TỔNG LUẬN TOÀN BỘ.
Mười 13 điểm nói trên chỉ là đại
cương những gì mà chúng tôi thấy biết từ Đại Bát Nhã Ba La Mật. Chắc chắn ở một
trình độ cao minh hơn sẽ cho Quý vị một cái nhìn rộng lớn sáng sủa hơn. Ở đây,
phần lớn chúng tôi cố gắng khám phá các biểu thị cũng như pháp nghĩa hiển hiện
của Bát nhã Ba la mật. Tuy nhiên, 13 điểm nói trên không thể gói ghém hết tất
cả các giáo nghĩa của toàn thể Đại tùng thư này. Vì vậy, mới có phần “nói
thêm”. Nhưng đây cũng chỉ là phần ôn lại, giải thích thêm, không có gì mới mẻ:
1- Đại Bát Nhã Ba La Mật được xem như là một Đại tùng thư bao
gồm tất cả pháp Phật từ Nhân thừa, Thiên thừa, Thanh văn thừa, Bồ tát thừa cho
đến nhất Phật thừa, gọi chung là tất cả
pháp mầu Phật đạo, các thiện pháp, các pháp hi hữu, tư lương Bồ đề Bồ tát,
Bồ tát đạo hay còn gọi là 81 khoa danh
tướng Bát Nhã. Đó là: “Năm uẩn, sáu căn, sáu trần, sáu thức, sáu xúc, sáu
duyên sở sinh, bốn duyên, sáu đại, mười hai nhân duyên, sáu độ (lục độ Ba la mật),
ngã giả, sinh giả, thọ giả, mệnh giả, hữu tình giả, dưỡng dục giả, chúng số
giả, tác giả, sử tác giả, khởi giả, sử khởi giả, thọ giả, sử thọ giả, kiến giả,
tri giả, 18 pháp không, Tứ đế, chân như, pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng
tánh, bất biến dịch tánh, bình đẳng tánh, ly sinh tánh, pháp định, pháp trụ,
thật tế, hư không giới, bất tư nghị giới, bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định
vô sắc, tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, bốn niệm xứ, bốn chính cần, bốn thần túc, năm căn, năm lực,
thất giác chi, Bát chánh đạo, không giải thoát môn, vô tướng giải thoát môn, vô
nguyện giải thoát môn, Bồ tát thập địa, năm nhãn, sáu thông, mười lực, bốn vô
úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỉ, đại xả, mười tám pháp bất cộng,
pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả, Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết
chủng trí, Đà la ni môn, Tam ma địa môn, Dự lưu quả, Nhất lai quả, Bất hoàn
quả, A la hán quả, Độc giác Bồ đề, Bồ tát hạnh, quả vị Giác ngộ tối cao”.
Tất cả các pháp môn Phật học này còn
gọi là các pháp thực tu thực chứng,
nên phẩm “Khéo Học”, quyển 333 , Hội thứ I, Phật bảo: “Này
Thiện Hiện! Nên biết, 37 pháp trợ đạo, 18 pháp bất cộng, tứ vô sở úy, đại từ,
đại bi v.v…đối với các chúng đại Bồ tát là thầy, là hướng đạo, là ánh sáng, là
đuốc, là đèn, là hiểu, là biết, là trí, là tuệ, là cứu, là hộ, là thất, là nhà,
là bờ, là bến, là về, là đến, là cha, là mẹ. Nói tóm lại, tất cả Phật pháp đối với các đại Bồ tát là thầy, là hướng đạo... là
đến, là cha, là mẹ”.
Không có Bộ kinh nào trong kinh điển
Phật học liệt kê đầy đủ các pháp môn Phật học như Kinh Đại Bát Nhã, nên Kinh
này mới được gọi là mẹ của chư Phật, sanh ra chư Phật, sanh ra các pháp thế
gian và xuất thế gian. Nhưng trọng tâm của Kinh này không phải là nói riêng về
các pháp mầu Phật đạo mà nói về trí Bát Nhã như Kinh Pháp Hoa nói về tri kiến
Phật. Nên Phẩm “Chuyển Sanh”, quyển 07, Hội thứ I, ĐBN. Nói: “Nếu hỏi thẳng: Pháp nào có thể gồm thâu tất cả thiện pháp,
thì nên đáp ngay rằng: Đó là Bát nhã Ba la mật sâu xa”.
Đó cũng là trọng điểm cần lưu ý độc
giả. Nên bất cứ pháp hội nào Phật cũng khuyên học Bát nhã Ba la mật nếu muốn
Giác ngộ, đạt Chánh giác hay Nhất thiết trí trí. Không có Bát Nhã không có Bồ
tát, không có Phật, không có tất cả pháp thế gian hay xuất thế gian. Vì vậy,
Bác Nhã mới được xem là nguyên tắc chỉ đạo của Tánh Không xuất sanh các biện
tài vô ngại và các công đức không thể nghĩ bàn.
2- Theo Phật sử, trong nhiều đời kiếp, Phật cũng tu pháp môn
này, nên thừa hiểu Bát nhã Ba la mật là gì và cũng thừa hiểu tánh cách hữu ích
của nó đối với vấn đề nhân sinh trên cả hai phương diện vật chất lẫn tinh thần
ra sao? Đó là lý do tại sao Phật phải trải qua ba A tăng kỳ kiếp gian khổ tầm
cầu, tu học để cuối cùng được giác ngộ. Nhưng ngộ không phải là độc quyền của
Phật, mà ngộ là phần thưởng của Phật dành cho tất cả chúng sanh kể từ khi Phật
giác ngộ.
Vì vậy, khi ngộ rồi Phật thấy rằng chúng
sanh đang lặn ngụp trong bể sanh tử, để cứu rỗi chúng sanh Phật thuyết Đại Bát
Nhã Ba La Mật, cái gọi là dạy bảo trao truyền Bát nhã Ba la mật hay nói khác là
Phật trao truyền đuốc tuệ này cho thế hệ mai sau.
Nhưng Bát nhã Ba la mật như chúng ta
đã biết, không phải là pháp dễ học, dễ tu, dễ chứng. Những gì Phật hiểu và
chứng khác hẳn những gì chúng sanh hiểu và sống. Phật hiểu và chứng cái gọi là
đệ nhất nghĩa đế (Thánh đế), chúng
sanh hiểu và sống là theo công ước và các tập tục thế gian (Tục đế). Cả hai thế giới này nghịch
chiều, đối chọi lẫn nhau. Nên đôi khi chúng ta đọc ĐBN tưởng chừng như Kinh tự
mâu thuẫn. Phật thấu suốt cả hai thế giới này. Nhưng Phật không trụ mà vượt qua
và vượt trên cả hai, nên mới có thể chỉ cho chúng sanh thấy những thuận nghịch
của chúng. Phật vượt qua và vượt trên cả hai thế giới vô sinh - vô diệt, vô
nhiễm - vô tịnh, vô tướng - vô vi… trên mọi đối tác trần gian là do thâm nhập do được Bát Nhã. Nên Bát Nhã
mới được suy tôn và qui hướng hơn bao giờ hết.
3- Tại sao Phật làm được như vậy? Vì Phật biết rõ thế giới của
chúng sanh là thế giới của phiền não. Phiền não bao giờ, ở đâu cũng đưa đến mất
mát, đổ vỡ làm chướng ngại đạo Bồ đề. Đoạn phiền não thì tâm thể sẽ rỗng không, sẽ được như như, bình đẳng, thanh tịnh. Đó là cái cần nói cần nhấn mạnh
trong việc tu hành. Khi tâm thể thấy rỗng không, như như, bình đẳng thì được
thanh tịnh, cái gọi là tịch lặng an nhiên, mục đích rốt ráo của việc tu hành để
phát sanh trí tuệ. Vì vậy, những từ không, như như, bình đẳng, thanh tịnh này
mới được xem như là các đại luân tự, các pháp ấn của Như Lai. Vì chúng là thân
ấn, ngữ ấn, tâm ấn và trí ấn của chư Như Lai. Đó chính là giải thoát, là Niết
bàn, là sát na hiện tại vĩnh hằng của cảnh giới này, không có cảnh giới nào
khác. Đây cũng là lần lưu ý thứ hai. Những từ không, như như, bình đẳng hay
thanh tịnh này biến thành pháp mầu của tất cả chúng sanh trong việc thọ trì Bát
nhã Ba la mật. Ai đạt được pháp ấn này thì không cần cõng Phật đi tìm Phật,
không cần hành cước vạn dặm, không cần Thầy Tổ ấn tâm.
4- Thế giới của chúng sanh là thế giới của chia chẻ phân hóa,
thế giới so đo, phân biệt đối trị... Nó là biểu tượng do thức vọng gây ra. Từ
đó, sanh ra đủ thứ sai lầm, từ xung đột (conflit),
mâu thuẫn (contradiction) cho đến
điên đảo, thiên chấp. Có lẽ chúng tôi không đủ già dặn để nói hết những thứ
phức tạp này. Đứng về phương diện chiết tự thì xung đột và mâu thuẫn ý nghĩa
gần như nhau. Kinh nghiệm cho biết rằng xung đột có nghĩa quyết liệt, mạnh bạo
hơn nếu nó đi liền với bạo hành. Bởi vì, bạo hành lúc nào ở đâu cũng gây tang
tóc, đau thương.
Còn mâu thuẫn thì sao? Làm sao sống
mà không có mâu thuẫn. Mâu thuẫn là điều tất yếu xảy ra không nhiều thì ít
trong cuộc sống luôn luôn va chạm, nứt rạn này. Nhưng mâu thuẫn không đến nỗi
tệ. Mâu thuẫn giữa cái xấu và cái tốt, giữa cái cũ và mới, giữa cái trì trệ lạc
hậu với phát triển đổi mới. Đó là điều dĩ nhiên. Nhưng nó lại là một thứ cách
mạng, một thứ đổi thể, lột xác cần thiết trong sự thăng tiến đối với bất cứ xã
hội, bất cứ thời đại nào. Riêng, thiên chấp thì quá tệ, nó là nguồn gốc của đổ
vỡ, mất mát trong thế giới nhị nguyên đối đãi, thế giới của hữu hay vô, của tốt
xấu, uế tịnh, v.v...
Tất cả đời sống của chúng ta bắt
nguồn từ những nhận thức rối rắm này. Nó là gốc rễ của những thực tại đau
thương. Ngày nào còn bị lôi cuốn trong hấp lực của nó thì ngày ấy chúng sanh
không thể thoát khỏi những bạo hành của nó. Phải vượt qua và vượt trên thế phân
hai mới thấy được thật tướng các pháp, mới đạt được Thánh đạo. Biết như vậy,
nên trên con đường thức tỉnh giác quan nội tại để đạt chánh giác, phải vượt qua
và vượt trên thế đảo nghịch của cuộc đời thường, nhận thức mới được nâng lên
một tầng cao hơn gọi là huệ, huệ đến từ bờ kia.
5- Bát Nhã là không, không
trụ ở cao thấp, phải trái, chân tục, Thánh phàm, có không v.v... Bát Nhã
không trụ bất cứ chỗ nào. Bát Nhã chỉ muốn chỉ rõ cho chúng sanh thấy vạn hữu
là đa thù như thế nào để chúng sanh tự chọn lấy lối sống, cách sống cho phù hợp
với sinh hoạt tâm linh. Bát Nhã quá nhiều lần phát biểu không có bờ này, không
có bờ kia, cũng không có giữa. Có giữa cũng gọi là có biên, có biên là có
nghiêng chấp thì tâm không còn tự do trong tư tưởng hay hành động. Trụ vô sở
trụ là chỗ trụ của Bát Nhã. Đó là điểm cần yếu cần nhấn mạnh thứ ba mà Bát Nhã
luôn luôn lưu ý hành giả Bát Nhã trong việc luyện tâm, luyện trí. Có trụ là có
nương chấp, có mong cầu dù là mong cầu pháp tối cao mang lại nhiều công đức
nhất.
6- Tất cả pháp là không
(nhất thiết pháp không), đó là chỗ “tự hội” của Phật, cái tự hội này đã gây
nhiều phản ứng không những đối với những người ngoài đạo Phật mà cả trong đạo
Phật nữa. Chúng tôi không biết dùng từ gì để diễn tả cái tự hội này. Nhưng Kinh
nói “các pháp tự không chứ không phải là không có mà gọi là không”. Đừng xem
cái Không này như một thứ hư vô hóa toàn triệt. Các pháp hiện hữu giữa lòng
chân tánh của vạn hữu, ai cũng thấy cũng xúc chạm được nhưng tại sao lại bảo là
không? Dĩ nhiên, không ai có thể chấp nhận điều này một cách dễ dàng dù lời nói
này phát ra từ kim khẩu của Phật. Để giải thích, phẩm “Bồ Tát Pháp Dũng”, quyển
399, Hội thứ I, ĐBN. Phật lấy thí dụ:
“Thí
như cây đàn không hầu nương vào các loại nhân
duyên hòa hợp mà có tiếng sanh, nhân duyên của tiếng ấy là cái cần, cái
ống, khe hở, cái trục, sợi dây v.v... tác ý của nhạc công. Như vậy, từng yếu tố
một chẳng có thể sanh tiếng, khi hòa hợp tất cả yếu tố lại, tiếng nó mới phát;
tiếng ấy phát sanh không từ đâu đến, khi diệt không đi về đâu”.
Ở đây Phật giải thích tất cả pháp là
do nhân duyên hòa hợp (còn gọi là duyên khởi(1) hay duyên sanh) giống như cây
đàn không hầu không riêng cái cần, cái ống, cái trục, sợi dây hay tác ý của
nhạc công... mà có tiếng. Tất cả các thứ ấy hợp lại mới có tiếng phát ra. Cũng
vậy, tất cả các pháp không tự sanh, phải có các yếu tố chính cùng các yếu tố
phụ hợp lại mới sanh. Như cây lúa là do hạt lúa (nhân chính=tự) nhờ có đất
nước, hơi ấm mặt trời, phân bón, sự chăn sóc (nhân phụ=tha)... mới tạo thành
cây lúa. Tất cả các yếu tố hợp lại (tự và tha) mới có cây lúa. Nên nói lúa có
được là do nhân duyên hòa hợp mà có, nếu không có nhân duyên hòa hợp là không,
còn gọi là Tánh không hay Bản tánh không. Mọi vật đều như vậy, mọi hiện hữu đều
như vậy.
Để giải thích thêm cái Không này,
Ngài Long Thọ bảo tất cả pháp hiện hữu không ở ngoài nhân duyên, cũng không ở
trong nhân duyên riêng có, nên bảo tất cả đều không có tự tánh. Vì không có tự
tánh nên bảo là Không. Đó là những biểu thị của “Duyên khởi” qua cái nhìn của
Trung quán để giải thích tại sao Bát Nhã bảo tất cả pháp đều không, một giáo lý
làm đảo nghịch trào lưu tư tưởng vô tiền khoáng hậu này.
Vì vậy, TT Thích Tâm Thiện trong
phần trình bày thiên khảo luận về “Lịch Sử Tư Tưởng và Triết Học Tánh không”,
phát biểu:
“Chúng
ta biết rằng, Duyên khởi (Paticcasamuppàda) là giáo lý vô cùng quan trọng, có
một không hai trong lịch sử tôn giáo và triết Đông-Tây. Đây cũng là giáo lý
thống nhất được ghi lại trong hệ thống Kinh tạng Nam truyền và Bắc truyền. Như
Phật nói: Ngài và các Đức Phật thời quá khứ đều chứng đắc giác ngộ từ giáo lý
Duyên khởi. Từ đó, cho thấy tính cách quan trọng của giáo lý này. Ở đây, nếu
muốn hiểu một phần nào đó về TÁNH KHÔNG, thì trước hết phải nghiên cứu về Duyên
khởi, vì nó là con đường "độc nhất
vô nhị" dẫn đến tri nhận thực tại Tánh Không. Duyên khởi và Tánh Không
là hai mặt của một thực tại, dầu nó được giải minh trên bất kỳ bình diện nào,
công ước hay tuyệt đối, tục đế hay chân đế. Duyên khởi, trên mặt hiển thị, là
hiện tượng của Tánh Không; và Tánh Không, trên cái nhìn tuyệt đối, là bản chất
của Duyên khởi. Đây là một loại hệ luận, mà nói theo ngôn ngữ của Hoa Nghiêm là
“tương tức”, “tương nhập” - cùng sinh khởi và cùng hiện hữu”.
Duyên khởi trở thành quan trọng
trong việc giải thích nhất thiết pháp không, nên được trình bày ở đây để chúng
ta hiểu biết thêm về vai trò của triết thuyết Tánh không trong sinh hoạt tâm
linh của chúng ta. Đó cũng là triết thuyết không tiền khoáng hậu, thay đổi bộ
mặt Phật giáo đã một thời ngự trị một cách êm thắm trên dòng tư tưởng cổ đại
của Ấn độ khi xưa! Tánh Không ở đây có thể xem như một sự xả chấp, buông bỏ
chẳng khác.
7- Muốn tránh mất mát trong cái nhìn ngây ngô trên muôn sự
muôn vật, Phật bảo phải quán các pháp là danh giả, không thật, các pháp là
không, như huyễn như mộng, như tiếng vang, như hòn bọt nổi, như trăng đáy nước,
như hoa đốm giữa hư không, như thành bằng hương khói. Hơn nữa, các pháp vốn trì
độn, vô tri; nó như vậy là như vậy, như đó thường tại, chẳng lúc nào chẳng như.
Nếu thấy biết tất cả pháp như vậy, thì tâm như như, bình đẳng, nên nói là thanh
tịnh. Chỉ cần ngộ nhập bất cứ pháp nào trong thập dụ nói trên đều được thanh tịnh.
Đây là điểm lưu ý khác mà Kinh thường lặp đi lặp lại nhiều lần.
Tu 84.000 pháp môn không ngoài mục
đích là đạt tịnh. Vì vậy, đạo Phật mới được gọi là Thanh-tịnh-đạo. Muốn thế thì
phải quán các pháp như huyễn như mộng, quán các các pháp là không, các pháp trì
độn, như hòn bọt nổi, như thành bằng hướng khói v.v...
8- Ai cũng hiểu: Thấy và biết là những quan năng lúc nào cũng
song hành. Nhưng đây không phải là những kẻ đồng hành “êm thắm”, có chức năng
như nhau. Máy ảnh và tấm ảnh là cái thấy. Người chụp ảnh và người xem ảnh là
cái biết. Máy ảnh và tấm ảnh là vô tri, vô thức, nó chỉ ghi lại “nguyên trạng”
cảnh giới không thêm không bớt. Nhưng người chụp ảnh và người xem ảnh lại sanh
ra vui buồn tức có cảm thọ, ý thức dính vào đó.
Cũng vậy, uẩn xứ giới vừa là máy
ảnh, vừa là tấm ảnh, vừa là nhiếp ảnh gia, cũng vừa là người xem. Tất cả mấu
chốt của cuộc sống đều tùy thuộc vào những tương quan giữa các thành phần này
hay nói khác là tương quan giữa thấy, nghe, hiểu biết của con người (Tâm) và
vạn hữu (Vật) bao quanh nó. Không riêng về Đại Bát Nhã Ba La Mật, đạo Phật nói
chung xây dựng cơ đồ không ngoài các quan hệ này: Tâm và vật, con người và vạn
hữu hay nói khác giữa nhân sinh và vũ trụ, từ đó nẩy sanh các quan điểm khác
nhau về cuộc sống. Quan điểm cuối cùng được coi là chân lý, đó chính là chân
như quan Bát Nhã. Chân như quan đó là gì? Nói một cách giản dị và ngắn gọn là Cái chân tướng như thực (yatha bhutam,
“the reality as it is”) cùng khắp của tất cả pháp, cũng gọi là chân như, pháp giới, pháp tánh
v.v... gọi chung là thập nhị như,
thập nhị không: 1. Chân như có nghĩa chân thực, thường như. Thể tánh của các
pháp chân thực thường như. 2. Pháp giới: Giới nghĩa là chỗ nương. Chân như là
chỗ nương của các pháp. 3. Pháp tánh: Tức là thể tánh của các pháp. 4. Bất hư
vọng tánh: Pháp tánh chân thực, xa lìa hư vọng. 5. Bất biến dị tánh: Tức pháp
thể không biến đổi. 6. Bình đẳng tánh: Lìa tướng sai biệt của các pháp, bình
đẳng không hai. 7. Ly sanh tánh: Tức lìa sanh diệt. 8. Pháp định: Tức pháp tánh
thường trụ. 9. Pháp trụ: Trụ trong pháp vị chân như. 10. Thật tế: Cái chân thật
cùng cực, cái biên tế cuối cùng của sự vật. 11. Hư không giới: Tức lý thể của
chân như cùng khắp. 12. Bất tư nghị giới: Lý thể chân như dứt bặt mọi suy tư
nói năng, không thể nghĩ bàn(2). Tất cả giải thích trên về chân như nói trên
tuy ngắn gọn, cô đọng, nhưng rất hữu ích cho việc thấu triệt về chân như. Người
nào hiểu được một trong thập nhị chân như thì được xem là giác ngộ.
Thông thường khi nói đến chân như,
Kinh sách thường liệt kê 12 thứ chân như căn bản này. Nhưng trong thực tế, chân
như theo nhiều tông phái khác nhau còn được gọi là Hư không giới, Đoạn giới, Ly
giới, Diệt giới, Cảnh giới vô tánh, Cảnh giới vô tướng, Cảnh giới vô tác, Cảnh
giới vô vi, Cảnh giới an ổn, Cảnh giới tịch tịnh, Cứu cánh Niết bàn, Tánh
không, Bổn vô, Như Lai tạng, Phật tánh, Pháp thân, Tự Tánh Thanh Tịnh Tâm, Viên
Thành Thực Tính, Bản lai diện mục v.v... Đó là cái thể
tính chân thật tuyệt đối của tất cả pháp mà chỉ có Như Lai với Như Lai mới thấu
triệt các như này. Nên các Ngài mới được gọi là chư Như Lai. Như Lai là chân
thật nghĩa, bất hư vọng tánh, Như Lai là
Giác ngộ cùng khắp. Nếu ai hiểu và thâm nhập được các như này thì chẳng khác
nào Như Lai hay ít nhất cũng được gọi là tùy Như Lai sanh.
9- Chúng sanh thì đầy vọng
tưởng nên không thấy cái như thật. Nhưng vọng tưởng phát xuất từ đâu? Vọng
tưởng là những vọng thức hay còn gọi là vọng niệm xuất hiện trong tâm thức của
chúng ta một cách mơ hồ. Chúng có thể là ký ức, tập khí của thời xa xưa, bỗng
đến rồi đi, bỗng ẩn rồi hiện giống như những cụm mây trời vô định hướng. Vọng
tưởng, vọng niệm tạo nhiều phiền nhiễu, nó gậm nhấm lần mòn tiềm năng nội tại
tích tập trong mỗi người chúng ta. Một chuỗi dài tu luyện cốt bồi dưỡng, vun
xới tiềm năng bị hao mòn đó. Vì vậy, tu một
phần để tránh phiền não mê mờ. Tất cả
pháp tu nhất là niệm Phật hay tham thiền quán tưởng, không phải diệt vọng mà là
để đình vọng. Đình vọng không có nghĩa là diệt vọng mà là đừng để nó sinh,
nếu nó đã sinh thì đừng để nó tiếp tục thì có thể đạt được trí.
10- Trí này tức Nhất thiết trí trí, Đại viên cảnh trí, Phật
trí, Vô sư trí, Hậu đắc trí, Vô phân biệt trí, Vô trước trí, Vô tận trí... được
thành lập bởi vô số, vô biên các pháp môn kết hợp không riêng gì pháp môn niệm
Phật hay tham thiền nhập định. Cứ thử kéo ra một pháp sẽ kéo theo những pháp
khác. Tất cả pháp môn kết nối nhau như một cuộn chỉ mà đầu mối là Tánh không.
Kéo đầu mối ra sẽ kéo theo các pháp liên hệ. Kéo các pháp như huyễn như mộng,
các pháp trì độn, các pháp không thì kéo theo các pháp như. Kéo pháp như ra thì
kéo luôn pháp giới, kéo pháp giới thì sẽ kéo theo pháp tánh, pháp trụ, pháp vị,
bình đẳng tánh... Kéo bình đẳng tánh ra, thì kéo theo pháp định, pháp trụ, thật
tế, hư không giới, bất tư nghì giới v.v... Nghĩa là kéo thập nhị chân như ra
thì kéo theo 18 pháp không, Tứ đế, 12 nhân duyên v.v... Phải chăng sự thành tựu
Bát Nhã là kết quả của tất cả các tinh thể bất khả phân này hợp lại? Ở đâu có
Tánh không thì ở đó có thập dụ, có thập bát không, thập nhị chân như, Tứ đế, 12
nhân duyên, lục Ba la mật v.v... và v.v... Do đó, học Bát Nhã phải học tất cả pháp, pháp thế gian và pháp xuất thế
gian thì có thể trở thành Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Đó là điều chắc chắn! Chư
Phật lúc nào cũng xác định và khuyến khích như vậy, vì là thực chứng chứ không
phải do tưởng.
11- Bây giờ, chúng ta nắm lấy đầu mối là pháp Không (Tánh
không hay Bản tánh không) để luận về bản chất của nó. Không, không có nghĩa là
rỗng không, không có gì, cũng không có nghĩa là Hữu đối với Vô, cũng không phải
là cái không chi. Không đây biểu thị trên cả hai phương diện TÂM và VẬT. Nếu ta
tách chúng làm hai phần riêng rẽ, thì TÂM vẫn là TÂM và VẬT vẫn là VẬT, và
chúng ta sẽ không thể tìm thấy ý nghĩa nào trong Bát nhã Ba la mật. TÂM hay VẬT
trong thực tế cũng như trong tư duy có một liên hệ mật thiết như hình với bóng,
nó là một thứ liên hệ bất-khả-phân đối với con người trần tục.
VẬT (y báo) không có chủ thể, không có tự tánh,
duyên hợp giả có nên nói là không. Vạn hữu như sông núi, nhà cửa, xe cộ... hiện
tiền mắt có thể thấy, tay có thể xúc chạm được mà bảo là không có, là điều hết
sức vô lý. Giáo lý Tánh không cho rằng không đây là không có tự tánh, không có chủ thể nên gọi là không. Vì không có tự tánh, không có chủ thể nên không
thể tự sanh. Sanh bảo là có, nhưng giả có là vì duyên hội. Hết duyên thì hoại
diệt nên bảo là không.
TÂM
(Chánh báo) không, là
rỗng không, nó chỉ cho trạng thái của một thứ gọi
là vô thức, vô niệm, vô tâm mà trong
nhà thiền diễn tả như một cái thùng thủng đáy, không dung chứa bất cứ thứ gì dù
là một hạt bụi nhỏ nhiệm như vi trần trong hư không.
Vì vậy, khi nói đến pháp Không hay
Tánh không Bát Nhã là nói đến trạng thái rỗng không của cả TÂM lẫn VẬT. Tổ Đề
Đa Ca nói:
Ngộ rồi đồng chưa ngộ
Không pháp cũng không tâm.
Vậy, cái không của Kinh Bát Nhã
chẳng qua là một bài triết học nói về xả
chấp, buông bỏ, phủi sạch để tâm
được vô thức, vô niệm, vô tâm. Nên Kinh Kim Cương nói: “Như lai thường dạy rằng các Thầy
Tỳ khưu nên biết pháp ta nói ra ví như chiếc bè đưa người sang sông, pháp còn
phải bỏ huống chi phi pháp”.
12- Nếu nói thấy vạn hữu không là một chuyện, thấy tâm không là
một chuyện khác, rồi bảo rằng: Chủ động chính là tâm,
không phải cảnh. Đó lại là một thứ sai lầm khác nữa, vì còn nặng đầu óc
phân hai: “A” với “phi A”, năng với sở, chủ với khách.
Vậy, phải thấy cả VẬT lẫn TÂM đều không, phải có cái thấy đồng nhất thì mới có
thế nói tất cả đều sạch trong sạch ngoài, rốt ráo rỗng không trong suốt
như hư không. Trạng thái đó gọi là như như bất động.
Vào giây phút ấy cũng TÂM đó, cũng VẬT đó nên nói “tức TÂM tức VẬT”. Đạt tới
trình độ như vậy không có nghĩa là không còn gì cả. Ngài Thạch Đầu nói “Người
hội muôn vật làm tự mình, ấy là Thánh nhân...” Đó là nhập pháp giới, nên có cái
thấy “không mà chẳng không”, một thứ huệ nhiệm mầu xuất hiện gọi là “diệu hữu
chân không”.
Đắc Không, tức giác ngộ
thì đạt được Nhất thiết trí trí. Có trí thì khởi đại Bi làm lợi ích cho đời,
nên nói đạt cái “không mà chẳng không”.
Đó cũng là ý nghĩa của câu “Vin vào cái có mà chẳng có, tựa vào cái không mà
chẳng không”. Đó là diệu hữu chân không. Tất cả yếu chỉ Tánh không là như thế!
13- “Tựa vào cái không mà chẳng không”. Đó là điểm
nối kết giữa các mắt xích của Trí, Bi. Phương tiện thiện xảo và
Tánh không của hệ thống Đại thừa giáo trong sự thực thi các chương trình cứu
rỗi của Bồ tát. “Tự thân của Bát Nhã thì không thể thành tựu
một kết quả thực tiễn nào, nó hoạt dụng ngang qua Phương tiện sinh ra từ đại
Bi”(3).
Bát Nhã tự nó không thành tựu một
kết quả thực tiễn nào cả, nên nói là không. Bát Nhã chỉ có thể hoạt dụng ngang
qua phương tiện sanh ra từ đại Bi, nên có vô vàn công đức không thể nghĩ bàn.
Đó là cái diệu dụng “không mà chẳng không”, nên gọi là “diệu hữu chân không”. Chỉ có thể giảng luận ra như thế đối với qui
trình “Phi mà Bất phi”. Một giáo lý lúc nào cũng nói phân hai để cuối cùng chỉ
rõ sự hợp nhất nhiệm mầu của nó. Vậy, học Bát Nhã không phải là không có gì.
Chính nhờ cái tưởng “không có gì” mà phát khởi đại Bi làm lợi ích vô lượng, vô
số, vô biên chúng hữu tình! Đó là Tánh không và Diệu hữu chân không!
14- Bồ tát sống trong phân biệt nhưng không thấy sai biệt, sống
trong sai biệt nhưng không thấy phân biệt. Bởi vì đối với các Ngài đâu cũng là
chân như pháp giới. Tất cả pháp không nằm ngoài chân như pháp giới. Vì vậy, dù
muốn dù không các Ngài cũng phải sống trong cảnh giới này. Nên các Ngài mới dấn
thân lăn xả vào chúng quần sanh mà không ngại ngùng, thực thi các công hạnh khó
hành để cứu độ chúng sanh mà không hề mệt mỏi. Đó là điểm đặc sắc nổi bật của
Bát Nhã hay đạo Phật gọi là Bồ tát hạnh
hay Bồ tát đạo.
Nguyện và hạnh của Bồ tát là lòng
thương yêu lân mẫn, quyết tâm “... cứu giúp thế gian, vì thế gian mà làm
nhà cửa, vì thế gian làm chỗ nương tựa, chỉ cho thế gian con đường cứu cánh, vì
thế gian làm hòn đảo, vì thế gian làm ánh sáng, vì thế gian làm người dẫn
đường, vì thế gian làm chỗ đi đến, phát tâm siêng năng tinh tấn hướng đến quả
vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề”. (Q. 548, TBBN)
Đó là chất xúc tác mạnh mẽ trong mối
tương thân tương ái giữa con người, nó cũng như ngọn lửa truyền thừa mà nhờ đó
đạo Phật được duy trì mãi với thời gian. Phát khởi đại Bi, mong cầu giác ngộ để
cứu rỗi chúng sanh thoát khỏi bể khổ, không tiếc thân mạng hay số kiếp. Vì vậy,
đối với các Ngài thời gian là phi thời gian, số kiếp phi số kiếp. Đó chính là
chỗ ẩn áo của Bồ tát đối với các chúng sanh khác. Tinh thể của Bồ tát là như
vậy, nên luôn luôn được cổ võ và tán tụng trong toàn thể Đại Bát Nhã Ba La Mật,
khác với các Thanh văn hay Duyên giác.
15- Đạo Phật biến thể rất nhiều nhưng có hai “thành phần” quan
trọng còn tồn tại gần như song hành mãi đến nay: Đó là Tiểu Thừa và Đại Thừa.
Về phương diện tu hành hai thừa không khác nhau, nhưng về vấn đề phục vụ chúng
sanh thì hoàn toàn khác nhau.
Tiểu thừa tu là cốt để giải phóng cá nhân, chủ trương phá ngã, diệt
tội để thoát khổ, thoát khỏi luân hồi sanh tử. Vì vậy, giáo pháp cơ bản của
Tiểu Thừa thuộc hệ Pali và văn học A Hàm gồm có Tứ diệu đế, Mười hai nhân duyên
(s: pratītya-samutpāda), Bát chính đạo, thuyết Vô ngã (s: anātman) và Niết bàn.
Ngoài ra, Tiểu thừa còn chú trọng đến luật Luân hồi, Nhân quả và Nghiệp báo. Vì
vậy, người tu Tiểu Thừa tu để được giác ngộ cá nhân, nên ẩn mình tìm chỗ thanh
vắng, tu hạnh viễn ly hay A lan nhã (còn gọi là hạnh đầu đà) để sớm chứng thật
tế rồi vào Niết bàn mà không đếm xỉa đến các chúng sanh khác đang oằn oại trong
bể sanh tử. Hình ảnh đặc trưng của Tiểu Thừa là A la hán, người sạch hết lậu,
không còn luân hồi sanh tử nữa, thật sự giải thoát và đạt Niết bàn.
Trong khi Đại Thừa cũng chủ trương phá ngã diệt tội, nhưng luôn luôn hướng về
việc thành thục chúng sanh, thanh tịnh Phật độ. Vì vậy, giáo pháp của Đại Thừa
thêm phần tu lục độ là bố thí, trì giới, an nhẫn, tinh tấn, thiền định và Bát
nhã Ba la mật, với mục đích thượng cầu quả Phật, hạ hóa chúng sanh. Hình ảnh
đặc trưng của Đại Thừa là Bồ tát. Hạnh nguyện của các Ngài là phục vụ chúng
sanh, nơi nào có khổ nơi đó có Bồ tát, và Bồ tát không vào Niết bàn khi một chúng
sanh cuối cùng chưa diệt độ!
Ai học Phật đều biết vấn đề này. Vì
vậy, trong toàn thể ĐBN nói riêng và Kinh điển Đại Thừa nói chung, từ đầu chí
cuối đều chê trách Tiểu thừa như hột giống rải trên hư không, sợ trần sa hoặc,
chỉ lo tu để mau giải phóng cá nhân, rồi trốn vào Niết bàn, không kể đến các
sanh linh khốn khổ khác. Nên Phật đề cao vai trò của Bồ tát trong việc cứu độ
chúng sanh, thanh tịnh Phật độ của những người hành Bồ tát đạo.
Nhưng đừng xem đây là sự mâu thuẫn
trong quan niệm hay chủ trương khác nhau giữa hai Thừa, mà hãy xem đây là tiến
trình xây dựng của đạo Phật theo đà phát triển trong việc phục vụ con người.
Đây không phải là lời biện hộ, Kinh Pháp Hoa chủ trương sát nhập Tiểu Thừa và
Đại Thừa vào một thừa duy nhất là Nhất Phật thừa hay Phật thừa, là một thí dụ
về việc thống-nhất-hóa đạo Phật mà chính Phật đề xướng 26 thế kỷ trước.
Ngày nay, Tiểu thừa thức tỉnh, cũng
phục vụ đại chúng chẳng khác Đại thừa theo nhu cầu và đà phát triển của xã hội.
16- Tôn chỉ hồi hướng
cho kẻ khác.
Bây giờ nói
về hành đạo. Phật đạo được chiêm ngưỡng bởi khả năng hành thiện để hồi hướng cho kẻ khác, là bản chất cố hữu
của những người hành Bồ tát đạo, của những người tu Đại thừa để đi đến giác
ngộ. Đó là dấu hiệu tương thân tương ái của tất cả tín đồ Phật giáo. Chúng ta
thừa biết bản chất xã hội của Bồ tát Đại thừa như thế được phản ảnh mãnh liệt
trong sinh hoạt của Bồ tát với tôn chỉ hồi hướng cho kẻ khác. Tu hành không có
nghĩa là đứng bên lề xã hội, quên đi những nỗi khổ đau của các chúng sanh khác.
Vì sao? Vì mục tiêu tối hậu của những người tu không phải co mình trong cô
tịch, tu tất cả các thiện pháp để chứng thật tế rồi nhập Niết bàn, giải thoát
cho riêng mình mà quên đi đồng loại đang chịu nhiều thống khổ của cuộc sống đọa
đày.
Ngày nay,
người tu không có mặc cảm là Tiểu thừa. Trên thực tế bây giờ người tu Tiểu Thừa
rộng mở tâm hồn, có tinh thần dấn thân hơn, hy sinh vì kẻ khác nhiều hơn. Họ
muốn trở thành những chiến sĩ dũng cảm trong chiến trường cứu đói, cứu khổ,...
rất phù hợp với tôn chỉ tối cao của đời sống đạo chẳng khác Đại thừa.
Phải có tinh thần hy sinh gian khổ
như Trì địa Bồ tát trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm Trực Chỉ(4), thường đến các nẻo
đường, bến đò, chỗ đường xá lở xụp, gánh đất đá đắp lại cho ngay ngắn hoặc làm
cầu cống, đẩy xe trâu mắc sình, kéo thuyền ngược nước, cõng người, chuyển vật
đến nơi đến chốn mà không nhận tiền thuê, nếu có nài nỉ lắm thì chỉ lấy một
quan tiền. Đó mới xứng đáng với tinh thần Bồ tát đạo.
Thời đại mới có những nhà bác học,
bác sĩ, kỹ sư... suốt đời cặm cụi trong các phòng thí nghiệm thuộc các lãnh vực
khoa học kỹ thuật như tìm các nguồn năng lượng mới, chế tạo các phương tiện
chuyên chở hiệu quả hơn, tạo các sản phẩm công nghiệp giúp tiện nghi cho đời
sống hay các sản phẩm thuộc chương trình không gian như hỏa tiễn, vệ tinh, phi
thuyền... trong các ngành khảo cứu không gian hay các chương trình truyền
thông, truyền hình hay tiên đoán thời tiết v.v... Trong ngành y khoa cũng có vô
số bác học suốt đời tận tụy tìm kiếm các loại thuốc hay phương pháp trị liệu để
ngừa hay trị những bệnh ngặt nghèo hay ngăn chận bệnh dịch do siêu vi trùng gây
nên v.v... Ngoài ra, trong ngành nông nghiệp cũng vậy, các chuyên viên, các kỹ
sư canh nông tìm tòi pha giống(gene) thực vật hay động vật để nâng cao năng
xuất lương thực về phẩm cũng như lượng; phát triển các loại thức ăn mới dễ sản
xuất, dễ vận chuyển mà hàm lượng dinh dưỡng cao; hoặc nghiên cứu trồng trọt hay
chăn nuôi dưới đáy biển, mục đích gia tăng thêm lương thực trong khi diện tích sản
xuất trên đất liền bị hạn chế v.v... như Nhật bản chẳng hạn. Các khoa học gia,
bác học, bác sĩ, kỹ sư, các chuyên viên v.v... trong mọi ngành nghề trên là
tiêu biểu cho tinh thần Bồ tát trong thời đại mới, thời đại của khoa học kỹ
thuật, thời đại digital, đáng được xưng tụng và cổ võ hơn bao giờ hết!
Phải cập
nhật tinh thần Bồ tát đạo theo đà tiến hóa của nhân loại, trong việc cứu khổ
chúng sanh. Phật đạo ngày xưa đã đề xướng “ngũ minh” tức người tu Phật phải có
năm loại kiến thức: Nội minh: Phải biết nội điển của Phật giáo để hoằng pháp.
Nhân minh: Phải biết phương pháp lý luận để giảng dạy, viết sách hay diễn
thuyết. Thanh minh: Phải biết ngôn ngữ văn tự. Công xảo minh: Phải biết về khoa
học, kỹ thuật. Và Y phương minh: Phải biết về y khoa: Ngừa bệnh và trị bệnh, để
giúp đời. Vì vậy, người học đạo xưa hay nay phải cắp sách đến trường, phải học
các ngành nghề chuyên môn như các chúng sanh khác để ra tay cứu độ chúng sanh.
Ngày nay, không những tu sĩ mà thường dân cũng làm công việc cứu nhân độ thế
như nhóm Bác sĩ không biên giới hay con tàu y khoa của Pháp đi chữa bệnh khắp
nơi trên thế giới. Đó là các tổ chức thiện nguyện, nêu gương sáng của tâm đại
Bi. Đó cũng là tinh thần của Đại học Na lan đà (Nalanda University) vào thế kỷ
thứ V đến XII của Phật giáo Ấn độ khi xưa!
17- Nghịch đảo hay không
đảo nghịch, thuận hay nghịch, mâu thuẫn hay không trong Bát Nhã?
Đoạn Kinh quyển 574, phần “Mạn Thù
Thất Lợi”, Hội thứ VI, ĐBN phát biểu táo bạo như sau:
“Xá
lợi Phất bạch Phật:
Bạch
đức Thế tôn, như Mạn Thù Thất Lợi giảng, Trí Bát Nhã vượt ngoài tri kiến của
chư Bồ Tát mới phát tâm”.
Mạn
Thù nói với Xá lợi Phất: “Điều tôi giảng nói không những chỉ vượt ngoài tri
kiến của họ, mà còn vượt ngoài tri kiến của các vị A la hán đã thành tựu đạo
nghiệp. Không ai có thể hiểu biết như thật lời giảng của tôi. Tại sao? Bởi vì
phàm tâm không vươn tới Bồ Đề nổi, trí năng cũng không thể; Bồ Đề ở trên thấy,
nghe, nhớ, nghĩ; nó không sinh, không diệt, vô tướng. Bồ Đề vì là như tính, nên
không nói là hữu hay vô. Không phải là sở tri, sở đắc”.
Xá
Lợi Phất nói: “Này Mạn Thù, há không có Pháp giới mà chư Phật chứng nhập.
Tại sao? Bởi vì Pháp giới là Phật và Phật là Pháp giới, nên Pháp giới không tự
chứng Pháp giới. Pháp giới tức hết thảy
các pháp đều không; và Tánh không này là Bồ đề, không hai, không phân biệt.
Bởi vì không hai nên không có trí giải; không có trí giải nên không có ngôn
thuyết; không có ngôn thuyết nên không có tướng tác và vô tác, hữu và phi hữu,
không có tướng quyết định. Đó là tự tánh của vạn hữu. Sự biểu lộ đây kia chỉ là tạo tác do tâm.
“Thưa
Ngài Xá Lợi Phất, phạm tội tức thành tựu bất khả tư nghì tức xuất sinh
Thật tướng. Thật tướng tức không hai. Chúng sinh vốn bất khả tư nghì nên
không có thác sinh lên trời không đọa vào các đường dữ, không chứng nhập Niết
bàn. Những kẻ phạm tội không đọa vào địa ngục. Phạm tội và bất khả tư nghì thảy
là Thật tướng, và Thật tướng vốn không hai, không sinh, không diệt, không đến
không đi, không nhân không quả, không thiện không ác, không dẫn vào ác đạo hay
thiên đường, không đưa tới Niết bàn hay sinh tử. Tại sao? Bởi vì trong Pháp
giới chân thật không có thiện hay ác, cao hay thấp, trước hay sau.
“Thưa
Ngài Xá Lợi Phất, Tì khưu phạm trọng tội không bị đọa vào địa ngục, tịnh tu
giới hạnh không sinh lên thiên đường. Kẻ phạm tội không rơi vào nẻo sinh tử,
không bị khinh bỉ, không bị xa lánh, không bị cấm nhận cúng thí v.v…và kẻ tịnh
tu không có chứng Niết bàn, không có tán dương, không có thân cận, không có
cúng thí v.v...Tại sao? Bởi vì trong Pháp
giới chân thật chỉ có tướng nhất như; phạm hay không phạm không phân biệt”.
Bấy
giờ Mạn Thù bạch Thế Tôn: “Bồ Đề là tội ngũ nghịch, ngũ nghịch tức Bồ Đề. Tại
sao vậy? Bởi vì Bồ Đề và ngũ nghịch thảy đều phi hữu, không có tự tánh. Không
có tri và tri giả, kiến và kiến giả, giác và giác giả, phân biệt và phân biệt
giả. Nên nói Bồ Đề tức ngũ nghịch. Nếu ai coi Bồ Đề là khả đắc hay khả hành, kẻ
ấy đam mê chấp ngã”.
Thật hết chỗ nói! Mạn Thù bảo Xá Lợi
Phất: “Tì khưu phạm trọng tội không bị đọa
vào địa ngục, tịnh tu giới hạnh không sinh lên thiên đường, kẻ phạm tội không
rơi vào nẻo sinh tử, không bị khinh bỉ, không bị xa lánh, không bị cấm nhận của
cúng thí v.v…và kẻ tịnh tu không có chứng Niết bàn, không có tán dương, không
có thân cận, không có cúng thí v.v... và v.v... Thật trái lẽ quá sức phải
không?
Rồi Mạn Thù Bồ
tát bạch Thế Tôn “Bồ đề là ngũ nghịch, ngũ nghịch tức Bồ đề!”
Bồ đề là giác
ngộ cùng khắp, Bồ đề là chân thật nghĩa, Bồ đề là Phật. Tại sao Mạn Thù Thất
Lợi có thể tuyên bố một cách “ngược đời” như thế? Bởi vì, tất cả cái gì chúng
sanh nghĩ đều thuận dòng thế gian. Còn Mạn Thù Bồ tát hay Văn Thù Sư Lợi Bồ tát
được coi là đại trí, cũng là cổ Phật tức chứng ngộ, đã chứng ngộ thì ngược dòng
thế gian. Lối nói có vẻ nghịch đảo theo pháp thức thường tục, nhưng chẳng có gì
nghịch đảo đối với Thánh giả. Bởi vì, chỉ có Thánh giả mới hiểu “trong Pháp giới chân thật chỉ có tướng nhất như; phạm hay không phạm không
phân biệt”.
Cũng như câu nói: Trần trần không
phải bụi mà “trần trần là báu”. Khi hiểu thế nào là bụi trần lăng xăng làm khổ
mình khổ người. Biết như vậy, nên tránh được bụi. Tránh bụi, nên không bị bụi
trần làm ô nhiễm. Vì vậy, mới nói trần trần là báu.
Cũng vậy, câu nói “Mỗi vọng niệm đều
là hóa thân Phật”. Đây, không phải là lối nói nghịch đảo, chẳng có gì là nghịch
đảo ở đây. Biết vọng, vọng đến đừng theo, tức vọng yên thì chân hiện, chân hiện
tức chứng pháp thân, pháp thân biến hóa để tế độ chúng sanh thì gọi là hóa
thân. Nói vắn tắt là thế.
Đoạn phiền não để được Niết Bàn,
chẳng khác nào bỏ hình bắt bóng. Bởi vì gốc của bóng là hình hay nói khác có
hình nên có bóng. Vậy bỏ hình bắt bóng hay bỏ bóng bắt hình có ích gì? Cả hai
chỉ là một. Mê cũng là nó mà ngộ không khác nó. Nên câu nói “phiền não tức Bồ
đề”, “sanh tử tức Niết bàn” cũng là câu nói tỉnh thức!
Một khi hiểu thế nào là nghịch đảo
thì nó không còn là nghịch đảo nữa! Biết cả thuận lẫn nghịch, biết tất cả dù
chi tiết nhỏ nhiệm nào, biết khắp, đó là tỉnh thức. Tỉnh thức tức Giác ngộ. Cái
Giác ngộ của bậc đã đạt Thánh trí tự giác như Phật, như Văn Thù Sư Lợi Bồ tát.
Nên phần “Bố Thí Ba La Mật”, quyển 580, Hội thứ XIII, ĐBN. Kinh bảo: “Đối với cảnh nghịch tâm không sân hận, đối với cảnh thuận tâm không ái nhiễm. Nếu nghịch hay thuận đều biết đúng,
nó hỗ trợ, làm duyên dẫn đến Nhất thiết trí. Bồ tát như vậy trong tâm không bị
xen tạp đối với tất cả thời, tất cả cảnh”.
Và cũng
cùng phần “Bố Thí Ba La Mật” nói trên, Kinh bảo tiếp: “Phiền não tức Bồ đề
là ơn đức lớn của Bồ tát, phải kính trọng như kính trọng Thế Tôn!”
Càng khổ, càng phiền não thì tâm chí
càng tinh luyện, tâm chí càng tinh luyện thì công hạnh sớm thành, công hạnh sớm
thành mới thâm nhập vào lẽ nhiệm mầu của kiếp sống. “Thượng Đế ban khổ cho con
người để hoàn tất con người”, đó là câu nói của người từng trải, đã nếm quá
nhiều cay đắng, mới có những tư tưởng quá đẹp như vậy. Tổ Hoàng Bá Hi Vận nói
bóng bẩy hơn:
“Chẳng phải một phen sương lạnh buốt
Làm sao mai nở ngát mùi hương?”
Thiền sư D.T. Suzuki cũng là người
đầy kinh nghiệm trong lãnh vực này, giải thích về tư cách của một người chứng
đạo như sau: “Nhưng
với người Đại Thừa, mọi phương tiện “lành và khéo” đều được quyền xử dụng, nếu tâm đã sáng, trí đã sạch làu. Họ
sống trong một thế giới “phi thiện phi ác”, và một khi an trụ trong đó thì dầu
họ làm gì vẫn không thể có khuôn thước đạo đức nào đánh giá hoặc phê phán họ
được; đó là những hành động chẳng “hữu đạo” mà cũng không “vô đạo”. Những cặp
danh từ đối đãi ấy mất hết chỗ đứng trong cái tâm tự do tự tại, tùy thích dọc
ngang trên thế giới ngang dọc của sai biệt và mâu thuẫn”.
Bây giờ, chúng tôi không cho đây là
một đoạn Kinh nghịch đảo táo bạo, cốt gây kích động đối với mục đích dựng dậy
cái tâm ngái ngủ ngàn đời của chúng sanh nữa. Ở đây Mạn Thù Thất Lợi Bồ tát
cũng không phải lật úp hay vặn chéo những nghĩ tưởng thế gian mà ở đây Mạn Thù
Thất Lợi đại diện bậc chứng ngộ nói lên tư tưởng của đệ nhất nghĩa đế, thế giới
vô sai biệt, thế giới không hữu không vô, không thiện không ác, không tội không
phước v.v...
Giới luật sẽ trở thành một thứ “kỷ
luật chết” đối với hoạt dụng của tâm và trí khi hai thứ này được rèn luyện đến
độ tuyệt kỹ, chúng tự phát khởi tùy cơ, ứng dụng tùy thời, qua lại tự do tùy
tiện mà không một khuôn thước trí năng bình thường nào của thế nhân, cả đến bậc
La hán đã thành xong đạo nghiệp có thể đo lường tâm của bậc đại trí như Văn Thù
Sư Lợi Bồ tát. Tổ sư có dạy: “Kiến sắc phi can sắc, văn thinh bất thị thinh”,
nghĩa là thấy sắc không can gì sắc, nghe tiếng cũng không can hệ đến tiếng. Hay
như câu: “Ngộ thinh ngộ sắc như thạch thượng tài hoa, kiến lợi kiến danh như
nhãn trung trước tuyết”, gặp sắc đẹp hoặc nghe tiếng hay như hoa trồng trên đá;
thấy tài lợi và danh vọng như bụi rớt vào tròng(mắt). Nếu người đạt đến trình
độ như vậy thì vào thanh lâu hay tửu điếm chẳng khác nào đạo tràng thanh tịnh
của mình (dâm phòng tửu tứ vô phi thanh tịnh đạo tràng)(5).
18- Hệ lụy và giải thoát.
Tất cả những gì liên hệ giữa cá nhân hay tập thể trong cuộc sống chung từ vật
chất đến tinh thần đều được coi là những hệ lụy (trói buộc) của cuộc sống.
Những hệ lụy đó có thể do mình, do người hay do hoàn cảnh xã hội tạo nên.
Nhưng làm
sao sống mà tránh khỏi “cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng”, chỉ có chết, nói “theo
nghĩa bình dân” của nó, mới có thể thoát khỏi những trói buộc của cuộc sống!
Sống đã là khó mà chết cũng không phải dễ! Chết không phải hết, cũng không phải
là giải pháp trọn vẹn? Vì vậy, chúng ta phải kêu gọi đến tôn giáo. Không có bất
cứ tôn giáo nào mà không đề cập đến vấn đề giải thoát hay giác ngộ. Chỉ có giải
thoát hay giác ngộ mới có thể tháo gỡ được các trói buộc thế gian này. Vì vậy,
tôn giáo mới được qui hướng, mới được kính trọng trọn vẹn trong đời sống tâm
linh của con người.
Một trong
những trói buộc lớn nhất không phải là gia đình mà là bổn phận đối với xã hội
hay quốc gia, dân tộc. Ai cũng thấy cũng biết, vì dễ thấy dễ biết nên xin gác
vấn đề này qua một bên. Cái khó thấy vì nó sờ sờ trước mắt nhưng lại coi như lẽ
đương nhiên. Vì vậy, mới không thấy, không thấy chứ không phải khó thấy. Đó
chính là qui ước, các thói quen, tập tục của cuộc sống thế tục.
Thói quen
hay tập tục là cái gì có trước khi cha mẹ sanh. Ông nói như vậy, cha nói như
vậy, rồi tới đời con, đời cháu tiếp nối. Ông nói đó là thiện, đó là ác, cha con
cháu chít chắt... đều rập khuôn, cứ thế mà trôi chảy theo dòng thời gian mà
không cần biết trong thiện có ác, trong ác có thiện trải qua bao nhiêu thế hệ.
Làm sao có thể tháo gỡ chiếc áo cũ rích này?
Còn qui
ước là gì? Đó là những qui định hay luật lệ do con người thỏa thuận đặt ra để
bảo vệ cuộc sống chung. Nói khác, con người phải tạo ra luật lệ để bảo vệ an
ninh, trật tự và phải tôn trọng hay tuân hành cái gì do con người tạo ra đó trong
việc tạo dựng hạnh phúc chung cho toàn thể cộng đồng. Như vậy, qui ước là cái
giúp chúng ta sống, nhưng đồng thời trói buộc chúng ta! Người lái xe theo luật
giao thông của Pháp qui định phải lái bên tay phải, có lẽ bị tai nạn hoặc chết
hoặc bị thương nếu hắn lái xe bên Anh (6), mặc dầu hai quốc gia trên chỉ cách
nhau một eo biển hẹp (Manche). Đó là luật lệ, là qui ước!
Đông hay Tây, xuôi hay ngược, phải hay
trái... là tiêu chuẩn căn bản do chính con người thỏa thuận với nhau. Thỏa
thuận với nhau để cùng thi hành, để cùng hưởng, cùng chịu. Thiếu qui ước, làm
sao xã hội thăng tiến? Đó là cái hạn cuộc của cuộc đời thường! Làm sao chấp trì
Bát Nhã đây?
Đạo pháp muốn giải phóng con người ra khỏi mê lộ của thế gian, trong
khi thế gian pháp lại đặt ra những
qui chế liên quan đến trật tự và an ninh xã hội để tránh xung đột, chống đối.
Tự do của người này là giới hạn tự do của kẻ khác, quyền lợi của nhóm này lại
là cái mất mát thiệt thòi của nhóm khác v.v... Con người phải đi trong cái vòng
tròn do chính mình tạo ra. Đi ra ngoài hay đi ngược lại là vi luật, là tự sát.
Đó là cái hạn cuộc của cuộc sống. Luân lý, đạo đức hay tôn giáo chỉ cấm đoán
hay răn đe về phương diện tinh thần, trong khi chế tài của hình luật lại quá
khắt khe, đôi khi tước đoạt cả mạng sống.
Ngũ giới là giới cấm nhỏ nhất của
hàng Phật tử tại gia. Sát, đạo, dâm, nói dối, rượu chè, sì ke ma túy không ngăn
chận được tội lỗi của những kẻ đầy dục vọng điên cuồng hay tham ái vô minh...
Vì sao? Vì các hình phạt đó chỉ có tính cách răn đe như giết người khi chết sẽ
bị đọa địa ngục, gian tham thì sẽ biến thành ngạ quỷ, dâm dục thì sẽ bị đọa vào
loài súc sanh v.v... Đó chỉ là những đe
dọa tương lai thuộc về luân hồi sanh tử. Còn đối với những ai tham lam vô độ
thì chỉ có lời khuyên là thiểu dục tri túc (muốn ít, biết đủ) hay hơn nữa là
khuyên tu thập thiện đạo v.v... Tôn giáo chỉ làm được như vậy không hơn không
kém.
Thật quá khó khi đứng trước ngưỡng
cửa của đạo và đời. Sống cách ly chăng? Nếu tất cả mọi người đều sống cách ly
hay xuất gia hết, thì ai là người gánh vác cơ đồ chung cho nhân loại? Đâu là
đạo? Đâu là đời? Đạo hay đời theo đạo Phật chỉ là duyên nghiệp của tiền kiếp,
không có sự lựa chọn. Biết như vậy, nếu vì duyên nghiệp phải sống cuộc đời phàm
phu tục tử thì phải cố gắng cởi bỏ tham ái, lìa dục, đồng thời phải tu tập các
thiện pháp, nhất là lục Ba la mật, để thoát vòng kiềm tỏa của ba cõi. Đạo chỉ
khuyến dẫn nhiều hơn là áp đặt, chỉ có con người tự nguyện tìm con đường hướng
thượng, tự tu tự hành tự thành Phật đạo để giải thoát các hệ lụy thế gian!
19- Tu hay không tu?
Hai vấn đề thường được nêu ra, nếu không muốn nói là tranh luận trong ĐBN hay
trong đạo Phật nói chung. Quan niệm bản thể hay chân tánh của chúng sanh là Bản hữu (Phật tánh vốn sẵn có từ xưa)
hay Tu sanh (do tu hành mới có)?
- Bản hữu là bản tánh của chúng sanh vốn vô cấu ngầm chỉ cho tâm Bồ
đề thanh tịnh hay Phật tánh vốn sẵn có của tất cả chúng sanh. Trong phần “Na
Già Thất Lợi”, Văn Thù Sư Lợi nói với Bồ tát Na Già Thất Lợi:
“Vì các loài hữu tình bản lai đều có
diệu pháp của chư Phật, tất cả đã có như vậy nên không thối lui Phật trí. Do
đó, các hữu tình đều có thể an lập nơi diệu pháp của Phật, tuệ giác không động,
biết pháp Tánh không, không danh, không tướng, không nương, không trụ, không
lấy, không chấp, không ngăn ngại, không dính mắc, giống như hư không, không
tàng chứa, không nắm giữ, vô thượng vắng lặng, cùng cực vắng lặng, không sanh
không diệt, không nhiễm không tịnh, không thành không hoại, chẳng có chẳng
không”. Nói như thế có nghĩa là chúng
sanh đã có sẵn tâm Bồ đề hay Phật tánh kể từ lúc chưa sanh. Đó là quan niệm Bản hữu, cái sẵn có!
- Còn nếu
nói bản tánh của chúng sanh là do tu hành mà được thì gọi là Tu sanh hiển đắc tức phải nương vào
phạm hạnh tu hành đoạn trừ vọng chấp để trở về cái nguyên thể của thuở ban đầu,
nghĩa là do ngoại trần cướp mất tâm, nên phải tu tập để trở về cái bản nguyên
khi xưa tức gọi là tu sanh.
Duy Thức
Tông khi nói về chủng tử trong A lại da thức có nêu ra hai loại chủng tử: Chủng
tử sạch và dơ. Khi thanh lọc loại bỏ được tất cả chủng tử dơ, chỉ còn giữ lại
chủng tử vô cấu thanh tịnh thì chứng Thánh. Như Lai tạng thường được nói trong
các Kinh khác cũng có hai thứ: Khi còn nằm trong triền phược gọi là Như Lai tại
triền, thì vô minh si ám nên gọi là chúng sanh ngu muội. Khi thoát khỏi cái vỏ
triền phược, chứng Thánh thì gọi là Như Lai thoát triền. Vậy triền phược hay
giải thoát, sanh tử hay Niết bàn không hai, cũng đều phát xuất từ thân tứ đại
này. Lau sạch bụi mặt gương tâm thì giải thoát.
Câu nói thường được nghe là còn luân
hồi là còn tái sanh, “sanh để trả nghiệp”. Chấm dứt không còn luân hồi sanh tử
nữa tức giải thoát. Muốn thế phải tu. Cuộc sống hiện thực cho thấy rằng nhờ có
lầm lỗi nên tu để được Thánh thiện hơn. Đó là ý thức, là lương tâm nằm trong
phạm vi luân lý, đạo đức hay tôn giáo của cuộc sống. Vì vậy, chúng ta có xu
hướng nghiêng về Tu sanh. Cuộc sống thực tế cho biết, đã là chúng sanh thì phải
tái sanh trong lục đạo luân hồi, nên cần phải tu. Tu để loại bỏ chủng tử dơ, tu
để Như Lai tạng thoát triền, tu để giải thoát.
20- Làm sao đổi thể hay lột xác?
Làm sao con thiềm thừ thoát xác, con cá chép hóa rồng? Đó chỉ là mộng mị phải
không?
- Phẩm “Thanh
Tịnh”, Hội thứ V, quyển 559, ĐBN. Thiện Hiện bạch Phật:
-
“Bạch Thế Tôn! Bát Nhã sâu xa chính là Ba la mật rộng lớn, đối với tất cả pháp
không trói buộc, không dính mắc. Mặc dù chứng Bồ đề nhưng không có sự chứng, mặc dù chuyển vận bánh xe pháp nhưng không có sự
chuyển. Không có pháp có thể chỉ rõ,
không có pháp có thể hiển bày, không có pháp có thể đắc, không có pháp có thể
chuyển, không có pháp có thể vận. Vì tất cả pháp hoàn toàn không sanh, cũng
không diệt. Vì không sanh diệt nên không chuyển xoay.
Thế
Tôn bảo Thiện Hiện:
-
Đúng như vậy! Đúng như vậy! Vì sao? Vì trong pháp vô tánh lấy không, vô tướng,
vô nguyện, vô tác, vô sanh, vô diệt, hoặc chuyển, hoặc xoay đều không thể đắc.
Nếu người nào có thể tuyên thuyết, chỉ dạy được như thế thì gọi là người tuyên
thuyết Bát nhã Ba la mật thiện tịnh. Trong đây hoàn toàn không có người giảng
thuyết, người lãnh thọ, cũng không có người chứng đắc Niết bàn, cũng không có
người nói pháp ruộng phước. Vì ruộng
phước không nên tánh phước cũng không. Danh ngôn biểu thị đều chẳng thể
đắc, nên gọi là Bát nhã Ba la mật rộng lớn.
Bấy
giờ, Thiện Hiện bạch Phật:
-
Bạch Thế Tôn! Bát Nhã sâu xa là vô biên Ba la mật, như hư không rộng lớn không
biên giới vậy. Đây là chánh đẳng Ba la mật, vì tánh tất cả pháp bình đẳng vậy.
Đây là viễn ly Ba la mật, vì tất cả
pháp hoàn toàn Không vậy. Đây là khó
hàng phục Ba la mật, vì tất cả pháp chẳng thể đắc vậy. Đây là không dấu vết Ba la mật, vì tất cả pháp
không danh tự, hình thể vậy. Đây là vô
hành Ba la mật, vì tất cả pháp không qua lại vậy. Đây là vô đoạt Ba la mật,
vì tất cả pháp chẳng thể nắm bắt vậy. Đây là vô tận Ba la mật, vì tất cả pháp
không thể tận vậy. Đây là vô sanh Ba
la mật, vì tất cả pháp chẳng thể sanh vậy. Đây là vô tác Ba la mật, vì các tác giả chẳng thể đắc vậy. Đây là vô tri Ba la mật, vì các sự hiểu biết
chẳng thể đắc vậy. Đây là vô chuyển
Bát nhã Ba la mật, vì các việc sanh tử chẳng thể đắc vậy. Đây là vô cấu Ba la mật, vì phiền não sạch
vậy. Đây là vô nhiễm Ba la mật, vì
chỗ nương tựa chẳng thể đắc vậy. Đây là vô
hoại Ba la mật, vì lìa biên giới trước vậy. Đây là như huyễn Ba la mật, vì tất cả pháp đều không sanh vậy. Đây là như mộng Ba la mật, vì tánh các ý thức
bình đẳng vậy. Đây là vô hý luận Ba la mật, vì biết tánh các hý luận bình đẳng
vậy. Đây là vô tư lự Ba la mật, vì
các pháp tư lự hoàn toàn không có vậy. Đây là vô động chuyển Ba la mật, vì an trụ pháp giới vậy. Đây là lìa nhiễm
Ba la mật, vì tất cả pháp chẳng hư vọng vậy. Đây là vô tác dụng Ba la mật, vì tất cả pháp không phân biệt vậy. Đây là vắng lặng Ba la mật, vì tướng tất cả
pháp chẳng thể đắc vậy. Đây là vô phiền
não Ba la mật, vì lìa lỗi lầm vậy. Đây là không hữu tình Ba la mật, vì Niết
bàn của hữu tình chẳng thể đắc vậy. Đây là vô
đoạn Ba la mật, vì tất cả pháp không phát khởi vậy. Đây là không hai bên Ba
la mật, vì đối với tất cả pháp không chấp trước vậy. Đây là không chấp trước Ba la mật, vì bậc Nhị
thừa không phân biệt vậy. Đây là vô phân
biệt Ba la mật, vì biết tánh các sự phân biệt bình đẳng vậy. Đây là vô
lượng Ba la mật, vì pháp không lường vậy. Đây là vô khởi Ba la mật, vì lìa ngã pháp vậy. Đây là hư không Ba la mật,
vì đối với tất cả pháp đều không ngăn ngại vậy. Đây là bất sanh Ba la mật, vì tất cả pháp đều chẳng sanh khởi vậy. Đây là vô thường Ba la mật, vì tất cả pháp
thường vô tánh vậy. Đây là khổ Ba la mật, vì pháp bức não tánh bình đẳng vậy.
Đây là vô ngã Ba la mật, vì không
chấp trước tất cả pháp vậy. Đây là Không
Ba la mật, vì tất cả pháp chẳng thể đắc vậy. Đây là vô tướng Ba la mật, vì tất cả pháp lìa các tướng vậy. Đây là vô nguyện Ba la mật, vì tất cả pháp
không có sự thành tựu vậy. Đây là lực
Ba la mật, vì tất cả pháp chẳng thể khuất phục vậy. Đây là vô lượng Phật pháp Ba la mật, vì quá số lượng vậy. Đây là vô sở úy Ba la mật, vì tâm không khiếp
sợ vậy. Đây là chơn như Ba la mật,
vì tất cả pháp chẳng hư vọng vậy. Đây là bản
thể Ba la mật, vì tất cả pháp không tự tánh”.
Phật xác
nhận:
-
“Đúng như vậy! Đúng như vậy! Như lời ngươi nói”.
Thoáng đọc đoạn Kinh này chúng ta
không khỏi thất vọng? Bát Nhã không có sự chứng, không có pháp có thể chỉ rõ,
không có pháp có thể hiển bày, không có pháp có thể đắc, không có pháp có thể
chuyển, không có pháp có thể vận. Bát Nhã là pháp không sanh, không diệt nên
phước điền tánh đức cũng không. Bát Nhã là viễn ly, không dấu vết, vô hành, vô
cấu, vô nhiễm, vô tịnh, vô hoại, như huyễn như mộng. Bát Nhã là vô tư lự, vô
động chuyển, vô tác dụng, vô phiền não, vô đoạn. Bát Nhã là không phân biệt,
không chấp trước, vô khởi, vô ngã, không, vô tướng, vô nguyện...
Khi Thiện Hiện phát biểu như vậy,
Phật xác nhận là đúng! Vậy, Bát Nhã mang lại tác dụng gì cho người thọ dụng?
Cái gì cũng không, học như vậy có ích lợi gì? Làm sao lột xác được? Nhưng
lạ lùng thay nếu thấu hiểu những gì mà Thiện Hiện phát biểu và tuân theo một
cách khôn khéo, đó là lột xác, là đổi thể hay chuyển y.
- Phần
“Bát Nhã Ba La Mật”, cuối cùng trước khi chấm dứt toàn bộ 16 pháp hội, quyển
598, Phật bảo:
“Này
Thiện Dũng Mãnh! Vì tất cả pháp chẳng thể tùy lấy, chẳng thể chấp thọ, không
năng tùy lấy không năng chấp thọ. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh! Không có chút pháp nào khá chấp thọ, cũng không chút pháp năng chấp thọ.
Vì sao? Vì hoặc năng chấp thọ hoặc sở chấp thọ đều chẳng thể đắc. Thiện Dũng
Mãnh! Vì tất cả pháp đều chẳng chắc thật như
việc huyễn vậy. Vì tất cả pháp đều tánh chẳng tự tại, trơ lì chẳng thể đắc vậy. Vì tất cả pháp đều như bóng sáng chẳng thể lấy vậy.Vì tất cả pháp thảy đều hư ngụy, không tự tánh vậy. Vì tất cả
pháp đều như nhóm bọt chẳng thể bắt
nắm vậy. Vì tất cả pháp đều như bọt nổi
khởi rồi chóng diệt vậy. Vì tất cả pháp như
quáng nắng do điên đảo mà sanh. Vì tất cả pháp đều như cây chuối, lõi không chắc thật vậy. Vì tất cả pháp đều như trăng trong nước chẳng thể bắt lấy
vậy. Vì tất cả pháp đều như cầu vồng
hư dối phân biệt vậy. Vì tất cả pháp đều không
có tác dụng nên không thể phát sanh. Vì tất cả pháp đều như nắm tay rỗng không nên tánh, tướng
nó không thật.
Này
Thiện Dũng Mãnh! Các Bồ tát sau khi quán sát như vậy rồi, đối với tất cả pháp không thủ, không chấp, không trụ và không trước. Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ tát
giữ gìn lòng tin sâu sắc đối với tất cả pháp, không còn chấp trước, không chấp
chặt, không tham ái là hành Bát nhã Ba la mật. Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ tát hành như vậy, trụ như vậy mà tu hành
Bát nhã Ba la mật thì mau được viên mãn.
Lại
nữa, này Thiện Dũng Mãnh! Khi các Bồ tát học như vậy là không học về uẩn xứ giới; không vượt qua uẩn xứ giới mà học. Không
học về uẩn xứ giới sanh; không học
về uẩn xứ giới diệt. Không vì nhiếp phục uẩn xứ giới mà học; không vì
không nhiếp phục uẩn xứ giới mà học.
Không vì uẩn xứ giới nhiếp phục hay
chuyển dời mà học; không vì uẩn xứ
giới hướng vào hay an trụ mà học”.
Tất cả pháp như trò huyễn, trơ lì
chẳng thể đắc, như bóng sáng chẳng thể nắm bắt, hư ngụy như hòn bọt nổi khởi
rồi chóng diệt, như quáng nắng, như trăng trên mặt nước, như cầu vòng, như nắm
tay rỗng không... chẳng năng tùy lấy,
chẳng thể chấp thọ hoặc năng chấp thọ hoặc sở chấp thọ đều bất khả đắc. Bát Nhã
đã quá nhiều lần trong suốt đại phẩm nhắc nhở chẳng khác tâm lão bà lúc nào
cũng dặn dò khuyên bảo trẻ thơ. Có lẽ nếu theo đúng những chỉ dẫn này, chúng ta
sẽ không còn gì để nói, để học, để hành, để chấp thủ hay nhiếp phục nữa?
Nói như thế nhưng không phải thế.
Học, hành, thọ trì, nhiếp phục... vẫn tiếp tục nhưng đừng thủ, đừng chấp, đừng trụ, đừng trước, đừng mong chờ, nắm bắt... Rồi cái gì đến sẽ đến. Cơ hội lúc nào cũng sẵn sàng đến với chúng
ta. Vô minh điên đảo đến nhanh chừng nào, giác ngộ cũng đến nhanh như vậy, thì
lo gì có đổi thể lột xác hay không?
Bát Nhã “thật sự khai phóng tất cả
năng lực nội tại tích tập từ nhiều đời kiếp trong mỗi người chúng ta, cái năng
lực bấy lâu bị co cụm, và bị vặn chéo”(7) bởi nếp sống vị kỷ cá nhân mà chúng
ta không lẩn trốn vào đâu được. Bát Nhã sẽ đập vỡ thùng keo sơn để giải phóng
toàn bộ trí năng tiềm ẩn trong ta. Cái gì trước kia mong chờ nắm bắt, ôm giữ,
cất giấu bây giờ trở thành vô nghĩa. Thế giới sẽ trải rộng ra khi chúng ta sẵn
sàng dọn mình lột bỏ cái vỏ sò ích kỷ để thay thế vào đó bằng Trí và Bi. Rồi
ra, chúng ta có thể làm chủ trọn vẹn một kho tàng vô tận với đầy quyền năng
giúp mình và kẻ khác vui sống.
21- Vậy, muốn đổi thể, lột xác thì phải làm sao?
- Phẩm “Tịnh Đạo”, quyển 74, Hội thứ I, ĐBN. Xá lợi Tử hỏi Thiện Hiện:
- “Tôn giả! Tất cả pháp Phật đều mang lại vô lượng vô biên
các nhóm công đức nên gọi là đạo Bồ đề. Nhưng công đức như vậy do đâu mà có?
Thiện
Hiện đáp:
-
Xá Lợi Tử! Công đức như vậy đều do thế
lực của Bát nhã Ba la mật mà đạt được. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì Bát nhã Ba la mật bao giờ cũng là mẹ của
tất cả thiện pháp. Tất cả thiện pháp của Thanh văn, Độc giác, Bồ tát, Như
Lai đều từ đó mà xuất sanh.
-
Xá Lợi Tử! Bát nhã Ba la mật này có khả năng nhiếp thọ khắp tất cả thiện pháp.
Thiện pháp của Thanh văn, Độc giác, Bồ tát, Như Lai đều nương nơi đây mà an
trú.
-
Xá Lợi Tử! Chư Phật quá khứ tu hành Bát nhã Ba la mật đạt đến chỗ viên mãn rốt
ráo, đã chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao, chuyển pháp luân vi diệu, độ vô
lượng chúng sanh. Chư Phật vị lai tu hành Bát nhã Ba la mật đạt viên mãn rốt
ráo, sẽ chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao, chuyển pháp luân vi diệu, độ vô
lượng chúng sanh. Chư Phật hiện tại trong mười phương thế giới tu hành Bát nhã
Ba la mật đạt viên mãn rốt ráo, hiện chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao, chuyển
pháp luân vi diệu, độ vô lượng chúng sinh”.
Kinh nói Bát nhã Ba la mật bao giờ cũng là mẹ của tất cả thiện pháp (thế
gian và xuất thế gian). Chư Phật ba đời tu hành Bát nhã Ba la mật đạt đến chỗ
viên mãn rốt ráo, đã chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao, chuyển pháp luân vi
diệu, độ vô lượng hữu tình là do nhiếp thọ tu hành các pháp tu này. Đó là do
công đức Bát Nhã tạo ra.
- Phẩm
“Quán Chiếu”, quyển 404, Hội thứ II, ĐBN. Phật bảo:
“Này
Xá lợi Tử! Nếu có ai hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đem sự thật mà nói, pháp
nào có thể bao trùm tất cả thiện pháp? Phật
đáp ngay: Đó là Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Vì Bát nhã Ba la mật này là mẹ
của tất cả thiện pháp, hay sanh các công đức của các Ba la mật và năm loại
mắt”.
Không còn gì để ngờ vực nữa, toàn
thể Đại Bát Nhã chỗ nào cũng khuyến dẫn đọc tụng, thọ trì, chánh ức niệm, vì
người diễn nói, truyền bá sâu rộng Bát nhã Ba la mật. Đồng thời phải lấy tràng
hoa thượng diệu, hương bột, hương xoa, y phục, anh lạc, tràng phan, bảo cái, ngọc
diệu, kỹ nhạc, đèn sáng... mà vì cung kính cúng dường!
- Hơn thế nữa, phẩm “Thông Đạt”, quyển 566, Hội thứ VI, ĐBN. Phật bảo trời Tối Thắng: “Thiên vương nên biết! Các đại Bồ
tát tu học một pháp mà có thể thông đạt tất cả pháp, pháp đó là Bát nhã Ba la mật...”
Dùng một pháp có thể biết tất cả
pháp, đạt tất cả pháp mà không lìa một pháp. Pháp đó chính là Bát Nhã, pháp
Không hay Bản tánh không. Pháp này giải thích tất cả càn khôn vũ trụ, vì
trời đất vũ trụ không thể thoát ly khỏi hấp lực của nó. Nó là nguyên tắc chỉ
đạo của tất cả các nguyên tắc chỉ đạo, nó là bộ phận mẹ sanh ra chư Phật và tất
cả pháp.
Vậy, muốn làm chủ trọn vẹn kho tàng
vô tận với đầy đủ quyền năng để giúp mình, người vui sống. Chúng ta phải có
chìa khóa để mở kho tàng đó. Nhưng may mắn thay chúng ta không cần chẻ xương
bán tủy như Bồ tát Thường Đề, chư Phật đã trao sẵn cho chúng ta cái chìa khóa
mầu nhiệm đó từ khi các Ngài chứng ngộ. Chìa khóa đó chính là Đại Bát Nhã Ba La
Mật mà chúng ta đang phụng trì. Hãy ôm
lấy nó như phần thưởng để khai thông tất cả nguồn năng lực đầy sáng tạo (Trí)
và từ hòa (Bi) đang ấp ủ trong trái tim ta để thực thi các hạnh nguyện mà chúng
ta hằng mong ước. Nếu làm được như thế thì con thiềm thừ thoát xác, con cá chép
hóa rồng, sẽ tung tăng bay lượn khắp không gian vô tận.
22- Đạo ở đâu? Đạo
không còn là bí ẩn đối với kẻ đi tìm chân lý nữa. Phẩm “Mạn Thù Thất Lợi”,
quyển 574, Hội thứ VII. Phật hỏi:
-
“Mạn Thù Thất Lợi! Ngươi đối với Phật pháp lẽ nào không mong cầu?
-
Bạch Thế Tôn! Nay con chẳng thấy có pháp nào chẳng phải Phật pháp thì cầu chỗ
nào?
-
Mạn Thù Thất Lợi! Ngươi đối với Phật pháp đã thành tựu rồi chăng?
-
Bạch Thế Tôn! Con nay đều chẳng thấy pháp khá gọi
Phật pháp, thì thành tựu cái gì?”
Chúng ta phải hiểu câu nói của Bồ
tát được xem là trí tuệ vào bậc nhất trong hàng Bồ tát khi Ngài tuyên bố: “Con chẳng thấy pháp nào chẳng phải
là Phật pháp thì cầu chỗ nào?” Ai cũng
biết Bồ tát Mạn Thù Thất Lợi hay Văn Thù Sư Lợi, một bậc đại trí, là vị cổ
Phật, hiện thân làm Bồ tát, giúp Đức Phật Thích Ca Mâu Ni giáo hóa chúng sanh ở
cõi Nam Thiệm bộ châu này. Ngài biết rõ pháp nào cũng là pháp Phật. Vậy, cầu
làm gì? Hay nói cách khác Bồ tát Mạn Thù biết pháp Phật không do ai làm ra,
pháp Phật có sẵn trong thân, pháp Phật có sẵn ngoài thân, pháp Phật tràn đầy
trong trời đất. Chỗ nào cũng là pháp, pháp nào cũng gọi là pháp Phật thì cầu
làm gì?
Đó là hiểu đạo, hiểu Đạo thì thấy
Đạo. Đạo chính là tự thể, là máu mủ của chính ông. Ông là đạo, thì cầu đạo chỗ
nào? Cũng vậy, Phật thuyết pháp 49 năm mà nói:
“Từ đêm Ta thành Đạo
Đến khi nhập Niết bàn
Ở trong khoảng giữa ấy
Ta trọn không có nói
Duyên tự
pháp trụ
Nên Ta nói thế ấy”.
Phật cũng không làm ra pháp, pháp có
khắp trong trời đất, duyên tự pháp trụ.
Pháp nhĩ tự nhiên. Hiểu pháp tức là pháp. Hiểu đạo tức là Đạo. Pháp đó chính là
Phật, Phật chính là đạo.
Bây giờ, chúng ta ai cũng biết đạo
phát xuất từ đâu rồi. Vậy, đến lúc cần úp sách lại, không
mượn chữ, mượn lời hay mượn pháp nữa. Không nói khổ nói lạc, không nói sanh tử
Niết bàn, không nói phiền não hay Bồ đề, không nói đạo hay vô đạo... Quên đi
tất cả tội lỗi, phước nghiệp, trí đức, quên luôn cả Bát nhã Ba la mật. Còn nhớ
là còn bị nó trói.
Trong Cảnh Đức Truyền Đăng Lục,
Thiền sư Đạo Minh (Trần Tôn Túc) pháp tự đời thứ tư của Nam Nhạc Hoài Nhượng,
truyền thừa của Hoàng Bá Hy Vận, cùng thầy Tăng giảng kinh uống trà. Sư bảo
thầy Tăng:
- Ta không cứu ông nổi đâu!
Tăng nói:
- Mỗ đây không hiểu, xin thương tình
chỉ thị.
Sư đưa cái bánh dầu lên chỉ thị,
nói:
- Cái này là cái gì?
Tăng đáp:
- Sắc pháp.
Sư nói:
- Cái gã nấu dầu này!
Nếu có thể bàn thì chúng tôi tự hỏi:
Cái bánh thì nói là cái bánh, tại sao lại nói là sắc pháp? Bởi vì tập khí nghe
kinh, đọc sách, giảng luận lâu ngày nên sặc mùi kinh kệ, quên đi là mình đang
sống, sống một đời tự tại. Đừng mắc phải bệnh này. Phải phủi sạch tất cả mọi
tương duyên, không để bất cứ thứ gì ràng buộc, nếu không bị Sư mắng: “Cái gã
nấu dầu này”. Tại sao bị mắng là gã nấu dầu? Vì cái bánh mà nói là sắc pháp,
nói như vậy là nói láo, nên bị Diêm vương nấu dầu.
Học Bát nhã Ba la mật là khai phóng,
tự mình làm chủ lấy đời mình, sống trong tỉnh thức dần dà thì được tịch lặng an
nhiên thôi.
Kết luận:
(Cho phần Tổng kết toàn bộ)
Tất cả
Kinh điển thuộc hệ Bát Nhã, có rất nhiều pháp môn, mỗi pháp môn có giá trị
riêng của nó như trong một xâu chuỗi mà mỗi viên ngọc tròn trịa đều đặn không
những tự nó chiếu sáng làm tăng giá trị cho chính nó mà còn nâng giá trí rạng
rỡ cho toàn thể chuỗi ngọc. Nói như vậy không có nghĩa tu học Bát nhã Ba la mật
là phải học một pháp môn hay học toàn thể tất cả pháp môn. Tu hành 81 khoa danh
tướng Bát Nhã được gọi là các pháp mầu Phật đạo đã được xem là quá nhiều quá
khó, không biết bao nhiêu đời kiếp mới có thể hoàn tất nói chi đến 84.000 pháp
môn. Phẩm “Thông Đạt”, quyển 566, Hội thứ VI, ĐBN. Phật bảo trời Tối Thắng: “Thiên vương nên biết! Các đại Bồ
tát tu học một pháp mà có thể thông đạt tất cả pháp, pháp đó là Bát nhã Ba la
mật”. Phẩm “Pháp Tánh”, quyển 569, Hội
thứ VI, ĐBN. Phật bảo: “Thiên vương nên biết! Đối với các pháp ta đã nói ở
trước, Bồ tát nào chỉ tu một hạnh là đầy đủ các pháp. Như vậy, một hạnh cũng
sanh về cõi Phật thanh tịnh. Vì sao? Vì trong mỗi một hạnh đầy đủ các hạnh”.
Vậy, tùy theo điều kiện, tùy theo
ước nguyện, căn cơ tu một pháp đến chỗ rốt ráo thì cũng có thể biết tất cả
pháp; tu một hạnh được đầy đủ tất cả hạnh, cũng được sanh về cõi Phật thanh
tịnh, còn muốn gì hơn! Hãy theo chỉ dẫn này mà tu tập thì có thể vuông tròn
hạnh nguyện.
Thích nghĩa cho phần Tổng luận:
(1). Duyên khởi: Tất
cả các pháp hữu vi đều do nhân duyên (các điều kiện) hòa hợp mà thành, lý này
gọi là duyên khởi. Tức là bất cứ vật gì trong thế giới hiện tượng đều nương vào
những điều kiện nhân duyên mà sinh ra, tồn tại, biến hóa (vô thường) và tiêu
diệt. Đó là pháp tắc mà đức Phật đã chứng ngộ được. Như 12 chi duyên khởi đã
được giải thích rõ trong các Kinh điển A hàm. (Tóm tắt theo Phật Quang Tự điển)
(2). Phỏng theo Phật Quang tự điển.
(3). Khảo luận của Thiền sư D.T.
Suzuki trong Thiền luận quyển hạ.
(4). Kinh Thủ Lăng Nghiêm.
(5). Phật Học Phổ Thông, khóa thứ VI
- VII, Phật-Học-Viện Quốc-tế xuất bản.
(6). Luật giao thông của Anh quốc:
Lái xe bên trái.
(7). Phần “Mạn Thù Thất Lợi”, Q.
575, Hội thứ VII, ĐBN.
(8). An trụ chỗ vắng lặng nhiệm mầu
chính là thiền quán nhằm tạo cơ hội chứng ngộ.
---o0o---