạo tác đều chẳng thể chứng được Nhất thiết trí trí.
Lại nữa, Thiện Hiện! Các pháp như
thế đối với đạo Bồ đề tuy có thể dẫn phát, song đối với quả Bồ đề không có tác
dụng giúp ích gì. Bởi các pháp này không sanh, không khởi, không có thật tướng
nên khi các đại Bồ tát hành sâu Bát Nhã, từ sơ phát tâm, tuy khởi các loại
thiện nơi thân, ngữ, ý như là tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn,
tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật. Như vậy cho đến hoặc tu hành Nhất thiết trí, Đạo
tướng trí, Nhất thiết tướng trí, mà biết tất cả đều như mộng, như bóng, như
tiếng vang, như quáng nắng, như ảo ảnh, như huyễn hóa và như thành Tầm hương
đều chẳng thật có.
Lại nữa, Thiện Hiện! Các pháp như
thế tuy chẳng thật có, nhưng nếu chẳng viên mãn thì quyết định chẳng thể thành
thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Nghĩa là đại Bồ tát nếu chẳng viên mãn bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh
tấn, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật thì quyết định chẳng thể thành thục hữu tình,
nghiêm tịnh cõi Phật, chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Lại nữa, Thiện Hiện! Khi các đại Bồ
tát này hành sâu Bát Nhã, dù tu tất cả thiện pháp cũng đều như thật biết như
mộng cho đến như thành Tầm hương. Nghĩa là nếu tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh
tấn, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật thì như thật biết như mộng cho đến như thành
Tầm hương. Như vậy, cho đến nếu tu hành Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất
thiết tướng trí thì như thật biết như mộng cho đến như thành Tầm hương. Nếu
thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, cầu chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề
thì như thật biết như mộng cho đến như thành Tầm hương. Cũng như thật biết tâm
hành sai khác của các loài hữu tình như mộng cho đến như thành Tầm hương.
Lại nữa, Thiện Hiện! Khi các đại Bồ tát này hành sâu Bát nhã Ba
la mật, đối với tất cả pháp chẳng lấy đó làm có, chẳng lấy đó làm không.
Nếu do lấy như thế nên chứng được Nhất thiết trí trí thì cũng biết pháp kia như
mộng cho đến như thành Tầm hương, chẳng lấy đó làm có, chẳng lấy đó làm không.
Vì sao? Vì sáu pháp Ba la mật cho đến
Nhất thiết tướng trí đều chẳng thể lấy được. Pháp thiện, bất thiện cũng
chẳng thể lấy được. Pháp hữu ký, vô ký cũng chẳng thể lấy được. Pháp hữu lậu,
vô lậu cũng chẳng thể lấy được. Pháp thế gian, xuất thế gian cũng chẳng thể lấy
được. Đại Bồ tát này biết tất cả pháp chẳng thể lấy rồi cầu chứng Vô Thượng
Chánh Đẳng Bồ đề. Vì sao? Vì tất cả pháp đều chẳng thể lấy, đều chẳng thật có,
như mộng cho đến như thành Tầm hương. Chẳng thể lấy, chẳng thể chứng được pháp,
nhưng các hữu tình đối với pháp như thế chẳng biết, chẳng thấy. Đại Bồ tát này
vì làm lợi ích cho các hữu tình kia, nên cầu chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ tát này
từ sơ phát tâm, vì muốn làm lợi vui cho các hữu tình nên tu hành bố thí cho đến
Bát nhã Ba la mật, chẳng vì việc mình, chẳng vì việc nào khác. Vì muốn lợi vui
cho các hữu tình nên cầu chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, chẳng vì việc mình,
chẳng vì việc nào khác.
Lại nữa, Thiện Hiện! Khi đại Bồ tát này
hành sâu Bát Nhã, thấy các người ngu ở trong phi ngã mà tưởng trụ ngã, ở trong
phi hữu tình mà tưởng trụ hữu tình, như vậy cho đến chẳng phải người biết(tri giả) mà tưởng trụ người biết; đối
với chẳng phải người thấy(kiến giả)
mà tưởng trụ nơi người thấy. Thấy việc đây rồi, đại Bồ tát này rất thương xót,
phương tiện giáo hóa khiến xa lìa điên đảo vọng tưởng chấp trước, an trú trong
cõi cam lồ vô tướng. Trụ trong cõi này chẳng còn khởi tưởng ta cho đến tưởng
người thấy người biết. Khi đó, tất cả sự dao động, tán loạn, hý luận, phân biệt
chẳng hiện hành nữa. Tâm thường an trụ cõi vắng lặng đạm bạc không hý luận. (Q.478, ĐBN)
Này Thiện Hiện! Nhờ phương tiện đây,
nên đại Bồ tát hành sâu Bát Nhã, tự đối với các pháp không có chấp trước, cũng
dạy người đối với tất cả pháp không chấp trước. Đây là nương thế tục, chẳng
nương thắng nghĩa, vì trong thắng nghĩa không có chấp trước ta, người sai khác,
chẳng thể đắc vậy.
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại thưa
Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Khi Phật đắc Vô
thượng Chánh đẳng giác, pháp mà Phật chứng được là nương vào thế tục mà nói là
được, hay nương vào thắng nghĩa nói là được?
Phật bảo:
- Này Thiện Hiện! Khi Phật đắc Vô
thượng Chánh đẳng giác, pháp mà Phật chứng là nương vào thế tục mà nói là được,
chẳng nương vào thắng nghĩa. Nếu nương vào thắng nghĩa, thì năng đắc sở đắc đều
chẳng thể được. Vì sao? Vì nếu bảo là
được pháp như vậy bèn có sở đắc. Kẻ có sở đắc thì liền chấp có hai. Kẻ chấp có
hai thì chẳng được quả, cũng chẳng hiện quán.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật
rằng:
- Bạch Thế Tôn! Nếu chấp có hai thì
chẳng đắc quả, cũng chẳng hiện quán;
nếu chấp không hai thì có đắc có hiện quán không?
Phật bảo:
- Này Thiện Hiện! Kẻ chấp có hai chẳng đắc quả, cũng chẳng hiện quán. Kẻ
chấp không hai cũng lại như thế, vì có sở chấp vậy. Vì chấp đây, chấp kia đều
là hý luận. Chẳng phải trong tánh bình đẳng tất cả pháp có hý luận. Nếu lìa hý
luận mới được gọi là pháp tánh bình đẳng.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật
rằng:
- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp đều
lấy vô tánh làm tự tánh, trong đây sao gọi pháp tánh bình đẳng?
Phật bảo:
- Này Thiện Hiện! Nếu ở chỗ này đều không có hữu tánh, cũng
không có vô tánh, cũng chẳng thể nói là tánh bình đẳng thì như vậy mới gọi là
pháp tánh bình đẳng.
Này Thiện Hiện! Phải biết tánh bình
đẳng đã chẳng thể nói, cũng chẳng thể biết, trừ tánh bình đẳng không pháp có
thể đắc, lìa tất cả pháp không tánh bình đẳng.
Này Thiện Hiện! Phải biết pháp tánh
bình đẳng, Thánh giả dị sanh đều chẳng thể hành, vì chẳng phải cảnh giới kia
vậy.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Pháp tánh bình đẳng
há cũng chẳng phải là cảnh sở hành của Phật sao?
Phật bảo:
- Này Thiện Hiện! Pháp tánh bình
đẳng, tất cả Thánh giả đều chẳng thể hành, cũng chẳng thể chứng. Nghĩa là các
vị Dự lưu, hoặc các vị Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, hoặc Độc giác, hoặc Bồ
tát, hoặc Như Lai đều chẳng thể lấy pháp tánh bình đẳng làm cảnh sở hành. Trong
đây, tất cả hý luận phân biệt đều chẳng thể hành vậy.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật
rằng:
- Bạch Thế Tôn! Phật đối với các
pháp đều được tự tại, như thế có thể nói pháp tánh bình đẳng cũng chẳng phải
cảnh sở hành của chư Phật sao?
Phật bảo:
- Này Thiện Hiện! Phật đối với các
pháp tuy được tự tại, nếu tánh bình đẳng cùng Phật có khác, thì có thể nói là
cảnh giới sở hành của Phật. Nhưng tánh bình đẳng cùng Phật không khác, làm sao
có thể nói Phật hành cảnh ấy.
Này Thiện Hiện! Phải biết, nếu pháp
tánh bình đẳng của các dị sanh, hoặc pháp tánh bình đẳng của các Dự lưu, Nhất
lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác, Bồ tát, Như Lai, tất cả pháp tánh bình đẳng
như vậy đều đồng một tướng, đó là vô tướng. Tướng bình đẳng đây không hai không
khác, nên chẳng thể nói đây là pháp tánh bình đẳng của dị sanh, nói rộng cho
đến đây là pháp tánh bình đẳng của Như Lai. Ở trong một pháp tánh bình đẳng
này, các tánh bình đẳng đã bất khả đắc. Ở trong tướng của dị sanh và Dự lưu…
sai khác cũng bất khả đắc.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật
rằng:
- Bạch Thế Tôn! Nếu trong tánh bình
đẳng của tất cả pháp, các tướng sai khác đều bất khả đắc thì các pháp dị sanh,
Dự lưu… và hữu tình cũng phải không sai khác?
Phật bảo:
- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như
ngươi đã nói! Trong tánh bình đẳng của tất cả pháp, các dị sanh, hoặc các Thánh
giả, cho đến pháp Như Lai và hữu tình đều không sai khác.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật
rằng:
- Bạch Thế Tôn! Nếu trong tánh bình
đẳng của tất cả pháp, dị sanh, Thánh giả, pháp Như Lai và hữu tình đều không
sai khác thì tại sao có Tam bảo: Phật bảo, Pháp bảo, Tăng bảo xuất hiện ở thế
gian?
Phật bảo:
- Này Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao?
Pháp tánh bình đẳng của Phật, Pháp, Tăng bảo, mỗi mỗi có khác chăng?
Thiện Hiện thưa rằng:
- Bạch Thế tôn! Như con hiểu nghĩa
Phật nói, thì pháp tánh bình đẳng của Phật, Pháp, Tăng bảo đều không sai khác.
Vì sao? Vì pháp tánh bình đẳng của Phật, Pháp, Tăng bảo, tất cả pháp như thế
đều chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, vô sắc, vô kiến, vô đối, nhất
tướng, chỗ gọi vô tướng. Nhưng Phật Thế Tôn đối với pháp vô tướng, phương tiện khéo léo kiến lập nhiều thứ
pháp và hữu tình gọi tướng sai khác, chỗ gọi đây là dị sanh và pháp, cho
đến đây là Như Lai và pháp?
Phật bảo:
- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như
ngươi đã nói! Chư Phật đối pháp vô tướng phương tiện khéo léo kiến lập nhiều
thứ pháp và hữu tình gọi tướng sai khác.
Lại nữa, Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ
sao? Nếu các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chẳng chứng Vô Thượng Chánh Đẳng
Bồ đề, hoặc chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, chẳng vì hữu tình kiến lập danh
tướng các pháp sai khác thì các loại hữu tình có thể tự biết đây là địa ngục,
đây là bàng sanh, đây là cõi quỷ, đây là người, đây là trời Tứ đại vương chúng
cho đến trời Phi tưởng phi phi tưởng xứ; đây là sắc cho đến thức; đây là mười
hai xứ cho đến mười tám giới; đây là nhãn xúc cho đến ý xúc; đây là nhãn xúc
làm duyên sanh ra các thọ, cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ; đây là địa
giới cho đến thức giới; đây là nhân duyên cho đến tăng thượng duyên; đây là
theo duyên sanh ra các pháp; đây là vô minh cho đến lão tử; đây là pháp thiện,
pháp ác; đây là pháp hữu ký, vô ký; đây là pháp hữu lậu, vô lậu; đây là pháp
thế gian, xuất thế gian, đây là pháp hữu vi, vô vi; đây là bố thí cho đến Bát
nhã Ba la mật; đây là bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo; đây là nội không
cho đến vô tính tự tính không; đây là chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì;
nói rộng ra đây là tất cả pháp Phật; đây là Tam bảo, đây là Tam thừa; các loại
hữu tình đối với danh tướng sai khác như thế có thể tự biết chăng?
Thiện Hiện thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn! Không! Nếu Phật
chẳng vì hữu tình kiến lập các danh tướng sai khác như thế thì các loài hữu
tình chẳng thể tự biết các danh tướng sai khác như thế.
Phật bảo:
- Này Thiện Hiện! Vì vậy, đối với
pháp vô tướng, Như Lai tuy vì hữu tình, phương tiện khéo léo kiến lập các loại
danh tướng sai khác, nhưng đối với tánh bình đẳng của các pháp thì không thể
động chuyển. Tuy đối với hữu tình, Như Lai là đại ân đức, song ở trong ấy chẳng
giữ lấy tướng.
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật
rằng:
- Bạch Thế Tôn! Ví như đức Như Lai
đối với tánh bình đẳng của tất cả pháp đều không thể bị động chuyển. Như vậy,
tất cả dị sanh, Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác, Bồ tát đối với
tánh bình đẳng của tất cả pháp cũng không thể bị động chuyển chăng?
Phật bảo:
- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì tất
cả pháp và các hữu tình đều chẳng ra khỏi tánh bình đẳng vậy. Như tánh bình
đẳng, phải biết chơn như nói rộng cho đến bất tư nghì giới cũng lại như thế.
Các pháp dị sanh và các Thánh giả đối chơn như thảy không sai khác vậy.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật
rằng:
- Bạch Thế Tôn! Như các dị sanh và
các Thánh giả cùng với tánh của tất cả pháp bình đẳng không sai khác nhau.
Nhưng tướng của tất cả pháp đây và tướng của các hữu tình đều khác nhau nên
tánh cũng phải khác. Vậy thì pháp tánh cũng phải khác nhau. Nghĩa là sắc cho
đến thức, tướng đều khác nhau nên tánh cũng phải khác nhau. Mười hai xứ cho đến
mười tám giới, tướng đều khác nhau nên tánh cũng phải khác nhau. Nhãn xúc làm
duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ, tướng đều khác
nhau nên tánh cũng phải khác nhau. Địa giới cho đến thức giới, tướng đều khác
nhau nên tánh cũng phải khác nhau. Nhân duyên cho đến tăng thượng duyên, tướng
đều khác nhau nên tánh cũng phải khác nhau. Các pháp theo duyên sanh ra, tướng
đều khác nhau nên tánh cũng phải khác nhau. Vô minh cho đến lão tử, tướng đều
khác nhau nên tánh cũng phải khác nhau. Tướng tham, sân, si đều khác nhau nên
tánh cũng phải khác nhau. Tướng dị sanh, kiến thú, đều khác nhau nên tánh cũng
phải khác nhau. Tướng bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc đều khác nhau
nên tánh cũng phải khác nhau. Tướng bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo đều
khác nhau nên tánh cũng phải khác nhau. Tướng của pháp môn giải thoát không, vô
tướng, vô nguyện đều khác nhau nên tánh cũng phải khác nhau. Nội không cho đến
vô tính tự tính không, tướng đều khác nhau nên tánh cũng phải khác nhau.
Chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì, tướng đều khác nhau nên tánh cũng phải
khác nhau. Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo, tướng đều khác nhau nên tánh cũng phải
khác nhau. Bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật, tướng đều khác nhau nên tánh cũng
phải khác nhau. Tám giải thoát cho đến mười biến xứ, tướng đều khác nhau nên
tánh cũng phải khác nhau. Nói rộng ra, tất cả pháp Phật tướng đều khác nhau nên
tánh cũng phải khác nhau? Pháp thế gian, xuất thế gian, tướng đều khác nhau nên
tánh cũng phải khác nhau. Pháp hữu vi, vô vi, tướng đều khác nhau nên tánh cũng
phải khác nhau?
Bạch Thế Tôn! Các pháp như thế, nếu
tướng đều khác nhau thì pháp tánh cũng phải khác nhau? Vậy đối với các pháp tướng khác nhau, làm sao có thể an lập nơi pháp
tánh nhất tướng? Khi đại Bồ tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, làm sao chẳng
phân biệt pháp và các hữu tình có các thứ tánh? Nếu đại Bồ tát chẳng phân biệt
pháp và các hữu tình có các thứ tánh, thì chẳng thể hành sâu Bát nhã Ba la mật.
Nếu chẳng thể hành sâu Bát Nhã thì chẳng thể từ bậc Bồ tát này tiến đến bậc Bồ
tát khác. Nếu chẳng được từ bậc Bồ tát này tiến đến bậc Bồ tát khác thì chẳng
thể nhập vào Bồ tát Chánh tánh ly sanh. Nếu chẳng vào được Bồ tát Chánh tánh ly
sanh thì chẳng thể vượt qua các bậc Thanh văn và Độc giác. Nếu chẳng vượt
qua được các bậc Thanh văn và Độc giác thì chẳng thể viên mãn thần thông Ba la
mật. Nếu chẳng viên mãn được thần thông Ba la mật thì chẳng thể đối với các
thần thông, du hý tự tại. Nếu đối với các thần thông, chẳng du hý tự tại được
thì chẳng thể viên mãn bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Nếu chẳng viên mãn
được bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật thì chẳng thể từ cõi Phật này tới cõi
Phật khác, gần gũi cúng dường chư Phật Thế Tôn. Nếu chẳng được từ cõi Phật này
tới cõi Phật khác, gần gũi cúng dường chư Phật Thế Tôn thì chẳng thể ở chỗ chư
Phật trồng các căn lành. Nếu chẳng được ở chỗ chư Phật trồng các căn lành thì
chẳng thể nghiêm tịnh cõi Phật, thành thục hữu tình. Nếu chẳng được nghiêm tịnh
cõi Phật, thành thục hữu tình thì chẳng thể chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ
đề, chuyển bánh xe chánh pháp độ chúng hữu tình khiến cho lìa hẳn sanh tử ác
thú?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Như ngươi đã nói, các
dị sanh và các Thánh giả cùng với tánh của tất cả pháp bình đẳng không sai
khác. Nhưng tướng của tất cả pháp đây và tướng của các hữu tình đều khác nhau
nên tánh cũng phải khác. Vậy thì pháp tánh cũng phải khác nhau. Đối với các
pháp tướng khác nhau, làm sao có thể an lập nơi pháp tánh nhất tướng? Khi đại
Bồ tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, làm sao chẳng phân biệt pháp và các hữu tình
có các thứ tánh, cho đến nói rộng như trên?
Này Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Pháp
tánh của các sắc là tánh không
chăng? Pháp tánh của các thọ, tưởng, hành, thức là tánh không chăng? Như vậy
cho đến tất cả pháp tánh hữu vi, vô vi là tánh không chăng?
Thiện Hiện thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn! Đúng vậy! Tất cả pháp tánh đều là tánh không.
Phật bảo:
- Này Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao?
Ở trong tánh không, tướng khác nhau của các pháp có thể đắc được chăng? Nghĩa
là tướng khác nhau của sắc, nói rộng cho đến tất cả tướng khác nhau của hữu vi,
vô vi có thể đắc được chăng?
Thiện Hiện thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng được. Ở trong
tánh không, tất cả tướng khác nhau đều chẳng thể đắc.
Phật bảo:
- Này Thiện Hiện! Do đây phải biết,
pháp tánh bình đẳng chẳng phải là tất cả phàm phu ngu si dị sanh, cũng chẳng
lìa tất cả phàm phu ngu si dị sanh. Như vậy, cho đến chẳng phải là Như Lai Ứng
Chánh Đẳng Giác, cũng chẳng lìa Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Pháp tánh bình
đẳng chẳng phải là sắc cũng chẳng lìa sắc; chẳng phải là thọ, tưởng, hành, thức
cũng chẳng lìa thọ, tưởng, hành, thức. Như vậy, cho đến chẳng phải pháp hữu vi
và vô vi, cũng chẳng lìa pháp hữu vi và vô vi.
Cụ thọ Thiện
Hiện lại thưa Phật rằng:
- Bạch Thế
Tôn! Vậy pháp tánh bình đẳng chính là hữu vi hay vô vi?
Phật bảo:
- Này Thiện
Hiện! Pháp tánh bình đẳng chẳng phải là hữu vi, chẳng phải là vô vi. Nhưng lìa
pháp hữu vi, pháp vô vi thì chẳng thể được; lìa pháp vô vi, pháp hữu vi cũng
chẳng thể được.
Thiện Hiện
nên biết! Cõi hữu vi, hoặc cõi vô vi, hai cõi như thế chẳng hợp chẳng tan, vô
sắc, vô kiến, vô đối, nhất tướng chỗ gọi vô tướng. Tất cả Như Lai Ứng Chánh
Đẳng Giác nương thế tục mà nói, chẳng nương thắng nghĩa. Vì sao? Vì chẳng phải
trong thắng nghĩa thân hành, ngữ hành, ý hành có thể được; chẳng lìa thân hành,
ngữ hành, ý hành, thắng nghĩa có thể được.
Thiện Hiện nên biết! Pháp tánh bình đẳng của pháp hữu vi và pháp
vô vi gọi là thắng nghĩa, chẳng phải lìa tất cả hữu vi, vô vi riêng có
thắng nghĩa. Cho nên, khi đại Bồ tát hành sâu Bát Nhã chẳng động thắng nghĩa mà
hành Bồ tát hạnh, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, chứng được Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, chuyển bánh xe diệu pháp độ chúng hữu tình, khiến cho
dứt hẳn sanh, lão, bệnh, tử, chứng được Niết bàn tuyệt đối an vui.
Phẩm “Nói Thật” là một trong
hai phẩm cuối cùng trước khi Phật chấm dứt Hội thứ II này. Đây là phẩm quá hay
giải quyết được một số thắc mắc cũng có thể gọi là mâu thuẫn trong tư tưởng của
chúng ta khi thọ trì một giáo pháp cực kỳ khó khăn này. Phẩm này của Hội thứ II
có tên là “Nói Thật”, trong khi phẩm tương đương với phẩm này lại có tên là “Thắng Nghĩa
Du Già”.
Thắng nghĩa du già: Thắng nghĩa có nghĩa là cao tột, vi diệu hay thực tại tối hậu cũng
còn gọi là Đệ nhất nghĩa. Du già có
nghĩa là tương ứng, tức là tương ứng với
cơ, cảnh, hành, lý, quả… Thắng nghĩa du già: Tu hành như thế nào để cơ (nghĩa là đã được quả tròn đầy, lợi
sanh cứu vật, tùy cơ duyên mà cảm ứng, thuốc và bệnh tương ứng với nhau), cảnh (không trái với tự tánh của tất cả
pháp), hành (tương ứng với hành các
định, tuệ v.v…), lý (lý hai đế: an
lập, phi an lập), quả (có thể chứng
đắc Vô Thượng Bồ đề cùng tột) tương ưng với “đạo lý chân thực tối thắng”. Vì
tánh cách đặc biệt của giáo lý. Nên không gì hơn, chúng tôi
ghi trọn chiết giải của phẩm “Thắng Nghĩa Du Già” để Quý vị thọ trì phẩm này
chiêm nghiệm.
Đây là một phẩm đặc biệt được Phật thuyết trước khi
chấm dứt Hội thứ II, ĐBN. Tại sao phẩm này gọi là đặc biệt? Điểm thứ nhất: Vì
phẩm này trả lời được những thắc mắc của chúng ta: Tại sao tất cả pháp kể cả
pháp Phật đều như huyễn như mộng không giúp ích gì, không thể thành tựu sở cầu
quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề mà lại phải học phải tu, và còn được ca tụng
là thắng nghĩa? Điểm thứ hai là nói về pháp tánh tất cả pháp đều rỗng không?
1. Nhất tánh
Bình đẳng hay Thắng nghĩa Du già:
Có một điều làm cho chúng ta ngạc nhiên (tôi không
muốn nói là ngờ vực hay lẫn lộn) là Kinh thường nói tất cả pháp (kể cả pháp
Phật) đều như mộng ảo, như trăng trong nước, như ảnh trong gương hay như thành
bằng hương khói, chẳng thật có (vì những lý do như không có tự tánh hòa hợp, do
duyên hội, nên nói là giả có v.v...). Nếu như vậy không riêng gì Thiện Hiện mà
kể cả chúng ta cũng tự nghĩ là không thể
thành tựu những việc làm như nguyện ước, cũng chẳng có thể chứng đắc sở cầu
là quả vị Giác ngộ tối cao?
Để trả lời Phật bảo Thiện Hiện: “Các pháp như thế tuy chẳng phải thật (đều do tư duy tạo tác), nhưng nếu chẳng
viên mãn thì nhất định chẳng có thể thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật,
chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao”.
Câu trả lời có vẻ như mâu thuẫn với cái hiểu biết
thông thường của chúng ta. Vì sao? Vì đã nói các pháp không thật như trò huyễn
đều do tư duy tác, nhưng nếu không viên
mãn nhất định sẽ không thể chứng đắc sở cầu? Tại sao? Để trả lời vấn nạn
này, Phật bảo nếu hành tất cả các thiện pháp như trò huyễn cho đến ảo thành như
vậy, thì đối với tất cả pháp chẳng chấp thủ. Nếu
chấp thủ thì không thể thành tựu hay chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao.
Nguyên do gì mà chấp thủ? Câu trả lời là: Tại vì nắm bắt.
Động cơ chính nằm đằng sau chấp thủ hay nắm bắt đó
chính là ngã. Chư Bồ tát vì muốn cứu
độ chúng sanh ra khỏi mê lộ đó nên mới giảng nói rằng chẳng có ngã mà tưởng có
ngã, nên phải quay đi lộn lại trong sáu nẻo luân hồi. Diệt ngã thì không còn
điên đảo, vọng tưởng, chấp trước nữa thì mới có thể an trụ trong cảnh giới cam
lồ vô tướng. Muốn được như vậy, thì phải học và hành Bát nhã Ba la mật để tự
mình không còn chấp ngã nữa mới sạch hết các lậu hoặc, các tập khí tương
tục, rồi thì chỉ trong sát na tương ưng với diệu huệ thì “đắc” Vô Thượng Giác
ngộ. Nhưng còn nói đắc là còn thấy sở chứng. Đó là nói theo thế tục, trong
thắng nghĩa “năng đắc, sở đắc,
đều bất khả đắc. Vì sao? Vì nếu bảo đắc pháp tức rơi vào hữu sở đắc. Kẻ hữu sở
đắc bèn chấp có hai. Kẻ chấp hai chẳng năng đắc quả, cũng chẳng hiện quán, kẻ
chấp không hai cũng lại như thế. Nếu không hai, không chẳng hai tức gọi đắc
quả, cũng gọi là hiện quán. Vì sao? Vì chấp đây chấp kia đều là hý luận. Lìa hý
luận mới gọi là bình đẳng”. (Q.396, ĐBN)
Có bình đẳng mới có thanh tịnh, đó là mục tiêu chính
của việc tu hành. Vậy thế nào là bình đẳng? Phật thường bảo: “Nếu ở nơi nào không nói hữu tánh, cũng không nói vô
tánh, cũng chẳng nói là tánh bình đẳng, thì như thế mới gọi là tánh bình đẳng
của pháp. Nên biết, tánh bình đẳng của pháp đã bất khả thuyết, cũng bất khả
tri, trừ tánh bình đẳng không có pháp nào có thể đắc, lìa tất cả pháp không có
tánh bình đẳng”.
“Hoặc pháp
tánh bình đẳng của các phàm phu, hoặc pháp tánh bình đẳng của Thánh giả… cho
đến hoặc pháp tánh bình đẳng của chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, tất cả pháp
tánh bình đẳng như thế đều đồng nhất
tướng, chỗ gọi vô tướng. Nhất tướng bình đẳng này không hai, không khác,
cho nên chẳng thể nói: Đây là pháp tánh bình đẳng của phàm phu, nói rộng cho
đến đây là pháp tánh bình đẳng của Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Ở trong tánh
bình đẳng nhất tướng đây, các tánh bình đẳng đã chẳng thể nắm bắt được…” (Q.396, ĐBN)
Bởi lý do đó, nên mở đầu phẩm “Thắng Nghĩa Du Già”,
Phật Bảo:
“Các pháp
chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh
bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh
giới bất tư nghì, dù Như Lai xuất thế hay chẳng xuất thế, tánh tướng thường
trụ, đó gọi là tánh bình đẳng của tất cả pháp; tánh bình đẳng này gọi là pháp
thanh tịnh; đây chỉ nương vào thế tục mà nói là thanh tịnh, chứ chẳng y cứ vào
thắng nghĩa. Vì sao? Vì trong thắng nghĩa đế, không có sự phân biệt, không có
hý luận, tất cả ngôn ngữ danh tự đều dứt”.
Mở đầu phẩm “Thật Ngữ” này Phật cũng nói như vậy. Do
đó, chúng ta có thể kết luận: Nhất tướng bình đẳng này cũng chính là Chân như,
Pháp giới, Pháp tánh, Pháp định, Pháp trụ, Thật tế... cũng gọi là Phật tánh,
Tánh không, Thật Tướng, Pháp thân, Viên Thành Thực, Tự tánh Thanh tịnh thân,
Như lai tạng, Niết bàn... tất cả không hai không khác. Chứng biết như vậy thì
cơ cảnh hành quả đạt đến chỗ rốt ráo, tức đạt được đạo lý chân thực tối thắng,
nên gọi là “Thắng nghĩa Du già”. Nếu đạt tới chỗ đó thì pháp tánh của phàm phu
cùng chư Phật nào khác.
2. Tất cả
pháp tánh đều rỗng không.
Pháp tánh của sắc là rỗng không, pháp tánh của thọ,
tưởng, hành, thức là rỗng không. Pháp tánh của 12 xứ, 18 giới cũng rỗng không.
Pháp tánh của tứ thiền, tứ vô
lượng, tứ định vô sắc, 37 pháp trợ đạo, 18 pháp bất
cộng, Nhất thiết trí… cũng rỗng không. Pháp tánh của phàm phu ngu si rỗng
không. Pháp tánh của tùy tín hành, tùy pháp hành, Đệ bát, cho đến Phật Vô
thượng cũng rỗng không. Pháp tánh của pháp thế gian, xuất thế gian rỗng không.
Pháp tánh của pháp hữu lậu vô lậu, pháp hữu vi vô vi cũng rỗng không. Nói
chung, tất cả pháp tánh đều là rỗng không.
Trong cái rỗng không, tất cả tướng sai khác đều chẳng
thể nắm bắt được. Do đó nên biết, pháp tánh bình đẳng chẳng phải sắc, chẳng lìa sắc; chẳng phải thọ,
tưởng, hành, thức, chẳng lìa thọ, tưởng, hành, thức; pháp tánh bình đẳng chẳng
phải 12 xứ, 18 giới, chẳng lìa 12 xứ, 18 giới; pháp tánh bình đẳng chẳng phải
tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, 37 pháp trợ đạo 18 pháp bất cộng, Nhất
thiết trí…cho đến Vô thượng Chánh Đẳng Chánh giác, cũng chẳng lìa tất cả các
pháp ấy; pháp tánh bình đẳng chẳng phải pháp thế gian xuất thế gian, chẳng lìa
pháp thế gian xuất thế gian; chẳng phải pháp hữu lậu vô lậu, pháp hữu vi vô vi,
chẳng lìa pháp hữu lậu vô lậu, pháp hữu vi vô vi.
Vì lìa pháp hữu vi, thì không có pháp vô vi; lìa pháp
vô vi, thì không có pháp hữu vi.
Do đó, phẩm
“Bình Đẳng” quyển thứ 29, Kinh MHBNBLMĐ, nói:
“Đức Phật
cũng dùng thế đế để nói chớ chẳng phải dùng đệ nhất nghĩa. Tại sao? Vì trong đệ
nhất nghĩa không có thân hành, không có khẩu hành, không có ý hành, cũng chẳng
lìa thân, khẩu, ý hành mà được đệ nhất nghĩa. Tướng bình đẳng của các pháp hữu vi, vô vi ấy tức là đệ nhất nghĩa.
Lúc hành Bát
nhã Ba la mật, đại Bồ Tát ở trong đệ nhất nghĩa chẳng động mà làm lợi ích cho
chúng hữu tình”.
---o0o---