PHẨM “DIỆU TƯỚNG”
Bắt đầu Q.528 cho đến phần đầu
Q.531, Hội thứ III, ĐBN.
(Tương đương với bốn phẩm, từ phần sau Q.465 đến phần sau
Q.468,
Hội thứ II, ĐBN)
Gợi ý:
Cũng như các phẩm trước, phẩm “Diệu
Tướng” của Hội thứ III này nhập 4 phẩm của Hội thứ II là: “Lần Hồi”, “Vô Tướng”,
“Không Tạp” và “Nhiều Đức Tướng” lại với nhau. Vì vậy, chúng tôi cũng chia phẩm
“Diệu Tướng” này làm 4 đoạn tương đương với 4 phẩm trên để quý vị dễ trì tụng,
dễ tra cứu:
Tóm lược:
1. (Đoạn Kinh sau đây tương đương với phẩm “Lần Hồi” hay
“Tuần Tự”,
phần cuối Q.465 đến phần đầu Q.466, Hội thứ II, ĐBN)
Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Người trụ nơi hữu tưởng, nếu không thuận
nhẫn, cũng không tu đạo, không đắc quả, hiện quán, thì người trụ nơi vô tưởng
làm sao mà có thuận nhẫn, được Tịnh quán địa, nói rộng cho đến Như Lai địa,
hoặc tu Thánh đạo, nương sự tu Thánh đạo để đoạn trừ các phiền não. Vì vậy, do
bị phiền não ngăn che còn không đạt được pháp địa tương ưng với Thanh văn, Độc
giác, huống là nhập vào Bồ tát Chánh tánh ly sanh. Nếu không nhập vào Bồ tát
Chánh tánh ly sanh thì làm sao chứng đắc Nhất thiết tướng trí. Nếu không đắc
Nhất thiết tướng trí thì làm sao đoạn trừ vĩnh viễn tập khí phiền não tương
tục?
Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp đều vô sở hữu, vô sanh vô
diệt, vô nhiễm vô tịnh, các pháp như thế đã đều chẳng sanh, đâu có thể chứng
Nhất thiết trí trí?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như lời ngươi nói! Người
trụ vô tưởng, cũng không thuận nhẫn, cho đến cũng không đoạn trừ vĩnh viễn tập
khí phiền não tương tục, cũng không thể chứng đắc Nhất thiết tướng trí. Nhưng nếu ai nương vào pháp vô tướng chẳng
thật có này, tu được thuận nhẫn, cho đến đoạn trừ vĩnh tập khí phiền não tương
tục, thì có thể chứng đắc Nhất thiết tướng trí. (Q.528, ĐBN)
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ tát khi hành Bát Nhã sâu xa này,
có vì hữu tưởng hay vô tưởng chăng? Có tưởng sắc uẩn cho đến thức uẩn chăng?
Nói rộng, cho đến có tưởng đoạn trừ vĩnh viễn các tập khí phiền não tương tục
chăng? Có tưởng chứng Nhất thiết tướng trí chăng?
Bạch Thế Tôn! Đại Bồ tát này có tưởng sắc, có tưởng đoạn trừ
sắc chăng? Có tưởng thọ, tưởng, hành, thức, có tưởng đoạn trừ thọ, tưởng, hành,
thức chăng? Có tưởng mười hai xứ cho đến mười tám giới, có tưởng đoạn trừ mười
hai xứ cho đến mười tám giới chăng? Có tưởng nhãn xúc cho đến ý xúc, có tưởng
đoạn trừ nhãn xúc cho đến ý xúc chăng? Có tưởng các thọ do nhãn xúc làm duyên
sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra? Có tưởng đoạn trừ các thọ
do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra
chăng? Có tưởng địa giới cho đến thức giới, có tưởng đoạn trừ địa giới cho đến
thức giới chăng? Có tưởng nhân duyên cho đến tăng thượng duyên, có tưởng đoạn
trừ nhân duyên cho đến tăng thượng duyên chăng? Có tưởng tham, sân, si, có
tưởng đoạn trừ tham, sân, si chăng? Có tưởng vô minh cho đến lão tử, có tưởng
đoạn trừ vô minh cho đến lão tử chăng? Có tưởng khổ, tập, diệt, đạo, có tưởng
đoạn trừ khổ, tập, diệt, đạo chăng? Nói rộng cho đến có tưởng đoạn trừ vĩnh
viễn tập khí phiền não tương tục, có tưởng đoạn trừ vĩnh viễn tập khí phiền não
tương tục chăng? Có tưởng Nhất thiết tướng trí, có tưởng đoạn trừ Nhất thiết
tướng trí chăng?
Phật dạy:
- Phật bảo: Thiện Hiện! Các đại Bồ tát khi hành Bát Nhã sâu
xa, đối tất cả pháp đều không có tưởng,
cũng không vô tưởng. Nếu không tưởng
cũng không vô tưởng, phải biết tức là Bồ tát thuận nhẫn, cũng là tu đạo, đắc
quả, hiện quán.
Thiện Hiện nên biết! Các
đại Bồ tát dùng vô tánh làm Thánh đạo, dùng vô tánh làm đắc quả, dùng vô tánh
làm hiện quán. Vì nhân duyên này nên biết các pháp đều lấy vô tánh làm tự tánh.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp đều lấy vô tánh làm tự tánh,
thì làm sao Thế Tôn ngay trong tất cả pháp lấy vô tánh làm tự tánh mà hiện Đẳng
chánh giác. Chứng đắc quả Đẳng chánh giác rồi mới gọi là Phật, đối với tất cả
pháp và các cảnh giới được tự tại vô ngại?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Các pháp đều lấy vô
tánh làm tự tánh. Khi Ta còn tu học đạo Bồ tát, tu hành bố thí cho đến Bát nhã
Ba la mật, nhờ đó xa lìa được các pháp dục, ác, bất thiện, có tầm, có tứ, ly
sanh hỉ lạc, chứng nhập sơ thiền. Nói rộng cho đến đoạn trừ hết các lạc, khổ,
hỷ, ưu, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh, chứng nhập thiền thứ tư, được
an trụ hoàn toàn.
Bấy giờ, đối với các thiền, thiền chi tuy Ta nắm giữ các
tướng nhưng không chấp trước; đối với các thiền, thiền chi, không đắm say thiền
vị. Nơi các thiền và thiền chi đều vô sở đắc. Đối với các hành tướng của bốn
thiền, Ta được thanh tịnh, không còn phân biệt. Nơi các thiền và thiền chi tuy
hoàn toàn thuần thục nhưng Ta chẳng nhận lấy phước báo ấy, chỉ nương nơi thiền
định làm cho tâm phát sanh thần cảnh, thiên nhĩ, tha tâm, túc trụ, thiên nhãn
trí thông.
Đối với tướng của năm thần thông này, tuy Ta nắm giữ hoàn
toàn nhưng không chấp trước, không say đắm. Đối với các cảnh giới của thần
thông đều vô sở đắc, cũng chẳng phân biệt, như trụ ở hư không.
Bấy giờ, Ta quán tất cả pháp đều bình đẳng, lấy vô tánh làm
tánh, do một sát na tương ưng với diệu tuệ, chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh
Đẳng Bồ đề, nghĩa là như thật biết: Đây là Thánh đế khổ, đây là Thánh đế tập,
đây là Thánh đế diệt, đây là Thánh đế đạo đều đồng một tướng chỗ gọi vô tướng.
Vô tướng như vậy cũng bất khả đắc. Nhờ vậy, thành tựu vô biên công đức như Như
Lai mười lực, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt và mười tám pháp
Phật bất cộng v.v... Mới đem Phật diệu trí an lập hữu tình ba nhóm sai khác.
Tùy họ mong muốn mà phương tiện hóa đạo khiến họ được lợi ích an vui thù thắng. (Q.528,
ĐBN)
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Vì sao Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ngay trong tánh vô tánh của tất cả pháp phát
sanh bốn thiền, năm thần thông, chứng đại Bồ đề, đầy đủ các công đức, làm lợi
lạc ba nhóm hữu tình?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Nếu
các pháp dục, ác, bất thiện v.v... có chút tự tánh hoặc tha tánh lấy đó làm tự
tánh thì khi Ta còn tu học đạo Bồ tát chẳng thể nào thông suốt được tất cả pháp
dục, ác, bất thiện v.v..., nhưng vì các pháp dục, ác, bất thiện v.v... vô tự
tánh và tha tánh, chỉ lấy vô tánh làm tự tánh, nên khi Ta còn tu học đạo Bồ
tát, mới thông suốt các pháp dục, ác, bất thiện v.v... đều lấy vô tánh làm tự tánh, vì vậy mới xa
lìa được chúng mà nhập vào các thiền, được an trụ hoàn toàn.
Thiện Hiện nên biết! Nếu năm thần thông có chút tự tánh,
hoặc tha tánh lấy đó làm tự tánh thì khi Ta còn tu học đạo Bồ tát chẳng thông
suốt tất cả thần thông. Vì các thần thông vô tự tánh, tha tánh, chỉ lấy vô tánh
làm tự tánh, nên khi Ta còn tu học đạo Bồ tát thông suốt các thần thông, đều
lấy vô tánh làm tự tánh, phát sanh các thứ thần thông, đối với các cảnh giới tự
tại diệu dụng vô ngại.
Thiện Hiện nên biết! Nếu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề
của chư Phật có chút tự tánh hoặc tha tánh lấy đó làm tự tánh, thì khi Ta còn
tu học đạo Bồ tát chẳng thông suốt quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề và các
công đức của chư Phật. Vì quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề và các công đức của
chư Phật, vô tự tánh, tha tánh, chỉ lấy vô tánh làm tự tánh, nên khi Ta còn tu
học đạo Bồ tát, thông suốt quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề đều lấy vô tánh
làm tự tánh, do một sát na tương ưng diệu tuệ chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh
Đẳng Bồ đề, đầy đủ các công đức.
Thiện Hiện nên biết! Nếu các hữu tình có chút tự tánh hoặc
tha tánh lấy đó làm tự tánh thì khi Ta thành Phật rồi cũng không thể thông suốt
tất cả hữu tình, vì lấy vô tánh làm tự tánh, nên Ta làm cho ba nhóm hữu tình
khác nhau, tùy theo chỗ thích hợp dùng phương tiện giáo hóa làm cho họ được lợi
ích, an vui thù thắng. Vì các hữu tình vô tự tánh và tha tánh, chỉ lấy vô tánh
làm tự tánh, nên Ta thành Phật rồi, thông suốt hữu tình đều lấy vô tánh làm tự
tánh, an lập ba nhóm hữu tình khác nhau, tùy theo chỗ thích hợp dùng phương
tiện giáo hóa, làm cho họ được lợi ích an vui thù thắng. (Q.528, ĐBN)
Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ tát biết tất cả pháp lấy vô tánh
làm tự tánh mà vẫn đối với trong pháp ấy phát sanh bốn thiền, phát sanh năm
thần thông, chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, đầy đủ các công đức,
an lập ba nhóm hữu tình khác nhau, tùy theo chỗ thích hợp dùng phương tiện giáo
hóa, làm cho họ được lợi ích an vui thù thắng, thì tại sao đại Bồ tát lúc mới
phát tâm ngay trong tất cả pháp tánh, vô tánh phải tuần tự theo nghiệp, tuần tự
theo học, tuần tự theo hành. Và vì tuần tự theo nghiệp, theo học, theo hành này
nên chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, làm lợi ích an vui các hữu
tình?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát từ lúc mới phát tâm, hoặc
được theo nơi đức Phật nghe pháp, hoặc lại cúng dường chư Phật, Bồ tát, Độc
giác và các quả A la hán, Bất hoàn, Nhất lai, Dự lưu và được nghe các vị Hiền
Thánh v.v... Nghĩa là chứng các pháp vô
tánh làm tự tánh, đạt đến hoàn toàn viên mãn mới gọi là Phật, tuần tự chứng
được các pháp vô tánh làm tự tánh mới gọi là Bồ tát. Cho đến Dự lưu, tin sâu
các pháp vô tánh làm tự tánh mới gọi Hiền thiện sĩ. Do đó, tất cả pháp và các
hữu tình đều lấy vô tánh làm tự tánh. Pháp và hữu tình không có một chút tự
tánh nào, dù nhỏ như đầu sợi lông có thể nắm bắt được.
Nghe việc này rồi, đại Bồ tát ấy suy nghĩ: Nếu tất cả pháp
và các hữu tình đều lấy vô tánh làm tự tánh, chứng được pháp này mới gọi là
Phật. Cho đến Dự lưu, tin sâu đây mới gọi là Hiền thiện sĩ thì ta đối với quả
vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, hoặc sẽ chứng đắc, hoặc không chứng đắc. Bởi vì
các pháp và hữu tình luôn luôn lấy vô tánh làm tự tánh, nên Ta nhất định phải
hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Được Chánh giác rồi, nếu có các
hữu tình thực hành hữu tưởng, thì ta dùng phương tiện giáo hóa làm cho họ trụ
vào vô tưởng.
Đại Bồ tát này đã suy nghĩ rồi, phát tâm hướng đến quả vị Vô
thượng Bồ đề, độ thoát các loài hữu tình, chứng được Niết bàn, mới tuần tự theo
nghiệp, tuần tự theo học, tuần tự theo hành, như các đại Bồ tát đời quá khứ
phát tâm hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, trước hết tuần tự theo
nghiệp, theo học, theo hành, nên chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Đại Bồ tát này cũng lại như vậy, trước nên tu học bố thí Ba la mật, thứ đến nên
tu học tịnh giới Ba la mật, tuần tự cho đến cuối cùng là tu học Bát nhã Ba la
mật.
(Bồ tát tuần tự học, tuần tự hành sáu pháp Ba la mật)
- Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ tát này từ lúc phát tâm tu học bố thí Ba la mật, nên tự mình
hành bố thí, cũng khuyên người khác hành bố thí, luôn tự mình khen ngợi công
đức bố thí, hoan hỷ tán thán người hành bố thí. Nhờ nhân duyên này nên bố thí
viên mãn và được địa vị, tài sản lớn, thường hành bố thí, xa lìa tâm bỏn xẻn,
tùy theo nhu cầu của hữu tình mà cung cấp đầy đủ các thức ăn, nước uống và vật
dụng.
Đại Bồ tát này nhờ bố thí, thọ trì giới uẩn, nên sanh chỗ
tôn quí trong cõi trời, người. Nhờ thí giới nên được định uẩn. Nhờ thí giới,
định nên được tuệ uẩn. Nhờ thí giới, định, tuệ nên được giải thoát uẩn. Nhờ thí
giới, định, tuệ, giải thoát nên được giải thoát trí kiến uẩn. Nhờ thí giới, định,
tuệ, giải thoát, giải thoát trí kiến uẩn viên mãn nên vượt qua các địa vị Thanh
văn, Độc giác, chứng nhập vào Bồ tát Chánh tánh ly sanh. Đã nhập vào Bồ tát
Chánh tánh ly sanh, thành thục hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật. Làm
các việc này rồi mới có khả năng chứng đắc Nhất thiết trí trí, chuyển pháp luân
vi diệu, đem pháp Tam thừa, giáo hóa độ thoát các loài hữu tình, giúp họ thoát
khỏi sanh tử, chứng đắc Niết bàn.
Đại Bồ tát này do bố thí nên tuy có khả năng tuần tự theo
nghiệp, tuần tự theo học, tuần tự theo hành như vậy, nhưng đối với tất cả pháp
đều không nắm bắt. Vì sao? Vì tất cả pháp đều không có tự tánh. (Q.528, ĐBN)
- Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ tát này từ lúc mới phát
tâm tu học tịnh giới Ba la mật, nên
tự mình hành tịnh giới, cũng khuyên người khác hành tịnh giới, luôn tự mình
khen ngợi công đức tịnh giới, hoan hỉ tán thán người hành tịnh giới. Nhờ nhân
duyên giới uẩn thanh tịnh này, được sanh trong cõi trời, người, sanh vào chỗ
tôn quí, bố thí tài vật cho kẻ nghèo cùng. Đã thực hành việc bố thí rồi, an trụ
trong giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát trí kiến uẩn. Nhờ
giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát trí kiến uẩn thanh tịnh nên vượt các
địa vị Thanh văn, Độc giác, chứng nhập vào Bồ tát Chánh tánh ly sanh. Đã nhập
vào Bồ tát Chánh tánh ly sanh, thành thục hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi
Phật. Làm các việc này rồi, mới có khả năng chứng đắc Nhất thiết trí trí, vận
chuyển pháp luân vi diệu, đem pháp ba thừa giáo hóa, độ thoát các loài hữu
tình, giúp họ thoát khỏi sanh tử, chứng đắc Niết bàn.
Đại Bồ tát này do trì tịnh giới nên tuy có khả năng tuần tự
theo nghiệp, tuần tự theo học, tuần tự theo hành như vậy, nhưng đối trong tất
cả pháp đều không nắm bắt. Vì sao? Vì tất cả pháp đều không có tự tánh.
- Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ tát này từ lúc mới phát tâm tu học an nhẫn Ba la mật, nên tự mình
hành an nhẫn, cũng khuyên người khác hành an nhẫn, luôn tự mình khen ngợi công
đức an nhẫn, hoan hỉ tán thán người hành an nhẫn. Đại Bồ tát này khi hành an nhẫn
có thể đem tài sản bố thí cho các hữu tình làm cho họ được đầy đủ.
Đã thực hành bố thí rồi, an trụ trong giới uẩn, định uẩn,
tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát trí kiến uẩn. Nhờ giới, định, tuệ, giải
thoát, giải thoát trí kiến uẩn thanh tịnh nên vượt qua các địa vị Thanh văn,
Độc giác, chứng nhập vào Bồ tát Chánh tánh ly sanh. Đã nhập vào Bồ tát Chánh
tánh ly sanh, thành thục hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật. Làm việc
này rồi, mới có khả năng chứng đắc Nhất thiết trí trí, vận chuyển pháp luân vi
diệu, dùng pháp ba thừa giáo hóa, độ thoát các loài hữu tình giúp họ thoát khỏi
sanh tử, chứng đắc Niết bàn.
Đại Bồ tát này do an nhẫn nên tuy có khả năng tuần tự theo
nghiệp, tuần tự theo học, tuần tự theo hành như vậy, nhưng đối với tất cả pháp
đều không nắm bắt. Vì sao? Vì tất cả pháp đều không có tự tánh.
- Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ tát này từ lúc mới phát tâm tu học tinh tấn Ba la mật, nên tự mình
hành tinh tấn, cũng khuyên người khác hành tinh tấn, luôn tự mình khen ngợi
công đức tinh tấn, hoan hỷ tán thán người hành tinh tấn. Đại Bồ tát này khi
hành tinh tấn có thể đem tài sản bố thí cho các hữu tình, làm cho họ được đầy
đủ. Đã thực hành bố thí rồi, an trụ trong giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải
thoát uẩn, giải thoát trí kiến uẩn. Nhờ giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát
trí kiến uẩn thanh tịnh nên vượt các địa vị Thanh văn, Độc giác, chứng nhập vào
Bồ tát Chánh tánh ly sanh. Đã nhập vào Bồ tát Chánh tánh ly sanh, thành thục
hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật. Làm việc này rồi, mới có khả năng
chứng đắc Nhất thiết trí trí, vận chuyển pháp luân vi diệu, đem pháp ba thừa
giáo hóa, độ thoát các loài hữu tình, giúp họ thoát khỏi sanh tử, chứng đắc
Niết bàn.
Đại Bồ tát này do hành tinh tấn nên tuy có khả năng tuần tự
theo nghiệp, tuần tự theo học, tuần tự theo hành như vậy, nhưng đối với tất cả
pháp đều không nắm bắt. Vì sao? Vì tất cả pháp đều không có tự tánh.
- Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ tát này từ lúc mới phát tâm tu học tịnh lự Ba la mật, nên tự mình
nhập tịnh lự, định vô lượng, vô sắc, cũng khuyên người khác nhập tịnh lự, định
vô lượng, vô sắc, luôn tự mình khen ngợi công đức tịnh lự, định vô lượng, vô
sắc, hoan hỷ tán thán người nhập tịnh lự, định vô lượng, vô sắc.
Đại Bồ tát này khi hành tịnh lự có thể đem tài sản bố thí
các hữu tình, làm cho họ được đầy đủ. Đã thực hành bố thí rồi, an trụ trong
giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát trí kiến uẩn. Nhờ giới,
định, tuệ, giải thoát, giải thoát trí kiến uẩn thanh tịnh nên vượt qua các địa
vị Thanh văn, Độc giác, chứng nhập vào Bồ tát Chánh tánh ly sanh. Đã nhập vào
Bồ tát Chánh tánh ly sanh, thành thục hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi
Phật. Làm việc này rồi mới có khả năng chứng đắc Nhất thiết trí trí, vận chuyển
pháp luân vi diệu, đem pháp ba thừa giáo hóa, độ thoát các loài hữu tình, giúp
họ thoát khỏi sanh tử, chứng đắc Niết bàn.
Đại Bồ tát này do tịnh lự nên tuy có khả năng tuần tự theo
nghiệp, tuần tự theo học, tuần tự theo hành như vậy, nhưng đối với tất cả pháp
đều không nắm bắt. Vì sao? Vì tất cả pháp đều không có tự tánh.
- Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ tát này từ lúc mới phát tâm tu học Bát nhã Ba la mật, dùng giới,
định, tuệ và giải thoát, giải thoát trí kiến thù thắng an trụ hữu tình, dùng vô
sở đắc làm phương tiện, tự mình hành sáu pháp Ba la mật, cũng khuyên người khác
hành sáu pháp Ba la mật, luôn tự mình khen ngợi công đức sáu pháp Ba la mật,
hoan hỷ tán thán người hành sáu pháp Ba la mật.
Đại Bồ tát này do bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật, thành
tựu phương tiện thiện xảo, vượt các địa vị Thanh văn, Độc giác, chứng nhập vào
Bồ tát Chánh tánh ly sanh. Đã nhập vào Bồ tát Chánh tánh ly sanh, thành thục
hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật. Làm việc này rồi, mới có khả năng
chứng đắc Nhất thiết trí trí, vận chuyển pháp luân vi diệu, đem pháp ba thừa
giáo hóa, độ thoát các loài hữu tình, giúp họ thoát khỏi sanh tử, chứng đắc
Niết bàn.
Đại Bồ tát này do Bát Nhã nên tuy có khả năng tuần tự theo
nghiệp, tuần tự theo học, tuần tự theo hành như vậy, nhưng đối với tất cả pháp
đều không nắm bắt. Vì sao? Vì tất cả pháp đều không có tự tánh. (Q.528, ĐBN)
Thiện Hiện nên biết! Đây là đại Bồ tát từ lúc phát tâm,
nương theo lục Ba la mật đã học, tuần tự theo nghiệp, tuần tự theo học, tuần tự
theo hành, làm lợi ích an vui cho loài hữu tình.
(Bồ tát tuần tự học, tuần tự hành lục tùy niệm)
Lại nữa, này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát từ lúc phát tâm
trong khi tuần tự theo nghiệp, tuần tự theo học, tuần tự theo hành, đem Nhất
thiết trí trí tương ưng với tác ý, tin hiểu các pháp đều lấy vô tánh làm tự
tánh. Trước hết nên tu học tùy niệm
Phật, thứ đến tu học tùy niệm Pháp, tùy niệm Tăng … cho đến cuối cùng là tu học
tùy niệm thiên.
Thiện Hiện nên biết! Thế nào là đại Bồ tát tu học tùy niệm Phật? Nghĩa là đại Bồ
tát khi tu học tùy niệm Phật, không dùng sắc, thọ, tưởng, hành, thức để tư duy
về Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Vì sao? Vì sắc cho đến thức đều vô tự tánh. Nếu pháp vô tự tánh thì
vô sở hữu. Nếu vô sở hữu thì không thể niệm, không thể tư duy. Vì sao? Vì nếu
không niệm, không tư duy, đây gọi là tùy niệm Phật.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát khi tu học tùy niệm
Phật, không nên dùng sắc thân vàng ròng, có ánh sáng một tầm với ba mươi hai
tướng, tám mươi vẻ đẹp mà tư duy về Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Vì sao? Vì sắc
thân vàng ròng, tướng hảo như vậy đều vô tự tánh. Nếu pháp vô tự tánh thì vô sở
hữu. Nếu vô sở hữu thì không thể niệm, không thể tư duy. Vì sao? Vì nếu không
niệm, không tư duy, đây gọi là tùy niệm Phật.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát khi tu học tùy niệm
Phật, không nên dùng giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát
trí kiến uẩn để tư duy về Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Vì sao? Vì các uẩn như
vậy đều vô tự tánh. Nếu pháp vô tự tánh thì vô sở hữu. Nếu vô sở hữu thì không
thể niệm, không thể tư duy. Vì sao? Vì không niệm, không tư duy, đây gọi là tùy
niệm Phật.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát khi tu học tùy niệm
Phật, không nên dùng năm loại mắt, sáu phép thần thông, Như Lai mười lực, bốn
điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng, đại
từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, Nhất thiết
trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí và vô lượng, vô biên các pháp của Phật
để tư duy về Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Vì sao? Vì các pháp như vậy đều vô tự
tánh. Nếu pháp vô tự tánh thì vô sở hữu. Nếu vô sở hữu thì không thể niệm,
không thể tư duy. Vì sao? Vì nếu không niệm, không tư duy, đây gọi là tùy niệm
Phật.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát khi tu học tùy niệm
Phật, không nên dùng pháp duyên khởi để tư duy Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Vì
sao? Vì các pháp duyên khởi đều vô tự tánh. Nếu là pháp vô tự tánh thì vô sở
hữu. Nếu vô sở hữu thì không thể niệm, không thể tư duy. Vì sao? Vì nếu không
niệm, không tư duy, đây gọi là tùy niệm Phật.
Thiện Hiện nên biết! Các đại Bồ tát khi hành Bát Nhã sâu xa,
nên tu học tùy niệm Phật như thế. Nếu tu học tùy niệm Phật, thì tuần tự theo
nghiệp, tuần tự theo học, tuần tự theo hành. Nếu đại Bồ tát có khả năng tuần tự
theo nghiệp, tuần tự theo học, tuần tự theo hành như vậy, thì có thể viên mãn
bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo, nói rộng, cho đến Nhất thiết tướng trí.
Nhờ đó chứng đắc Nhất thiết trí trí. Đại Bồ tát này dùng tất cả pháp vô tánh
làm tự tánh, nhờ sức phương tiện nên hiểu tất cả pháp đều vô tự tánh, trong ấy
không hữu tưởng, cũng không vô tưởng.
Thiện Hiện nên biết! Các đại Bồ tát nên tu học tùy niệm Phật
như thế, nghĩa là trong ấy ngay cả Phật còn bất khả đắc, huống gì có tùy niệm
Phật.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Thế nào là đại Bồ tát tu học tùy niệm Pháp? Nghĩa là đại Bồ
tát khi tu học tùy niệm Pháp, không nên tư duy pháp thiện, pháp ác, hoặc pháp
hữu ký, pháp vô ký, hoặc pháp thế gian, pháp xuất thế gian, hoặc pháp có ái
nhiễm, pháp không ái nhiễm, hoặc Thánh pháp, phi Thánh pháp, hoặc pháp hữu lậu,
pháp vô lậu, hoặc pháp rơi rớt trong ba cõi, pháp chẳng rơi rớt trong ba cõi,
hoặc pháp hữu vi, pháp vô vi. Vì sao? Vì các pháp như vậy đều vô tự tánh. Nếu pháp vô tự tánh thì vô sở hữu. Nếu vô sở hữu
thì không thể niệm, không thể tư duy. Vì sao? Vì nếu không niệm, không tư duy,
đây gọi là tùy niệm Pháp.
Thiện Hiện nên biết! Các đại Bồ tát khi hành Bát Nhã sâu xa,
nên tu học tùy niệm Pháp như thế. Nếu tu học tùy niệm Pháp như vậy thì đây là
tuần tự theo nghiệp, tuần tự theo học, tuần tự theo hành. Nếu đại Bồ tát có khả
năng tuần tự theo nghiệp, tuần tự theo học, tuần tự theo hành thì có thể viên
mãn bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo, nói rộng cho đến Nhất thiết tướng
trí. Do đây chứng đắc Nhất thiết trí trí.
Đại Bồ tát này dùng tất cả pháp vô tánh làm tự tánh. Nhờ sức
phương tiện nên học tất cả pháp đều vô tự tánh, trong ấy không hữu tưởng, cũng
không vô tưởng.
Thiện Hiện nên biết! Các đại Bồ tát nên tu học tùy niệm Pháp
như thế, nghĩa là ngay trong ấy pháp còn bất khả đắc, huống gì có tùy niệm
Pháp.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Thế nào là đại Bồ tát tu học tùy niệm Tăng? Nghĩa là đại Bồ
tát khi tu học tùy niệm Tăng, nên nghĩ: Chúng đệ tử Phật đầy đủ các công đức,
là những bậc Thánh nhân, bốn đôi tám vị(1), tất cả đều là do vô vi hiển bày,
đều lấy vô tánh làm tự tánh. Do nhân duyên này nên không tư niệm. Vì sao? Vì
bậc Thiện sĩ như vậy đều vô tự tánh. Nếu pháp vô tự tánh thì vô sở hữu. Nếu vô
sở hữu thì không thể niệm, không thể tư duy. Vì sao? Vì nếu không niệm, không
tư duy, đây gọi là tùy niệm Tăng.
Thiện Hiện nên biết! Các đại Bồ tát khi hành Bát Nhã sâu xa,
nên tu học tùy niệm Tăng như thế. Nếu tu học tùy niệm Tăng như thế thì đây là
tuần tự theo nghiệp, tuần tự theo học, tuần tự theo hành. Nếu đại Bồ tát có khả
năng tuần tự theo nghiệp, tuần tự theo học, tuần tự theo hành như vậy, thì có
thể viên mãn bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo, nói rộng cho đến Nhất
thiết tướng trí. Nhờ đó chứng đắc Nhất thiết trí trí.
Đại Bồ tát này dùng tất cả pháp vô tánh làm tự tánh. Do sức
phương tiện nên giác ngộ tất cả pháp đều vô tự tánh, trong ấy không hữu tưởng,
cũng không vô tưởng.
Thiện Hiện nên biết! Các đại Bồ tát nên tu học tùy niệm Tăng
như thế, nghĩa là trong ấy ngay cả Tăng còn bất khả đắc, huống gì có tùy niệm
Tăng.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Thế nào là đại Bồ tát tu học tùy niệm giới? Nghĩa là đại Bồ
tát khi tu học tùy niệm giới, từ lúc mới phát tâm nên tùy niệm Thánh giới không
khuyết, không hở, không tỳ vết, không nhơ uế, không chấp thủ, đáng được cúng
dường, được người trí khen ngợi, thọ trì pháp thiện vi diệu, tùy thuận viên mãn
tư duy thắng định, giới này đều lấy vô tánh làm tự tánh. Do nhân duyên này nên
không tư niệm. Vì sao? Vì Thánh giới như thế đều vô tự tánh. Nếu pháp vô tự
tánh thì vô sở hữu. Nếu vô sở hữu thì không thể niệm, không thể tư duy. Vì sao?
Vì nếu không nhớ, không tư duy, đây gọi là tùy niệm giới.
Thiện Hiện nên biết! Các đại Bồ tát khi hành Bát Nhã sâu xa,
nên tu học tùy niệm giới như thế. Nếu tu học tùy niệm giới như thế thì đây là
tuần tự theo nghiệp, tuần tự theo học, tuần tự theo hành. Nếu đại Bồ tát có khả
năng tuần tự theo nghiệp, tuần tự theo học, tuần tự theo hành như vậy, thì có
thể viên mãn bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo, nói rộng cho đến Nhất
thiết tướng trí. Nhờ đó chứng đắc Nhất thiết trí trí.
Đại Bồ tát này dùng tất cả pháp lấy vô tánh làm tự tánh. Do
sức phương tiện nên hiểu tất cả pháp đều vô tự tánh, trong ấy không hữu tưởng,
cũng không vô tưởng.
Thiện Hiện nên biết! Các đại Bồ tát nên tu học tùy niệm giới
như thế, nghĩa là trong ấy ngay cả giới còn bất khả đắc, huống gì có tùy niệm
giới.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Thế nào là đại Bồ tát tu học tùy niệm xả? Nghĩa là đại Bồ tát
khi tu học tùy niệm xả, từ lúc mới phát tâm nên dùng vô tánh làm tự tánh,
phương tiện tu tùy niệm xả, nên khi xả tài vật hoặc xả pháp, không nên nghĩ: Ta
có thể xả bỏ hoặc không thể xả bỏ. Nếu khi xả các chi phần trong thân thể, cũng
không nên nghĩ: Ta có thể xả bỏ hoặc không thể xả bỏ. Không tư duy về sự bố thí
và phước báo của sự bố thí. Vì sao? Các pháp như thế đều vô tự tánh. Nếu pháp
vô tự tánh thì vô sở hữu. Nếu vô sở hữu thì không thể niệm, không thể tư duy.
Vì sao? Vì nếu không niệm, không tư duy, đây gọi là tùy niệm xả.
Thiện Hiện nên biết! Các đại Bồ tát khi hành Bát Nhã sâu xa,
nên tu học tùy niệm xả như thế. Nếu tu học tùy niệm xả như thế thì đây là tuần
tự theo nghiệp, tuần tự theo học, tuần tự theo hành. Nếu đại Bồ tát có khả năng
tuần tự theo nghiệp, tuần tự theo học, tuần tự theo hành như vậy, thì có thể
viên mãn bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo, nói rộng cho đến Nhất thiết
tướng trí. Nhờ đó chứng đắc Nhất thiết trí trí.
Đại Bồ tát này dùng pháp vô tánh làm tự tánh. Do sức phương
tiện nên hiểu tất cả pháp đều vô tự tánh, trong ấy không hữu tưởng, cũng không
vô tưởng.
Thiện Hiện nên biết! Các đại Bồ tát nên tu học tùy niệm xả
như thế, nghĩa là trong ấy ngay cả xả còn bất khả đắc, huống gì có tùy niệm xả.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Thế nào là đại Bồ tát tu học tùy niệm thiên? Nghĩa là đại Bồ
tát khi tu học tùy niệm thiên, từ lúc mới phát tâm nên dùng vô tánh làm tự
tánh, phương tiện tu tùy niệm thiên như vầy: Các bậc Dự lưu sanh trong sáu cõi
trời Dục giới, các bậc Bất hoàn sanh vào hai cõi trên. Tất cả như vậy đều bất
khả đắc, không thể nhớ nghĩ. Vì sao? Vì chư thiên này đều vô tự tánh. Nếu pháp
vô tự tánh thì vô sở hữu. Nếu vô sở hữu thì không thể niệm, không thể tư duy.
Vì sao? Vì nếu không niệm, không tư duy, đây gọi là tùy niệm thiên.
Thiện Hiện nên biết! Các đại Bồ tát khi hành Bát Nhã sâu xa,
nên tu học tùy niệm thiên như thế. Nếu tu học tùy niệm thiên như thế thì đây là
tuần tự theo nghiệp, tuần tự theo học, tuần tự theo hành. Nếu đại Bồ tát có khả
năng tuần tự theo nghiệp, tuần tự theo học, tuần tự theo hành như vậy, thì có
thể viên mãn bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo, nói rộng cho đến Nhất
thiết tướng trí. Nhờ đó chứng đắc Nhất thiết trí trí.
Đại Bồ tát này dùng tất cả pháp lấy vô tánh làm tự tánh. Do
sức phương tiện nên hiểu tất cả pháp đều vô tự tánh, trong ấy không hữu tưởng,
cũng không vô tưởng.
Thiện Hiện nên biết! Các đại Bồ tát nên tu học tùy niệm
thiên như thế, nghĩa là trong ấy ngay cả thiên còn bất khả đắc, huống gì có tùy
niệm thiên. (Q.528, ĐBN)
Thiện Hiện nên biết! Đây là đại Bồ tát từ lúc mới phát tâm
nương theo học sáu pháp tùy niệm tuần tự theo nghiệp, tuần tự theo học, tuần tự
theo hành, làm lợi ích an vui cho loài hữu tình.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát khi hành Bát Nhã sâu
xa, nếu muốn viên mãn sự tuần tự theo nghiệp, tuần tự theo học, tuần tự theo
hành, thì dùng tất cả pháp vô tánh làm tự tánh. Do sức phương tiện nên học pháp
nội không cho đến pháp vô tính tự tính không. Nên học chơn như cho đến cảnh
giới bất tư nghì. Nên học Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo. Nên học bốn niệm trụ
cho đến tám chi Thánh đạo. Nói rộng cho đến nên học Nhất thiết trí, Đạo tướng
trí, Nhất thiết tướng trí.
Đại Bồ tát này khi học đạo Bồ đề như thế, hiểu tất cả pháp
đều lấy vô tánh làm tự tánh. Đối với pháp không có chút niệm nào có thể nắm
bắt, huống gì có nhớ nghĩ sắc, thọ, tưởng, hành, thức, nói rộng cho đến Nhất
thiết trí trí. Những nhớ nghĩ và pháp được nhớ nghĩ như vậy, nếu thật có dù chỉ
mảy may cũng không có việc ấy.
Như vậy, này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát khi hành Bát Nhã sâu
xa, tuy tuần tự theo nghiệp, tuần tự theo học, tuần tự theo hành, nhưng đối với
pháp ấy tâm không lay chuyển, vì tất cả pháp đều vô tự tánh. (Q.528, ĐBN)
Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp đều không có tự tánh, thì
cũng không có sắc, thọ, tưởng, hành, thức, cho đến không có Nhất thiết trí trí,
không có Phật, Pháp, Tăng bảo, đạo quả nhiễm tịnh cũng không đắc, không hiện quán,
thế thì tất cả pháp đều lẽ ra là không có?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Ý ngươi thế nào? Ngay trong tất cả pháp vô
tánh, tánh có, tánh không, có thể có không?
Thiện Hiện thưa:
- Bạch Thế Tôn! Không thể có được!
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Nếu trong tánh tất cả pháp vô tánh, tánh
có, tánh không đều không thể có thì nay tại sao ông nói: Nếu tất cả pháp đều
không có tự tánh thì cũng không có sắc, thọ, tưởng, hành, thức, nói rộng cho
đến tất cả pháp cũng đều không có?
Thiện Hiện thưa:
- Bạch Thế Tôn! Đối với nghĩa này, con không có gì nghi ngờ,
nhưng chỉ sợ có các Bí sô ở đời sau, hoặc cầu Thanh văn, hoặc cầu Độc giác,
hoặc cầu quả Phật, các vị ấy sẽ nghĩ: Nếu tất cả pháp đều không có tự tánh, vậy
thì ai nhiễm, ai tịnh, ai buộc, ai mở? Những vị ấy ở nơi nghĩa nhiễm tịnh, buộc
mở chẳng hiểu rõ, nên phá giới, phá kiến, phá oai nghi, phá tịnh mạng. Do đây
nên bị đọa trong ba đường ác, chịu nhiều đau khổ, trầm luân sanh tử, khó được
giải thoát. Con xem thấy ở đời sau sẽ có những việc đáng kinh sợ như vậy, cho nên
mới thưa hỏi, chứ riêng con thật không có nghi ngờ. (Q.528, ĐBN)
Thích nghĩa cho đoạn 1. này:
(1). Bốn
đôi tám vị, còn gọi là tứ song bát bối hay tứ song bát chích (四雙八輩) đã
giải thích ở phẩm “Tam Tiệm Thứ” Hội thứ I, hay phẩm “Lần Hồi”, Hội thứ II,
ĐBN.
2. (Đoạn Kinh sau đây tương đương với phẩm “Vô Tướng”,
phần sau Q.466 đến phần đầu Q.467, Hội thứ II, ĐBN)
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Lành thay! Lành thay! Ngươi mới có thể vì đời sau mà hỏi như
vậy. Nhưng trong tánh tất cả pháp vô tánh, hoặc có hoặc không đều bất khả đắc,
chớ nên đối với pháp này chấp lấy tánh có tánh không.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp đều lấy vô tánh làm tự tánh,
các đại Bồ tát quán những nghĩa nào, vì muốn lợi vui các hữu tình nên cầu tới
Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Vì tất cả pháp đều lấy vô tánh mà làm tự
tánh. Các đại Bồ tát vì muốn nhiêu ích các loại hữu tình cầu tới Vô Thượng
Chánh Đẳng Bồ đề. Vì sao? Vì các loại hữu tình đủ kiến đoạn thường, trụ hữu sở
đắc, khó nổi điều phục; ngu si điên đảo khó nổi giải thoát.
Thiện Hiện nên biết! Nếu chấp vào có sở đắc, do tưởng có sở
đắc nên không đắc, không hiện quán, cũng không chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh
Đẳng Bồ đề.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu chấp có sở đắc thì không đắc, không hiện
quán, cũng không chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề; nếu chấp không sở
đắc thì có đắc, có hiện quán, có chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề
không?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Nếu vô sở đắc tức
là đắc, tức là hiện quán, tức là chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Vì sao? Vì kẻ ấy chẳng làm hoại tướng pháp giới. (Q.528,
ĐBN)
Thiện Hiện nên biết! Nếu kẻ nào đối với vô sở đắc mà muốn
đắc, muốn hiện quán, muốn đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, nên biết đó
muốn hoại pháp giới.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu người nào có sở đắc thì không đắc, không
hiện quán, cũng không chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề; còn nếu vô
sở đắc tức là đắc, là hiện quán, là chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề;
trong vô sở đắc không đắc, không hiện quán, cũng không chứng đắc quả vị Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Như vậy, các đại Bồ tát làm sao chứng được sơ địa, nhị
địa cho đến thập địa? Làm sao chứng được Vô sanh pháp nhẫn? Làm sao đầy đủ kết
quả dị thục để phát sanh thần thông? Làm sao có được kết quả dị thục để phát
sanh bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật? Làm sao có được an trụ vào kết quả dị
thục như vậy để sanh các pháp, thành thục hữu tình, thanh tịnh cõi Phật, gần
gũi chư Phật để cúng dường thức ăn thượng diệu, đạt được đầy đủ căn lành, cho
đến chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, được kết quả vô cùng tận, mãi
cho đến sau khi nhập vào Niết bàn, để lại Xá lợi và các đệ tử vẫn được sự cúng
dường, cung kính, thế lực căn lành vẫn lưu tồn mãi mãi?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Vì
tất cả pháp vô sở đắc nên các đại Bồ tát chứng được sơ địa, nhị địa cho đến
thập địa. Tức là nhờ đó nên đầy đủ Vô sanh pháp nhẫn, đầy đủ kết quả dị
thục để phát sanh thần thông, kết quả dị thục để phát sanh bố thí cho đến Bát
nhã Ba la mật. Nhờ đó nên được an trụ vào kết quả dị thục để phát sanh các
pháp, thành thục hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, gần gũi chư Phật
để cúng dường thức ăn thượng diệu, đầy đủ căn lành cho đến chứng đắc quả vị Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, được kết quả vô cùng tận, mãi cho đến sau khi nhập vào
Niết bàn, để lại Xá lợi và các đệ tử vẫn được sự cúng dường, cung kính, thế lực
căn lành vẫn lưu tồn mãi mãi.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp đều vô sở đắc, sáu pháp Ba
la mật như bố thí, trì giới v.v... và các thần thông có khác nhau không?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Đối với người không sở đắc, sáu pháp Ba la
mật như bố thí, trì giới v.v... và các thần thông đều không khác nhau. Chỉ vì
muốn làm cho người có sở đắc ấy xa lìa đắm nhiễm, phương tiện tuyên thuyết sáu
pháp Ba la mật như bố thí, trì giới v.v... và các thần thông có tướng khác nhau
vậy thôi.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà đối với người không sở
đắc, sáu pháp Ba la mật như bố thí, trì giới v.v... và các thần thông không
khác nhau?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát khi hành Bát Nhã sâu xa,
chẳng thấy bố thí, chẳng thấy người thí, chẳng thấy kẻ nhận, chẳng thấy vật
thí, chẳng thấy phước báo bố thí mà hành bố thí. Không đắc tịnh giới mà trì
tịnh giới. Không đắc an nhẫn mà tu an nhẫn. Không đắc tinh tấn mà siêng năng
tinh tấn. Không đắc tịnh lự mà nhập tịnh lự. Không đắc Bát Nhã mà học Bát Nhã.
Không đắc thần thông mà phát sanh thần thông. Không đắc bốn niệm trụ cho đến tám
chi Thánh đạo mà tu bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo. Nói rộng, cho đến
không đắc Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí mà tu ba trí này.
Không đắc các hữu tình mà thành thục hữu tình. Không đắc các cõi Phật mà trang
nghiêm thanh tịnh cõi Phật. Không đắc Phật pháp mà chứng Bồ đề. (Q. 528, ĐBN)
Như vậy, này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát nên hành Bát Nhã sâu xa vô sở đắc. Nếu đại Bồ tát có
thể hành Bát Nhã vô sở đắc như vậy, thì Thiên ma, ngoại đạo không thể phá hoại
được.
Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ tát khi hành Bát Nhã sâu xa, Nhất tâm hiện khởi thì có nhiếp thọ đầy
đủ cả bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật. Nói
rộng, cũng có thể nhiếp thọ bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc v.v… cho
đến ba mươi hai tướng của Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Đại Bồ tát khi hành Bát Nhã thẳm sâu, nếu
pháp tu bố thí cho đến Bát Nhã đều được Bát Nhã nhiếp thọ thì mới được viên
mãn. Như vậy, cho đến pháp tu ba mươi hai tướng Đại sĩ, tám mươi tùy hảo đều
được Bát nhã Ba la mật nhiếp thọ thì mới được viên mãn.
Như vậy, này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát khi hành Bát Nhã
thậm thâm, nhất tâm hiện khởi, thời có thể nhiếp thọ sáu thứ Ba la mật. Như vậy
cho đến cũng có thể nhiếp thọ ba mươi hai tướng Đại sĩ, tám mươi tùy hảo.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Tại sao đại Bồ tát khi hành Bát nhã Ba la
mật có làm việc gì đều được Bát nhã Ba la mật nhiếp thọ, cho nên nhất tâm hiện
khởi thời có thể nhiếp thọ sáu Ba la mật cho đến ba mươi hai tướng Đại sĩ, tám
mươi tùy hảo?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát khi hành Bát Nhã sâu xa, sở
tu sáu thứ Ba la mật cho đến sở dẫn ba mươi hai tướng Đại sĩ, tám mươi tùy hảo
đều được Bát nhã Ba la mật nhiếp hộ nên
xa lìa hai tưởng. Như vậy, cho đến pháp tu ba mươi hai tướng Đại sĩ, tám
mươi tùy hảo cũng được Bát nhã Ba la mật nhiếp thọ nên xa lìa hai tưởng.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Vì sao là đại Bồ tát khi hành Bát Nhã sâu
xa, tuy hành sáu thứ Ba la mật cho đến tuy dẫn ba mươi hai tướng Đại sĩ, tám
mươi tùy hảo mà không hai tưởng?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát khi hành Bát Nhã sâu xa, vì
muốn viên mãn bố thí Ba la mật, nên tức trong bố thí Ba la mật, nhiếp thọ tất
cả Ba la mật, nói rộng cho đến tám mươi tùy hảo mà hành bố thí. Do nhân duyên
đây mà không hai tưởng. Như vậy, cho đến vì muốn viên mãn ba mươi hai tướng Đại
sĩ, tám mươi tùy hảo nên tức trong ba mươi hai tướng Đại sĩ, tám mươi tùy hảo
nhiếp thọ tất cả Ba la mật. Bởi nhân duyên đây mà không hai tưởng.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát vì hành Bát Nhã sâu
xa, nên khi hành bố thí Ba la mật trụ vào tâm vô lậu mà hành bố thí Ba la mật.
Nói rộng, cho đến khi đạt được tám mươi vẻ đẹp trụ vào tâm vô lậu mà đạt được
tám mươi vẻ đẹp. Vì vậy, cho nên tuy hành bố thí Ba la mật, cho đến đạt được
tám mươi vẻ đẹp nhưng không có hai tưởng(1).
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ tát hành Bát Nhã sâu xa, nên
khi hành bố thí Ba la mật trụ vào tâm vô lậu mà hành bố thí Ba la mật, cho đến khi
đạt được tám mươi vẻ đẹp trụ tâm vô lậu mà đạt được tám mươi vẻ đẹp?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát khi hành Bát Nhã sâu xa, lấy tâm ly tướng nên không thấy các
tướng, mà hành bố thí Ba la mật. Đó là không thấy ai hành bố thí, thí vật gì, ai
nhận thí, đây bố thí, vì đây bố thí, vì sao thực hành bố thí. Trụ trong tâm ly
tướng vô lậu này, lìa tham ái, keo kiệt để hành bố thí Ba la mật. Bấy giờ không
thấy bố thí, cũng không thấy tâm vô lậu, cho đến không thấy tất cả Phật pháp.
Đại Bồ tát như vậy, với tâm vô lậu mà hành bố thí Ba la mật. Nói rộng, cho đến
nếu đại Bồ tát khi hành Bát Nhã sâu xa, với tâm ly tướng không thấy các tướng
đưa đến tám mươi vẻ đẹp. Nghĩa là không thấy ai là người dẫn, ai là được dẫn,
do đây mà dẫn, vì đây mà dẫn, vì sao đưa đến tám mươi vẻ đẹp, trụ trong tâm ly
tướng vô lậu này không nhiễm, không đắm trước mà đạt đến tám mươi vẻ đẹp. Bấy
giờ không thấy đưa đến tám mươi vẻ đẹp, cũng lại không thấy tâm vô lậu này, cho
đến không thấy tất cả Phật pháp. (Q.528,
ĐBN)
Đại Bồ tát như vậy, với tâm vô lậu mà đạt đến tám mươi vẻ
đẹp.
Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ tát khi hành Bát Nhã sâu xa, biết
tất cả pháp vô tướng, vô đắc cũng vô sở tác, thì làm sao viên mãn sáu pháp Ba
la mật. Làm sao viên mãn pháp nội không cho đến pháp vô tánh tự tánh không. Làm
sao viên mãn chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì. Làm sao viên mãn Thánh đế
khổ, tập, diệt, đạo. Làm sao viên mãn bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo.
Làm sao viên mãn bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Làm sao viên mãn
pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Làm sao viên mãn tám giải thoát
cho đến mười biến xứ. Làm sao viên mãn Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa. Làm sao
viên mãn pháp môn Đà la ni, pháp môn Tam ma địa. Làm sao viên mãn năm loại mắt,
sáu phép thần thông. Làm sao viên Như Lai mãn mười lực cho đến mười tám pháp
Phật bất cộng. Làm sao viên mãn đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả. Làm sao viên
mãn pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả. Làm sao viên mãn Nhất thiết trí,
Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Làm sao viên mãn tất cả Bồ tát hạnh. Làm
sao viên mãn quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Làm sao viên mãn ba mươi hai
tướng Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát khi thực hành Bát Nhã sâu
xa, nên đem tâm ly tướng vô lậu mà tu bố
thí Ba la mật. Các hữu tình nào cần ăn cho ăn, cần uống cho uống, cần các
vật dụng thì cho các vật dụng. Nếu các hữu tình nào cần xin các phần trong thân
thể như: Đầu, mắt, tủy, não, da, phần thân thể, gân cốt, thân mạng thì bố thí cho
họ. Hoặc họ xin các thứ như: Quốc gia, thành trì, vợ con, quyến thuộc thân yêu,
hay các thứ sang trọng khác cũng đều vui vẻ mà bố thí cho họ.
Khi Bồ tát hành bố thí như vậy, giả sử có người đến trước
mặt quở trách: Cần gì Bồ tát phải làm việc bố thí không lợi ích này. Người nào
hành bố thí như thế, đời này đời sau thân tâm sẽ mỏi mệt, chịu nhiều khổ não!
Tuy nghe lời ấy, đại Bồ tát này vẫn hành Bát Nhã sâu xa chẳng hề thối tâm, chỉ
suy nghĩ: Tuy người kia đến quở trách ta, nhưng tâm ta không hối hận. Ta nên
dõng mãnh hơn, bố thí vật cần dùng cho các hữu tình, thân tâm không mệt mỏi.
Đại Bồ tát này đem phước đức bố thí ấy bình đẳng ban cho các
hữu tình và cùng hồi hướng về Nhất thiết trí trí. Khi bố thí và hồi hướng như
vậy, Bồ tát không thấy các tướng, đó là không thấy ai thí, ai nhận thí, thí vật
gì, vì sao mà thí, do đâu, vì đâu, vì sao hành bố thí. Cũng lại không thấy ai
hồi hướng, hồi hướng về đâu, hồi hướng cho ai, do đâu, vì đâu, vì sao hồi
hướng? Đối với tất cả các sự vật như thế đều không thấy. Vì sao? Vì các pháp
như thế đều do nội không nên rỗng không, như vậy cho đến do tự tướng không nên
rỗng không.. Khi quán tất cả các pháp Không rồi, đại Bồ tát suy nghĩ: Ai có thể
hồi hướng, hồi hướng chỗ nào, hồi hướng cái gì, do đâu, vì đâu, vì sao hồi hướng?
Các pháp như vậy đều bất khả đắc. Đại Bồ tát này do quán sát và suy nghĩ như
vậy phát sanh hồi hướng, nên gọi là thiện
hồi hướng. Nhờ đó, thành thục hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật,
cũng có thể viên mãn việc làm bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Nói rộng, cho
đến cũng được đầy đủ tám mươi vẻ đẹp.
Tuy đại Bồ tát này có thể bố thí Ba la mật như vậy nhưng
không nhận lấy quả dị thục của việc bố thí. Tuy chẳng nhận lấy quả dị thục của
việc bố thí, nhưng do bố thí Ba la mật, thanh tịnh hoàn toàn, nên tùy theo ý
muốn mà hiện tất cả của cải, giống như ở các cõi trời Tha hóa tự tại, tất cả
vật cần dùng đều tùy theo tâm hiện bày.
Đại Bồ tát này cũng như vậy, các thứ cần dùng đều tùy theo ý
muốn mà hiện ra. Do nhờ thế lực này tăng thượng nên Bồ tát dùng các thứ vật
dụng thượng hạng cung kính cúng dường chư Phật Thế Tôn, cũng làm cho sung mãn ở
các cõi trời. Đại Bồ tát này do bố thí Ba la mật, độ khắp các loài hữu tình,
dùng phương tiện thiện xảo đem pháp Tam thừa mà giáo hóa, tùy theo ý muốn làm
cho chúng được lợi ích an vui.
Như vậy, này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát hành Bát Nhã sâu xa,
do sức của tâm vô lậu xa lìa các tướng, nên đối với tất cả pháp vô tướng, vô
tác được viên mãn bố thí Ba la mật và được viên mãn các pháp lành khác. (Q.529, ĐBN)
- Lại nữa, này Thiện Hiện! Các đại Bồ
tát khi hành Bát Nhã sâu xa, có thể đem tâm
ly tướng vô lậu mà tu tịnh giới Ba la mật. Nghĩa là được tóm thâu trong các
chi Thánh đạo vô lậu, đúng pháp đắc giới thanh tịnh hoàn toàn. Tịnh giới như
vậy không khuyết không hở, không tỳ vết, không nhơ uế, không chấp thủ, đáng
được cúng dường, được người trí khen ngợi. Nhờ tịnh giới này đối với tất cả
pháp đều không chấp thủ, nghĩa là
không chấp có sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Cho đến không chấp có ba mươi hai
tướng Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp. Không chấp có đại tộc Sát đế lợi, cho đến đại
tộc Cư sĩ. Không chấp có bốn chúng Đại thiên vương, cho đến trời Phi tưởng phi
phi tưởng xứ. Không chấp có quả Dự lưu cho đến Độc giác Bồ đề. Không chấp có
ngôi Chuyển luân vương và các ngôi Tiểu vương, tể quan. Chỉ đem sự trì giới như
thế bình đẳng ban cho các hữu tình và cùng nhau hồi hướng về Nhất thiết trí
trí. Trong khi hồi hướng dùng vô tướng, vô sở đắc, vô nhị làm phương tiện,
chẳng phải có tướng, có đắc, có hai làm phương tiện, chỉ nương vào thế tục,
chẳng nương vào thắng nghĩa. Nhờ nhân duyên này tất cả Phật pháp đều được viên
mãn.
Đại Bồ tát ấy do trì tịnh giới Ba la mật này, dùng phương
tiện thiện xảo nhập bốn phần tịnh lự thắng tiến, không đắm trước nên được phát
sanh thần thông. Đại Bồ tát này với thiên nhãn thanh tịnh do dị thục sanh, có
thể thấy được chư Phật trong hiện tại khắp mười phương, cho đến chứng đắc Nhất
thiết trí trí, đối với các sự việc đã thấy được đều chẳng quên mất.
Dùng thiên nhĩ thanh
tịnh siêu nhân, có thể nghe được chư Phật thuyết pháp khắp mười phương, cho đến
chứng đắc Nhất thiết trí trí, đối với các việc đều đã nghe được, chẳng bao giờ
quên mất, nghe rồi đem pháp ấy làm lợi ích cho mình và người, không để uổng
phí.
Dùng tha tâm trí
có thể biết được tâm, tâm sở của các loài hữu tình trong các cõi Phật ở 10
phương. Biết rồi mới có thể tùy theo chỗ thích nghi của chúng để làm lợi ích.
Dùng túc trụ trí
biết được các nghiệp quá khứ của các hữu tình do sự tạo nghiệp không mất, nên
sanh vào các chỗ này chỗ kia, chịu các sự khổ vui. Biết rồi vì họ mà nói nhân
duyên nghiệp cũ, làm cho họ nhớ biết để tạo việc lợi ích.
Dùng lậu tận trí
giáo hóa hữu tình, hoặc giúp cho họ chứng được quả Dự lưu, quả Nhất lai, nói
rộng cho đến chứng được quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Nói tóm lại, đại Bồ tát này sanh vào bất cứ chỗ nào cũng tùy
theo sự thọ lãnh khác biệt của các hữu tình mà dùng phương tiện độ thoát cho họ
chứng được các thiện phẩm.
Như vậy, này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát hành Bát Nhã sâu xa,
nhờ sức tâm vô lậu xa lìa các tướng, nên đối với tất cả pháp vô tướng, vô tác
viên mãn tịnh giới thanh tịnh và có thể viên mãn các pháp lành khác. (Q.529, ĐBN)
- Lại nữa, này Thiện Hiện! Các đại Bồ
tát khi hành Bát Nhã sâu xa, nên đem tâm
ly tướng vô lậu mà tu an nhẫn Ba la mật. Đại Bồ tát này từ lúc phát tâm cho
đến khi an trụ nơi tòa Bồ đề vi diệu, trong thời gian ấy, dù có các loài hữu
tình đều cầm các thứ khí cụ đến làm hại, nhưng đại Bồ tát này vẫn không sanh
tâm hờn giận.
Lúc ấy, Bồ tát nên tu hai nhẫn: Một là nên chịu đựng tất cả những sự nhục mạ (an thọ nhẫn) gia hại của các hữu tình,
không sanh tâm giận dữ, mà đè nén hận thù; hai là quan sát nhẫn.
Nếu gặp các thứ khổ, bị những sự nhục mạ, hoặc bị các loại
dao gậy làm hại, thì đại Bồ tát nên quán sát suy nghĩ: Ai có thể nhục mạ? Ai bị
nhục mạ? Ai làm hại? Ai bị hại? Ai giận dữ? Ai nhẫn nhịn?
Lại suy nghĩ: Tất cả pháp lành đều hoàn toàn Không, pháp còn
bất khả đắc huống là có pháp tánh, pháp tánh cũng còn không có huống là có hữu
tình?
Khi quán như vậy, người mạ nhục, hoặc người bị mạ nhục,
người hại, hoặc người bị hại, đều không thấy có, cho đến bị mổ xẻ, cắt đứt thân
thể từng đoạn, Bồ tát vẫn nhẫn được, không sanh niệm gì khác. Đối với các pháp
tánh, Bồ tát như thật quán sát mới có thể chứng đắc Vô sanh pháp nhẫn.
Vô sanh pháp nhẫn là thế nào? Nghĩa là Bồ tát làm cho tất cả phiền não chẳng phát sanh, trí tuệ vi
diệu thường không gián đoạn; quán sát tất cả pháp hoàn toàn chẳng sanh. Vì vậy
gọi là Vô sanh pháp nhẫn.
Đại Bồ tát này an trụ hai pháp nhẫn (một là an thọ nhẫn; hai là quán sát nhẫn) như thế nên mau được
viên mãn sáu pháp Ba la mật như bố thí, trì giới v.v... Nói rộng cho đến mau
được viên mãn tám mươi vẻ đẹp.
Đại Bồ tát này an trụ trong các pháp Phật khác như vậy rồi,
thì Thánh pháp vô lậu xuất thế đều được viên mãn không giống như thần thông của
các Thanh văn, Độc giác. An trụ trong thần thông thù thắng như vậy rồi,
Bồ tát dùng thiên
nhãn thanh tịnh quán thấy chư Phật trong hiện tại khắp mười phương, cho đến
chứng đắc Nhất thiết trí trí, luôn tùy niệm Phật, thường không gián đoạn.
Dùng tịnh thiên nhĩ thường
nghe chư Phật thuyết pháp khắp mười phương, thọ trì chẳng quên, như thật giảng
thuyết cho các loài hữu tình.
Dùng tha tâm trí,
có thể đo lường tâm và tâm sở của chư Phật Thế Tôn, cũng có thể biết được tâm
và tâm sở của các loài hữu tình, tùy theo chỗ thích hợp mà nói chánh pháp, làm
cho họ phát sanh thắng giải.
Dùng túc trụ trí,
biết các hữu tình đời trước gieo trồng căn lành khác nhau. Biết rồi dùng phương
tiện thị hiện, khuyên bảo, dẫn dắt, khen ngợi, khích lệ vui mừng, làm cho họ
được lợi ích.
Dùng lậu tận trí
tùy theo chỗ thích nghi của họ mà giáo hóa họ vào pháp Tam thừa.
Đại Bồ tát này hành Bát Nhã sâu xa, dùng phương tiện thiện
xảo, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, thành thục hữu tình mau được đầy đủ Nhất
thiết trí trí, chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, vận chuyển pháp
luân vi diệu làm lợi ích cho tất cả.
Như vậy, này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát hành Bát Nhã sâu xa,
nhờ sức tâm vô lậu, xa lìa các tướng, nên ở trong các pháp vô tướng, vô tác
được viên mãn an nhẫn Ba la mật và cũng có thể viên mãn các pháp lành khác. (Q.529, ĐBN)
- Lại nữa, này Thiện Hiện! Các đại Bồ
tát khi hành Bát Nhã sâu xa, nên đem tâm
ly tướng vô lậu mà tu tinh tấn Ba la mật. Đại Bồ tát này quyết tâm tinh tấn
dõng mãnh nhập vào sơ tịnh lự cho đến nhập vào tịnh lự thứ tư. Nương vào bốn
tịnh lự này phát sanh các thần thông biến hiện, cho đến đưa tay sờ tới mặt
trời, mặt trăng, tự do xoay chuyển không thấy khó khăn. Thành tựu dõng mãnh
thân tinh tấn, đem sức thần thông trong chừng giây lát có thể đến được hằng hà
sa số thế giới của chư Phật khắp mười phương. Lại đem các dụng cụ ưa thích
thượng hạng cung kính cúng dường chư Phật Thế Tôn. Nhờ đó quả báo căn lành vô
tận, dần dần chứng đắc Nhất thiết trí trí. Nhờ thế căn lành này tăng thượng, đã
được thành Phật rồi, lại được vô lượng thế gian, trời, người, A tu la v.v...
đem vô lượng vật dụng ưa thích thượng hạng cúng dường, cung kính. Nhờ căn lành
này sau khi nhập vào Niết bàn để lại Xá lợi, còn các đệ tử vẫn được vô lượng
thế gian, trời, người, A tu la v.v... cúng dường, cung kính.
Đại Bồ tát này lại dùng thần lực có thể đến hằng hà sa số
thế giới của chư Phật khắp mười phương, được nghe chư Phật nói pháp. Nghe rồi
thọ trì không bao giờ quên mất, cho đến chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng
Bồ đề.
Đại Bồ tát này dùng thần lực có thể đến hằng hà sa số thế
giới của chư Phật khắp mười phương, thành thục hữu tình, trang nghiêm thanh
tịnh cõi Phật, tinh tấn tu học Nhất thiết tướng trí, đã được viên mãn rồi,
chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, vận chuyển pháp luân vi diệu, độ
thoát các loài hữu tình.
Như vậy, này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát thành tựu thân tinh
tấn dõng mãnh, nên tinh tấn Ba la mật mau được viên mãn.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát thành tựu tâm tinh
tấn dõng mãnh nên mau viên mãn các Thánh đạo vô lậu và các chi Thánh đạo được
nhập vào tinh tấn Ba la mật. Nhờ đó làm cho tất cả các nghiệp bất thiện nơi
thân, khẩu, ý không phát sanh được.
Đại Bồ tát này ở trong các pháp quyết không chấp thủ: Thường
hoặc vô thường, khổ hoặc vui, ngã hoặc vô ngã, tịnh hoặc bất tịnh, cảnh giới
hữu vi hoặc cảnh giới vô vi, Dục giới, Sắc giới hoặc Vô sắc giới; hoặc bốn tịnh
lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; hoặc bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo;
hoặc ba pháp môn giải thoát; hoặc vô lượng, vô biên các Phật pháp khác đều
chẳng chấp thủ, thường hoặc vô thường v.v... Cũng không chấp thủ quả Dự lưu cho
đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Đại Bồ tát này cũng chẳng chấp thủ đây là bậc Dự lưu, là bậc
Nhất lai, hay là Phật. Cũng chẳng chấp thủ hữu tình nào thấy đầy đủ thì gọi là
bậc Dự lưu. Hữu tình nào làm mỏng hạ phần kiết sử thì gọi là bậc Nhất lai. Hữu
tình nào đoạn tận hạ phần kiết thì gọi là bậc Bất hoàn. Hữu tình nào đoạn tận
thượng phần kiết thì gọi là bậc A la hán. Hữu tình nào đạt được Độc giác thì
gọi là Độc giác. Hữu tình nào đạt được Đạo tướng trí thì gọi là Bồ tát. Hữu
tình nào đạt được Nhất thiết tướng trí thì gọi là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác.
Đại Bồ tát này đối với các pháp và các hữu tình như thế đều
chẳng chấp thủ. Vì sao? Vì tất cả pháp và các hữu tình đều vô tự tánh không thể
đắm trước. Đại Bồ tát này thành tựu tâm tinh tấn dõng mãnh, nên dù làm các việc
lợi ích cho hữu tình mà vẫn không tiếc thân mạng, vẫn đối với các hữu tình hoàn
toàn vô sở đắc.
Mặc dù đã viên mãn sự tu tinh tấn Ba la mật, nhưng đối với
tinh tấn Ba la mật hoàn toàn vô sở đắc. Dù đã viên mãn tất cả Phật pháp nhưng
đối với Phật pháp hoàn toàn vô sở đắc, dù đã nghiêm tịnh tất cả cõi Phật nhưng
đối với cõi Phật hoàn toàn vô sở đắc.
Đại Bồ tát này thành tựu tâm tinh tấn như vậy, dù đã xa lìa
tất cả các pháp cũng có thể thu nhận tất cả pháp lành nhưng không chấp thủ. Vì
không chấp thủ nên từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, từ thế giới này đến thế
giới khác, vì muốn làm lợi ích cho các loài hữu tình, thị hiện các thần thông
một cách tự tại vô ngại theo ý muốn. Nghĩa là thị hiện rưới nhiều hương thơm,
rải các hoa đẹp, trỗi các kỹ nhạc, hiện mây sấm chấn động cả đại địa, hoặc thị
hiện bảy món báu nhiệm mầu trang nghiêm thế giới, thân phóng ánh sáng, làm cho
chúng sanh đui mù đều được thấy rõ. Hoặc thân hiện ra các mùi hương vi diệu,
những kẻ nhơ uế đều được thơm tho sạch sẽ. Hoặc thị hiện xây dựng hội cúng tế,
bố thí mà không làm hại các loài hữu tình; nhân đó giáo hóa vô lượng hữu tình
làm cho họ nhập vào chánh đạo, xa lìa sự giết hại sanh mạng cho đến việc tà
kiến, hoặc thực hành việc bố thí cho đến Bát Nhã.
Các hữu tình nào vì muốn làm lợi ích các loài hữu tình khác,
hoặc là xả bỏ của báu, bỏ vợ con, bỏ ngôi vua, bỏ phần thân thể, bỏ cả thân
mạng, tùy theo các loài hữu tình nên dùng phương tiện như vậy, để làm lợi ích
an vui cho họ
Như vậy, này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát hành Bát Nhã sâu xa,
do sức tâm vô lậu xa lìa các tướng, có thể ở trong tất cả pháp vô tướng, vô tác
viên mãn tinh tấn Ba la mật và có thể viên mãn các pháp lành khác. (Q.529, ĐBN)
- Lại nữa, này
Thiện Hiện! Các đại Bồ tát khi hành Bát Nhã sâu xa, nên đem tâm ly tướng vô lậu mà tu tịnh lự Ba la mật. Trừ định của Như
Lai, còn đối với các định khác đại Bồ tát này đều được viên mãn.
Đại Bồ tát này lìa pháp dục, ác, bất thiện, có tầm, có tứ,
ly sanh hỷ lạc, nhập vào sơ tịnh lự, cho đến chứng vào tịnh lự thứ tư, được an
trụ hoàn toàn.
Đại Bồ tát này đem tâm từ, nói rộng cho đến đem tâm xả duyên
khắp mười phương mà an trụ hoàn toàn.
Đại Bồ tát này vượt qua các sắc tưởng, diệt hữu đối, không
tư duy các thứ tưởng, nhập vào Không vô biên xứ cho đến Phi tưởng phi phi tưởng
xứ được an trụ hoàn toàn. Đại Bồ tát này nhập vào tịnh lự Ba la mật, đối với
tám giải thoát, chín định thứ đệ, dù thuận nghịch đều được an trụ hoàn toàn.
Đại Bồ tát này đối với không, vô tướng, vô nguyện đẳng trì được an trụ hoàn
toàn. Đối với định Vô gián, định như Điện quang, định Kim cương dụ, định của
bậc Thánh, bậc Chánh đẳng v.v... được an trụ hoàn toàn.
Đại Bồ tát này an trụ tịnh lự Ba la mật, tu ba mươi bảy Bồ
đề phần pháp, nhập vào Đạo tướng trí đều được viên mãn. Dùng Đạo tướng trí tóm
thâu tất cả Tam ma địa rồi tuần tự tu hành vượt lên địa vị chỉ quán, cho đến tu
hành Độc giác rồi mới chứng nhập vào Bồ tát Chánh tánh ly sanh. Đã nhập vào Bồ
tát Chánh tánh ly sanh tu học các địa được viên mãn Phật địa.
Đại Bồ tát này dù tuần tự tu vượt qua các địa cho đến chưa
chứng đắc Nhất thiết trí trí, nhưng trong giai đoạn ấy không chấp lấy quả tu
chứng.
Đại Bồ tát này nhập vào tịnh lự Ba la mật, từ cõi Phật này
đến cõi Phật khác, gần gũi cúng dường chư Phật Thế Tôn, trồng nhiều căn lành
với chư Phật, thành thục hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật. Từ thế
giới này đến thế giới kia làm lợi ích an vui cho hữu tình thân tâm không biết
mỏi mệt.
Đại Bồ tát thực hành bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật, giáo
hóa hữu tình, hoặc dùng giới uẩn cho đến giải thoát trí kiến uẩn để độ thoát
các hữu tình, hoặc dạy cho họ chứng được quả Dự lưu. Nói rộng, cho đến dạy cho
họ chứng được quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Tùy theo thế lực, căn lành của
loài hữu tình làm cho pháp lành tăng trưởng, dùng các thứ phương tiện làm cho
họ an trụ.
Đại Bồ tát này nhập vào tịnh lự Ba la mật, phát sanh tất cả
pháp môn Đà la ni, pháp môn Tam ma địa, chứng đắc bốn sự hiểu biết thông suốt
thù thắng, chứng đắc dị thục thần thông thù thắng.
Đại Bồ tát này thành tựu dị thục thần thông thù thắng. Quyết
định chẳng thọ mẫu thai trở lại, quyết định chẳng hưởng thú vui dâm dục, quyết
định chẳng lệ thuộc vào sự thọ sanh, quyết định không bị lỗi thọ sanh làm ô
nhiễm. Vì sao? Vì đại Bồ tát này khéo thấy biết tất cả pháp hoàn toàn đều như
huyễn hóa. Tuy đại Bồ tát biết các hành đều như huyễn hóa nhưng nương vào bi
nguyện lợi ích an vui cho loài hữu tình. Tuy nương vào bi nguyện lợi ích an vui
cho loài hữu tình mà vẫn hiểu hữu tình và sự hoạt động của chúng đều bất khả
đắc. Tuy hiểu hữu tình và sự hoạt động của chúng đều bất khả đắc nhưng vẫn giáo
hóa tất cả hữu tình, làm cho chúng an trụ trong pháp bất khả đắc. Đây là nương
thế tục đế, chẳng phải nương thắng nghĩa đế.
Đại Bồ tát này nhập vào tịnh lự Ba la mật, tu hành tất cả
tịnh lự, giải thoát, đẳng trì, đẳng chí, cho đến viên mãn quả vị Vô Thượng
Chánh Đẳng Bồ đề, thường không xa lìa việc tu tịnh lự Ba la mật.
Đại Bồ tát này hành phương tiện Đạo tướng trí, phát sanh
Nhất thiết tướng trí, an trụ trong ấy đoạn trừ vĩnh viễn tập khí phiền não
tương tục, làm lợi ích mình người, có thể làm ruộng phước cho tất cả thế gian,
trời, người, A tu la v.v... đáng thọ nhận sự cúng dường, cung kính của thế gian.
Như vậy, này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát hành Bát Nhã sâu xa,
do sức tâm vô lậu xa lìa các tướng, nên ở trong tất cả pháp vô tướng, vô tác
viên mãn tịnh lự Ba la mật và có thể viên mãn các pháp lành khác. (Q.529, ĐBN)
- Lại nữa, này
Thiện Hiện! Các đại Bồ tát khi hành Bát Nhã sâu xa, nên đem tâm ly tướng vô lậu mà tu Bát Nhã. Đại Bồ tát này hoàn toàn
không thấy một pháp nhỏ nào thật có. Nghĩa là không thấy có sắc, thọ, tưởng,
hành, thức. Nói rộng, cho đến các pháp hữu lậu và vô lậu đều hoàn toàn không
thật có. Cũng lại không thấy các pháp như vậy có sanh có diệt, có tăng ích, có
tổn giảm, có chứa nhóm, có phân ly. Như thật quán sắc, thọ, tưởng, hành, thức,
nói rộng cho đến các pháp hữu lậu và vô lậu đều là hư dối, đều không bền chắc,
đều không có tự tánh.
Đại Bồ tát này khi quán sát như vậy chẳng đạt được tự tánh
của sắc, chẳng đạt được tự tánh của thọ, tưởng, hành, thức. Nói rộng, cho đến
chẳng đạt được tự tánh của pháp hữu lậu, chẳng đạt được tự tánh của pháp vô
lậu.
Đại Bồ tát này hành Bát Nhã sâu xa, khi quán như vậy đối với tất cả pháp phát sanh tin hiểu sâu
xa, đều lấy vô tánh làm tự tánh. Đối với những việc phát sanh tin hiểu như
thế rồi, mới có thể thực hành pháp nội không, cho đến có thể thực hành pháp vô
tánh tự tánh không. Khi hành như vậy đối với tất cả pháp không bị đắm trước,
nghĩa là chẳng đắm trước sắc, cũng chẳng đắm trước thọ, tưởng, hành, thức. Nói
rộng, cho đến chẳng đắm trước tất cả Bồ tát hạnh, cũng chẳng đắm trước quả vị
Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Đại Bồ tát này khi hành Bát Nhã sâu xa, vô sở hữu có thể
viên mãn đạo Bồ đề. Nghĩa là viên mãn bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn,
tịnh lự, Bát nhã Ba la mật. Nói rộng cho đến tám mươi vẻ đẹp.
Đại Bồ tát này an trụ đạo Bồ đề như vậy rồi lại có thể viên
mãn quả dị thục của Phật đạo, nghĩa là có thể viên mãn bố thí, tịnh giới, an
nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật, và vô lượng Bồ đề phần pháp khác.
Đại Bồ tát này an trụ quả dị thục của Phật đạo như thế, do
sức thần thông thù thắng mà quả dị thục phát sanh, dùng phương tiện làm lợi ích
cho các loài hữu tình. Tùy theo các hữu tình cần, đem bố thí cho đến Bát nhã Ba
la mật độ thoát họ, liền dùng bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật để độ thoát họ;
cần dùng giới uẩn cho đến giải thoát trí kiến uẩn mà độ thoát, liền dùng giới
uẩn cho đến giải thoát trí kiến uẩn mà độ thoát họ. Người nào đáng độ thoát làm
cho họ chứng được quả Dự lưu, hoặc quả Nhất lai cho đến quả vị Vô Thượng Chánh
Đẳng Bồ đề, liền dùng phương tiện làm cho họ chứng được quả Dự lưu, hoặc quả
Nhất lai cho đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Đại Bồ tát này biến hiện thần thông, muốn đến hằng hà sa số
thế giới đều tùy ý đi đến. Muốn hiện các thứ trân bảo trong các thế giới đã
đến, đều tùy ý hiện. Muốn làm cho các hữu tình trong các thế giới đã đến thọ
dụng các trân bảo quý, tùy theo chỗ ưa muốn của họ đều làm cho họ được đầy đủ.
Đại Bồ tát này từ thế giới này đến thế giới khác đều làm lợi
ích an vui cho các hữu tình. Thấy rõ tướng trang nghiêm thanh tịnh các thế
giới, nên tự mình độ thoát tùy theo ý muốn làm trang nghiêm cõi Phật, giống như
các cõi trời Tha hóa tự tại, cần dùng các thứ thực phẩm đều tùy tâm hiện ra. Bồ
tát ấy tùy ý thọ dụng các thứ trang nghiêm vô lượng cõi Phật. Sự thọ dụng ở nơi
các cõi Phật này đều nhiệm mầu thanh tịnh, xa lìa các pháp tạp nhiễm, tùy theo
ý muốn mà hiển hiện.
Đại Bồ tát do thân dị thục này mà bố thí, tịnh giới, an
nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật và do thân dị thục này sanh ra các
thần thông vi diệu, cũng do thân dị thục này sanh đạo Bồ đề nên hành Đạo tướng
trí. Nhờ Đạo tướng trí được thành thục nên chứng được Nhất thiết tướng trí. Nhờ
chứng được trí này nên đối với tất cả pháp không còn chấp lấy. Nghĩa là không
chấp sắc, cũng không chấp thọ, tưởng, hành, thức. Nói rộng, cho đến cũng không
chấp lấy pháp thiện, pháp ác, pháp thế gian, pháp xuất thế gian, pháp hữu lậu,
hoặc pháp vô lậu, pháp hữu vi, hoặc pháp vô vi. Cũng không chấp lấy quả vị Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề đã chứng. Cũng không chấp lấy các vật đã thọ dụng ở các
cõi Phật. Trong ấy, hữu tình đối với tất cả pháp cũng không chấp lấy. Vì sao?
Vì Đại Bồ tát này trước không chấp tất cả pháp nên đối với tất cả pháp đều vô
sở đắc, vì các hữu tình mà thuyết giảng tất cả pháp tánh không trái ngược,
không nhiếp thọ vậy.
Như vậy, này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát hành Bát Nhã sâu xa,
do sức tâm vô lậu xa lìa các tướng, nên ở trong tất cả pháp vô tướng, vô tác
viên mãn Bát nhã Ba la mật và có thể viên mãn các pháp lành khác. (Q.529, ĐBN)
Thích nghĩa cho đoạn 2. này:
(1). Đoạn Kinh này với đoạn Kinh
trong quyển 466 thuộc Hội thứ II cùng một ý tưởng, nhưng cách diễn tả có khác.
Chúng tôi không dám bình phẩm hay sửa đổi Kinh văn. Tuy nhiên, có thể nói đoạn
Kinh trong quyển 466 làm bộc lộ được tinh thần “không trụ hai tưởng” và “Bồ tát
trụ tâm vô lậu mà hành sáu pháp Ba la mật”. Xin quý vị đọc kỹ hai đoạn Kinh và
so chiếu sẽ hiểu rõ điều chúng tôi muốn nói!
3. (Đoạn Kinh sau đây tương đương với phẩm “Không Tạp”,
phần sau Q.467 cho đến phần đầu Q.468, Hội thứ II, ĐBN)
Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Làm sao đối trong tất cả pháp không tạp, vô
tướng tự tướng không, có thể viên mãn sáu Ba la mật. Làm sao đem trong tất cả
pháp không sai khác mà thi thiết sai khác. Làm sao rõ biết tướng các pháp sai
khác như thế? Làm sao đối trong Bát nhã Ba la mật năng nhiếp thọ tất cả pháp
thế gian xuất thế gian? Làm sao đối với tất cả pháp khác tướng thi thiết nhất
tướng chỗ gọi vô tướng, và đối trong pháp nhất tướng vô tướng thi thiết pháp
tướng sai khác?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát khi hành Bát Nhã sâu xa, an
trụ trong năm thủ uẩn như mộng, như tiếng vang, như bóng, như ảnh trong gương,
như quáng nắng, như huyễn, như hóa, như thành Tầm hương, vì các hữu tình mà tu
hành bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật, như thật biết rõ năm thủ uẩn như mộng
cho đến như thành Tầm hương hoàn toàn vô tướng. Vì sao? Vì mộng cho đến thành
Tầm hương đều vô tự tánh. Nếu pháp nào
vô tự tánh thì pháp ấy vô tướng. Pháp nào vô tướng, tức là nhất tướng nên gọi
là vô tướng. Do nhân duyên này nên biết tất cả người thí, người nhận, vật
thí, tánh thí, quả thí, duyên thí hoàn toàn vô tướng. Nếu biết như vậy mà hành
bố thí thì có thể viên mãn sự tu hành bố
thí Ba la mật. Ai có thể viên mãn sự tu hành bố thí Ba la mật, thì đối với
tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật thường không xa lìa và
đầy đủ sáu Ba la mật này, thì có thể viên mãn bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn
định vô sắc. Cũng có thể viên mãn bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo. Nói
rộng, cho đến viên mãn Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí.
Đại Bồ tát này đầy đủ các kết quả dị thục phát sanh Thánh
pháp vô lậu như vậy, dùng sức thần thông có thể đến được hằng hà sa số thế giới
chư Phật khắp mười phương, đem vô lượng vật dụng thượng hạng cúng dường, cung
kính chư Phật Thế Tôn và làm lợi ích cho các loài hữu tình. Người đáng dùng bố thí
cho đến Bát nhã Ba la mật để độ, liền dùng bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật mà
độ thoát. Người đáng dùng các pháp lành khác để độ, liền dùng các pháp lành
khác mà độ thoát.
Đại Bồ tát này thành tựu căn lành thù thắng như vậy, đối với
tất cả pháp hoàn toàn tự tại vô ngại, tuy ở trong sanh tử nhưng chẳng bị tội
lỗi của sanh tử làm ô nhiễm. Vì muốn làm lợi ích cho các loài hữu tình nên thọ
nhận sự giàu sang tự tại ở cõi nguời, cõi trời. Do thế lực giàu sang tự tại nên
làm các việc lợi ích cho các hữu tình, dùng bốn nhiếp pháp giáo hóa họ. Đại Bồ
tát này biết tất cả pháp hoàn toàn vô tướng nên tuy biết quả Dự lưu nhưng không
trụ quả ấy, cho đến tuy biết quả Độc giác Bồ đề nhưng không chấp lấy quả Độc
giác Bồ đề. Vì sao? Vì đại Bồ tát này như thật biết rõ tất cả pháp rồi, và muốn
chứng đắc Nhất thiết tướng trí không giống với các bậc Thanh văn, Độc giác.
Như vậy, này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát biết tất cả pháp
hoàn toàn vô tướng nên như thật biết rõ sáu pháp Ba la mật như bố thí, trì giới
v.v... và vô lượng, vô biên các Phật pháp khác đều vô tướng. Do nhân duyên này
có thể viên mãn tất cả Phật pháp mới có khả năng chứng đắc Nhất thiết trí trí ở
đời vị lai làm lợi ích an vui cho các hữu tình. (Q.529, ĐBN)
Lại nữa, này Thiện Hiện! Các đại Bồ
tát khi hành Bát Nhã sâu xa, an trụ trong năm thủ uẩn như mộng, như tiếng vang,
như bóng, như ảnh trong gương, như quáng nắng, như huyễn, như hóa, như thành
Tầm hương, viên mãn tịnh giới Ba la mật.
Đại Bồ tát này như thật biết rõ năm thủ uẩn này như mộng cho đến như thành Tầm
hương, liền viên mãn vô tướng tịnh giới Ba la mật. Tịnh giới như vậy không
khuyết không hở, không tỳ vết, không nhơ uế, không bị chấp thủ, đáng được cúng
dường, được người trí khen ngợi, thọ trì pháp thiện vi diệu, pháp thiện hoàn
toàn, là Thánh vô lậu, được tóm thâu trong Thánh đạo xuất thế gian. Đầy đủ giới
này mới có thể khéo thọ trì giới, thiết lập đắc giới đúng pháp, giới luật nghi,
giới hữu biểu, giới vô biểu, giới hiện hành, giới chẳng hiện hành, giới oai
nghi, giới phi oai nghi.
Tuy đầy đủ các giới như thế nhưng đối với các giới này, đại
Bồ tát không chấp trước, không nghĩ như vầy: Ta nhờ giữ giới này sẽ được sanh
vào dòng đại tộc Sát đế lợi cho đến đại tộc Cư sĩ, được giàu sang tự tại.
Lại không nghĩ như vầy: Ta nhờ giữ giới này sẽ sanh làm Tiểu
vương hoặc làm Đại vương, Luân vương, hoặc làm phụ tướng được giàu sang tự tại.
Lại không nghĩ: Ta nhờ giữ giới này sẽ được sanh trong cõi trời Tứ đại thiên
vương cho đến trời Phi tưởng phi phi tưởng xứ được giàu sang tự tại. Lại không
nghĩ: Ta nhờ giữ giới này sẽ được chứng quả Dự lưu cho đến quả vị Vô Thượng
Chánh Đẳng Bồ đề. Vì sao? Các pháp như thế đều đồng nhất tướng, chỗ gọi vô
tướng, vô trụ vô đắc. Pháp vô trụ không đắc vô tướng, pháp hữu tướng không đắc
hữu tướng, pháp vô tướng không đắc hữu tướng, pháp hữu tướng chẳng đắc vô
tướng. Do nhân duyên này đều vô sở đắc.
Như vậy, này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát hành Bát Nhã sâu xa
mau chứng đắc vô tướng tịnh giới Ba la mật. Đã viên mãn vô tướng tịnh giới Ba
la mật, nên mau nhập vào Bồ tát Chánh tánh ly sanh. Đã nhập vào Bồ tát Chánh
tánh ly sanh nên chứng được Vô sanh pháp nhẫn của Bồ tát. Đã chứng được Vô sanh
pháp nhẫn của Bồ tát nên tu hành Đạo tướng trí thẳng đến Nhất thiết tướng trí,
được kết quả dị thục phát sanh năm phép thần thông thù thắng.
Lại được năm trăm pháp môn Đà la ni, cũng được năm trăm pháp
môn Tam ma địa. Ở địa vị này phát sanh bốn sự hiểu biết thông suốt. Từ cõi Phật
này đến cõi Phật khác, gần gũi cúng dường chư Phật Thế Tôn, thành thục hữu
tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật.
Đại Bồ tát này vì sự hóa độ cho hữu tình, nên tuy lưu chuyển
trong các đường sanh tử nhưng không hề bị tội lỗi kia làm ô nhiễm. Như người
huyễn hóa tuy hiện các việc đi, đứng, nằm, ngồi nhưng thật sự không có các
nghiệp qua lại v.v... Tuy hiện ra các thứ lợi ích an vui cho loài hữu tình
nhưng đối với các hữu tình và sự hoạt động của họ đều vô sở đắc. Ví như có Như
Lai Ứng Chánh Đẳng Giác danh Thiện Tịch Tĩnh (còn gọi là Tô phiến Đa), chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề,
quay xe diệu pháp độ vô lượng chúng, khiến thoát sanh tử chứng được Niết bàn,
mà không có hữu tình nào chịu nhận ký Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Khi ấy Như
Lai kia hóa làm hoá Phật khiến trụ đời lâu, rồi tự xả thọ nhập cõi Vô dư y bát
Niết bàn. Rồi hóa Phật kia trụ một kiếp lại trao ký Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề
cho một Bồ tát, mới vào Niết bàn. Phật hóa thân kia dù đã làm nhiều việc nhiêu
ích hữu tình mà vô sở đắc. Nghĩa là chẳng đắc sắc thọ tưởng hành thức. Cho đến
chẳng đắc tất cả pháp hữu lậu vô lậu v.v… và các hữu tình. Đại Bồ tát cũng lại
như thế, tuy có sở tác mà vô sở đắc.
Như vậy, này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát hành Bát Nhã sâu xa
viên mãn tịnh giới Ba la mật. Do tịnh giới Ba la mật được viên mãn nên mới tóm
thâu được tất cả Phật pháp. Nhờ đó chứng đắc Nhất thiết trí trí, làm lợi ích an
vui cho các hữu tình cho đến đời vị lai. (Q.529,
ĐBN)
Lại nữa, này Thiện Hiện! Các đại Bồ
tát khi hành Bát Nhã sâu xa, an trụ trong năm thủ uẩn như mộng, như tiếng vang,
như bóng, như ảnh trong gương, như quáng nắng, như huyễn, như hóa, như thành
Tầm hương, viên mãn an nhẫn Ba la mật.
Đại Bồ tát này như thật biết rõ năm thủ uẩn này như mộng cho đến như thành Tầm
hương, liền viên mãn vô tướng an nhẫn Ba la mật.
Này Thiện Hiện! Vì sao đại Bồ tát khi hành Bát Nhã sâu xa
như thật biết rõ năm thủ uẩn như mộng, cho đến như thành Tầm hương liền viên
mãn vô tướng an nhẫn Ba la mật?
Thiện Hiện! Đại Bồ tát này như thật biết rõ năm thủ uẩn
không thật tướng nên tu hai thứ nhẫn
liền viên mãn vô tướng an nhẫn Ba la mật. Thế nào là hai? Một là an thọ nhẫn và hai là quán sát nhẫn.
An thọ nhẫn nghĩa là các đại Bồ tát từ khi mới
phát tâm cho đến khi an tọa nơi tòa Bồ đề vi diệu. Trong thời gian ấy giả sử có
các loài hữu tình đều đến quở mắng, dùng dao gậy làm hại. Khi Bồ tát hành an
nhẫn Ba la mật, cho đến không sanh tâm niệm giận hờn, cũng lại không sanh tâm
niệm trả thù, đại Bồ tát chỉ nghĩ: Các hữu tình kia rất đáng thương xót, phiền
não dẫy đầy nơi tâm, chẳng được tự tại, cho nên mới phát sanh ác nghiệp với ta
như vậy. Nay ta không nên giận ghét họ. Lại nghĩ: Bởi ta gây tạo các uẩn oan
gia, nên các hữu tình ấy phát sanh ác nghiệp với ta như vậy. Chỉ tự trách mình,
không nên hờn giận người. Khi Bồ tát này quán sát kỹ như vậy, đối với các loài
hữu tình sanh tâm thương xót. Những loại như vậy gọi là an thọ nhẫn.
Quán sát nhẫn, là đại Bồ tát suy nghĩ: Các hành
như huyễn, hư dối chẳng thật, chẳng được tự tại, cũng như hư không vô ngã cho
đến người biết, người thấy, chỉ là hư vọng do phân biệt khởi ra, tất cả đều là
tự tâm hiện ra. Ai quở trách ta, ai làm hại ta? Ai bị quở trách, bị làm hại?
Đều là do tâm hư vọng phân biệt, nay ta không nên sanh tâm chấp trước. Các pháp
như vậy, do tự tánh Không, thắng nghĩa Không, nên đều vô sở hữu.
Khi đại Bồ tát quán sát kỹ như vậy, như thật biết rõ các
hành trống không, vắng lặng, đối với tất cả pháp không sanh niệm tưởng nào
khác. Những loại như vậy gọi là quán sát nhẫn.
Đại Bồ tát này
tu học hai thứ nhẫn như vậy, nên mới có thể viên mãn vô tướng an nhẫn Ba la mật.
Nhờ đó nên chứng được Vô sanh pháp nhẫn.
(Q.529, ĐBN)
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Vô sanh pháp nhẫn là như thế nào? Thế nào là
đoạn? Thế nào là trí?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Bởi thế lực đây cho đến chút phần pháp ác
bất thiện cũng chẳng phát sanh được. Vậy nên gọi là Vô sanh pháp nhẫn. Đây
khiến tất cả phiền não, ngã và ngã sở, mạn v.v… rốt ráo chẳng sanh, như thật
nhẫn thọ các hành như mộng cho đến như hóa. Nhẫn đây gọi trí, được trí đây nên
gọi danh Vô sanh pháp nhẫn.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Vô sanh pháp nhẫn của Thanh văn, Độc giác
cùng với Vô sanh pháp nhẫn của các hàng Bồ tát có khác nhau không?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Những bậc Dự lưu cho đến Độc giác hoặc
trí, hoặc đoạn cũng gọi là nhẫn của đại Bồ tát. Lại có nhẫn của đại Bồ tát là
pháp hoàn toàn chẳng sanh. Đó là khác nhau.
Thiện Hiện nên biết! Các đại Bồ tát thành tựu nhẫn thù thắng
như vậy nên vượt qua tất cả hàng Thanh văn, Độc giác. Các đại Bồ tát an trụ
trong nhẫn dị thục mà hành đạo Bồ tát, nên viên mãn Đạo tướng trí. Thành tựu
Đạo tướng trí như vậy, thường không xa lìa bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh
đạo. Cũng không xa lìa pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Cũng
không xa lìa dị thục thần thông. Do không xa lìa dị thục thần thông, nên từ cõi
Phật này đến cõi Phật khác, gần gũi cúng dường chư Phật Thế Tôn, thành thục hữu
tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật. Làm những việc này rồi mới có thể chứng
đắc Nhất thiết trí trí.
Như vậy, này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát hành Bát Nhã sâu xa,
mau được viên mãn vô tướng an nhẫn Ba la mật. Do an nhẫn Ba la mật này được
viên mãn, nên mới viên mãn tất cả Phật pháp. Nhờ đó chứng đắc Nhất thiết trí
trí, làm lợi ích an vui cho hữu tình cho đến đời vị lai.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Các đại Bồ
tát khi hành Bát Nhã sâu xa, an trụ trong năm thủ uẩn như mộng, như tiếng vang,
như bóng, như ảnh trong gương, như quáng nắng, như huyễn, như hóa, như thành
Tầm hương, như thật biết rõ năm thủ uẩn như mộng cho đến như thành Tầm hương
không thật tướng rồi, phát tâm dõng mãnh, thân tinh tấn nên nhanh chóng phát
sanh thần thông thù thắng, có thể đến được các thế giới của chư Phật khắp mười
phương, gần gũi cúng dường chư Phật Thế Tôn. Trồng các căn lành với chư Phật,
làm lợi ích an vui cho các loài hữu tình, thường hay trang nghiêm thanh tịnh
các cõi Phật.
Đại Bồ tát này do thân tinh tấn, thành thục hữu tình, đem
pháp Tam thừa làm phương tiện giáo hóa. Như vậy, này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát
hành Bát Nhã sâu xa, do thân tinh tấn mau được viên mãn vô tướng tinh tấn Ba la mật.
Đại Bồ tát này phát tâm dõng mãnh tinh tấn nên thành tựu các
chi Thánh đạo vô lậu được đầy đủ Thánh đạo, viên mãn tinh tấn Ba la mật, được
đầy đủ các pháp lành ở trong đó, là bốn niệm trụ, nói rộng cho đến Nhất thiết
tướng trí.
Đại Bồ tát này do tâm tinh tấn, nên được viên mãn các tướng
hảo, phóng đại quang minh, chiếu soi vô biên cõi. Do tâm tinh tấn hoàn toàn
viên mãn nên đoạn trừ vĩnh viễn các tập khí phiền não tương tục, chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh
Đẳng Bồ đề, và vận chuyển pháp luân vi diệu, đầy đủ ba mươi hai tướng, làm cho
khắp đại thiên thế giới chấn động sáu cách, các hữu tình trong đó được ánh sáng
chiếu soi, thấy sự biến động này, nghe được tiếng chánh pháp, tùy chỗ thích ứng
của họ, ở nơi đạo Tam thừa chứng được Bất thối chuyển cho đến cứu cánh.
Như vậy, này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát hành Bát Nhã sâu xa,
viên mãn tinh tấn Ba la mật, do tinh tấn Ba la mật này nên làm các việc lợi
mình lợi người, mau được viên mãn tất cả Phật pháp. Nhờ vậy chứng đắc Nhất
thiết trí trí, làm lợi ích an vui cho các hữu tình cho đến đời vị lai. (Q.529, ĐBN)
Lại nữa, Thiện Hiện! Khi các đại Bồ
tát hành Bát Nhã sâu xa, an trụ trong năm thủ uẩn như mộng, như tiếng vang, như
ảnh tượng, như bóng sáng, như sóng nắng, như huyễn, như hóa, như thành Tầm
hương mà viên mãn tĩnh lự Ba la mật.
Cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật:
- Bạch đức Thế Tôn! Khi đại Bồ tát hành Bát Nhã sâu xa, an
trụ trong năm thủ uẩn như mộng cho đến như thành Tầm hương, viên mãn tĩnh lự Ba
la mật như thế nào?
Phật bảo:
- Này Thiện Hiện! Khi các đại Bồ tát hành Bát Nhã sâu xa,
như thật biết rõ năm thủ uẩn như mộng cho đến như thành Tầm hương, không có
thật tướng, nên vào bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; tu đẳng trì
không, vô tướng, vô nguyện; tu Thánh chánh đẳng trì như Điện quang và Kim cương
dụ. Trụ trong Tam ma địa Kim cương dụ, trừ định Như Lai, ngoài ra đối với các
định khác, như định Nhị thừa, hoặc thắng định đều có khả năng nhập vào tất cả,
an trụ đầy đủ. Nhưng đối với các Tam ma địa như thế, chẳng sanh tâm ưa đắm,
cũng chẳng say đắm quả đạt được ấy. Vì sao? Vì đại Bồ tát này như thật biết
tĩnh lự đẳng định và tất cả pháp đều cùng với vô tướng, vô tánh làm tánh. Vô
tướng chẳng thể ưa đắm vô tướng. Vô tánh chẳng thể ưa đắm vô tánh. Vì không ưa
đắm nên hoàn toàn không thuận theo thế lực của các định nơi cõi Sắc, cõi Vô
sắc. Vì sao? Vì đại Bồ tát này ở tất cả cõi, đều không thủ đắc đối với định
năng nhập và định bị nhập. Do đây, nên khi vào định xứ, cũng không thủ đắc. Vì
đối với tất cả pháp, đại Bồ tát này không thủ đắc, nên sớm được viên mãn vô
tướng tĩnh lự Ba la mật. Do tĩnh lự Ba la mật đây được viên mãn, nên vượt qua
các bậc Thanh văn, Độc giác…
Cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ tát này vì sao do vô tướng tĩnh lự Ba
la mật đây được viên mãn, nên vượt các bậc Thanh văn, Độc giác…?
Phật bảo:
- Này Thiện Hiện! Đại Bồ tát này khéo học nội không cho đến
vô tính tự tính không, nên mới được viên mãn vô tướng tĩnh lự Ba la mật, vượt
qua các bậc Thanh văn, Độc giác…
Đại Bồ tát này trụ trong Không, đối với tất cả pháp đều
không thủ đắc, chẳng thấy có pháp lìa không. Đại Bồ tát này an trụ trong đây,
chẳng đắc quả Dự lưu cho đến Độc giác Bồ đề, cũng lại chẳng đắc tất cả Bồ tát
hạnh, cũng lại chẳng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật. Vì sao? Vì
trong Không không có pháp, cũng không có cái Không vậy. Đại Bồ tát này do trụ
Không này, nên vượt qua các bậc Thanh văn, Độc giác… chứng vào Bồ tát Chánh
tánh ly sanh.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật:
- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ tát lấy gì làm sanh? Lấy gì làm
ly sanh?
Phật bảo:
- Này Thiện Hiện! Các
đại Bồ tát lấy tất cả có sở đắc làm sanh, lấy tất cả vô sở đắc làm ly sanh.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật:
- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ tát lấy gì làm sở đắc? Lấy gì làm
vô sở đắc?
Phật bảo:
- Này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát lấy tất cả pháp làm sở đắc,
nghĩa là đại Bồ tát lấy sắc uẩn làm sở đắc; lấy thọ, tưởng, hành, thức uẩn làm
sở đắc. Nói rộng, cho đến lấy Nhất thiết trí trí làm sở đắc. Các đại Bồ tát lấy
các loại pháp môn… như thế làm sở đắc. Tức có sở đắc gọi là sanh, như ăn uống
hay sanh bệnh hoạn vậy.
Lại nữa, Thiện Hiện! Các đại Bồ tát lấy tất cả pháp vô hành,
vô đắc, vô thuyết, vô thị làm vô sở đắc. Nghĩa là đại Bồ tát lấy sắc cho đến Nhất thiết trí trí vô hành, vô đắc, vô
thuyết, vô thị làm vô sở đắc. Vì sao? Vì tự tánh của sắc cho đến Nhất thiết trí
trí đều chẳng thể hành, cũng chẳng thể đắc, cũng chẳng thể nói, cũng chẳng thể
chỉ bày. (Q.530, ĐBN)
Các đại Bồ tát lấy các loại pháp môn… như vậy, không hành,
không đắc, không nói, không chỉ bày, làm vô sở đắc. Tức vô sở đắc gọi là ly
sanh.
Các đại Bồ tát chứng vào ngôi Chánh tánh ly sanh rồi, viên
mãn tất cả tĩnh lự giải thoát đẳng trì đẳng chí, còn chẳng theo thế lực của
định mà thọ sanh, huống nữa là theo thế lực của phiền não tham sân si… hoặc
theo thế lực của tùy phiền não mà thọ sanh. Không có điều đó!
Đại Bồ tát này an trụ trong đây, gây tạo các nghiệp, do thế
lực của nghiệp mà trôi lăn các cõi, cũng không có điều đó. Đại Bồ tát này mặc
dù trụ trong nhóm các hành như huyễn, làm lợi ích an vui cho các hữu tình, song
chẳng đắc huyễn và các hữu tình. Khi đối với các việc vô sở đắc như thế, đại Bồ
tát này thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật thường không chán bỏ.
Như vậy, Thiện Hiện! Các đại Bồ tát hành Bát Nhã sâu xa mau
được viên mãn vô tướng tĩnh lự Ba la mật. Do được viên mãn tĩnh lự Ba la mật
đây, nên mới được viên mãn tất cả Phật pháp. Nhờ đấy nên chứng được Nhất thiết
trí trí, chuyển bánh xe diệu pháp, làm lợi ích an vui hữu tình thường không
gián đoạn, cho đến tận đời vị lai. Chuyển bánh xe pháp vô thượng như thế, tuy
có làm nhưng không có sở đắc, vì năng thuyết sở thuyết đều không có tự tánh. (Q.530, ĐBN)
Lại nữa, Thiện Hiện! Khi các đại Bồ
tát hành Bát Nhã sâu xa, an trụ trong năm thủ uẩn như mộng, như tiếng vang, như
ảnh tượng, như bóng sáng, như sóng nắng, như huyễn, như hóa, như thành Tầm
hương, mà viên mãn Bát nhã Ba la mật
thì đại Bồ tát này như thật biết rõ tánh tất cả pháp như mộng, cho đến như
thành Tầm hương đều không chơn thật, bèn viên mãn được vô tướng Bát nhã Ba la
mật.
Cụ thọ Thiện Hiện liền thưa Phật:
- Bạch Thế Tôn! Khi đại Bồ tát hành Bát Nhã sâu xa, như thật
biết rõ tánh tất cả pháp như mộng cho đến như thành Tầm hương như thế nào?
Phật bảo:
- Này Thiện Hiện! Khi các đại Bồ tát hành Bát Nhã sâu xa,
chẳng thấy mộng, chẳng thấy kẻ thấy mộng; chẳng nghe tiếng vang, chẳng thấy kẻ
nghe tiếng vang; chẳng thấy ảnh tượng, chẳng thấy kẻ thấy ảnh tượng; chẳng thấy
bóng sáng, chẳng thấy kẻ thấy bóng sáng; chẳng thấy sóng nắng, chẳng thấy kẻ
thấy sóng nắng; chẳng thấy huyễn, chẳng thấy kẻ thấy huyễn; chẳng thấy hóa,
chẳng thấy kẻ thấy hóa; chẳng thấy thành Tầm hương, chẳng thấy kẻ thấy thành
Tầm hương. Vì sao? Vì mộng, kẻ thấy mộng, cho đến thành Tầm hương, kẻ thấy
thành Tầm hương đều là chỗ chấp trước
điên đảo của phàm phu ngu si. Các A la hán, Độc giác, Bồ tát và các đức Như
Lai đều chẳng thấy mộng và kẻ thấy mộng, nói rộng cho đến chẳng thấy thành Tầm
hương và kẻ thấy thành Tầm hương. Vì sao? Vì tất cả pháp lấy vô tánh làm tánh,
chẳng thành chẳng thật, vô tướng vô vi, chẳng thật có tánh, đồng với Niết bàn.
Nếu tất cả pháp lấy vô tánh làm tánh, nói rộng cho đến đồng với Niết bàn, thì
lẽ nào đại Bồ tát khi hành Bát Nhã sâu xa, đối với tất cả pháp, khởi tưởng có
tánh, tưởng thành, tưởng thật, tưởng có tưởng vi, tưởng có thật tánh. Nếu khởi các tưởng
đây, thì không có điều đó. Vì sao? Vì nếu tất cả pháp có chút tự tánh, có thành
có thật, có tướng có vi, có thật tánh để được thì sự tu hành Bát Nhã sâu xa
chẳng phải Bát nhã Ba la mật, chẳng đắc được tánh, tướng chơn thật của các
pháp.
Như vậy, Thiện Hiện! Khi các đại Bồ tát hành Bát Nhã sâu xa
chẳng chấp sắc uẩn, chẳng chấp thọ, tưởng, hành, thức uẩn, cho đến chẳng chấp
Nhất thiết trí trí. Đại Bồ tát này đối với tất cả pháp môn… như thế không chấp
trước, nên viên mãn được sơ địa cho đến thập địa của Bồ tát, nhưng ở trong ấy
chẳng sanh tham đắm. Vì sao? Vì đại Bồ tát này chẳng đắc sơ địa cho đến thập
địa viên mãn năng sở, thì làm sao đối trong mà khởi tham đắm!
Đại Bồ tát này mặc dù hành Bát nhã Ba la mật, song chẳng thủ
đắc Bát nhã Ba la mật. Do không thủ đắc Bát nhã Ba la mật, nên đối với tất cả
pháp cũng không thủ đắc. Đại Bồ tát này mặc dù quán Bát nhã Ba la mật, nhiếp
tất cả pháp, nhưng đối với các pháp đều không thủ đắc. Vì sao? Vì tất cả pháp
cùng với Bát nhã Ba la mật đây không hai không khác. Vì sao? Vì tánh tất cả pháp chẳng thể phân biệt.
Nói các pháp là chơn như, là pháp giới, là thật tế, vì nó không tạp, không sai
khác vậy.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu tự tánh của tất cả pháp không
tạp, không sai khác thì sao có thể nói đây thiện, đây phi thiện, đây hữu
lậu, đây vô lậu, đây thế gian, đây xuất thế gian, đây hữu vi, đây vô vi, vô
lượng các pháp… sai khác như thế?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Thật tánh các pháp có thể
nói đây thiện, đây phi thiện… chăng? Lại có thể nói đây là quả Dự lưu cho đến
có thể nói đây là Phật, Bồ đề chăng?
Thiện Hiện thưa:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng thể nói được!
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Do nhân duyên đây nên biết tánh ấy của các pháp không xen tạp, cũng không sai
khác, không tướng, không sanh, không diệt, không ngại, không nói, không chỉ ra
được. (Q. 530, ĐBN)
Thiện Hiện nên biết! Thuở xưa, khi Ta tu học đạo Bồ tát, đối
với các pháp tánh đều không thủ đắc. Nghĩa là chẳng đắc sắc, thọ, tưởng, hành,
thức. Chẳng đắc nhãn xứ cho đến ý xứ. Chẳng đắc sắc xứ cho đến pháp xứ. Chẳng
đắc nhãn giới cho đến ý giới. Chẳng đắc sắc giới cho đến pháp giới. Chẳng đắc
nhãn thức giới cho đến ý thức giới. Chẳng đắc nhãn xúc cho đến ý xúc. Chẳng đắc
các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh
ra. Chẳng đắc địa giới cho đến thức giới. Chẳng đắc nhân duyên cho đến tăng
thượng duyên. Chẳng đắc các pháp theo duyên sanh ra. Chẳng đắc vô minh cho đến
lão tử. Chẳng đắc Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới. Chẳng đắc pháp thiện, phi
thiện. Chẳng đắc pháp hữu lậu, vô lậu. Chẳng đắc pháp thế gian, xuất thế gian.
Chẳng đắc pháp hữu vi, vô vi. Nói rộng, cho đến chẳng đắc quả Dự lưu cho đến
Độc giác Bồ đề. Chẳng đắc Bồ tát hạnh. Chẳng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Như vậy, Thiện Hiện! Khi các đại Bồ tát hành Bát Nhã sâu xa,
từ sơ phát tâm cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, thường nên khéo học tự
tánh các pháp. Nếu khéo học được tự tánh các pháp thì khéo thanh tịnh được đạo
Bồ tát; cũng viên mãn được Bồ tát hạnh, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi
Phật. An trụ pháp này thì mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, dùng pháp Tam
thừa làm phương tiện, điều phục các loài hữu tình, khiến cho không còn luân hồi
trong ba cõi, được vào Niết bàn an vui rốt ráo.
Như vậy, Thiện Hiện! Các đại Bồ tát nên lấy vô tướng làm phương tiện, tu học Bát nhã Ba la mật để sớm
được viên mãn. Nếu tu Bát nhã Ba la mật mau được viên mãn, thì nhiếp thọ được
tất cả Phật pháp. Nhờ đây, nên chứng được Nhất thiết trí trí, làm lợi ích an
vui
cho chúng hữu
tình đến tận đời vị lai.
4. (Đoạn Kinh sau đây tương đương với phẩm “Nhiều Đức
Tướng”,
phần sau Q.468 đến phần đầu Q.471, Hội thứ II, ĐBN)
Bấy
giờ, Thiện Hiện lại thưa Phật:
-
Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp hoàn toàn như mộng, nói rộng cho đến như thành
Tầm hương, đều không thật, vô tánh là tánh, tự tướng đều không, thì làm
sao lập được đây là thiện, đây là phi thiện, đây là thế gian, đây là xuất thế
gian, đây là hữu lậu, đây là vô lậu, đây là hữu vi, đây là vô vi. Nói rộng, cho
đến đây là quả Dự lưu, đây là pháp năng chứng được quả Dự lưu. Như vậy, cho đến
đây là Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, đây là pháp năng chứng được Bồ đề của chư Phật?
Phật
bảo:
-
Thiện Hiện! Thế gian ngu phu dị sanh vô văn ở trong mộng dính mắc mộng, dính
mắc kẻ thấy mộng, nói rộng cho đến ở nơi thành Tầm hương dính mắc thành Tầm
hương, cũng dính mắc kẻ thấy. Ngu phu dị sanh vô văn đắc mộng… như thế rồi,
điên đảo chấp trước, hoặc thân ngữ ý hành tạo nghiệp bất thiện, hoặc thân ngữ ý
hành tạo nghiệp thiện, hoặc thân ngữ ý hành tạo nghiệp vô ký, hoặc thân ngữ ý
hành tạo nghiệp phi phước, hoặc thân ngữ ý hành lại tạo nghiệp phước, hoặc thân
ngữ ý hành tạo nghiệp bất động. Bởi các hành, nên qua lại sanh tử chịu khổ vô
cùng.
Các
đại Bồ tát hành Bát Nhã sâu xa, an trụ hai thứ Không mà quán sát các pháp, đó
là tất cánh Không (Không tối hậu, Không ‘rốt ráo’) và vô tế Không (Không không biên tế). Đại Bồ tát này an trụ trong hai Không như
thế, vì các hữu tình mà tuyên nói chánh pháp, bằng những lời như vầy: “Sắc cho đến thức là Không, vô sở hữu. Mười hai xứ cho đến mười tám giới là Không, vô sở hữu. Nhãn xúc cho
đến ý xúc là Không, vô sở hữu. Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các
thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là Không, vô sở hữu. Địa giới cho đến thức giới
là Không, vô sở hữu. Nhân duyên cho đến tăng thượng duyên là Không, vô sở hữu.
Các pháp theo duyên sanh ra là Không, vô sở hữu. Các pháp như vô minh cho đến
lão tử… là Không, vô sở hữu”.
Lại
nói như vầy: “Sắc, thọ, tưởng, hành, thức như mộng, cho đến như thành Tầm hương
đều không có tự tánh. Mười hai xứ, mười tám giới như mộng, cho đến như thành
Tầm hương đều không có tự tánh. Địa giới cho đến thức giới như mộng, cho đến
như thành Tầm hương đều không có tự tánh. Nhân duyên cho đến tăng thượng duyên
như mộng, cho đến như thành Tầm hương đều không có tự tánh. Các pháp theo duyên
sanh ra như mộng, cho đến như thành Tầm hương đều không có tự tánh. Các pháp
như vô minh cho đến lão tử… như mộng, cho đến như thành Tầm hương đều không có
tự tánh”.
Lại
nói như vầy: “Trong đây không có sắc, thọ, tưởng, hành, thức, không có 12 xứ,
không có 18 giới, không có địa giới cho đến thức giới, không có nhân duyên cho
đến tăng thượng duyên, không có các pháp theo duyên sanh ra, không có các pháp
vô minh cho đến lão tử…” (Q.530, ĐBN)
Lại
nói như vầy: “Trong đây không có mộng, không có kẻ thấy mộng. Nói rộng, cho đến
không có thành Tầm hương, không có kẻ thấy thành Tầm hương”. Lại nói như vầy:
“Các pháp như thế đều không thật có, vô tánh là tánh. Vì sức hư dối phân biệt
của các ngươi nên đối với sắc uẩn cho đến thức uẩn không thật có, lại
thấy có sắc uẩn cho đến thức uẩn. Đối với mười hai xứ cho đến mười tám giới không thật có, lại thấy có mười hai xứ cho đến mười tám giới. Đối với địa giới cho đến thức giới
không thật có, lại thấy có địa giới cho đến thức giới. Đối với nhân duyên cho
đến tăng thượng duyên không thật có, lại thấy có nhân duyên cho đến tăng thượng
duyên. Đối với các pháp theo duyên sanh ra không thật có, lại thấy có các pháp
theo duyên sanh ra. Đối với các pháp vô minh cho đến lão tử… không thật có, lại
thấy có các pháp vô minh cho đến lão tử…”. Lại nói như vầy: “Tánh của tất cả
pháp uẩn, xứ, giới… đều theo các duyên hòa hợp tạo nên. Kẻ điên đảo vọng khởi,
nhiếp thọ các nghiệp dị thục. Đối với pháp hư vọng đây không thật, vì duyên cớ
gì mà các ngươi khởi tưởng thật có?”
Bấy
giờ, Bồ tát hành Bát Nhã sâu xa, phương tiện khéo léo. Nếu thấy hữu tình xan
tham thì Bồ tát dùng phương tiện cứu vớt khiến cho lìa xa xan tham. Các hữu
tình đây lìa xan tham rồi, Bồ tát khuyên họ tu bố thí Ba la mật. Các hữu tình
này do bố thí nên được nhiều tài của, giàu sang tự tại. Lại từ chỗ này, phương
tiện cứu vớt khuyên tu tịnh giới Ba la mật. Các hữu tình đây do trì tịnh giới
nên được sanh cõi lành, giàu sang tự tại. Lại từ chỗ đây, phương tiện cứu vớt
khuyên tu tĩnh lự Ba la mật. Các hữu tình đây do tu tĩnh lự nên được sanh Phạm
thế, ở sơ tĩnh lự an trụ tự tại. Từ sơ tĩnh lự, phương tiện cứu vớt, lại khiến
cho an trụ tĩnh lự thứ hai. Phương tiện cứu vớt lần hồi như vậy, cho đến khiến
cho an trụ Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Các hữu tình này nhờ bố thí, trì giới,
thiền định nên được thắng báo, sanh nhiều nhiễm đắm.
Bấy
giờ, Bồ tát phương tiện khéo léo, cứu vớt họ ra khỏi chỗ hạ liệt ấy, rồi đặt
vào cõi Vô dư bát Niết bàn. Nghĩa là dùng phương tiện khéo léo thích hợp với
họ, khiến cho nương vào Tam thừa, siêng tu Thánh đạo; hoặc khiến cho an trụ bốn
niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo; hoặc khiến cho an trụ pháp môn giải thoát
không, vô tướng, vô nguyện; hoặc khiến cho an trụ tám giải thoát cho đến mười
biến xứ; hoặc khiến cho an trụ Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo; hoặc khiến cho an
trụ quán sát thuận nghịch mười hai duyên khởi; hoặc khiến cho an trụ sáu Ba la
mật; hoặc khiến cho an trụ nội Không cho đến vô tánh tự tánh Không; hoặc khiến
cho an trụ chơn như cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn; hoặc khiến cho an trụ
các bậc Bồ tát; hoặc khiến an trụ môn Đà la ni, môn Tam ma địa; hoặc khiến cho
an trụ năm loại mắt, sáu phép thần thông; hoặc khiến cho an trụ Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật
bất cộng; hoặc khiến cho an trụ đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả; hoặc khiến cho
an trụ pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; hoặc khiến cho an trụ Nhất thiết
trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí.
Đại
Bồ tát này hành Bát Nhã sâu xa, phương tiện khéo léo, thành tựu vô sắc, vô
kiến, vô đối, pháp vô lậu chơn chánh và an trụ trong ấy. Nếu hữu tình nào tương
ưng được quả Dự lưu, thì Bồ tát chỉ bày hướng dẫn, vui vẻ khuyến khích tán
thán, phương tiện cứu vớt cho được quả Dự lưu. Nói rộng, cho đến nếu hữu tình
nào tương ưng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, thì Bồ tát chỉ bày hướng dẫn,
vui vẻ khuyến khích tán thán, phương tiện cứu vớt cho được Vô Thượng Chánh Đẳng
Bồ đề.
Như
vậy, Thiện Hiện! Các đại Bồ tát hành Bát Nhã sâu xa, quán sát hai Không, mặc dù
biết các pháp như mộng cho đến như thành Tầm hương, đều chẳng thật có, vô tánh
là tánh, tự tướng đều Không, nhưng vẫn an lập thiện, phi thiện, hữu lậu, vô
lậu, thế gian, xuất thế gian, hữu vi, vô vi. Nói rộng, cho đến quả Dự lưu, pháp
năng chứng được quả Dự lưu. Như vậy, cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, pháp
năng chứng được Bồ đề của Phật, đều không tạp loạn. (Q.530, ĐBN)
Bấy
giờ, Thiện Hiện bèn thưa Phật:
-
Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ tát hành Bát Nhã sâu xa thật là hiếm có, quán sát rốt
ráo Không, vô tế Không, an trụ nơi hai không ấy. Tuy biết các pháp như mộng cho
đến như thành Tầm hương, đều chẳng thật có, vô tánh là tánh, tự tướng vốn
không, nhưng vẫn an lập vô lượng pháp môn như thiện, phi thiện…, chẳng tạp loạn
nhau.
Phật
bảo:
-
Thiện Hiện! Đúng vậy, đúng như ngươi đã nói. Các đại Bồ tát hành Bát Nhã
sâu xa thật là hiếm có. Tuy biết tánh các pháp đều rốt ráo Không, vô tế Không,
đều chẳng thật có, như mộng cho đến như thành Tầm hương, tự tướng vốn không, vô
tánh là tánh, nhưng vẫn an lập các pháp môn như thiện, phi thiện…, chẳng tạp
loạn nhau.
Như
các ngươi
biết, các đại Bồ tát hành Bát Nhã sâu xa có pháp hy hữu rất lạ, Thanh văn, Độc
giác đều chẳng thể thành tựu, chẳng thể so lường được. Đối với việc làm của các
đại Bồ tát, Độc giác và Thanh văn các ngươi còn chẳng thể báo đáp, huống nữa là
hữu tình khác có thể đền trả được sao!
Cụ
thọ Thiện Hiện thưa rằng:
-
Bạch đức Thế Tôn! Thế nào gọi là các đại Bồ tát hành Bát Nhã sâu xa có pháp hy
hữu rất lạ, mà Thanh văn, Độc giác đều chẳng thể thành tựu, chẳng thể so lường
được?
Phật
bảo:
-
Thiện Hiện! Lắng nghe lắng nghe, khéo suy nghĩ lấy, Ta sẽ vì ngươi phân biệt giải nói về các đại Bồ
tát hành Bát Nhã sâu xa có pháp hy hữu rất lạ, khiến cho tâm ông vui vẻ.
Thiện
Hiện nên biết! Khi các đại Bồ tát hành Bát Nhã sâu xa, trụ dị thục, sanh vô
lượng vô số công đức chơn tịnh: Sáu pháp đến bờ kia, năm thần thông vi diệu, ba
mươi bảy Bồ đề phần pháp và Đà la ni, vô ngại giải…. Bằng sức thần thông này,
đại Bồ tát du hành khắp mười phương. Nếu hữu tình nào cần được thu nhiếp làm
lợi ích bằng bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật, thì đại Bồ tát dùng bố thí cho
đến Bát nhã Ba la mật mà thu nhiếp làm lợi ích họ. Kẻ cần được thu nhiếp làm
lợi ích bằng sơ tĩnh lự cho đến tĩnh lự thứ tư, thì đại Bồ tát đem sơ tĩnh lự
cho đến tĩnh lự thứ tư mà thu nhiếp làm lợi ích họ. Với kẻ cần được thu nhiếp
làm lợi ích bằng từ vô lượng cho đến xả vô lượng, thì đại Bồ tát đem từ vô
lượng cho đến xả vô lượng mà thu nhiếp làm lợi ích họ. Với kẻ cần được thu
nhiếp làm lợi ích bằng định Không vô biên cho đến định Phi tưởng phi phi
tưởng xứ, thì đại Bồ tát đem định Không vô biên cho đến định Phi tưởng phi phi
tưởng xứ mà thu nhiếp làm lợi ích họ. Với kẻ cần được thu nhiếp làm lợi ích bằng
bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo, thì đại Bồ tát đem bốn niệm trụ cho đến
tám chi Thánh đạo mà thu nhiếp làm lợi ích họ. Với kẻ cần được thu nhiếp làm
lợi ích bằng không giải thoát môn cho đến vô nguyện giải thoát môn, thì đại Bồ
tát đem không giải thoát môn cho đến vô nguyện giải thoát môn mà thu nhiếp làm
lợi ích họ. Với kẻ cần được thu nhiếp làm lợi ích bằng các thiện pháp thù thắng
khác, thì đại Bồ tát đem các thiện pháp thù thắng khác mà thu nhiếp làm lợi ích
họ. (Q. 530, ĐBN)
Cụ
thọ Thiện Hiện lại thưa Phật:
-
Bạch Thế Tôn! Khi đại Bồ tát hành Bát Nhã sâu xa, trụ dị thục, sanh công đức
chơn tịnh: Sáu pháp đến bờ kia, năm thần thông…, dùng bố thí… thu nhiếp làm lợi
ích hữu tình như thế nào?
Phật
bảo:
-
Thiện Hiện! Khi các đại Bồ tát hành Bát Nhã sâu xa, thí cho các hữu tình những
vật cần dùng. Nghĩa là cần uống ăn thì thí cho uống ăn. Nếu cần xe cưỡi thì thí
cho xe cưỡi. Nếu cần áo mặc thì thí cho áo mặc. Nếu cần hương hoa thí cho hương
hoa. Nếu cần các thứ của cải khác thì đều thí cho không để thiếu thốn. Hoặc
cúng dường đủ loại phẩm vật cho Thanh văn, Độc giác, Bồ tát, chư Phật Thế Tôn.
Khi thí như thế, tâm của vị ấy bình đẳng, không tưởng sai khác mà hành bố thí.
Như thí cho người trì giới và người phạm giới cũng vậy. Như thí cho người và chẳng
phải người cũng vậy. Như thí cho nội đạo và ngoại đạo cũng vậy. Như thí cho các
vị Thánh và phàm phu cũng vậy. Như thí cho kẻ cao sang và người hèn hạ cũng
vậy. Trên từ chư Phật, dưới đến bàng sanh, bình
đẳng không có phân biệt, chẳng xem phước điền có hơn kém khác nhau. Vì sao?
Vì các đại Bồ tát đã thấu rõ tất cả pháp và các hữu tình, tự tướng đều không,
không khác nhau, nên không có tưởng khác mà hành bố thí.
Đại
Bồ tát này do không có tưởng khác mà hành bố thí, nên được quả không khác,
không sai biệt. Nghĩa là được viên mãn Nhất thiết trí trí và vô lượng vô biên
các Phật pháp khác. (Q.530, ĐBN)
Thiện
Hiện nên biết! Nếu đại Bồ tát thấy kẻ đi xin đến, mà nghĩ rằng: Kẻ đi xin đến
đây, nếu là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, vì là bậc phước điền, nên ta thí cho;
nếu chẳng phải là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, mà là bàng sanh…, chẳng phải bậc
phước điền, thì chẳng nên thí cho.
Nếu
đại Bồ tát nghĩ như thế, thì trái với pháp Bồ tát. Vì sao? Vì các đại Bồ tát phải tịnh tâm mình thì phước
điền mới tịnh. Cho nên, thấy các kẻ đi xin, chẳng nên nghĩ rằng: Hữu tình
như thế này đến cầu xin, ta nên thí cho. Hữu tình như thế kia đến cầu xin, ta
chẳng nên bố thí. Nếu khởi nghĩ như vậy, thì trái với gốc đã phát tâm đại Bồ
đề. Nghĩa là các Bồ tát vốn đã phát tâm Vô thượng Chánh đẳng giác: Ta vì hữu
tình mà làm chỗ nương dựa, cồn bãi, nhà cửa, cứu hộ. Thấy kẻ đi xin đến, nên
nghĩ như vầy: Nay hữu tình này nghèo cùng côi cút, ta phải dùng sự bố thí mà
thu nhiếp làm lợi ích họ. Người kia do duyên đây cũng có thể làm việc bố thí, ít
muốn, vui đủ, từ bỏ việc giết sanh mạng, nói rộng cho đến từ bỏ lời nói tạp uế,
cũng điều phục được tham, sân, tà kiến. Do nhân duyên đây, nên sau khi mạng
chung, sanh vào đại tộc Sát đế lợi, cho đến sanh vào đại tộc Cư sĩ, hoặc sanh
vào chỗ nào đó giàu sang, của báu dồi dào, tu các nghiệp lành. Hoặc do nhân
duyên thu nhiếp làm lợi ích của sự bố thí đây, nên lần lần nương vào Tam thừa
mà được giải thoát.
Lại
nữa, Thiện Hiện! Nếu các oán địch của các đại Bồ tát, hoặc các hữu tình đi đến
chỗ của Bồ tát, để làm tổn hại, hoặc vì thiếu thốn nên đến cầu xin, thì đại Bồ
tát này chẳng nên phát khởi dị tâm phân biệt: Đây nên thí cho, kia chẳng nên
thí cho, mà chỉ nên phát khởi tâm bình đẳng, tùy theo sự mong cầu của họ, như
xin các chi phần của thân, hoặc các của cải, nước thành, vợ con, thì đều nên
ban cho. Vì sao? Vì đại Bồ tát này vì lợi lạc rộng lớn cho các hữu tình, nên
cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, nếu mà phát khởi dị tâm phân biệt: Đây nên thí
cho, kia chẳng nên thí cho thì sẽ bị chư Phật, Độc giác, Thanh văn, Bồ tát,
trời, người, A tu la… các chúng Hiền Thánh đều đồng quở trách: “Ai mời thỉnh ngươi phát tâm Bồ đề, thề làm
lợi ích khắp cho các loài hữu tình, làm nơi nương tựa cho những kẻ không nơi
nương tựa, làm nhà cửa cho kẻ không nhà cửa, làm người cứu hộ cho kẻ không
người cứu hộ, làm bến bờ cho kẻ không có bến bờ, kẻ chẳng an vui khiến cho được
an vui, mà nay chọn lựa nên thí hay không thí!”
Lại
nữa, Thiện Hiện! Nếu có người chẳng phải người đến chỗ của đại Bồ tát nài nỉ
xin tay, chân… và các bộ phận thân thì đại Bồ tát này chẳng nên phát khởi hai
tâm phân biệt là thí hay chẳng thí, mà chỉ nghĩ rằng: Người kia cầu xin điều gì
đều phải thí cho. Vì sao? Vì đại Bồ tát này thường nghĩ rằng: Ta vì làm lợi ích
cho các hữu tình, nên thọ thân này. Các kẻ đến xin đều phải thí cho. Thấy kẻ đi
xin, đại Bồ tát liền nghĩ: Nay thân đây của ta, vốn vì người kia mà thọ. Người
kia chẳng đến lấy, ta còn phải đem đến cho, huống nữa là họ đến cầu xin mà
chẳng cho ư! Nghĩ vậy rồi, đại Bồ tát vô cùng vui mừng phấn khởi, tự cắt các bộ
phận mà trao cho họ. Lại tự mừng rằng: Nay ta được lợi lớn, đó là xả thân tạp
uế, được thân thuần tịnh. (Q.530, ĐBN)
Thiện
Hiện nên biết! Các đại Bồ tát hành Bát Nhã sâu xa cầu Bồ đề, nên học như thế.
Lại
nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát thấy các kẻ ăn xin, thì nên suy nghĩ: Nay ở
trong đây, ai thí, ai nhận, thí vật gì, bởi đâu, vì đâu, vì sao bố thí, tự tánh
các pháp đều bất khả đắc. Vì sao? Vì các pháp như thế đều rốt ráo Không. Chẳng
phải trong pháp Không mà có cho, có lấy, có thí, có nhận.
Thiện
Hiện nên biết! Khi các đại Bồ tát hành Bát Nhã sâu xa, nên học các pháp đều
Không như thế. Nghĩa là bởi nội Không nên Không, cho đến hoặc bởi vô tánh tự
tánh Không nên Không. Đại Bồ tát này an trụ Không đây mà hành bố thí thường
không gián đoạn, viên mãn bố thí Ba la mật. Do bố thí Ba la mật đây được viên
mãn, nên khi bị người cắt xẻo, cướp đoạt tất cả vật nội ngoại, tâm không phân
biệt giận hờn, chỉ nghĩ rằng: Hữu tình và tất cả pháp đều Không, ai cắt xẻo ta,
ai cướp đoạt ta, ai thọ nhận, ai ở trong đây hành pháp quán Không này?
Lại
nữa, Thiện Hiện! Bằng Phật nhãn, Ta quán hằng hà sa số thế giới chư Phật khắp
mười phương…, thấy có đại Bồ tát vì muốn nhiêu ích các loài hữu tình, nên
nguyện vào đại địa ngục, thấy các hữu tình chịu nhiều thứ khổ. Thấy vậy, đại Bồ
tát ấy phát khởi ba thứ chỉ đạo (thị đạo).
Những gì là ba? Một là thần biến, hai là ký thuyết, ba là giáo giới.
Đại
Bồ tát này trước tiên dùng oai lực thần
biến thị đạo, diệt trừ các thứ khổ nơi địa ngục: nước sôi, lửa dữ, dao
gươm… Kế đến, dùng oai lực ký thuyết thị
đạo, ghi nhận điều mà tâm hữu tình kia nghĩ để nói pháp. Sau cùng, dùng oai
lực giáo giới thị đạo, phát khởi đại
từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, vì họ mà nói pháp, khiến cho các loài hữu tình
ở địa ngục kia đối với Bồ tát, sanh lòng tịnh tín. Nhờ nhân duyên đây, từ địa
ngục ra, được sanh trên trời, hoặc sanh trong loài người, lần lần nương vào Tam
thừa mà được giải thoát.
Lại
nữa, Thiện Hiện! Bằng Phật nhãn, Ta quán hằng hà sa số thế giới chư Phật khắp
mười phương…, thấy có đại Bồ tát gần gũi cúng dường chư Phật Thế Tôn. Khi đại
Bồ tát này gần gũi cúng dường chư Phật Thế Tôn, thân tâm vui mừng ưa muốn cung
kính, chẳng phải chẳng vui mừng ưa muốn cung kính. Đại Bồ tát này ở chỗ Phật
Thế Tôn thuyết chánh pháp, cung kính lắng nghe, thọ trì đọc tụng, cho đến Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề trọn chẳng quên mất. Tùy theo pháp đã nghe, đại Bồ tát
này có khả năng vì hữu tình mà giải nói không trái, khiến cho họ được lợi ích
an vui thù thắng, cho đến khi được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, thường không
nhàm chán. (Q.530, ĐBN)
Lại
nữa, Thiện Hiện! Bằng Phật nhãn, Ta quán hằng hà sa số thế giới chư Phật khắp
mười phương…, thấy có đại Bồ tát vì muốn lợi ích các loài hữu tình trong cõi
bàng sanh, nên tự xả thân mạng. Thấy các bàng sanh bị lửa đói bức ngặt, muốn
tàn hại lẫn nhau, đại Bồ tát này khởi lòng thưong xót, tự cắt thân phần, chặt
các lóng đốt rải ném mười phương, mặc cho chúng nó ăn nuốt. Các loại bàng sanh
ăn thịt được thân Bồ tát đều hết lòng mến kính, xấu hổ đối với Bồ tát. Nhờ nhân
duyên đây, nên được thoát cõi bàng sanh, sanh lên trời, hoặc sanh trong loài
người, gặp được đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, nghe thuyết chánh pháp, tu
hành đúng lý, dần dần nương vào Tam thừa mà được giải thoát.
Như
vậy, Thiện Hiện! Các đại Bồ tát hay vì thế gian mà làm việc khó làm, nhiều lợi
ích. Nghĩa là vì lợi ích an vui cho các hữu tình, đại Bồ tát tự phát tâm Vô
thượng đại Bồ đề, cũng khiến người phát; tự hành các loại chánh hạnh đúng lý,
cũng khiến người hành, thoát khổ sanh tử, được vui Niết bàn.
Lại
nữa, Thiện Hiện! Bằng Phật nhãn, Ta quán hằng hà sa số thế giới chư Phật khắp
mười phương…, thấy có đại Bồ tát vì muốn lợi ích các loài hữu tình trong cõi
quỷ đói, nên nguyện đến cõi kia, phương tiện dứt trừ các khổ đói khát. Chúng
quỷ đói kia đã dứt các khổ, nên rất mến kính.
Lại
vì chúng quỷ, đại Bồ tát này tuyên nói pháp yếu lìa xa xan tham, khiến cho họ
nghe rồi, khởi tâm thí xả; nhờ căn lành đây, nên thoát khỏi cõi quỷ đói, được
sanh lên trời, hoặc sanh trong loài người, gặp được đức Như Lai, gần gũi cúng
dường, nghe thuyết chánh pháp, lần hồi tu hành chánh hạnh của Tam thừa, cho đến
được vào Vô dư Niết bàn.
Như
vậy, Thiện Hiện! Các đại Bồ tát đối với các loài hữu tình, an trụ đại bi, phát khởi vô biên phương tiện khéo léo, cứu vớt
khiến cho nhập vào Niết bàn Tam thừa.
Lại
nữa, Thiện Hiện! Bằng Phật nhãn, Ta quán hằng hà sa số thế giới chư Phật khắp
mười phương…, thấy có đại Bồ tát phương tiện khéo léo, hoặc vì trời Bốn đại
vương chúng, mà tuyên nói chánh pháp, cho đến hoặc vì trời Tha hóa tự tại mà
tuyên nói chánh pháp. Các chúng trời kia ở chỗ Bồ tát, nghe chánh pháp rồi lần
hồi nương vào Tam thừa, siêng tu chánh hạnh, tùy thích chứng nhập Niết bàn rốt
ráo.
Trong
chúng trời kia, có các Thiên tử say đắm năm dục lạc vi diệu trên trời và ở chỗ
cung điện quí báu. Đại Bồ tát này thị hiện nổi lửa đốt cung điện kia, làm cho
họ sanh tâm kinh sợ nhàm chán, nhân đó thuyết những lời pháp như vầy: “Này các
Thiên tử! Nên quán sát kỹ các hành vô thường, khổ, không, vô ngã, chẳng thể tin
được. Người có trí, ai lại đối với pháp đây, sanh tâm vui đắm?”
Khi
các Thiên tử nghe pháp âm như vậy rồi, đối với năm dục lạc, sanh tâm rất nhàm
chán. Tự quán thân mạng hư ngụy vô thường, giống như thân chuối, điện chớp,
sóng nắng; quán các cung điện giống như lao ngục. Sau khi quán chiếu như vậy
rồi, lần hồi nương vào Tam thừa, siêng tu chánh hạnh, hướng đến viên tịch.
Lại
nữa, Thiện Hiện! Bằng Phật nhãn, Ta quán hằng hà sa số thế giới chư Phật khắp
mười phương…, thấy có đại Bồ tát, các Phạm thiên chấp kiến thú, dùng phương
tiện hóa đạo khiến cho họ nhàm chán lìa bỏ, với những lời như vầy: “Này Thiên
tiên! Vì sao các ngươi ở trong nhóm các hành không, vô tướng, hư dối chẳng
thật, phát khởi các kiến thú ác như thế? Phải mau xả bỏ nó, tín thọ chánh pháp,
thì các ngươi sẽ được cam lồ vô thượng”.
Như
vậy, Thiện Hiện! Các đại Bồ tát an trụ đại bi, vì loài hữu tình mà tuyên nói
chánh pháp.
Này
Thiện Hiện! Đó là pháp hy hữu rất lạ mà các đại Bồ tát hành Bát Nhã sâu xa có
được.
Lại
nữa, Thiện Hiện! Bằng Phật nhãn thanh tịnh không chướng ngại, Ta quán hằng hà
sa số thế giới chư Phật khắp mười phương…, thấy có đại Bồ tát dùng bốn nhiếp sự
thu nhiếp các hữu tình. Những gì là bốn? Một là bố thí, hai là ái ngữ, ba là
lợi hành, bốn là đồng sự. (Q.530, ĐBN)
Này
Thiện Hiện! Đại Bồ tát đem việc bố thí
thu nhiếp các hữu tình như thế nào?
Đại
Bồ tát thu nhiếp các hữu tình bằng hai loại thí: một là tài thí, hai là pháp
thí.
Khi
đại Bồ tát hành Bát Nhã sâu xa, dùng tài
thí thu nhiếp các hữu tình như thế nào?
Đại
Bồ tát hành Bát Nhã sâu xa, hay đem các thứ đồ ăn thức uống, áo mặc, phòng nhà,
đồ nằm, xe cộ, đèn sáng, kỹ nhạc, hương hoa, kim ngân, trân bảo, những đồ trang
nghiêm… thí cho các hữu tình. Hoặc đem vợ con trai gái lớn nhỏ, tôi tớ hầu hạ,
voi, ngựa, trâu, dê và thuốc men… thí cho các hữu tình. Hoặc đem kho chứa,
thành ấp, xóm làng và ngôi vua.… thí cho các hữu tình. Hoặc đem tay, chân, đầu,
mắt, tủy, não… trên thân mình thí cho các hữu tình.
Đại
Bồ tát này đem các thứ vật ấy đặt nơi ngã tư đường, rồi bước lên đài cao xướng
lời như vầy: “Tất cả hữu tình, ai cần dùng chi mặc ý đến lấy, chớ có nghi ngờ.
Lấy những vật này như lấy đồ của mình, chớ tưởng của người khác! Cho đến tay,
chân, lóng, đốt, đầu, mắt, tủy, não của thân ta, các ngươi cứ tùy ý lấy. Đối
với các ngươi, ta không chút nuối tiếc!”
Đại
Bồ tát này thí cho các hữu tình những vật cần dùng rồi, lại khuyên họ qui y
Phật, Pháp, Tăng bảo; hoặc khuyên họ thọ trì năm giới cận sự; hoặc khuyên họ
thọ trì tám giới cận trụ; hoặc khuyên thọ trì mười thiện nghiệp đạo; hoặc
khuyên họ tu học bốn tĩnh lự; hoặc khuyên họ tu học bốn vô lượng; hoặc khuyên
họ tu học bốn định vô sắc; hoặc khuyên họ tu học sáu thứ tùy niệm; hoặc khuyên
họ tu học quán bất tịnh, niệm hơi thở; hoặc khuyên họ tu học mười loại thiện
tưởng; hoặc khuyên họ tu học ba mươi bảy pháp phần Bồ đề; hoặc khuyên họ tu học
ba môn giải thoát; hoặc khuyên họ tu học tám giải thoát cho đến mười biến xứ;
hoặc khuyên họ tu học sáu Ba la mật; hoặc khuyên họ an trụ nội không cho đến vô
tính tự tính không; hoặc khuyên họ an trụ chơn như cho đến cảnh giới bất tư
nghì; hoặc khuyên họ an trụ bốn Thánh đế; hoặc khuyên họ tu học Tịnh quán địa
cho đến Như Lai địa; hoặc khuyên họ tu học Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa;
hoặc khuyên họ tu học môn Đà la ni, môn Tam ma địa; hoặc khuyên họ tu học năm
loại mắt, sáu phép thần thông; hoặc khuyên họ tu học Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật
bất cộng; hoặc khuyên họ tu học đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả; hoặc khuyên họ
tu học ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của bậc Đại sĩ; hoặc khuyên họ tu
học pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; hoặc khuyên họ tu học Nhất thiết
trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí; hoặc khuyên họ tu học quả Dự lưu cho
đến Độc giác Bồ đề; hoặc khuyên họ tu học tất cả hạnh Bồ tát; hoặc khuyên họ tu
học Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật. (Q.530, ĐBN)
Như
vậy, Thiện Hiện! Các đại Bồ tát hành Bát Nhã sâu xa, phương tiện khéo léo đối
với các hữu tình, hành tài thí rồi, lại khéo an lập cho các loài hữu tình trụ
trong pháp yên ổn vô thượng, cho đến khiến được Nhất thiết trí trí.
Này
Thiện Hiện! Đó là pháp hy hữu rất lạ mà đại Bồ tát hành Bát Nhã sâu xa có được.
Lại
nữa, Thiện Hiện! Khi hành Bát Nhã sâu xa, đại Bồ tát dùng pháp thí thu nhiếp các hữu tình như thế nào?
Pháp
thí của đại Bồ tát có 2 loại: 1 là pháp thí thế gian, 2 là pháp thí xuất thế
gian.
(Pháp thí
thế gian)
Pháp thí thế gian của đại Bồ tát là gì? Đó là khi đại
Bồ tát hành Bát Nhã sâu xa, vì các hữu tình mà tuyên nói, chỉ bày phân biệt rõ
ràng diệu pháp thế gian. Đó là quán bất tịnh, hoặc niệm hơi thở, hoặc bốn tĩnh
lự, hoặc bốn vô lượng, hoặc bốn định vô sắc, hoặc lục thần thông, hoặc các pháp
thế gian và dị sanh khác. Đây gọi là pháp thí thế gian.
Đại
Bồ tát này hành diệu pháp thí thế gian rồi, dùng các thứ phương tiện hóa đạo
hữu tình, khiến cho an trụ Thánh pháp và quả Thánh pháp.
Thế
nào là Thánh pháp và Thánh quả?
Thiện
Hiện nên biết! Thánh pháp ấy tức là
ba mươi bảy Bồ đề phần pháp và định không, vô tướng, vô nguyện…. Nói quả Thánh
pháp ấy tức là quả Dự lưu, nói rộng cho đến Độc giác Bồ đề.
Lại
nữa, Thiện Hiện! Thánh pháp của các đại Bồ tát là trí quả Dự lưu cho đến trí
Độc giác Bồ đề, trí Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, hoặc trí ba mươi bảy Bồ đề phần
pháp, cho đến trí mười lực của Như Lai...; hoặc trí đại từ, đại bi, đại hỷ, đại
xả; hoặc vô lượng trí pháp khác của chư Phật; hoặc các trí pháp của thế gian,
xuất thế gian; hoặc các trí pháp hữu vi, vô vi. Hết thảy các tướng trí… như
thế, gọi là Thánh pháp.
Thánh quả ấy nghĩa là dứt hẳn tất cả các tập
khí phiền não tương tục, gọi là Thánh quả.
Lại
nữa, Thiện Hiện! Thánh pháp của các đại Bồ tát là sáu Ba la mật, nói rộng cho
đến các pháp vô lậu: Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí...
Thánh quả là pháp giới, chơn như, Niết bàn rốt ráo đã chứng đắc. Đó gọi là quả
Thánh pháp chơn chánh. (Q.530, ĐBN)
Bấy
giờ, Thiện Hiện bạch Phật:
-
Bạch Thế Tôn! Đại Bồ tát cũng có thể chứng được Nhất thiết tướng trí không?
Phật
dạy:
-
Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Các đại Bồ tát cũng có thể chứng được Nhất
thiết tướng trí.
Cụ
thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
-
Bạch Thế Tôn! Nếu các đại Bồ tát cũng có thể chứng được Nhất thiết tướng trí,
như vậy thì cùng với các Như Lai có khác nhau không?
Phật
dạy:
-
Này Thiện Hiện! Cũng có khác nhau.
Tướng
đó thế nào, nghĩa là các đại Bồ tát gọi là sẽ tùy đắc Nhất thiết tướng trí, còn
chư Như Lai gọi là đã hoàn toàn được Nhất thiết tướng trí. Vì sao? Vì chẳng
phải tâm của các đại Bồ tát cùng với định của chư Như Lai có khác nhau. Do
chúng đại Bồ tát cùng chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đồng trụ vào tánh sai
biệt của các pháp, đối với các pháp tướng cầu Chánh Biến Tri, nên gọi là Bồ
tát; nếu đạt đến cứu cánh thì gọi là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Đối với tất
cả pháp tự tướng, cộng tướng soi sáng, thanh tịnh hoàn toàn, khi trụ nhân vị(1)
gọi là Bồ tát, còn đạt đến quả vị gọi là Như Lai. Vì vậy, nên Bồ tát cùng chư
Như Lai tuy đồng gọi là chứng được Nhất thiết tướng trí mà có khác nhau.
Này
Thiện Hiện! Đây gọi là pháp thí thế gian
của các đại Bồ tát. (Q 531, ĐBN)
Các
đại Bồ tát nương vào pháp thí thế gian như thế để được tu hành pháp thí xuất
thế gian. Nghĩa là các đại Bồ tát khi hành Bát Nhã sâu xa, trước dùng phương
tiện thiện xảo, bố thí thiện pháp thế gian cho hữu tình, sau làm cho họ nhàm
chán xa lìa thiện pháp thế gian, an trụ vào Thánh pháp vô lậu xuất thế gian,
cho đến làm cho họ chứng được Nhất thiết trí trí.
Vì
sao gọi là Thánh pháp xuất thế gian?
Các đại Bồ tát vì các hữu tình mà giảng thuyết, khai thị, phân biệt rõ ràng,
nên gọi là pháp thí.
Thiện
Hiện nên biết! Các thiện pháp bất cộng của phàm phu, Bồ tát nào tu học đúng
đắn, làm cho các hữu tình ra khỏi thế
gian, được an ổn thì gọi là xuất thế gian. Nghĩa là ba mươi bảy Bồ đề phần
pháp, ba pháp môn giải thoát, tám pháp giải thoát, chính định thứ đệ, bốn trí
Thánh đế, trí Ba la mật, các Đẳng trí Không, mười bậc Bồ tát, ngũ nhãn, lục
thần thông, Như Lai mười lực, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt,
mười tám pháp Phật bất cộng, đại từ, đại bi, đại hỉ, đại xả, ba mươi hai tướng,
tám mươi vẻ đẹp, pháp môn Đà la ni, pháp môn Tam ma địa. Các thiện pháp vô lậu như thế, tất cả đều
gọi là Thánh pháp xuất thế gian. Đại Bồ tát nào vì các hữu tình mà giảng
thuyết, khai thị, phân biệt rõ ràng các pháp như thế thì gọi là pháp thí xuất thế gian của Bồ tát.
(Những gì
là pháp thí xuất thế gian?)
Này
Thiện Hiện! Thế nào là Ba mươi bảy Bồ đề
phần pháp? Nghĩa là bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn,
năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi Thánh đạo. Như vậy gọi là ba mươi bảy pháp
Bồ đề phần.
Này
Thiện Hiện! Thế nào là Bốn niệm trụ?
Nghĩa là đại Bồ tát ở trong thân hoặc ngoài thân, hoặc trong ngoài thân, quán sát
toàn thân trên thân, đầy đủ chánh cần, chánh tri, chánh niệm, đoạn trừ tham ưu
ở đời, quán sát các nhóm trong thân, quán sự đoạn diệt trong thân. Nhờ vị ấy
quán sát toàn thân, quán sát các nhóm trong thân, quán sự đoạn diệt trong thân,
không chỗ nương tựa, đối với các pháp thế gian không bị chấp thủ. Đây gọi là
pháp thứ nhất. Đối với thọ, tâm, pháp cũng vậy. Đây gọi là bốn niệm trụ.
Này
Thiện Hiện! Thế nào là Bốn chánh đoạn?
Nghĩa là đại Bồ tát đối với pháp ác bất thiện chưa phát sanh làm cho không sanh,
còn pháp ác bất thiện đã sanh rồi làm cho đoạn diệt. Đối với pháp thiện chưa
phát sanh làm cho sanh, còn pháp thiện đã sanh rồi làm cho bền chắc, chẳng lãng
quên, tu hành viên mãn, càng tăng trưởng thêm, mở mang trí tuệ, sanh tâm ưa
thích, siêng năng tinh tấn, giữ tâm vững bền. Đây gọi là bốn chánh đoạn.
Này
Thiện Hiện! Thế nào là Bốn thần túc?
Nghĩa là Dục Tam ma địa của đại Bồ tát được đoạn trừ, thành tựu sự tu tập về
thần túc; Cần Tam ma địa được đoạn trừ, thành tựu sự tu tập về thần túc; Tâm
Tam ma địa được đoạn trừ, thành tựu sự tu tập về thần túc; Quán Tam ma địa được
đoạn trừ, thành tựu sự tu tập về thần túc. Đây gọi là bốn thần túc.
Này
Thiện Hiện! Thế nào là Năm căn?
Nghĩa là đại Bồ tát thực hành tín căn, tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn…
Đây gọi là năm căn.
Này
Thiện Hiện! Thế nào là Năm lực?
Nghĩa là đại Bồ tát thực hành tín lực, tấn lực, niệm lực, định lực, tuệ lực…
Đây gọi là năm lực.
Này
Thiện Hiện! Thế nào là Bảy giác chi?
Nghĩa là đại Bồ tát quán niệm giác tri, trạch pháp giác chi, tinh tấn giác chi,
hỷ giác chi, khinh an giác chi, định giác chi, xả giác chi. Như vậy gọi là bảy
giác chi.
Này
Thiện Hiện! Thế nào là Tám chi Thánh đạo?
Nghĩa là đại Bồ tát quán chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp,
chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Như vậy gọi là tám chi
Thánh đạo.
Này
Thiện Hiện! Thế nào là Ba pháp môn giải
thoát? Nghĩa là đại Bồ tát quán pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô
nguyện. Như vậy gọi là ba pháp môn giải thoát. Thế nào là Pháp môn giải thoát
không? Nghĩa là đại Bồ tát đem hành tướng không phi ngã nhiếp tâm chánh niệm.
Đây gọi là pháp môn giải thoát không. Thế nào là Pháp môn giải thoát vô tướng?
Nghĩa là đại Bồ tát đem hành tướng tịch diệt chánh niệm. Đây gọi là pháp môn
giải thoát vô tướng. Thế nào là Pháp môn giải thoát vô nguyện? Nghĩa là đại Bồ
tát đem hành tướng khổ, vô thường, chánh niệm. Đây gọi là pháp môn giải thoát
vô nguyện.
Này
Thiện Hiện! Thế nào là Tám giải thoát?
Nghĩa là đại Bồ tát đối với có sắc mà quán có sắc, gọi là giải thoát thứ nhất.
Trong không tưởng sắc mà quán các sắc bên ngoài, gọi là giải thoát thứ hai.
Tịnh thắng giải, thân tác chứng, gọi là giải thoát thứ ba. An trụ hoàn toàn vào
định Không vô biên xứ gọi là giải thoát thứ tư. An trụ hoàn toàn vào định Thức
vô biên xứ gọi là giải thoát thứ năm. An trụ hoàn toàn vào định Vô sở hữu xứ
gọi là giải thoát thứ sáu. An trụ hoàn toàn vào định Phi tưởng phi phi tưởng xứ
gọi là giải thoát thứ bảy. An trụ hoàn toàn vào định Diệt tưởng thọ gọi là giải
thoát thứ tám. Đây gọi là tám giải thoát.
Này
Thiện Hiện! Thế nào là Chín thứ đệ định?
Nghĩa là đại Bồ tát xa lìa pháp dục ác bất thiện, có tầm, có tứ, ly sanh hỷ
lạc, nhập vào sơ thiền, an trụ hoàn toàn, gọi là định thứ đệ thứ nhất. Tuần tự
cho đến vượt tất cả Phi tưởng phi phi tưởng xứ, nhập vào định Diệt tưởng thọ,
an trụ hoàn toàn, gọi là định thứ đệ thứ chín. Đây gọi là chín thứ đệ định.
Này
Thiện Hiện! Thế nào là Bốn trí Thánh đế?
Nghĩa là đại Bồ tát quán trí khổ, trí tập, trí diệt, trí đạo. Đây gọi là bốn
trí Thánh đế.
Này
Thiện Hiện! Thế nào là Ba la mật? Là
bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã, phương tiện thiện xảo,
diệu nguyện, lực, trí Ba la mật của đại Bồ tát. Đó là Ba la mật.
Này
Thiện Hiện! Thế nào là Đẳng Trí Không? Nghĩa là đại Bồ tát quán trí
nội không cho đến trí vô tánh tự tánh không và trí chơn như cho đến trí cảnh
giới bất tư nghì. Như vậy gọi là các Đẳng trí Không.
Này
Thiện Hiện! Thế nào là Mười địa của Bồ
tát? Nghĩa là đại Bồ tát quán Cực hỉ địa cho đến Pháp vân địa. Như vậy gọi
là mười địa của Bồ tát.
Này
Thiện Hiện! Thế nào là Năm loại mắt?
Nghĩa là đại Bồ tát đạt được sự mong cầu nhục nhãn, thiên nhãn, tuệ nhãn, pháp
nhãn, Phật nhãn. Đây gọi là năm loại mắt.
Này
Thiện Hiện! Thế nào là Sáu phép thần
thông? Nghĩa là đại Bồ tát phải học những thần thông chứng: trí thần cảnh
thông, trí thiên nhĩ thông, trí tha tâm thông, trí túc trụ tùy niệm thông, trí
thiên nhãn thông, trí lậu tận thông. Đây gọi là sáu phép thần thông.
Này
Thiện Hiện! Thế nào là Như Lai mười lực? Một là chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng
Giác đối với thị xứ như thật biết thị xứ, đối với phi xứ như thật biết phi xứ.
Hai là chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đối với các nghiệp của các hữu tình ở
quá khứ, hiện tại, vị lai và các pháp chỗ nhận lấy ấy do nhân dị thục đều như
thật biết. Ba là chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đối với các thế giới chẳng
phải là một, mà có nhiều thế giới khác nhau đều như thật biết. Bốn là chư Như
Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đối với các hữu tình chẳng phải một mà có nhiều thắng
giải khác nhau đều như thật biết. Năm là chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đối
với các căn hơn kém của các hữu tình đều như thật biết. Sáu là chư Như Lai Ứng
Chánh Đẳng Giác đối với nghiệp hướng đến các cảnh giới của loài hữu tình đều
như thật biết. Bảy là chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đối với tất cả tịnh lự,
giải thoát, đẳng trì, đẳng chí, tạp nhiễm, thanh tịnh, với những sự thành lập
khác nhau về hữu tình đều như thật biết. Tám là chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác
đối với một đời, mười đời, trăm đời, ngàn đời, vô lượng đời, hoặc một kiếp,
mười kiếp, trăm kiếp, ngàn kiếp, vô lượng kiếp và vô lượng các túc nghiệp ở đời
quá khứ của loài hữu tình, có bao nhiêu các hành, các thuyết, các tướng đều như
thật biết. Chín là chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vận dụng thiên nhãn thanh
tịnh vượt hơn con người thấy các loài hữu tình với các việc thiện, ác khi sanh,
khi tử của chúng, nói rộng cho đến do thế lực của nghiệp sanh vào cõi thiện ác
của các loài hữu tình đều như thật biết. Mười là chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng
Giác đối với các pháp lậu tận, vô lậu tâm giải thoát, vô lậu tuệ giải thoát đều
như thật biết; đối với pháp tự lậu tận, chơn giải thoát, tự chứng thông tuệ
được an trụ hoàn toàn; nói rộng cho đến không thọ đời sau. Như vậy gọi là mười
lực của Như Lai.
Này
Thiện Hiện! Thế nào là Bốn điều không sợ?
Một
là chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác tự xưng Ta là bậc Chánh Đẳng Giác. Giả sử có
Sa môn, Bà la môn, Thiên, Ma phạm, các thế gian nào dựa vào giáo pháp để vấn
nạn, hoặc làm cho phải suy nghĩ rằng, Phật không phải là bậc Chánh đẳng giác.
Ta đối với sự vấn nạn kia thấy bằng chánh kiến, do thấy nạn ấy bằng chánh kiến,
nên Ta được an ổn trụ, không lo sợ. Tự nói rằng Ta ở ngôi vị Đại tiên tôn quí,
ở trong đại chúng rống tiếng rống Sư tử, chuyển pháp luân của Đại phạm thiên mà
tất cả Sa môn, Bà la môn, Thiên, Ma phạm, các thế gian hoàn toàn không thể
chuyển như vậy được.
Hai
là chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác tự xưng Ta đã đoạn hết các lậu. Giả sử có Sa
môn, Bà la môn, Thiên, Ma phạm, các thế gian nào dựa vào giáo pháp để vấn nạn,
hoặc làm cho phải suy nghĩ ở đây Phật chưa đoạn hết các lậu, Ta đối với sự vấn
nạn kia thấy bằng chánh kiến, do thấy nạn ấy bằng chánh kiến nên Ta được an ổn
trụ, không lo sợ. Tự nói Ta ở ngôi vị Đại tiên tôn quí, ở trong đại chúng rống
tiếng rống Sư tử, chuyển pháp luân của Đại phạm thiên mà tất cả Sa môn, Bà la
môn, Thiên, Ma phạm, các thế gian hoàn toàn không thể chuyển như vậy được.
Ba
là chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác tự xưng Ta vì các hàng đệ tử mà nói pháp
chướng đạo. Giả sử có Sa môn, Bà la môn, Thiên, Ma phạm, các thế gian nào dựa
vào giáo pháp để vấn nạn, hoặc làm cho phải suy nghĩ cho rằng giáo pháp này
không thể làm chướng đạo, Ta đối với sự vấn nạn kia thấy bằng chánh kiến, do
thấy nạn ấy bằng chánh kiến nên Ta được an ổn trụ, không lo sợ. Tự nói Ta ở
ngôi vị Đại tiên tôn quí, ở trong đại chúng rống tiếng rống Sư tử, chuyển pháp
luân vi diệu vô thượng mà tất cả Sa môn, Bà la môn, Thiên, Ma phạm, các thế
gian hoàn toàn không thể chuyển được.
Bốn
là chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác tự xưng Ta vì các hàng đệ tử mà nói đạo xuất
thế. Các bậc Thánh tu tập nhất định được xuất ly, nhất định thông suốt, đoạn
hết các khổ, không còn khổ nữa. Giả sử có Sa môn, Bà la môn, Thiên, Ma phạm,
các thế gian nào dựa vào giáo pháp để vấn nạn, hoặc làm cho phải suy nghĩ tu
theo đạo này chẳng được xuất ly, chẳng được thông suốt, chẳng đoạn hết khổ,
không còn khổ nữa. Ta đối với sự vấn nạn kia thấy bằng chánh kiến, do thấy nạn
ấy bằng chánh kiến nên Ta được an ổn trụ, không lo sợ. Tự nói Ta ở ngôi vị Đại
tiên tôn quí, ở trong đại chúng rống tiếng rống Sư tử, chuyển pháp luân của Đại
phạm thiên mà tất cả Sa môn, Bà la môn, Thiên, Ma phạm, các thế gian hoàn toàn
không thể chuyển như vậy được. Như vậy gọi là bốn điều không sợ. (Q.531, ĐBN)
Này
Thiện Hiện! Thế nào là Bốn sự hiểu biết
thông suốt? Nghĩa là hiểu nghĩa vô ngại, hiểu pháp vô ngại, hiểu ngôn từ vô
ngại, hiểu biện tài vô ngại. Như vậy gọi là bốn sự hiểu biết thông suốt. Thế
nào là hiểu nghĩa vô ngại? Là trí tuệ duyên với ý nghĩa vô ngại. Thế nào là
hiểu pháp vô ngại? Là trí tuệ duyên với pháp vô ngại. Thế nào là hiểu ngôn từ
vô ngại? Là trí tuệ duyên với lời nói vô ngại. Thế nào là hiểu biện tài vô
ngại? Là trí tuệ duyên với biện tài vô ngại.
Này
Thiện Hiện! Thế nào là Mười tám pháp
Phật bất cộng? Nghĩa là chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thường không nói
lời lầm lỗi, không nói lời gấp gáp, không quên chánh niệm, luôn định tâm, không
có các vọng tưởng, biết chọn bỏ, chí muốn không lui, tinh tấn không lui, nhớ
nghĩ không lui, trí tuệ không lui, giải thoát không lui, giải thoát tri kiến
không lui; tất cả thân nghiệp trí làm tiền đạo, theo trí chuyển đổi; tất cả ngữ
nghiệp trí làm tiền đạo, theo trí chuyển đổi; tất cả ý nghiệp trí làm tiền đạo,
theo trí chuyển đổi; hoặc trí hoặc kiến ở đời quá khư không dính mắc, không
ngăn ngại; hoặc trí hoặc kiến ở đời vị lai không dính mắc, không ngăn ngại;
hoặc trí hoặc kiến ở đời hiện tại không dính mắc, không ngăn ngại. Đây gọi là
mười tám pháp Phật bất cộng.
Này
Thiện Hiện! Thế nào là Ba mươi hai tướng
Đại sĩ?
.
Một là dưới chân của chư Phật có tướng bằng phẳng, đầy đặn, hoàn toàn đầy đủ
giống như đáy hộp. Tuy đất có chỗ cao thấp, nhưng tùy theo chân chư Phật đạp
đến đâu đều được bằng phẳng.
.
Hai là dưới chân của chư Phật có các vành bánh xe ngàn căm đều tròn đầy.
.
Ba là tay chân của chư Phật đều mềm mại như bông vải, không gì sánh bằng.
.
Bốn là các ngón tay và chân của chư Phật đều thon dài, tròn đẹp hơn người, tiêu
biểu cho sự trường thọ.
.
Năm là giữa kẻ mỗi ngón tay của chư Phật như chim nhạn chúa, đều có màn lưới,
lẫn lộn sắc vàng, giống như thêu vẽ.
.
Sáu là gót chân của chư Phật rộng dài tròn đầy, cùng với lòng chân cân đối, hơn
các hữu tình.
.
Bảy là lòng chân của chư Phật dài, cao đầy đặn, mềm mại, đẹp đẽ, cùng với gót
chân cân đối.
.
Tám là đôi vế của chư Phật thon dài, tròn như đùi Nai tiên chúa Y nê da.
.
Chín là hai cánh tay của chư Phật dài, thẳng, tròn đầy như vòi voi chúa, thẳng
dài rờ tới đầu gối.
.
Mười là âm tướng của chư Phật kín đáo không hiện, giống như long mã, cũng như
voi chúa.
.
Mười một là lỗ chân lông của chư Phật, mỗi lỗ là một sợi, mềm mại, xanh biếc
xoay quanh bên hữu.
.
Mười hai là tóc lông của chư Phật ngay đều, mọc thẳng, xoay quanh bên hữu, mềm
mại, xanh biếc sắc vàng nghiêm thân, rất đáng ưa thích.
.
Mười ba là da của chư Phật nhỏ mỏng, mịn trơn, bụi đất, nước đều không dính
được.
.
Mười bốn là da của chư Phật màu vàng kim lóng lánh trắng sạch như đài Diệu Kim,
các báu trang nghiêm, mọi người thấy đều ưa thích.
.
Mười lăm là hai tay và chân của chư Phật sau ót và hai vai, bảy chỗ đầy đặn
trắng sạch mềm mại, đáng ưa thích.
.
Mười sáu là vai, cổ của chư Phật đầy đặn, đặc biệt.
.
Mười bảy là hông, nách của chư Phật đầy đặn, chắc chắn.
.
Mười tám là dung nghi của chư Phật ngay thẳng, khôi ngô.
.
Mười chín là thân tướng của chư Phật cao rộng đoan nghiêm.
.
Hai mươi là thân tướng của chư Phật cao lớn, cân đối, tròn đầy như cây
Nặc-cù-đà.
.
Hai mươi mốt là cằm ngực và phần thân trên của chư Phật oai dung nở nang như Sư
tử chúa.
.
Hai mươi hai là ánh quang trên thân của chư Phật chiếu ra mỗi mặt một tầm.
.
Hai mươi ba là tướng răng của chư Phật, bốn mươi chiếc đều đầy đặn, bằng phẳng,
sạch khít, chân sau, trắng hơn ngọc tuyết kha.
.
Hai mươi bốn là răng cửa của chư Phật trắng đẹp nhọn bén.
.
Hai mươi lăm là trong vị (nước bọt)
của chư Phật thường thơm, vì mạch yết hầu thẳng, nên có thể đưa đến vị ngon từ
ngàn mạch trong thân thể.
.
Hai mươi sáu là tướng lưỡi của chư Phật mỏng sạch rộng dài, có thể che cả mặt
đến mé tóc bên tai.
.
Hai mươi bảy là phạm âm của chư Phật từ vận phát ra thanh nhã, tùy theo người
nghe nhiều hay ít đều nghe được. Tiếng vang rền như tiếng trống trời, nói ra
lời êm đẹp thanh tao như tiếng chim Tần già.
.
Hai mươi tám là lông mi của chư Phật giống như trâu chúa, xanh biếc bằng thẳng,
không xen tạp nhau.
.
Hai mươi chín là tròng mắt của chư Phật xanh biếc trong sáng, ở giữa có vòng màu
hồng, tròng trắng, đen, rõ ràng.
.
Ba mươi là diện mạo của chư Phật tròn đầy như trăng rằm, tướng mày như vòng
cung Thiên đế.
.
Ba mươi mốt là giữa chặn mày của chư Phật có tướng lông trắng mềm mại, xoay bên
hữu như bông vải, trắng sáng hơn ngọc tuyết kha.
.
Ba mươi hai là nhục kế trên đỉnh của chư Phật cao rõ ràng, tròn trịa như lộng
trời.
Đây
gọi là ba mươi hai tướng của chư Phật. (Q.531,
ĐBN)
Này
Thiện Hiện! Tám mươi vẻ đẹp là như
thế nào?
.
Một là móng tay của chư Phật thon dài, mỏng mướt, trắng sạch màu như hoa đồng
đỏ.
.
Hai là chân tay của chư Phật, các ngón đều tròn, thon, dài, ngay thẳng, mềm
mại.
.
Ba là tay chân của chư Phật ngay bằng, không so le, ở giữa đều đầy đủ.
.
Bốn là chân tay của Phật viên mãn như ý, mềm sạch sáng láng, màu như hoa sen.
.
Năm là mạch gân của chư Phật, chằng chịt, bền chắc, ẩn sâu, chẳng lộ.
.
Sáu là hai mắt cá chân của chư Phật đều ẩn, chẳng lộ.
.
Bảy là bước đi của chư Phật thẳng tới, thong thả như voi chúa.
.
Tám là bước đi của chư Phật oai nghi, ngay thẳng tề chỉnh như Sư tử chúa.
.
Chín là bước đi của chư Phật vững bằng, thong thả chẳng nhanh chẳng chậm, giống
như trâu chúa.
.
Mười là khi chư Phật đi hoặc đứng, oai nghi nhàn nhã, bước đi như chim nhạn
chúa.
.
Mười một là khi chư Phật ngó lui liền xoay bên hữu, cả thân chuyển theo, như
rồng, voi chúa.
.
Mười hai là lóng xương của chư Phật tròn thẳng, ngay theo thứ lớp, đẹp đẽ hoàn
toàn.
.
Mười ba là lóng xương của chư Phật liên kết không hở, giống như rồng cuộn.
.
Mười bốn là đầu gối của chư Phật ngay thẳng, đẹp đẽ, vững chắc tròn đầy.
.
Mười lăm là chỗ kín của chư Phật văn vẻ đẹp đẽ, oai thế đầy đủ, viên mãn thanh
tịnh.
.
Mười sáu là trên thân của chư Phật mướt trơn, sáng đẹp sạch sẽ, bụi đất không
dính.
.
Mười bảy là dung mạo của chư Phật uy nghiêm không sợ, không khiếp nhược.
.
Mười tám là thân của chư Phật bền chắc, dày kín, liên kết với nhau.
.
Mười chín là phần thân của chư Phật an định, dày nặng, thường không lay động,
viên mãn, không hư hoại.
.
Hai mươi là thân tướng của chư Phật vững như núi chúa, chung quanh đoan nghiêm,
sáng sạch không có bụi nhơ.
.
Hai mươi mốt là chung quanh thân của chư Phật có ánh sáng, khi bước đi thường
tự soi sáng.
.
Hai mươi hai là hình bụng của chư Phật vuông thẳng, không lõm, mềm mại chẳng
lộ, các tướng trang nghiêm.
.
Hai mươi ba là rốn của chư Phật sâu đẹp, xoay tròn bên hữu, trong sạch.
.
Hai mươi bốn là rốn của chư Phật dày chẳng lõm, chẳng lồi, chung quanh đẹp đẽ.
.
Hai mươi lăm là da của chư Phật không có ghẻ lở, cũng không có chấm đen, hay
các vết sẹo.
.
Hai mươi sáu là lông tay của chư Phật đầy đặn, mềm mại, dưới chân bằng phẳng.
.
Hai mươi bảy là chỉ tay của chư Phật sâu dày, rõ thẳng, mướt trơn, không đứt
đoạn.
.
Hai mươi tám là môi của chư Phật tươi sáng hồng hào như trái Tần bà, trên dưới
cân đối.
.
Hai mươi chín là gương mặt của chư Phật không dài, không ngắn, không lớn, không
nhỏ, rất cân xứng.
.
Ba mươi là tướng lưỡi của chư Phật mềm mỏng, rộng, dài, màu như đồng đỏ.
.
Ba mươi mốt là tiếng nói của chư Phật phát ra vang vọng sâu xa như voi chúa
rống, rõ ràng thanh thót.
.
Ba mươi hai là âm vận của chư Phật hay tốt hoàn toàn như tiếng vang nơi hang
sâu.
.
Ba mươi ba là mũi của chư Phật cao dài ngay thẳng, không hở trống.
.
Ba mươi bốn là những chiếc răng của chư Phật vuông vức, ngay thẳng, trắng đẹp.
.
Ba mươi lăm là những chiếc răng của chư Phật tròn, trắng, sáng, đều đặn, sắc
bén.
.
Ba mươi sáu là mắt của chư Phật trong sáng, phân minh, sáng suốt.
.
Ba mươi bảy là nhãn tướng của chư Phật rộng dài, giống như cánh hoa sen xanh,
rất đáng ưa thích.
.
Ba mươi tám là mí mắt của chư Phật trên dưới đều nhau, khép kín không hở.
.
Ba mươi chín là đôi mày của chư Phật dài thẳng không bạc trắng, nhỏ mềm mại.
.
Bốn mươi là đôi mày của chư Phật mướt trơn đều đặn, màu xanh lưu ly.
.
Bốn mươi mốt là đôi mày của chư Phật cao cong, sáng mướt, hình như trăng đầu
tháng.
.
Bốn mươi hai là tai của chư Phật dày, rộng lớn, dài, trái tai thòng xuống trọn
vẹn.
.
Bốn mươi ba là hai tai của chư Phật xinh đẹp, bằng phẳng, không có các lỗi.
.
Bốn mươi bốn là dung nghi của chư Phật làm cho mọi người trông thấy đều sanh
kính mến.
.
Bốn mươi lăm là trán của chư Phật rộng, viên mãn bằng thẳng, dáng tướng đẹp đặc
biệt.
.
Bốn mươi sáu là phần thân của chư Phật nửa trên đầy đặn như Sư tử chúa, oai
nghiêm truyệt đối.
.
Bốn mươi bảy là tóc của chư Phật dài mượt, xanh biếc, dày khít chẳng bạc.
.
Bốn mươi tám là tóc của chư Phật thơm sạch, nhỏ mịn, mướt láng, xoay quanh bên
hữu.
.
Bốn mươi chín là tóc của chư Phật bằng thẳng, không rối, cũng không dính chùm.
.
Năm mươi là tóc của chư Phật chắc chắn, không đứt, cũng không rơi rụng.
.
Năm mươi mốt là tóc của chư Phật sáng trơn đẹp lạ, bụi đất không dính.
.
Năm mươi hai là phần thân của chư Phật vững vàng, đầy chắc kiên cố hơn thân Na
la diên.
.
Năm mươi ba là thân thể của chư Phật cao lớn, ngay thẳng.
.
Năm mươi bốn là các lỗ trên thân của chư Phật trong sạch tròn đẹp.
.
Năm mươi lăm là phần thân của chư Phật có thế lực thù thắng, không ai sánh
bằng.
.
Năm mươi sáu là thân tướng của chư Phật được mọi người thích nhìn thường không
nhàm chán.
.
Năm mươi bảy là gương mặt của chư Phật dài rộng, vừa vặn, trong sáng như trăng
rằm mùa thu.
.
Năm mươi tám là dung mạo của chư Phật thư thái, trước khi nói hay mỉm cười, có
thuận không trái.
.
Năm mươi chín là diện mạo của chư Phật sáng láng, vui vẻ, tránh xa các lỗi nhăn
nhó, xanh đỏ.
.
Sáu mươi là thân của chư Phật trong sạch không nhơ uế, không hôi hám.
.
Sáu mươi mốt là lỗ chân lông của chư Phật thường bay mùi hương thơm như ý vi
diệu.
.
Sáu mươi hai là gương mặt của chư Phật thường thoảng hương thơm tối thượng thù
thắng.
.
Sáu mươi ba là tướng đầu của chư Phật tròn trịa, đẹp đẽ như quả Mạt đạt na, như
lọng trời.
.
Sáu mươi bốn là lông thân của chư Phật xanh ửng sáng sạch như cổ chim công, đỏ
hồng sắc giống đồng.
.
Sáu mươi lăm là pháp âm của chư Phật nói ra tùy chúng nhiều ít chẳng thêm chẳng
bớt hợp lý không sai.
.
Sáu mươi sáu là tướng đỉnh của chư Phật không ai thấy được.
.
Sáu mươi bảy là tay chân chư Phật màng lưới kẽ ngón rõ ràng trang nghiêm khéo
đẹp, sắc như đồng đỏ.
.
Sáu mươi tám là khi chư Phật bước đi, chân cách đất khoảng chừng bốn ngón, vẫn
hiện rõ dấu chân.
.
Sáu mươi chín là chư Phật đi lại vững vàng, thân không nghiêng động, cũng không
xiêu ngã.
.
Bảy mươi là uy đức của chư Phật vang dội rất xa, kẻ ác tâm thấy thì vui vẻ, kẻ sợ hãi thấy thì an lạc.
.
Bảy mươi mốt là âm thanh của chư Phật chẳng cao, chẳng thấp, tùy theo ý muốn
của chúng sanh mà thuyết pháp cho hòa hợp vui vẻ.
.
Bảy mươi hai là chư Phật tùy theo ý thích của hữu tình mà thuyết pháp cho thích
hợp.
.
Bảy mươi ba là chư Phật đều đồng một thứ tiếng diễn nói chánh pháp tùy theo các
loài hữu tình giúp họ được hiểu biết.
.
Bảy mươi bốn là chư Phật thuyết pháp đều theo thứ lớp, đều có nhân duyên, lời
nói hòa nhã.
.
Bảy mươi lăm là chư Phật xem các loài hữu tình đều bình đẳng, khen thiện, chê
ác, nhưng không thương ghét.
.
Bảy mươi sáu là chư Phật trước quán sát rồi sau mới làm, đầy đủ mô phạm làm cho
mọi người hiểu biết một cách thanh tịnh hoàn hảo.
.
Bảy mươi bảy là tướng tốt của chư Phật tất cả loài hữu tình không thể thấy hết.
.
Bảy mươi tám là xương đỉnh của chư Phật cứng chắc, tròn đầy.
.
Bảy mươi chín là dung nhan của chư Phật trẻ mãi không già, thường tươi đẹp.
.
Tám mươi là lòng bàn tay, chân và trước ngực của chư Phật đều có đức tướng cát
tường, xoáy tròn quanh giống như thêu vẻ, màu hồng đỏ.
Đây
là tám mươi vẻ đẹp của chư Phật. (Q.531,
ĐBN)
Này
Thiện Hiện! Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đầy đủ các tướng tốt như vậy, nên thân
chói sáng chiếu khắp Tam thiên đại thiên thế giới, bao trùm tất cả, khi Ta vừa
khởi tâm liền soi chiếu khắp vô lượng, vô biên thế giới, do vì thương xót các
hữu tình, nên phóng ánh sáng chiếu soi mỗi phương một tầm. Nếu khi thân Ta
chiếu sáng thì che lấp các ánh sáng của mặt trời, mặt trăng, các loài hữu tình
không thể biết được ngày đêm, tháng năm, ngày giờ để làm việc, nên làm việc gì
cũng không thành tựu. Tiếng tăm chư Phật vang khắp Tam thiên đại thiên thế
giới. Nếu khi có tác ý liền vọng đến vô lượng, vô biên, vô số thế giới, nhưng
vì sự lợi ích cho các hữu tình nên âm thanh tùy theo số lượng của chúng sanh
không thêm, không bớt.
Này
Thiện Hiện! Công đức thù thắng như thế, khi Ta còn ở địa vị Bồ tát hành sâu Bát
nhã Ba la mật, việc làm thành tựu nên nay tướng hảo viên mãn, trang nghiêm, tất
cả hữu tình thấy đều vui mừng, đều được các sự lợi ích rộng lớn.
Như
vậy, này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát khi hành sâu Bát nhã Ba la mật, đem tứ nhiếp pháp
nhiếp hộ hữu tình:
Này
Thiện Hiện! Các Bồ tát dùng Bố thí,
độ chúng hữu tình như thế nào? Nghĩ là Bồ tát dùng hai thứ bố thí là tài sản và
pháp thí để bố thí, giáo hóa các hữu tình. Đây là pháp hy hữu đặc biệt.
Này
Thiện Hiện! Các đại Bồ tát dùng ái ngữ,
độ các hữu tình là như thế nào? Nghĩa là đại Bồ tát khi hành Bát Nhã sâu xa,
dùng tiếng dịu dàng vì các hữu tình trước nói bố thí Ba la mật, kế đến nói về
tịnh giới Ba la mật. Như vậy cho đến cuối cùng là nói Bát nhã Ba la mật để làm
phương tiện giáo hóa. Các đại Bồ tát dùng âm thanh dịu dàng nói về sáu pháp Ba
la mật để giáo hóa các hữu tình. Vì sao? Vì sáu pháp Ba la mật này có thể bao
trùm tất cả các pháp lành.
Này
Thiện Hiện! Đại Bồ tát dùng lợi hành
độ các hữu tình là như thế nào? Nghĩa là đại Bồ tát khi hành Bát Nhã sâu xa,
luôn luôn dùng mọi phương tiện khuyên bảo các hữu tình siêng năng tu hành bố
thí cho đến Bát nhã Ba la mật và các pháp lành vi diệu khác, thường không nhàm
chán.
Này
Thiện Hiện! Đại Bồ tát dùng đồng sự
độ các hữu tình là như thế nào? Nghĩa là đại Bồ tát khi hành Bát Nhã sâu xa đem
thần thông thù thắng và sức đại nguyện hiện ở trong địa ngục, bàng sanh, ngạ
quỉ, cõi trời, người cùng làm việc với họ để làm phương tiện giáo hóa cho họ
được lợi ích.
Thiện
Hiện nên biết! Các đại Bồ tát nên dùng bốn nhiếp pháp như vậy, làm phương tiện
thiện xảo, giáo hóa các hữu tình làm cho họ được lợi ích an vui thù thắng. Đây
là các pháp hi hữu đặc biệt.
Lại
nữa, này Thiện Hiện! Ta đem Phật nhãn xem hằng hà sa số thế giới khắp mười
phương có đại Bồ tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, đem giới pháp truyền trao cho
các đại Bồ tát và nói như vầy: “Thiện nam tử đến đây! Ông phải siêng năng tu
học để phát sanh môn văn tự Đà la ni,
nghĩa là siêng học một chữ, hai chữ cho đến bốn mươi hai chữ để sử dụng một
cách thông thạo. Lại siêng học tất cả ngữ ngôn đều tóm thâu vào một chữ, hai
chữ cho đến bốn mươi hai chữ để sử dụng một cách thông thạo. Lại nên khéo học
một chữ năng nhiếp bốn mươi hai chữ, bốn mươi hai chữ năng nhiếp một chữ, dẫn
phát tự tại".
Lại
nữa, này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát đều phải siêng học bốn mươi hai chữ thâu
vào một chữ, một chữ cũng bao trùm cả bốn mươi hai chữ. Học như thế rồi, đối
với các môn văn tự đều được thiện xảo, đối với các môn văn tự đều được thiện
xảo rồi, lại ở nơi vô văn tự sử dụng một cách thiện xảo, như chư Như Lai Ứng
Chánh Đẳng Giác ở nơi pháp thiện xảo, ở nơi văn tự thiện xảo, vì ở pháp nơi văn
tự thiện xảo, nên ở nơi vô văn tự có được thiện xảo. Do thiện xảo nên vì loài
hữu tình, vì pháp có văn tự nên thuyết pháp vô văn tự; vì pháp vô văn tự nên
thuyết pháp có văn tự. Vì sao? Vì lìa
văn tự, không có văn tự thì không có Phật pháp nhưng vượt khỏi các văn tự mới
gọi là chơn Phật pháp. Vì sao? Vì tất cả pháp, tất cả hữu tình đều rốt ráo
Không, vô tế Không.
Bấy
giờ, Thiện Hiện bạch Phật:
-
Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp và các hữu tình đều hoàn toàn Không, vô tế Không,
nên vượt các văn tự ấy, tất cả pháp và các hữu tình tự tánh hoàn toàn đều bất
khả đắc thì chúng đại Bồ tát làm sao tu hành Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật?
Hoặc tu hành bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc? Hoặc tu hành ba mươi
bảy Bồ đề phần pháp? Hoặc tu hành pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô
nguyện? Hoặc an trụ pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không? Hoặc an
trụ chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì? Hoặc an trụ Thánh đế khổ, tập,
diệt, đạo? Hoặc tu hành tám giải thoát cho đến mười biến xứ? Hoặc tu hành Cực
hỷ địa cho đến Pháp vân địa? Hoặc tu hành pháp môn Đà la ni, pháp môn Tam ma địa?
Hoặc tu hành năm loại mắt, sáu phép thần thông? Hoặc tu hành Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật
bất cộng? Hoặc tu hành đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả? Hoặc tu hành pháp không
quên mất, tánh luôn luôn xả? Hoặc tu hành Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất
thiết tướng trí? Hoặc tu hành ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp? Đại Bồ tát
làm sao ngay trong đời này hành sáu pháp đạt đến bờ giác và các thần thông, vì
các hữu tình giảng thuyết chánh pháp?
Lại
nữa, Bạch Thế Tôn! Tất cả hữu tình cũng bất khả đắc, thi thiết hữu tình cũng
bất khả đắc. Vì tất cả hữu tình bất khả đắc, nên sắc cho đến thức cũng bất khả
đắc. Mười hai xứ cho đến mười tám giới cũng bất khả đắc. Địa giới cho đến thức
giới cũng bất khả đắc. Nhân duyên cho đến tăng thượng duyên cũng bất khả đắc.
Các pháp theo duyên sanh ra cũng bất khả đắc. Vô minh cho đến lão tử cũng bất
khả đắc. Sáu Ba la mật-đa cho đến tám mươi tùy hảo cũng bất khả đắc.
Như
vậy, Bạch Thế Tôn! Trong bất khả đắc không có các hữu tình và thi thiết, cũng
không có các sắc thọ tưởng hành thức và thi thiết kia. Cho đến cũng không có
tám mươi tùy hảo và thi thiết kia. Tất cả pháp hữu tình và thi thiết đã bất khả
đắc, đều vô sở hữu, đại Bồ tát làm sao khi hành sâu Bát nhã Ba la mật vì các
hữu tình tuyên nói các pháp? Hầu như không có chúng đại Bồ tát tự an trụ pháp
bất chánh, vì các hữu tình nói pháp bất chánh, khuyên các hữu tình trụ pháp bất
chánh, đem pháp điên đảo an lập hữu tình. Vì sao? Các đại Bồ tát khi hành sâu Bát
nhã Ba la mật hãy chẳng đắc Bồ đề huống đắc phần pháp Bồ đề. Hãy chẳng đắc Bồ
tát huống đắc pháp Bồ tát. Đã vậy làm sao tu đạo Bồ đề vì các hữu tình tuyên
nói chánh pháp? (Q.531, ĐBN)
Phật
dạy:
-
Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như lời ngươi nói! Tất cả hữu tình và sự thi
thiết hữu tình, cũng như tất cả pháp và thi thiết kia đều bất khả đắc. Vì bất
khả đắc nên đều vô sở hữu, vì vô sở hữu nên biết pháp nội không không cho đến
pháp vô tánh tự tánh không, Không. Nên biết chơn như Không cho đến cảnh giới
bất tư nghì cũng Không. Nên biết Thánh đế khổ Không cho đến Thánh đế đạo cũng
Không. Nên biết sắc uẩn Không cho đến thức uẩn cũng Không. Nên biết mười hai xứ Không cho đến mười tám giới cũng Không. Nên biết địa giới Không
cho đến thức giới cũng Không. Nên biết nhân duyên Không cho đến tăng thượng
duyên cũng Không. Nên biết các pháp theo duyên sanh ra đều là Không. Nên biết
vô minh Không cho đến lão tử cũng Không. Nên biết ngã Không cho đến người thấy
cũng Không. Nên biết bố thí Không cho đến Bát nhã Ba la mật cũng Không. Nói
rộng ra, nên biết tất cả pháp Phật từ bốn tịnh lự Không cho đến quả vị Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề cũng Không. Nên biết nghiêm tịnh cõi Phật Không, thành
thục hữu tình cũng Không.
Như
vậy, này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát khi hành sâu Bát nhã Ba la mật, thấy tất cả
pháp đều Không, rồi mới vì các hữu tình mà giảng thuyết các pháp làm cho xa lìa
sự điên đảo. Mặc dù vì hữu tình mà giảng thuyết các pháp nhưng đối với hữu tình
và tất cả pháp đều vô sở đắc, đối với các tướng Không chẳng thêm chẳng bớt,
không lấy không bỏ. Do nhân duyên này tuy nói các pháp nhưng không có chỗ để
nói. (Q.531, ĐBN)
Thiện
Hiện nên biết! Đại Bồ tát này đối với tất cả pháp, khi quán như thế chứng được trí vô chướng. Do chứng được trí này,
nên chẳng làm hư hoại các pháp không hai, không phân biệt, vì các hữu tình mà
như thật giảng thuyết làm cho họ lìa vọng tưởng điên đảo chấp trước, tùy sự tu
hành đạt tới quả Tam thừa. Như có Như Lai hóa làm một vị Phật. Vị Phật này có
thể hóa làm vô lượng trăm ức hữu tình. Khi vị hóa Phật kia có thể dạy cho chúng
hữu tình đã hóa ra ấy hoặc làm cho họ tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh
tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật, nói rộng cho đến làm cho tu hành đạt đến Nhất
thiết tướng trí, hoặc làm cho chứng đắc quả Dự lưu cho đến Độc giác Bồ đề, hoặc
làm cho đầy đủ tất cả Bồ tát hạnh, hoặc làm cho chứng được quả vị Vô Thượng
Chánh Đẳng Bồ đề. Ý ngươi thế nào? Khi ấy hoá Phật và chúng hóa ra vả đối các pháp có
chỗ phân biệt, có phá hoại chăng?
Thiện
Hiện bạch Phật:
-
Bạch Thế Tôn! Chẳng có! Các sở biến hoá đối tất cả pháp không phân biệt vậy.
Phật
dạy:
-
Này Thiện Hiện! Do nhân duyên này nên biết chúng đại Bồ tát cũng lại như vậy,
hành sâu Bát nhã Ba la mật vì các hữu tình nên như thật giảng thuyết chánh
pháp, mặc dù chẳng phân biệt phá hoại pháp tướng mà năng như thật an lập hữu
tình, khiến kia an trụ chỗ bậc nên trụ, tuy đối với hữu tình và tất cả pháp đều
vô sở đắc, nhưng làm cho hữu tình giải thoát vọng tưởng điên đảo chấp trước, vì
không trói không mở làm phương tiện. Vì sao? Vì sắc cho đến thức bản tánh không
trói không mở, nếu bản tánh của pháp không trói không mở thì pháp ấy chẳng phải
sắc cho đến chẳng phải thức. Vì sao? Vì sắc cho đến thức đều hoàn toàn thanh
tịnh; nói rộng cho đến các pháp hữu vi và pháp vô vi bản tánh không trói không
mở. Nếu bản tánh của pháp không trói
không mở thì pháp ấy chẳng hữu vi chẳng vô vi. Vì sao? Vì hữu vi cho đến vô vi
đều hoàn toàn thanh tịnh.
Như
vậy, này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát khi hành sâu Bát nhã Ba la mật, đem vô sở
trụ để làm phương tiện trụ trong tất cả pháp vô sở đắc. Nghĩa là đem vô sở đắc
mà làm phương tiện trụ sắc uẩn Không, đem vô sở đắc mà làm phương tiện trụ vào
thọ, tưởng, hành, thức uẩn Không; nói rộng cho đến đem vô sở đắc mà làm phương
tiện trụ pháp hữu vi Không, đem vô sở đắc mà làm phương tiện trụ pháp vô vi
Không.
Thiện
Hiện nên biết! Sắc uẩn vô sở trụ, thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng vô sở trụ.
Sắc uẩn Không vô sở trụ, thọ, tưởng, hành, thức uẩn Không cũng vô sở trụ. Tuần
tự cho đến pháp hữu vi vô sở trụ; pháp vô vi cũng vô sở trụ. Pháp hữu vi Không
vô sở trụ; pháp vô vi Không cũng vô sở trụ. Vì sao? Vì các pháp như thế và các
pháp Không đều vô tự tánh, đều bất khả đắc, chẳng phải pháp vô tự tánh bất khả
đắc mà có sở trụ.
Thiện Hiện nên biết! Chẳng phải pháp
vô tánh trụ pháp vô tánh; chẳng phải pháp hữu tánh trụ pháp hữu tánh; chẳng
phải pháp vô tánh trụ pháp hữu tánh; chẳng phải pháp hữu tánh trụ pháp vô tánh;
chẳng phải pháp tự tánh trụ pháp tự tánh; chẳng phải pháp tha tánh trụ pháp tha
tánh; chẳng phải pháp tự tánh trụ pháp tha tánh; chẳng phải pháp tha tánh trụ
pháp tự tánh. Vì sao? Vì tất cả pháp đều bất khả đắc, pháp bất khả đắc làm sao
trụ?
Như
vậy, này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát khi hành sâu Bát nhã Ba la mật, dùng các
Không này tu tập các pháp, cũng có thể như thật giảng thuyết khai thị cho hữu
tình.
Thiện
Hiện nên biết! Nếu đại Bồ tát có thể hành sâu Bát nhã Ba la mật như thế thì đối
với chư Phật, Bồ tát, Độc giác, Thanh văn các chúng hiền Thánh đều không sanh
tội lỗi. Vì sao? Vì chư Phật, Bồ tát, Độc giác, Thanh văn đối với pháp tánh này
đều đã giác ngộ, đã giác ngộ rồi vì các hữu tình mà giảng thuyết một cách như
thật. Mặc dù vì hữu tình giảng thuyết các pháp nhưng đối với pháp tánh thì
không chuyển, không vượt. Vì sao? Vì
thật tánh của các pháp tức là pháp giới, chơn như, thật tế… Pháp giới, chơn như, thật tế… đều chẳng thể
chuyển cũng chẳng thể vượt. Vì sao? Vì pháp giới, chơn như, thật tế… như thế
đều không có tự tánh, cũng không thể nắm bắt, vì chẳng phải không thể nắm bắt
mà có chuyển vượt.
Cụ
thọ Thiện Hiện bạch Phật:
-
Bạch Thế Tôn! Nếu chơn pháp giới, chơn như, thật tế… không chuyển không vượt
như vậy thì sắc uẩn cho đến pháp hữu vi, vô vi cùng với pháp giới, chơn như,
thật tế… có khác nhau không?
Phật
dạy:
-
Không khác nhau. Sắc uẩn cho đến pháp hữu vi, vô vi không khác pháp giới, chơn
như, thật tế.
Cụ
thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
-
Bạch Thế Tôn! Nếu sắc uẩn cho đến pháp hữu vi, vô vi không khác pháp giới, chơn
như, thật tế thì tại sao Thế Tôn lập ra hắc nghiệp cảm, hắc dị thục, nghĩa là
địa ngục, bàng sanh, cõi quỷ; lập ra bạch nghiệp cảm, bạch dị thục, nghĩa là
nhơn thiên; lập ra hắc bạch nghiệp cảm, hắc bạch dị thục, nghĩa là một phần
bàng sanh, cõi quỷ và một phần nhơn; lập ra chẳng phải hắc nghiệp, chẳng phải
bạch nghiệp cảm, chẳng phải hắc chẳng phải bạch dị thục, nghĩa là quả Dự lưu
cho đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề?
Phật
bảo Thiện Hiện:
-
Ta nương vào thế tục mà lập ra nhân quả khác nhau như thế, không nương vào
thắng nghĩa, nếu nương vào thắng nghĩa đế thì không thể nói có nhân quả khác
nhau. Vì sao? Trong thắng nghĩa đế, các pháp tánh tướng không thể phân biệt,
không thể nói, không thể chỉ bày thì làm sao có nhân quả khác nhau.
Thiện
Hiện nên biết! Trong thắng nghĩa đế, sắc uẩn cho đến pháp hữu vi, vô vi không
sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh. Bởi vì pháp rốt ráo Không, vô tế
Không.
Bấy
giờ, cụ thọ Thiện Hiện bèn thưa Phật rằng:
-
Bạch Thế Tôn! Nếu nương thế tục thi thiết nhân quả phần vị sai khác, chẳng
nương thắng nghĩa, thời lẽ tất cả ngu phu dị sanh cũng có quả Dư lưu, Nhất lai,
Bất hoàn, A la hán, Độc giác, Bồ tát và Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề?
Phật
dạy:
-
Này Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Kẻ phàm phu có hiểu được lý của hai đế: Thế tục và thắng
nghĩa không? Nếu hiểu lý của hai đế ấy một cách đúng đắn thì người ấy cũng có
thể đạt được quả Dự lưu, Nhất lai v.v… nhưng tất cả kẻ phàm phu vì không hiểu
biết được lý của hai đế: Thế tục và thắng nghĩa một cách đúng đắn nên không thể
đạt được Thánh đạo và tu Thánh đạo, không thể lập ra Thánh quả khác nhau, chỉ
có hàng Thánh giả mới có thể hiểu thế tục và thắng nghĩa một cách đúng đắn nên
mới đạt được Thánh đạo và tu Thánh đạo. Vì vậy, lập ra Thánh quả khác nhau. (Q.532, ĐBN)
Cụ
thọ Thiện Hiện bạch Phật:
-
Bạch Thế Tôn! Người tu Thánh đạo, có chắc chắn đạt được Thánh đạo không?
Phật
dạy:
-
Không đạt được!
Cụ
thọ Thiện Hiện bạch Phật:
-
Bạch Thế Tôn! Người không tu Thánh đạo có đạt được Thánh đạo không?
Phật
dạy:
-
Không đạt được!
Cụ
thọ Thiện Hiện bạch Phật:
-
Bạch Thế Tôn! Như vậy không có ai đạt được Thánh quả sao?
Phật
dạy:
-
Thiện Hiện! Tuy là nương thế tục có đắc Thánh quả mà chẳng phải thắng nghĩa.
Nếu nương thắng nghĩa chẳng tu Thánh đạo năng đắc Thánh quả, cũng chẳng phải
chẳng tu Thánh đạo năng đắc Thánh quả, chẳng lìa Thánh đạo năng đắc Thánh quả,
cũng chẳng trụ trong Thánh đạo năng đắc Thánh quả. Vì sao? Vì y theo lý thắng
nghĩa đạo vào quả đạo, tu cùng chẳng tu đều bất khả đắc. Như vậy, Thiện Hiện!
Các đại Bồ tát khi hành Bát nhã Ba la mật sâu xa, mặc dù vì hữu tình thi
thiết các thứ Thánh quả sai khác, mà chẳng phân biệt Thánh quả như thế ở
trong giới hữu vi giới vô vi. (Q.532,
ĐBN)
Cụ
thọ Thiện Hiện bạch Phật:
-
Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ tát ở trong cảnh giới hữu vi, vô vi ấy không thể phân
biệt các Thánh quả, thì tại sao Thế Tôn thuyết đoạn trừ ba kiết sử đạt được quả
Dự lưu; gọt bớt dục, tham và sân đạt quả Nhất lai; đoạn tận năm hạ phần kiết
đạt quả Bất hoàn; đoạn tận năm thượng phần kiết đạt quả A la hán; biết rõ các
pháp chứng được đều là pháp diệt, thì đạt được Độc giác Bồ đề; đoạn trừ vĩnh
viễn tập khí phiền não tương tục sở tri, thì đạt được quả vị Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề?
Bạch
Thế Tôn! Con phải làm thế nào để biết được nghĩa thú sâu xa của Thế Tôn đã nói,
tức là ở trong cảnh giới hữu vi, vô vi không phân biệt quả Dự lưu, Nhất lai
v.v…
Phật
bảo Thiện Hiện:
-
Ý ngươi nghĩ sao?
Ta nói quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề, quả vị Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, Thánh quả như thế là hữu vi hay vô vi?
Thiện
Hiện bạch Phật:
-
Bạch Thế Tôn! Thánh quả như thế đều là vô vi, chẳng phải hữu vi.
Phật
bảo Thiện Hiện:
-
Ý ngươi nghĩ sao?
Trong giới hữu vi có phân biệt không?
Thiện
Hiện bạch Phật:
-
Bạch Thế Tôn! Không có.
Phật
bảo Thiện Hiện:
-
Ý ngươi nghĩ sao?
Các thiện nam, thiện nữ nào thông suốt tất
cả pháp hữu vi, vô vi đều đồng một tướng, chỗ gọi vô tướng, thì ngay lúc ấy
các thiện nam, thiện nữ này đối với các pháp có sự phân biệt đây là hữu vi hoặc
vô vi không?
Thiện
Hiện bạch Phật:
-
Bạch Thế Tôn! Không có.
Phật
bảo Thiện Hiện:
-
Các đại Bồ tát cũng lại như vậy, khi hành sâu Bát nhã Ba la mật, tuy vì hữu
tình mà giảng thuyết các pháp nhưng
không phân biệt pháp tướng đã nói, là pháp nội không cho đến pháp vô tánh
tự tánh không. Đại Bồ tát này tự mình đối với các pháp không chấp trước, cũng có thể dạy người khác đối với các pháp không
chấp trước.
Nghĩa
là đối với pháp bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật không chấp trước. Cũng đối với
bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc không chấp trước. Cũng đối với bốn
niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo mà đạt không chấp trước. Cũng đối với pháp
nội không cho đến pháp vô tánh tự tánh không không chấp trước. Đối với chơn như
cho đến cảnh giới bất tư nghì không chấp trước. Nói rộng ra, tất cả pháp Phật
từ Tứ Thánh
đế cho đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật không chấp trước.
Cũng đối với Nhất thiết trí trí không bị chấp trước.
Đại
Bồ tát này tự mình đối với các pháp đã nói như thế, tự mình không chấp trước,
cũng dạy người khác đối với các pháp như thế không chấp trước. Đại Bồ tát này
đối với các pháp ấy vì không chấp trước nên đối với tất cả chỗ đều được vô
ngại. Như người được Thế Tôn biến hóa ra, tuy hành bố thí cho đến Bát nhã Ba la
mật, nhưng đối với quả vị kia không chấp, không đắm, chỉ vì hữu tình đạt được
Niết bàn.
Như
vậy, cho đến tuy hành Nhất thiết trí trí, nhưng đối với quả vị kia không chấp,
không đắm, chỉ vì hữu tình đạt được Niết bàn. Các đại Bồ tát cũng lại như vậy,
hành Bát nhã Ba la mật đối với tất cả pháp hữu lậu, vô lậu, hoặc thế gian, xuất
thế gian, hoặc hữu vi, vô vi, không chấp, không đắm, vô trụ, vô ngại. Vì sao?
Vì đại Bồ tát này đạt được tất cả pháp tướng vi diệu. (Q.532, ĐBN)
Thích
nghĩa cho đoạn 4. này:
(1). Nhân
vị: (因位) Đối lại: Quả vị. Đồng nghĩa: Nhân địa. Giai vị tu nhân Phật, tức là
những giai vị tu hành, khi chưa chứng được quả Phật, cho nên gọi là Nhân vị.
(xt. Nhân Địa).- Từ điển Phật Quang.
Sơ giải:
Đây là một phẩm dài nhưng giáo lý
lại trùng hợp với nhau, nên cũng dễ “tiêu hóa”. Phẩm “Phương Tiện Thiện Xảo”
chúng ta vừa tụng trên nói về lục Ba la mật nhiếp dẫn nhau: Tu bố thí Ba la mật
thì nhiếp thọ tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật; tu tịnh
giới thì nhiếp thọ an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã và bố thí Ba la mật; tu
an nhẫn thì nhiếp thọ tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã v.v… Tất cả sáu pháp Ba la mật,
pháp này hỗ trợ với pháp kia cùng dìu dắt nhau để cùng dẫn chúng sanh đến bờ bỉ
ngạn bên kia.
Đến phẩm “Diệu Tướng” của Hội thứ
III này, chúng tôi chia làm bốn đoạn:
- Đoạn 1: Tương đương với phẩm “Lần
Hồi”,
- Đoạn 2: Tương đương với phẩm “Vô
Tướng”;
- Đoạn 3: Tương đương với phẩm
“Không Tạp”; và
- Đoạn 4: Tương đương với phẩm
“Nhiều Đức Tướng”.
Ba đoạn đầu lại tiếp tục thuyết về
lục Ba la mật như phẩm “Phương Tiện Thiện Xảo” đã nói trên. Không những thế hầu
như ở bất cứ Hội nào nhất là từ Hội thứ XI đến Hội thứ XVI đều nói về sáu pháp Ba
la mật này. Vì sao? Vì không có sáu Ba la mật thì không có Giác ngộ, không có
Chánh giác, không có Nhất thiết trí trí, không có Vô Thượng Chánh đẳng Chánh
Giác, không có Bồ tát, không có pháp thế gian, xuất thế gian. Không có những
thứ ấy thì không có Phật đạo, không có ba thừa… Như vậy, mới biết lục Ba la mật
là trọng tâm, là cốt tủy của Đại Bát Nhã Ba la mật cũng là cốt tủy của đạo
Phật.
Chỉ có riêng đoạn 4 của phẩm này mới
nói về các pháp mầu Phật đạo. Tất cả các giáo pháp này chúng ta thấy xuất hiện
khắp Đại Bát Nhã Ba la mật mà phần thứ I Tổng luận đã giải thích rồi, nên ở đây
không trùng tuyên nữa. Vậy, chúng ta có thể bước qua phẩm kế tiếp.
---o0o---