PHẨM “THIỆN ĐẠT”
Phần sau quyển 471 đến phần đầu
quyển 473, Hội thứ II, ĐBN.
(Tương đương phẩm “Các Tướng Bình
Đẳng”, phần sau Q.383
cho đến phần đầu Q.386, Hội thứ I,
ĐBN)
Gợi ý:
Đây là một phẩm quá hay thuyết về
danh tướng và sự cảm thọ do danh tướng của tất cả pháp tạo thành. Phẩm này giải
thích tất cả pháp là giả danh, là huyễn hóa, chỉ do hòa hợp mà có, không có tự
tánh, lấy vô tánh làm tự tánh v.v... Nhờ đó mà các đại Bồ tát hoàn toàn thông
suốt thật tướng của tất cả các pháp. Thấu rõ thật tướng tất cả các pháp như thế
nào? Thấu rõ các pháp đều không thật, đều là vô tướng, vô niệm, vô tác ý.
Đó là giáo nghĩa của Tam giải thoát môn: Không, vô tướng, vô tác. Bồ tát an trụ
pháp môn vô lậu này thì có thể học vô lượng, vô biên các pháp môn Phật học và
có thể an lập hữu tình trong chân như, thật tướng mà nhập vào pháp giới. Vì
sao?
Vì hiểu được chân tướng của vạn hữu
là nhập được pháp giới, nên pháp này có tên là "Thiện Đạt". Cấu trúc
của phẩm này thật xảo diệu. Phẩm tựa làm nổi bật giáo lý: Hiểu phẩm này là hiểu
tất cả pháp, hiểu tất cả pháp là hiểu pháp giới. Vì tất cả pháp là pháp giới,
pháp giới là tất cả pháp. Hiểu được chơn như, pháp giới thì được xem là giác
ngộ!
Tóm lược:
Không hành bố thí cho đến Bát nhã Ba
la mật; không hành bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; không hành bốn
niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo; không hành pháp môn giải thoát không, vô
tướng, vô nguyện; không hành pháp nội không cho đến vô tánh tự tánh không;
không hành chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì; không hành Thánh đế khổ,
tập, diệt, đạo; không hành tám giải thoát cho đến mười biến xứ; không hành Tịnh
quán địa cho đến Như Lai địa; không hành Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa; không
hành tất cả pháp môn Đà la ni, pháp môn Tam ma địa; không hành năm loại mắt,
sáu phép thần thông; không hành Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất
cộng; không hành ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của bậc Đại sĩ; không
hành pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; không hành Nhất thiết trí, Đạo
tướng trí, Nhất thiết tướng trí; không hành quả Dự lưu cho đến Độc giác Bồ đề;
không hành tất cả các Bồ tát hạnh; không hành quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề
của chư Phật; không hành Nhất thiết trí trí, không hành tùy miên và các
phiền não trói buộc; không hành pháp thiện pháp ác; không hành pháp hữu ký vô
ký; không hành pháp hữu lậu vô lậu; không hành pháp thế gian xuất thế gian;
không hành pháp hữu vi và pháp vô vi; không hành Thánh đạo và kết quả của Thánh
đạo. Các đại Bồ tát khi hành Bát Nhã thẳm sâu cũng lại như thế, đối tất
cả pháp đều không sở hành. Đấy là khéo đạt thật tướng các pháp.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Làm sao người được
biến hóa có thể tu Thánh đạo?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Kẻ được biến hóa nương
tu Thánh đạo không nhiễm không tịnh, cũng chẳng sanh tử xoay quanh các thú.
(Tất cả pháp đều như huyễn hóa)
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:
- Các đại Bồ tát khi hành Bát Nhã thẳm
sâu, làm sao hoàn toàn thông suốt tất cả các pháp đều không phải thật?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Tất
cả kẻ được Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác biến hóa có thật, do nương sự thật đây
có nhiễm có tịnh, và bị xoay quanh các thú chăng?
Thiện Hiện đáp rằng:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng có! Các kẻ
được Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác biến hóa chẳng có chút thật, chẳng do nương
đây có nhiễm có tịnh, cũng không sanh tử xoay quanh các thú.
Phật bảo Thiện Hiện:
- Cũng như vậy lúc hành Bát nhã Ba
la mật, các đại Bồ tát hoàn toàn thông suốt thật tướng của tất cả các pháp, thấu
rõ các pháp đều không thật.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Tất cả sắc, thọ, tưởng, hành, thức
đều như huyễn hóa? Tất cả mười hai xứ cho đến mười tám giới đều như huyễn hóa
phải? Tất cả nhãn xúc cho đến ý xúc đều như huyễn hóa? Tất cả mọi cảm thọ do
nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các cảm thọ do ý xúc làm duyên sanh ra đều
như huyễn hóa? Tất cả địa giới cho đến thức giới đều như huyễn hóa? Tất cả nhân
duyên cho đến tăng thượng duyên đều như huyễn hóa? Tất cả các pháp do nhân
duyên sanh ra đều như huyễn hóa? Tất cả vô minh cho đến lão tử đều như huyễn
hóa? Tất cả bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật đều như huyễn hóa? Tất cả bốn tịnh
lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc đều như huyễn hóa? Tất cả bốn niệm trụ cho
đến tám chi Thánh đạo đều như huyễn hóa? Tất cả pháp môn giải thoát không, vô
tướng, vô nguyện đều như huyễn hóa? Tất cả pháp nội Không cho đến vô tánh tự
tánh Không đều như huyễn hóa? Tất cả chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì đều
như huyễn hóa? Nói rộng ra, tất cả pháp Phật đều như huyễn hóa? Tất cả pháp
thiện pháp ác, hoặc pháp hữu ký pháp vô ký, hoặc pháp hữu lậu pháp vô lậu, hoặc
pháp thế gian pháp xuất thế gian, hoặc pháp hữu vi pháp vô vi đều như huyễn hóa
ư?
Phật bảo Thiện Hiện:
- Đúng vậy! Đúng vậy! Sắc, thọ,
tưởng… cho đến tất cả các pháp hữu vi, pháp vô vi đều như huyễn hóa.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Nếu tất cả pháp đều như huyễn hóa
thì các pháp được biến hóa đều không thật, sắc thọ tưởng hành
thức cho đến các pháp hữu vi vô vi không thật. Do đấy cũng không tạp nhiễm
thanh tịnh, cũng không sanh tử xoay quanh các thú, cũng không theo các pháp ấy
được nghĩa giải thoát thì đại Bồ tát làm sao đối các hữu tình thu được thắng giải (1)?
Phật bảo Thiện Hiện:
- Ý ngươi nghĩ sao? Xưa kia, lúc
hành Bồ tát đạo có thấy hữu tình có thể thoát khỏi các nẻo địa ngục, bàng sanh,
cõi quỷ, nhơn, thiên không?
Thiện Hiện đáp:
- Không, thưa Thế Tôn!
Phật bảo Thiện Hiện:
- Thiện Hiện! Đúng vậy! Khi xưa các
đại Bồ tát hành Bồ tát đạo còn không thấy có hữu tình thoát khỏi năm đường và
ba cõi. Vì sao? Vì các đại Bồ tát hiểu biết thông suốt tất cả pháp đều như
huyễn hóa, đều chẳng thật có.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Nếu các đại Bồ tát thông suốt thấy
rõ tất cả các pháp đều như huyễn hóa, hoàn toàn chẳng có thật thì vì việc gì mà
các đại Bồ tát phải nhọc nhằn tu hành sáu Ba la mật; vì việc gì mà tu hành bốn
tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; nói rộng ra vì việc gì mà tu hành tất
cả pháp Phật, thành thục hữu tình, trang nghiêm cõi Phật?
Phật bảo Thiện Hiện:
- Nếu các hữu tình có thể tự thấu rõ
tất cả pháp đều như huyễn hóa, hoàn toàn chẳng thật có thì các đại Bồ tát không
cần phải trải qua vô số đại kiếp vì các hữu tình mà tu hành những hạnh khó làm.
Do các hữu tình không thể thông suốt tất cả pháp đều như huyễn hóa, hoàn toàn
chẳng có thật cho nên đại Bồ tát phải trải qua vô số đại kiếp, vì các chúng
sanh mà tu hành hạnh khó làm của Bồ tát.
(Hữu tình trụ ở danh tướng hư vọng
phân biệt)
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại bạch
Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp như
huyễn, như mộng, như tiếng vang, như bóng sáng, như ảnh, như quáng nắng, như
thành Càn thát bà, như việc biến hóa thì hữu tình được biến hóa ra trụ ở chỗ
nào mà các đại Bồ tát thực hành Bát Nhã thẳm sâu cứu giúp họ ra khỏi?
Phật bảo Thiện Hiện:
- Hữu tình được biến hóa ra trụ ở
danh tướng phân biệt hư vọng, các đại Bồ tát hành sâu Bát Nhã cứu giúp họ
ra khỏi danh tướng phân biệt hư vọng.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Những gì là danh, những gì là
tướng?
Phật bảo Thiện Hiện:
- Danh chỉ là khách, chỉ
nghĩa được hiển bày ra một cách giả tạo, nghĩa là đây gọi là sắc, thọ, tưởng,
hành, thức; đây là mười hai xứ cho đến mười tám giới; đây gọi là nam, đây gọi
là nữ; đây gọi là nhỏ, đây gọi là lớn; đây là địa ngục, đây là bàng sanh, đây
là cõi quỷ; đây là người, đây là trời; đây là pháp thiện, đây là pháp ác; đây
là pháp hữu ký, đây là pháp vô ký; đây là pháp hữu lậu, đây là pháp vô lậu; đây
là pháp thế gian, đây là pháp xuất thế gian; đây là pháp hữu vi, đây là pháp vô
vi; đây là quả Dự lưu, đây là quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, đây là Độc giác
Bồ đề; đây là tất cả các hạnh của đại Bồ tát; đây là quả vị Vô Thượng Chánh
Đẳng Bồ đề v.v…
Thiện Hiện! Tất cả tên gọi như thế
là biểu hiện của các nghĩa, chỉ là giả danh nên tất cả danh đều chẳng
thật có. Các pháp hữu vi cũng chỉ có danh. Do đó, vô vi cũng chẳng có thật.
Phàm phu ngu si vọng chấp ở trong đó. Các đại Bồ tát hành sâu Bát nhã Ba la mật,
với bi nguyện huân tập trong tâm, dùng phương tiện thiện xảo giáo hóa giúp xa
lìa vọng chấp đó, bằng cách dạy: Danh là do vọng tưởng phân biệt phát sanh,
cũng là do các duyên hòa hợp giả lập ra, các ngươi không nên chấp trước. Danh
không có thật, tự tánh đều rỗng không, người trí không thể chấp trước pháp
không.
Thế nên, Thiện Hiện! Các đại Bồ tát
hành Bát nhã Ba la mật bằng phương tiện thiện xảo vì các hữu tình giảng dạy để
họ khiển trừ chấp trước danh pháp.
Thiện Hiện! Đó là danh, còn tướng có
hai loại. Phàm phu ngu si chấp trước ở trong đó. Những gì là hai? Đó là sắc
tướng và vô sắc tướng. Thế nào là:
- Sắc tướng? Cái gì có hình
thể, màu sắc hoặc thô hoặc tế, hoặc lớn hoặc nhỏ, hoặc đen trắng, xấu đẹp, ngon
dở… mà mắt có thể thấy, tay có thể xúc chạm, lưỡi có thể nếm v.v… thì gọi là
sắc tướng.
- Vô sắc tướng: Cái gì không
thấy được, không có hình dáng màu sắc thì gọi là vô sắc tướng như âm
thanh, mùi vị…
Ở trong các pháp có sắc, vô sắc,
phàm phu ngu si chấp tướng phân biệt sanh các phiền não gọi là tướng, vô tướng.
Các đại Bồ tát hành sâu Bát Nhã bằng phương tiện thiện xảo, dạy các hữu tình xa
lìa hai tướng, lại dạy họ an trụ vào cảnh giới vô tướng. Tuy dạy họ trụ vào
cảnh giới vô tướng nhưng không làm cho họ rơi vào kiến chấp nhị biên, cho rằng
đây là tướng đây là vô tướng. Thế nên, Thiện Hiện! Các đại Bồ tát hành Bát Nhã thẳm
sâu bằng phương tiện thiện xảo, giúp các hữu tình xa lìa các tướng, hành cảnh
vô tướng mà không chấp trước.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Nếu tất cả pháp chỉ có danh tướng,
tất cả danh tướng đều là giả lập do sự phân biệt hư vọng phát sanh, ở trong đó
hoàn toàn không có chút gì thật, có thể nắm bắt thì lúc hành sâu Bát nhã Ba la
mật, vì sao đối với các thiện pháp, đại Bồ tát có thể tăng tiến, cũng có thể
giúp người khác tăng tiến thiện pháp. Do các thiện pháp tuần tự tăng tiến nên
vị ấy có thể tuần tự làm viên mãn các địa, cũng có thể an lập các loài hữu tình
giúp họ trụ vào quả ba thừa tùy theo căn cơ của họ?
Phật bảo Thiện Hiện:
- Nếu trong các pháp có chút thật,
chẳng phải giả lập, có danh tướng thì lúc hành sâu Bát nhã Ba la mật, các đại
Bồ tát không thể tăng tiến đối với thiện pháp, cũng không giúp người khác tăng
tiến thiện pháp. Do trong các pháp không chút gì thật chỉ có các danh tướng giả
lập, cho nên lúc hành sâu Bát nhã Ba la mật, đại Bồ tát có thể tự tăng tiến đối
với thiện pháp, cũng có thể giúp người khác tăng thêm thiện pháp; có thể
dùng vô tướng làm phương tiện để viên mãn bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật;
có thể dùng vô tướng làm phương tiện để viên mãn bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn
định vô sắc; có thể dùng vô tướng làm phương tiện để viên mãn bốn niệm trụ cho
đến tám chi Thánh đạo; có thể dùng vô tướng làm phương tiện để viên mãn pháp
môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện; có thể dùng vô tướng làm phương tiện
để viên mãn pháp nội Không cho đến vô tánh tự tánh Không; có thể dùng vô tướng
làm phương tiện để viên mãn chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì; nói rộng
ra, cũng có thể dùng vô tướng làm phương tiện để viên mãn tất cả pháp Phật; có
thể dùng vô tướng làm phương tiện để viên mãn Nhất thiết trí trí; có thể dùng
vô tướng làm phương tiện để thành thục hữu tình, trang nghiêm cõi Phật.
Thế nên, Thiện Hiện! Do tất cả pháp
không có chút thật, chỉ có các danh tướng giả lập nên các đại Bồ tát không phát
sanh điên đảo, chấp trước trong đó, có thể dùng vô tướng làm phương tiện để tự
làm tăng tiến các thiện pháp, cũng có thể giúp người khác tăng tiến các thiện
pháp.
Lại nữa Thiện Hiện! Nếu trong các
pháp có thật tướng lượng bằng đầu mảy lông thì lúc hành sâu Bát Nhã, các đại Bồ
tát chẳng cần hiểu biết vô tướng, vô niệm cùng vô tác ý để chứng đắc quả
vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, an lập hữu tình vào pháp vô lậu. Nhưng do các
pháp vô lậu đều vô tướng, vô niệm, vô tác ý, nên đại Bồ tát hành sâu Bát
Nhã bằng phương tiện thiện xảo, an lập hữu tình vào pháp vô lậu mới được gọi là
việc lợi ích cho người khác một cách chơn thật. (Q.471, ĐBN)
(Tất cả pháp đều là vô tướng, vô
niệm, vô tác ý, không hai không khác)
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Nếu tất cả pháp có tánh vô lậu
chơn thật, vô tướng, vô niệm, vô tác ý thì vì sao ở trong các Kinh, Thế Tôn đã
nhiều lần nói: Đây là pháp hữu lậu, đây là pháp vô lậu, pháp thế gian, pháp
xuất thế gian, pháp hữu vi, pháp vô vi, pháp hữu tránh, pháp vô tránh(2), đây
là pháp lưu chuyển(3), đây là pháp hoàn diệt(4), đây là pháp Thanh văn, đây là
pháp Độc giác, pháp Bồ đề, pháp Phật vậy?
Phật bảo Thiện Hiện:
- Ý ngươi nghĩ sao? Tánh của pháp
hữu lậu cùng với tánh của các pháp vô lậu, vô tướng có khác nhau không?
Thiện Hiện đáp:
- Không, thưa Thế Tôn!
Phật bảo Thiện Hiện:
- Ý ngươi nghĩ sao? Tánh của pháp
Thanh văn cùng với tánh của các pháp vô lậu, vô tướng có khác nhau không?
Thiện Hiện đáp:
- Không, thưa Thế Tôn!
Phật bảo Thiện Hiện:
- Tánh của các pháp hữu lậu há chẳng
phải là tánh của pháp vô lậu, vô tướng, vô niệm sao?
Thiện Hiện đáp:
- Đúng vậy, thưa Thế Tôn!
Phật bảo Thiện Hiện:
- Tánh của các quả Dự lưu, Nhất lai,
Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề, quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề há chẳng
phải chính là tánh của pháp vô lậu, vô tướng, vô niệm sao?
Thiện Hiện đáp:
- Đúng vậy, thưa Thế Tôn!
Phật bảo Thiện Hiện:
- Vì lý do này nên biết tất cả
pháp đều là vô tướng, vô niệm, vô tác ý, không hai không khác.
Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ tát nào
học tất cả pháp vô tướng, vô niệm, vô tác thì thường có thể tăng trưởng pháp
lành như là bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật; hoặc bốn tịnh lự, bốn vô lượng,
bốn định vô sắc; hoặc bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo; hoặc pháp môn
giải thoát không, vô tướng, vô nguyện; hoặc pháp nội Không cho đến vô tánh tự
tánh Không; hoặc chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì; hoặc nói rộng ra, tất
cả pháp Phật; hoặc thành thục hữu tình, trang nghiêm cõi Phật. Tất cả các Phật
pháp này đều nhờ học vô tướng, vô niệm, vô tác ý mà được tăng trưởng. Vì sao?
Vì ngoài ba môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện các đại Bồ tát không cần
phải học pháp nào khác nữa. Thiện Hiện! Vì ba môn giải thoát bao gồm tất cả
pháp lành vi diệu. Vì sao? Vì giải thoát môn Không quán tự tướng tất cả pháp
đều là Không. Giải thoát môn vô tướng quán tất cả pháp xa lìa các tướng. Giải
thoát môn vô nguyện quán tất cả pháp xa lìa các ước nguyện. Các đại Bồ tát dựa
vào ba môn này có thể tóm thu tất cả pháp lành thù thắng. Lìa ba môn này thì
các pháp lành không sanh trưởng được. (Q.471, ĐBN)
Lại nữa Thiện Hiện! Đại Bồ tát nào
có thể tu học ba môn giải thoát này thì có thể học sắc uẩn cho đến thức uẩn;
cũng có thể học mười hai xứ cho đến mười tám giới; cũng có thể học nhãn xúc cho
đến ý xúc; có thể học các cảm thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các
cảm thọ do ý xúc làm duyên sanh ra; cũng có thể học địa giới cho đến thức giới;
cũng có thể học nhân duyên cho đến tăng thượng duyên; cũng có thể học các pháp
do nhân duyên sanh ra; cũng có thể học vô minh cho đến lão tử; cũng có thể học
pháp nội không cho đến vô tánh tự tánh không; cũng có thể học chơn như cho đến
cảnh giới bất tư nghì; nói rộng ra, cũng có thể học tất cả pháp Phật; cũng có
thể học thành thục hữu tình, trang nghiêm cõi Phật; cũng có thể học vô lượng vô
biên các Phật pháp khác.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ tát
nào có thể học ba môn giải thoát này thì có thể học sắc uẩn cho đến thức uẩn?
Phật bảo Thiện Hiện:
- Nếu đại Bồ tát khi hành sâu Bát
nhã Ba la mật, năng như thật biết sắc cho đến thức hoặc tướng, hoặc sanh diệt,
hoặc chơn như. Đấy gọi năng học sắc cho đến thức. (Q.471, ĐBN)
Thiện Hiện! Thế nào là đại Bồ tát
khi hành sâu Bát Nhã như thật biết về tướng của sắc? Đó là lúc hành Bát
Nhã thẳm sâu, các đại Bồ tát như thật biết sắc hoàn toàn có lỗ hổng, hoàn toàn
có khe hở, giống như bọt nước, tánh không bền chắc. Đó là đại Bồ tát như thật
biết về tướng của sắc khi hành Bát Nhã thẳm sâu.
Thiện Hiện! Thế nào là đại Bồ tát
khi hành Bát Nhã thẳm sâu như thật biết về sự sanh diệt của sắc? Đó là
lúc hành Bát Nhã thẳm sâu, các đại Bồ tát như thật biết lúc sắc sanh không từ
đâu đến, lúc diệt thì không đi về đâu, dù không đến không đi mà tương ưng sanh
diệt. Đó là đại Bồ tát như thật biết về sự sanh diệt của sắc khi hành Bát Nhã thẳm
sâu.
Thiện Hiện! Thế nào là đại Bồ tát
khi hành sâu Bát Nhã như thật biết sắc như? Đó là lúc hành Bát Nhã thẳm
sâu, như thật biết sắc như không sanh, không diệt, không đến, không đi, không
nhiễm, không tịnh, không tăng, không giảm, tánh thường như, không hư vọng,
không biến đổi nên gọi là như. Đó là đại Bồ tát như thật biết sắc như khi hành Bát
Nhã thẳm sâu (5).
Thiện Hiện! Thế nào là đại Bồ tát
khi hành Bát Nhã thẳm sâu biết rõ như thật về tướng của thọ? Đó là lúc
hành Bát Nhã thẳm sâu, các đại Bồ tát như thật biết thọ hoàn toàn như ung nhọt,
hoàn toàn như mũi tên, chóng sanh, chóng diệt, giống như bong bóng nước, hư dối
không trụ, do ba pháp hòa hợp sanh ra. Đó gọi là đại Bồ tát như thật biết tướng
của thọ.
Thiện Hiện! Thế nào là đại Bồ tát
khi hành Bát Nhã thẳm sâu như thật biết về sự sanh diệt của thọ? Đó là
lúc hành Bát Nhã thẳm sâu, các đại Bồ tát như thật biết lúc thọ sanh không từ
đâu đến, lúc diệt thì không đi về đâu, dù không đến không đi mà tương ưng sanh
diệt. Đó là đại Bồ tát biết rõ như thật sự sanh diệt của thọ khi hành Bát Nhã thẳm
sâu.
Thiện Hiện! Thế nào là đại Bồ tát
khi hành Bát Nhã thẳm sâu biết rõ như thật về thọ như? Đó là lúc hành Bát
Nhã thẳm sâu, đại Bồ tát như thật biết thọ như không sanh, không diệt, không
đến, không đi, không nhiễm, không tịnh, không tăng, không giảm, tánh thường
như, không hư vọng, không biến đổi nên gọi là như. Đó là đại Bồ tát như thật
biết về thọ khi hành Bát Nhã thẳm sâu.
Thiện Hiện! Thế nào là đại Bồ tát
khi hành Bát Nhã thẳm sâu biết rõ như thật về tướng của tưởng? Đó là khi
hành Bát Nhã thẳm sâu, đại Bồ tát như thật biết tưởng giống như sóng nắng,
không thể nắm bắt do nhơn duyên khát ái nên phát sanh tưởng hư vọng, rồi dựa
vào đó phát ra lời nói. Đó gọi là đại Bồ tát như thật biết về tướng của tưởng
khi hành Bát Nhã thẳm sâu.
Thiện Hiện! Thế nào là đại Bồ tát
khi hành Bát Nhã thẳm sâu như thật biết về sự sanh diệt của tưởng? Đó là
lúc hành Bát Nhã thẳm sâu, các đại Bồ tát như thật biết là lúc tưởng sanh không
từ đâu đến, lúc diệt thì không đi về đâu, dù không đến không đi mà tương ưng
sanh diệt. Đó gọi là đại Bồ tát như thật biết về sự sanh diệt của tưởng khi
hành Bát Nhã thẳm sâu.
Thiện Hiện! Thế nào là đại Bồ tát
khi hành Bát Nhã thẳm sâu như thật biết về tưởng như? Đó là lúc hành Bát
Nhã thẳm sâu, đại Bồ tát như thật biết tưởng như không sanh, không diệt, không
đến, không đi, không nhiễm, không tịnh, không tăng, không giảm, tánh thường
như, không hư vọng, không biến đổi nên gọi nó là như. Đó gọi là đại Bồ tát như
thật biết về tưởng như khi hành Bát Nhã thẳm sâu.
Thiện Hiện! Thế nào là đại Bồ tát
khi hành Bát Nhã thẳm sâu như thật biết về tướng của hành? Đó là
khi hành Bát Nhã thẳm sâu, đại Bồ tát như thật biết là hành giống cây chuối,
lột bỏ từng bẹ ra thì không tìm được cái lõi. Đó gọi là đại Bồ tát biết như
thật về tướng của hành khi hành Bát Nhã thẳm sâu.
Thiện Hiện! Thế nào là đại Bồ tát
khi hành Bát Nhã thẳm sâu như thật biết về sự sanh diệt của hành? Lúc
hành Bát Nhã thẳm sâu, đại Bồ tát như thật biết là lúc sanh, hành không từ đâu
đến, khi diệt cũng không đi về đâu, dù không đến không đi mà tương ưng sanh
diệt. Đó gọi là đại Bồ tát như thật biết về sự sanh diệt của hành khi hành Bát
Nhã thẳm sâu.
Thiện Hiện! Thế nào là đại Bồ tát
khi hành Bát Nhã thẳm sâu như thật biết về hành như? Lúc hành Bát Nhã thẳm
sâu, đại Bồ tát như thật biết hành như không sanh, không diệt, không đến, không
đi, không nhiễm, không tịnh, không tăng, không giảm, tánh thường nhất như,
không hư vọng, không biến đổi nên gọi là như. Đó là đại Bồ tát như thật biết về
hành như khi hành Bát Nhã thẳm sâu.
Thiện Hiện! Thế nào là đại Bồ tát
khi hành Bát Nhã thẳm sâu như thật biết về tướng của thức? Lúc hành Bát
Nhã thẳm sâu, như thật biết thức như các việc huyễn, nhiều duyên hòa hợp, giả
thi thiết có, thật chẳng khá được. Giống như nhà ảo thuật cùng các học trò của
ông ta hóa làm bốn loại quân ở ngã tư đường, đó là quân voi, quân ngựa, quân
xe, quân bộ, hoặc lại hóa hiện các sắc loại khác, tướng tuy có mà không có
thật. Thức cũng như thế thật chẳng khá được. Đó gọi là đại Bồ tát như thật biết
về tướng của thức khi hành Bát Nhã thẳm sâu.
Thiện Hiện! Thế nào là đại Bồ tát
khi hành Bát Nhã thẳm sâu biết rõ như thật về sự sanh diệt của thức? Lúc
hành Bát Nhã thẳm sâu, đại Bồ tát như thật biết lúc sanh, thức không từ đâu
đến, khi diệt cũng không đi về đâu, dù không đến không đi mà tương ưng sanh
diệt. Đó là đại Bồ tát như thật biết về sự sanh diệt của thức khi hành Bát Nhã thẳm
sâu.
Thiện Hiện! Thế nào là đại Bồ tát
khi hành sâu Bát Nhã như thật biết về thức như? Lúc hành Bát Nhã thẳm
sâu, đại Bồ tát biết như thật thức như không sanh, không diệt, không đến, không
đi, không nhiễm, không tịnh, không tăng, không giảm, tánh thường nhất như,
không hư vọng, không biến đổi nên gọi là “như”. Đó là đại Bồ tát như thật biết
về thức như khi hành Bát Nhã thẳm sâu. (Q.472,
ĐBN).
(Nếu biết tất cả pháp không có tự
tánh mà có thể an trụ,
thì có thể học ba môn giải thoát
cùng vô lượng pháp môn Phật học khác)
Thiện Hiện! Đó là đại Bồ tát có thể
học ba môn giải thoát như vậy thì có thể học sắc uẩn cho đến thức uẩn.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Thế nào là đại Bồ tát có thể học
ba môn giải thoát như vậy, cũng có thể học mười hai xứ?
Phật bảo Thiện Hiện:
- Lúc thực hành Bát Nhã thẳm sâu,
đại Bồ tát nào như thật biết về sáu căn, sáu trần và tự tánh không của chúng là
bất khả đắc, thì này Thiện Hiện! Đó là đại Bồ tát có thể học ba môn giải
thoát như vậy, cũng có thể học mười hai xứ.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Thế nào là đại Bồ tát có thể học
ba môn giải thoát như vậy, cũng có thể học mười tám giới?
Phật bảo Thiện Hiện:
- Lúc thực hành Bát Nhã thẳm sâu,
đại Bồ tát nào như thật biết về sáu căn, sáu trần, sáu thức và tự tánh không
của chúng là bất khả đắc, thì này Thiện Hiện! Đó là đại Bồ tát có thể học ba
môn giải thoát như vậy, cũng có thể học mười tám giới.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Thế nào là đại Bồ tát có thể học
ba môn giải thoát như vậy, cũng có thể học nhãn xúc cho đến ý xúc?
Phật bảo Thiện Hiện:
- Lúc thực hành Bát Nhã thẳm sâu,
đại Bồ tát nào như thật biết về nhãn xúc, tự tánh không của nhãn xúc cho
đến ý xúc và tự tánh không của ý xúc thì này Thiện Hiện! Đó là đại Bồ tát có
thể học ba môn giải thoát như vậy, cũng có thể học nhãn xúc cho đến ý xúc.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Thế nào là đại Bồ tát có thể học
ba môn giải thoát như vậy, cũng có thể học các cảm thọ do nhãn xúc làm duyên
sanh ra, cho đến các cảm thọ do ý xúc làm duyên sanh ra?
Phật bảo Thiện Hiện:
- Lúc thực hành Bát Nhã, đại Bồ tát
nào như thật biết về các cảm thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, tự tánh
không của các cảm thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các cảm thọ do
ý xúc làm duyên sanh ra, tự tánh không của các cảm thọ do ý xúc làm duyên sanh
ra thì này Thiện Hiện! Đó là đại Bồ tát có thể học ba môn giải thoát như vậy,
cũng có thể học các cảm thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cho đến các cảm thọ
do ý xúc làm duyên sanh ra.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Thế nào là đại Bồ tát có thể học
ba môn giải thoát như vậy, cũng có thể học địa giới cho đến thức giới?
Phật bảo Thiện Hiện:
- Lúc thực hành Bát Nhã thẳm sâu,
đại Bồ tát nào như thật biết về địa giới, tự tánh không của địa giới cho đến
thức giới và tự tánh không của thức giới thì này Thiện Hiện! Đó là đại Bồ tát
có thể học ba môn giải thoát này cũng có thể học địa giới cho đến thức giới.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Thế nào là đại Bồ tát có thể học
ba môn giải thoát như vậy, cũng có thể học nhân duyên cho đến tăng thượng duyên?
Phật bảo Thiện Hiện:
- Lúc thực hành Bát Nhã thẳm sâu,
đại Bồ tát nào như thật biết nhân duyên là tướng chủng tử, đẳng vô gián duyên
là tướng khai phát, sở duyên duyên là tướng nắm giữ, tăng thượng duyên là tướng
không ngăn ngại, tự tánh vốn không, xa lìa hai pháp(nhị pháp) thì này
Thiện Hiện! Đó là đại Bồ tát có thể học ba môn giải thoát như vậy, cũng có thể
học nhân duyên cho đến tăng thượng duyên.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Thế nào là đại Bồ tát có thể học
ba môn giải thoát như vậy, cũng có thể học các pháp do nhân duyên sanh ra?
Phật bảo Thiện Hiện:
- Lúc thực hành sâu Bát Nhã, đại
Bồ tát nào biết tất cả các pháp do nhân duyên sanh ra không sanh, không diệt,
không đoạn, không thường, không một, không khác, không đến, không đi, dứt các
hý luận, bản tánh lặng lẽ thì này Thiện Hiện! Đó là đại Bồ tát có thể học ba
môn giải thoát như vậy, cũng có thể học các pháp do nhân duyên sanh ra.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Thế nào là đại Bồ tát có thể học
ba môn giải thoát như vậy, cũng có thể học vô minh cho đến lão tử?
Phật bảo Thiện Hiện:
- Lúc thực hành sâu Bát Nhã, đại
Bồ tát nào như thật biết vô minh cho đến lão tử không sanh, không diệt, không
nhiễm, không tịnh, tự tánh vốn không, xa lìa hai pháp thì này Thiện Hiện! Đó là
đại Bồ tát có thể học ba môn giải thoát như vậy, cũng có thể học vô minh cho
đến lão tử.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Thế nào là đại Bồ tát có thể học
ba môn giải thoát như vậy, cũng có thể học pháp nội Không cho đến vô tính tự
tính Không?
Phật bảo Thiện Hiện:
- Lúc thực hành sâu Bát Nhã, đại
Bồ tát nào như thật biết pháp nội Không cho đến vô tánh tự tánh Không đều không
có tự tánh, hoàn toàn bất khả đắc nhưng có thể an trụ thì này Thiện Hiện! Đó là
đại Bồ tát có thể học ba môn giải thoát như vậy, cũng có thể học pháp nội Không
cho đến vô tánh tự tánh Không.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Thế nào là đại Bồ tát có thể học
ba môn giải thoát như vậy, cũng có thể học chơn như cho đến cảnh giới bất tư
nghì?
Phật bảo Thiện Hiện:
- Lúc thực hành Bát Nhã thẳm sâu,
đại Bồ tát nào như thật biết về chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì đều
không hý luận, hoàn toàn không phân biệt mà có thể an trụ thì này Thiện Hiện!
Đó là đại Bồ tát có thể học ba môn giải thoát như vậy, cũng có thể học chơn như
cho đến cảnh giới bất tư nghì.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Thế nào là đại Bồ tát có thể học
ba môn giải thoát như vậy, cũng có thể học bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật?
Phật bảo Thiện Hiện:
- Lúc thực hành Bát Nhã thẳm sâu,
đại Bồ tát nào như thật biết bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật không tăng, không
giảm, không nhiễm, không tịnh, không tự tánh và bất khả đắc nhưng có thể tu tập
thì này Thiện Hiện! Đó là đại Bồ tát có thể học ba môn giải thoát như vậy, cũng
có thể học bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Thế nào là đại Bồ tát có thể học
ba môn giải thoát như vậy, cũng có thể học vô lượng vô biên Phật pháp
khác?
Phật bảo Thiện Hiện:
- Lúc hành sâu Bát Nhã, đại Bồ
tát nào như thật biết vô lượng vô biên Phật pháp khác không tăng, không giảm,
không nhiễm, không tịnh, không tự tánh, bất khả đắc nhưng có thể tu tập thì này
Thiện Hiện! Đó là đại Bồ tát có thể học ba môn giải thoát như vậy, cũng có thể
học vô lượng vô biên Phật pháp khác.
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại bạch
Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ tát khi
hành sâu Bát Nhã, như thật biết rõ sắc thảy các pháp mỗi mỗi sai khác chẳng tạp
loạn nhau, há chẳng phải đem sắc cho đến đem thức hoại pháp giới sao? Há chẳng
phải đem mười hai xứ cho đến mười tám giới hoại pháp
giới sao? Há chẳng phải đem nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc
làm duyên sanh ra các thọ hoại pháp giới sao? Há chẳng phải đem vô minh cho đến
lão tử phá hoại pháp giới? Há chẳng phải đem pháp nội Không cho đến vô tính tự
tính Không phá hoại pháp giới? Há chẳng phải đem chơn như cho đến cảnh giới bất
tư nghì phá hoại pháp giới? Nói rộng ra, há chẳng phải đem tất cả pháp Phật phá
hoại pháp giới sao? Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì pháp giới không hai, không sai
khác.
Phật bảo Thiện Hiện:
- Nếu lìa pháp giới mà có pháp khác
có thể nắm bắt, thì có thể nói pháp ấy có thể phá hoại pháp giới. Nhưng lìa
pháp giới không có pháp nào có thể nắm bắt được nên không có pháp nào khác có
thể phá hoại pháp giới. Vì sao? Vì chư Phật, Bồ tát, Độc giác, Thanh văn biết
lìa pháp giới không có pháp nào có thể nắm bắt được, lìa pháp giới thì cũng
không có pháp nào có thể tạo dựng, giảng nói cho người khác. Như vậy, Thiện
Hiện! Các đại Bồ tát khi hành Bát Nhã thẳm sâu, nên học tướng pháp giới không
hai không khác, không thể hoại được. (Q.472, ĐBN)
(Tất cả pháp đều nhập vào pháp giới)
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ tát muốn học
pháp giới thì phải học những gì?
Phật bảo Thiện Hiện:
- Đại Bồ tát nào muốn học pháp giới
thì phải học tất cả pháp. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tất cả pháp đều nhập vào
pháp giới.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Vì sao nói tất cả pháp đều nhập
vào pháp giới?
Phật bảo Thiện Hiện:
- Dù Phật xuất thế hay Phật không
xuất thế thì các pháp vốn là pháp như vậy, đều nhập vào pháp giới, không có
tướng sai khác, không phải do Phật nói. Vì sao? Thiện Hiện! Hoặc pháp lành pháp
ác, hoặc pháp hữu ký pháp vô ký, hoặc pháp hữu lậu pháp vô lậu, hoặc pháp thế
gian pháp xuất thế gian, hoặc pháp hữu vi pháp vô vi, tất cả pháp như vậy đều
nhập vào pháp giới vô tướng, vô vi, tánh không. Vì thế, này Thiện Hiện! Lúc
hành sâu Bát Nhã, các đại Bồ tát muốn học pháp giới thì phải học tất cả các
pháp, nếu học tất cả pháp tức là học pháp giới.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Nếu tất cả pháp đều nhập vào pháp
giới không hai, không khác thì các đại Bồ tát vì sao phải học bố thí cho đến Bát
nhã Ba la mật? Vì sao phải học bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc? Vì
sao phải học bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo? Vì sao phải học pháp môn
giải thoát không, vô tướng, vô nguyện? Vì sao phải học tám giải thoát cho đến
mười biến xứ? Vì sao phải học Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa? Vì sao phải học
tất cả pháp môn Đà la ni, pháp môn Tam ma địa? Vì sao phải học pháp nội Không
cho đến vô tính tự tính Không? Vì sao phải học chơn như cho đến cảnh giới bất tư
nghì? Vì sao phải học năm loại mắt, sáu phép thần thông? Vì sao phải học Như
Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng? Vì sao phải học pháp không
quên mất, tánh luôn luôn xả? Vì sao phải học Nhất thiết trí, Đạo tướng trí,
Nhất thiết tướng trí? Vì sao phải học chứng đắc Bồ tát Chánh tánh ly sanh? Vì
sao phải học các địa vị của tất cả Thanh văn, Độc giác mà không tác chứng? Vì
sao phải học thành thục hữu tình, trang nghiêm cõi Phật? Vì sao phải học tất cả
Bồ tát đạo và quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề? Sau khi đã học như vậy, biết
tất cả pháp, tất cả các loại tướng, vị ấy mới có thể chứng đắc Nhất thiết trí
trí. Bạch Thế Tôn! Chẳng phải trong pháp giới có các loại phân biệt như vậy,
chắc không có các đại Bồ tát do phân biệt này nên điên đảo phát sanh các hý
luận ở chỗ không hý luận. Vì sao? Vì trong chơn pháp giới hoàn toàn không có hý
luận phân biệt.
(Pháp giới tức không phải là tất cả
pháp,
cũng chẳng phải lìa tất cả pháp. Tất
cả pháp tức là pháp giới)
Bạch Thế Tôn! Pháp giới chẳng phải
sắc, thọ, tưởng, hành, thức, cũng chẳng lìa sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Sắc,
thọ, tưởng, hành, thức chính là pháp giới, pháp giới tức là sắc, thọ, tưởng,
hành, thức.
Bạch Thế Tôn! Pháp giới chẳng phải
mười hai xứ cho đến mười tám giới, cũng chẳng lìa mười hai xứ cho đến mười tám
giới. Mười hai xứ cho đến mười tám giới chính là pháp giới, pháp giới tức là
mười hai xứ cho đến mười tám giới. Pháp giới chẳng phải nhãn xúc cho đến ý xúc,
cũng chẳng lìa nhãn xúc cho đến ý xúc. Nhãn xúc cho đến ý xúc chính là pháp giới,
pháp giới tức là nhãn xúc cho đến ý xúc. Pháp giới chẳng phải là các cảm thọ do
nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các cảm thọ do ý xúc làm duyên sanh ra,
cũng chẳng lìa các cảm thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các cảm thọ
do ý xúc làm duyên sanh ra. Các cảm thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến
các cảm thọ do ý xúc làm duyên sanh ra chính là pháp giới. Pháp giới tức là các
cảm thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các cảm thọ do ý xúc làm duyên
sanh ra. Pháp giới chẳng phải địa giới cho đến thức giới, cũng chẳng lìa địa
giới cho đến thức giới. Địa giới cho đến thức giới chính là pháp giới. Pháp
giới tức là địa giới cho đến thức giới. Pháp giới chẳng phải nhân duyên cho đến
tăng thượng duyên, cũng chẳng lìa nhân duyên cho đến tăng thượng duyên. Nhân
duyên cho đến tăng thượng duyên chính là pháp giới. Pháp giới tức là nhân duyên
cho đến tăng thượng duyên. Pháp giới chẳng phải là các pháp theo duyên sanh ra,
cũng chẳng lìa các pháp theo duyên sanh ra. Các pháp theo duyên sanh ra chính là
pháp giới. Pháp giới tức là các pháp theo duyên sanh ra. Pháp giới chẳng phải
là bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật, cũng chẳng lìa bố thí cho đến Bát nhã Ba
la mật. Bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật chính là pháp giới. Pháp giới tức là
bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Pháp giới chẳng phải pháp nội không cho đến
vô tánh tự tánh không, cũng chẳng lìa pháp nội không cho đến vô tánh tự tánh
không. Pháp nội không cho đến vô tánh tự tánh không chính là pháp giới. Pháp
giới tức là pháp nội không cho đến vô tánh tự tánh không.
Bạch Thế Tôn! Nói rộng ra, pháp giới
chẳng phải tất cả pháp Phật, cũng chẳng lìa tất cả pháp Phật. Tất cả pháp Phật
chính là pháp giới. Pháp giới tức là tất cả pháp Phật.
Bạch Thế Tôn! Pháp giới chẳng phải
là pháp thiện ác, cũng chẳng lìa pháp thiện ác. Pháp thiện ác chính là pháp
giới. Pháp giới tức là pháp thiện ác. Pháp giới chẳng phải là pháp hữu ký, vô
ký, cũng chẳng lìa pháp hữu ký, vô ký. Pháp hữu ký, vô ký chính là pháp giới.
Pháp giới tức là pháp hữu ký, vô ký. Pháp giới chẳng phải là pháp hữu lậu, vô
lậu, cũng chẳng lìa pháp hữu lậu, vô lậu. Pháp hữu lậu, vô lậu chính là pháp
giới. Pháp giới tức là pháp hữu lậu, vô lậu. Pháp giới chẳng phải là pháp thế
gian và xuất thế gian, cũng chẳng lìa pháp thế gian và xuất thế gian. Pháp thế
gian và xuất thế gian chính là pháp giới. Pháp giới tức là pháp thế gian và
xuất thế gian. Pháp giới chẳng phải là pháp hữu vi, vô vi, cũng chẳng lìa pháp
hữu vi, vô vi. Pháp hữu vi, vô vi chính là pháp giới. Pháp giới tức là pháp hữu
vi, vô vi.
Phật bảo Thiện Hiện:
- Đúng vậy! Đúng như lời ông nói!
Trong chân pháp giới không có tất cả các loại phân biệt, hý luận. Pháp giới
chẳng phải sắc, thọ, tưởng, hành, thức, cũng chẳng lìa sắc, thọ, tưởng, hành,
thức. Pháp giới tức là sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Sắc, thọ, tưởng, hành, thức
tức là pháp giới. Như vậy, cho đến pháp giới chẳng phải là pháp hữu vi, vô vi,
cũng chẳng lìa pháp hữu vi, vô vi. Pháp giới chính là pháp hữu vi, vô vi. Pháp
hữu vi, vô vi tức là pháp giới.
Lại nữa, Thiện Hiện! Các đại Bồ tát
khi hành sâu Bát Nhã, nếu thấy có pháp lìa pháp giới, thì chẳng thể đạt sở cầu
Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vậy nên, Thiện Hiện! Các đại Bồ tát khi hành sâu Bát
Nhã chẳng thấy có pháp lìa chân pháp giới. (Q.472, ĐBN)
Thiện Hiện nên biết! Lúc hành sâu Bát
Nhã, các đại Bồ tát biết tất cả pháp tức là chân pháp giới nhưng bằng
phương tiện thiện xảo đối với pháp không có danh tướng, vì các hữu tình vị ấy
mượn danh tướng nói: Đây là sắc, thọ, tưởng, hành, thức; đây là mười hai xứ cho
đến mười tám giới; đây là nhãn xúc cho đến ý xúc; đây là các cảm thọ do nhãn
xúc làm duyên sanh ra, cho đến các cảm thọ do ý xúc làm duyên sanh ra; đây là
địa giới cho đến thức giới; đây là nhân duyên cho đến tăng thượng duyên; đây là
các pháp do nhân duyên sanh ra; đây là vô minh cho đến lão tử; đây là pháp
thiện, pháp ác; đây là pháp hữu ký, pháp vô ký; đây là pháp hữu lậu, pháp vô
lậu; đây là pháp thế gian, pháp xuất thế gian; đây là pháp hữu vi, pháp vô vi;
đây là bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật; đây là pháp nội không cho đến vô tánh
tự tánh không; đây là chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì; đây là tất cả
pháp Phật.
Giống như nhà ảo thuật giỏi hoặc các
đệ tử của vị ấy, ở trước mọi người cầm một ít vật biến hóa làm các loại sắc
tướng khác nhau, hóa làm nam, nữ, lớn, nhỏ, hoặc hóa làm các loại cầm thú voi,
lừa, ngựa, trâu, dê, lạc đà… hoặc hóa làm thành ấp, xóm làng, vườn cây, ao, hồ,
trang nghiêm đủ cách rất là đáng ưa; hoặc hóa làm quần áo, đồ ăn, thức uống,
nhà cửa, ngọa cụ, hương hoa anh lạc, các loại trân bảo, của cải, lúa, kho tàng,
hoặc hóa làm vô số các loại kỹ nhạc, kỹ nữ, làm cho vô số người vui vẻ hưởng
lạc; hoặc hóa làm các loại hình tướng làm cho họ thực hành bố thí, hoặc dạy họ
trì giới, hoặc dạy họ an nhẫn, hoặc dạy họ tinh tấn, hoặc dạy họ tập định, hoặc
dạy họ tu huệ; hoặc lại thị hiện sanh các dòng họ lớn như Sát đế lợi cho đến cư
sĩ; hoặc lại hóa làm các núi, biển cả, núi Diệu cao, núi luân vi… hoặc lại thị
hiện sanh ra trời Tứ đại vương chúng cho đến trời Tha hóa tự tại; hoặc lại hiện
sanh trời Phạm chúng cho đến trời sắc cứu cánh; hoặc lại hiện sanh trời Không
vô biên xứ cho đến trời Phi tưởng phi phi tưởng xứ; hoặc lại thị hiện làm Dự
lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác; hoặc lại hiện làm đại Bồ tát từ
lúc mới phát tâm tu hành bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật; tu hành bốn tịnh lự,
bốn vô lượng, bốn định vô sắc; tu hành bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo;
tu hành pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện; học trụ pháp nội không
cho đến vô tánh tự tánh không; học trụ chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì;
học an trụ tất cả pháp Phật và thành tựu vô lượng vô biên công đức thù thắng
bất khả tư nghì. Này Thiện Hiện! Để mê hoặc người khác nên ở trước mặt mọi
người, huyễn sư cùng các đệ tử của ông ấy hóa làm các việc huyễn hóa như vậy.
Sau khi thấy việc này những nam nữ
lớn nhỏ thiếu hiểu biết đều Kinh ngạc khen ngợi: Kỳ lạ thay! Người này thật tài
giỏi, có thể làm các việc hy hữu, có thể hóa hiện thân Như Lai tướng tốt trang
nghiêm, đầy đủ công đức làm cho mọi người thích thú tài năng vừa hiển bày của
mình. Sau khi thấy việc này, những người trí trong số ấy nghĩ: Thật là thần dị,
người này làm sao có thể hiển bày việc này. Tuy trong ấy không có sự thật nào
có thể nắm bắt được, nhưng kẻ kia làm cho người ngu mê lầm, thích thú tưởng là
thật, đối với vật không thật chỉ có người trí thấu rõ các việc ấy đều là không,
nên tuy có thấy nghe nhưng không chấp trước. (Q.472, ĐBN)
Như vậy, Thiện Hiện! Khi các đại Bồ
tát hành Bát Nhã thẳm sâu, tuy không thấy pháp giới lìa các pháp, cũng không
thấy các pháp lìa pháp giới, chẳng thấy hữu tình và thi thiết hữu tình thật sự khá
được, mà năng phát sanh phương tiện khéo léo. Tự tu hành sáu Ba la mật cũng
khuyên người tu hành sáu Ba la mật, xưng nêu không trái pháp tu hành sáu Ba la
mật. Vui mừng khen ngợi kẻ tu hành sáu Ba la mật. (Q.473, ĐBN)
Tự mình thọ trì mười thiện nghiệp
đạo, cũng khuyên người khác thọ trì mười thiện nghiệp đạo, xưng nêu không trái
với pháp thọ trì mười thiện nghiệp đạo, hoan hỷ tán thán người thọ trì mười
thiện nghiệp đạo. Tự mình thọ trì năm giới, cũng khuyên người khác thọ trì năm
giới, xưng nêu không trái với pháp thọ trì năm giới, hoan hỷ tán thán người thọ
trì năm giới. Tự mình thọ trì tám giới, cũng khuyên người khác thọ trì tám
giới, xưng nêu không trái với pháp thọ trì tám giới, hoan hỷ tán thán người thọ
trì tám giới. Tự mình thọ trì giới xuất gia, cũng khuyên người khác thọ trì
giới xuất gia, xưng nêu không trái với pháp thọ trì giới xuất gia, hoan hỷ tán
thán người thọ trì giới xuất gia. Tự mình tu hành bốn tĩnh lự, cũng khuyên
người khác tu hành bốn tĩnh lự, xưng nêu không trái với pháp tu hành bốn tĩnh
lự, hoan hỷ tán thán người tu hành bốn tĩnh lự. Tự mình tu hành bốn vô lượng,
bốn định vô sắc cũng khuyên người khác tu hành bốn vô lượng, bốn định vô sắc,
xưng nêu không trái với pháp tu hành bốn vô lượng, bốn định vô sắc hoan hỷ tán
thán người tu hành bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Tự mình an trụ nội không cho
đến vô tánh tự tánh không, cũng khuyên người khác an trụ nội không cho đến vô
tính tự tính không, xưng nêu không trái với pháp an trụ nội không cho đến vô
tánh tự tánh không, hoan hỷ tán thán người an trụ nội không cho đến vô tánh tự
tánh không. Tự mình an trụ chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì, cũng khuyên
người khác an trụ chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì, xưng nêu không trái
với pháp an trụ chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì, hoan hỷ tán thán người
an trụ chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì. Nói rộng ra, tự mình an trụ viên
mãn tất cả pháp Phật, cũng khuyên người khác an trụ viên mãn tất cả pháp Phật,
xưng nêu không trái với tất cả pháp Phật, hoan hỷ tán thán người an trụ viên
mãn tất cả pháp Phật.
Này Thiện Hiện! Nếu biên tế đầu,
giữa, cuối của chơn pháp giới có sai khác thì khi các đại Bồ tát hành Bát Nhã thẳm
sâu, không thể phát khởi phương tiện thiện xảo, vì các hữu tình mà nói chân
pháp giới, nghiêm tịnh cõi Phật, thành thục hữu tình, tu Bồ tát hạnh, chứng đắc
Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, làm lợi lạc tất cả hữu tình cho đến tận đời vị lai.
Vì biên tế đầu giữa cuối của chân pháp giới thường không sai khác, nên khi đại
Bồ tát hành Bát Nhã thẳm sâu, khéo phát khởi phương tiện thiện xảo, vì các hữu
tình mà nói chân pháp giới, nghiêm tịnh cõi Phật, thành thục hữu tình, tu Bồ
tát hạnh, chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, làm lợi lạc tất cả hữu tình đến
tận đời vị lai.
Thích nghĩa:
(1). Thắng giải: Nghĩa là sự tỏ ngộ
thù thắng, tức đối với các cảnh sở duyên (đối tượng nhận thức) khởi lên tác
dụng phán đoán chính xác. Đây là giải thích ngắn gọn. Trước đã thích nghĩa rồi.
(2). Pháp hữu tránh, vô tránh (有諍, Phạm, Pàli:Sa-raịa): Tên khác của Hữu lậu. Tránh là
phiền não, Hữu là tùy tăng. Hữu tránh nghĩa là pháp Khổ đế và Tập đế thuận theo
phiền não, va chạm với thiện phẩm, gây tổn hại đến thân mình và thân người, cho
nên gọi là Hữu tránh. [X. luận Câu xá Q.1]. (xt. Hữu Lậu Pháp). Vô tránh thì ngược lại hữu
tránh. [X. luận Câu xá Q.1]. (xt. Hữu Lậu Pháp). - Từ điển Phật
Quang.
(3). Pháp lưu chuyển (流 轉, Phạm: Pravftti). Đối lại: Hoàn diệt. Trôi lăn
xoay vòng, tức là sinh tử nối nhau không dứt, phải vòng quanh trong 3 cõi, 6
đường, là 1 trong 24 pháp Bất tương ứng hành. Tông Duy thức cho rằng do tạo
nghiệp thiện ác mà phải chịu quả báo sinh tử liên tục không gián đoạn, gọi là
Nhiễm ô thanh tịnh lưu chuyển; các pháp hữu vi sinh diệt từng sát na nối nhau
không dứt, gọi là Sát na triển chuyển lưu chuyển; sự sinh diệt chuyển biến liên
tục của hữu tình trong 1 kỳ hạn, gọi là Sinh triển chuyển lưu chuyển, cũng gọi
là Sinh thân triển chuyển lưu chuyển. [X. luận Du già sư địa Q.3, 56; luận Hiển
dương Thánh giáo Q.1, 14]. - Từ điển Phật Quang.
(4). Pháp hoàn diệt (還 滅) cũng gọi Hoàn nguyên. Đối lại với Lưu chuyển.
Chuyển mê lầm để trở về tịch diệt. Luận Đại tì bà sa quyển 100 và luận Hiển
dương Thánh giáo quyển 15 nói, nhờ công hạnh tu hành, đoạn trừ phiền não, ra
khỏi sinh tử mà trở về nguồn gốc Niết bàn. Ma ha chỉ quán quyển 5 thượng (Đại
46, 56 trung), nói: Trở về cội nguồn, pháp giới đều lặng, ấy gọi là Chỉ. Luận
Câu xá quyển 3 căn cứ vào Lưu chuyển và Hoàn diệt mà lập thành 22 căn, trong
đó, 14 căn trước được thành lập theo 4 nghĩa: Sở y, Sinh, Trụ, Thụ dụng của Lưu
chuyển; còn 8 căn sau cũng được thành lập theo 4 nghĩa trên, nhưng là của Hoàn
diệt. Tức là 5 căn Tín, Tiến, v.v... là sở y (chỗ nương) của Hoàn diệt; còn
trong 3 căn vô lậu, thì nhờ Vị tri đương tri căn mà sinh trí Vô lậu, nhờ Dĩ tri
căn mà được Vô lậu trí trụ, nhờ Cụ tri căn mà được Thụ dụng hiện pháp lạc trụ.
[X. luận Du già sư địa Q.51; luận A tì đạt ma thuận chính lý Q.9; luận Thành
duy thức Q.3; Đại thừa khởi tín luận nghĩa ký, Q.trung
phần cuối, Q.hạ phần cuối]. (xt. Lưu Chuyển). - Từ điển Phật
Quang
(5). Phẩm “Các Tướng Bình Đẳng”
quyển 383, tập 16, Hội thứ I, ĐBN. Nói về “sắc như” như sau: “Này Thiện
Hiện! Như thật biết sắc như ấy không sanh, không diệt, không đến, không đi,
không tăng, không giảm, không cấu, không tịnh. Như đó là nói như thật chẳng hư.
Như đó là trước sau và chặng giữa cũng vậy, thường chẳng đổi khác”. Đó là
cách nói khác về “như tánh” hay chơn như của tất cả pháp.
Lược giải:
1. Tất cả pháp
đều nhập vào pháp giới:
“... Hành Bát Nhã thẳm
sâu đối tất cả pháp đều không sở hành. Đấy là khéo đạt thật tướng các
pháp". Đó là câu nói nghịch đời của Bát Nhã! Hành Bát Nhã như
hóa nhân (người do Phật hóa ra) hành tất cả pháp mà không có sở hành;
hành như vậy thì "hoàn toàn thông suốt thật tướng của các pháp”.
Sở dĩ, hữu tình cho các pháp là
thật, vì chấp vào danh tướng hư vọng của tất cả pháp. Bồ tát vì vậy “dùng phương
tiện thiện xảo giáo hóa giúp xa lìa vọng chấp bằng cách dạy họ: Danh là do vọng
tưởng phân biệt phát sanh, cũng là do các duyên hòa hợp giả lập ra, các ngươi
không nên chấp trước. Danh không có thật, tự tánh đều rỗng không”.
“Ở trong các pháp có sắc vô sắc,
phàm phu ngu si chấp tướng phân biệt sanh các phiền não gọi là tướng, vô tướng.
Các đại Bồ tát hành sâu Bát Nhã bằng phương tiện thiện xảo, dạy các hữu tình xa
lìa hai tướng, lại dạy họ an trụ vào cảnh giới vô tướng. Tuy dạy họ trụ
vào cảnh giới vô tướng nhưng không làm cho họ rơi vào kiến chấp nhị biên, cho
rằng đây là tướng, đây là vô tướng. Thế nên, Thiện Hiện! Các đại Bồ tát hành Bát
Nhã thẳm sâu bằng phương tiện thiện xảo, giúp các hữu tình xa lìa các tướng,
hành cảnh vô tướng mà không chấp trước”.
Tất cả pháp chỉ có danh tướng, tất
cả danh tướng đều là giả lập, do phân biệt hư vọng phát sanh, ở trong đó hoàn
toàn không có chút thật, có thể nắm bắt. Vì vậy, Bồ tát dùng Vô tướng làm
phương tiện tăng trưởng thiện pháp và cũng dùng vô tướng làm phương tiện
giáo hóa hữu tình viên mãn Phật đạo, tu hành các thiện pháp mà chứng Niết bàn
an vui rốt ráo!
Phật bảo: “Nếu trong
các pháp có thật tướng lượng bằng đầu mảy lông thì lúc hành sâu Bát Nhã, các
đại Bồ tát chẳng cần hiểu biết vô tướng, vô niệm cùng vô tác ý để chứng
đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, an lập hữu tình vào pháp vô lậu. Nhưng
do các pháp vô lậu đều vô tướng, vô niệm, vô tác ý, nên đại Bồ tát hành
sâu Bát Nhã bằng phương tiện thiện xảo, an lập hữu tình vào pháp vô lậu mới
được gọi là việc lợi ích cho người khác một cách chân thật”.
Pháp vô tướng, vô niệm, vô tác ý là
tam giải thoát môn không, vô tướng, vô tác. “Vì giải thoát môn Không quán
tự tướng tất cả pháp đều là Không. Giải thoát môn vô tướng quán tất cả pháp xa
lìa các tướng. Giải thoát môn vô tác quán tất cả pháp xa lìa tạo tác. Các đại
Bồ tát dựa vào ba môn này có thể tóm thu tất cả pháp lành thù thắng. Lìa ba môn
này thì các pháp lành không sanh trưởng được”.
Chính nhờ pháp môn vô lậu mà khi
hành Bát Nhã, Bồ tát có thể an trụ trong pháp môn này nên có thể học vô
lượng vô biên các pháp môn khác. Điều này cũng rất dễ hiểu: Khi thấy các pháp
không thật, giả có, chỉ là duyên hợp, như huyễn như hóa, không có tánh tướng,
chỗ gọi là vô tướng, nên bảo là không. Vì thấy tất cả pháp là không, tức sở
hành vắng lặng, thì tâm hành dứt, mọi thi vi tạo tác không còn cơ hội phát sanh
nữa. Đó là khế hợp tam muội không, vô tướng, vô tác liền thấy thật tướng các
pháp. Thật tướng tất cả pháp tức là chơn như, pháp giới, pháp tánh v.v... Ngộ
thật tướng này tức nhập pháp giới.
Đại Bồ tát nào muốn học pháp giới
thì phải học tất cả pháp. Nhưng với điều kiện là phải ngộ được chân như thật
tướng của tất cả pháp thì mới có thể nhập pháp giới mà tuyên bố rằng: Tất cả
pháp đều nhập vào pháp giới.
“Pháp giới tức không phải tất cả
pháp, cũng chẳng phải lìa tất cả pháp". Tất cả pháp bình đẳng là pháp
giới, pháp giới là tất cả pháp bình đẳng. "Pháp giới chẳng phải là
pháp hữu ký, vô ký, cũng chẳng lìa pháp hữu ký, vô ký. Pháp hữu ký, vô ký chính
là pháp giới. Pháp giới tức là pháp hữu ký, vô ký. Pháp giới chẳng phải là pháp
hữu lậu, vô lậu, cũng chẳng lìa pháp hữu lậu, vô lậu. Pháp hữu lậu, vô lậu
chính là pháp giới. Pháp giới tức là pháp hữu lậu, vô lậu v.v..”. Nếu
hiểu tất cả pháp như vậy thì nhập pháp giới, lúc đó mới có thể nói rằng pháp
giới là tất cả pháp, tất cả pháp là pháp giới. Hiểu được như vậy gọi là
"thiện đạt"!
Phật bảo Thiện Hiện: “Dù Phật
xuất thế hay không xuất thế thì các pháp vốn là pháp như vậy, đều nhập vào pháp
giới, không có tướng sai khác, không phải do Phật nói. Vì sao? Thiện Hiện! Hoặc
pháp lành pháp ác, hoặc pháp hữu ký pháp vô ký, hoặc pháp hữu lậu pháp vô lậu,
hoặc pháp thế gian pháp xuất thế gian, hoặc pháp hữu vi pháp vô vi, tất cả pháp
như vậy đều nhập vào pháp giới vô tướng, vô vi, tánh không. Vì thế, này Thiện
Hiện! Lúc hành sâu Bát Nhã, các đại Bồ tát muốn học pháp giới thì phải học tất
cả các pháp, nếu học tất cả pháp tức là học pháp giới”.
Vì vậy, Tăng Triệu một học giả cũng
là một luận sư nổi tiếng thời Cưu Ma La Thập đại khái nói rằng: Trời đất cùng
ta đồng gốc, cây cỏ với ta đồng nguồn.
Đó là giáo lý căn bản của phẩm
“Thiện Đạt” này.
2. Nhưng ở đây
có pháp tu thiết thật nhất mà cũng giản dị nhất nhưng lại ảnh hưởng nhiều
nhất đối với đời sống tâm linh mà chúng tôi cố gắng nêu ra để nhấn mạnh tầm
quan trọng của nó trong việc tu học Bát Nhã:
Phẩm “Thiện Đạt”,
quyển 472, Hội thứ II, ĐBN. Đại khái Kinh bảo: “Do tiếp xúc với ngoại trần (con
người và cảnh vật), rồi sanh ra cảm thọ và ý thức” mà trở nên điên đảo, tạo tác
thi vi đưa đến tạo nghiệp. Muốn không tạo nghiệp, Phật bảo:
“(…) Thế nào là đại Bồ tát
khi hành Bát Nhã thẳm sâu như thật biết về tướng của thức? Lúc hành Bát
Nhã thẳm sâu, như thật biết thức như các việc huyễn, nhiều duyên hòa hợp,
giả thi thiết có, thật chẳng khá được. Giống như nhà ảo thuật cùng các học
trò của ông ta hóa làm bốn loại quân ở ngã tư đường, đó là quân voi, quân ngựa,
quân xe, quân bộ, hoặc lại hóa hiện các sắc loại khác, tướng tuy có mà không có
thật. Thức cũng như thế thật chẳng khá được. Đó gọi là đại Bồ tát như thật biết
về tướng của thức khi hành Bát Nhã thẳm sâu”.
Vì vậy, Phật dạy:
- “Lúc thực hành Bát Nhã, đại Bồ tát
nào như thật biết về các cảm thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, tự tánh
không của các cảm thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các cảm thọ do
ý xúc làm duyên sanh ra, tự tánh không của các cảm thọ do ý xúc làm
duyên sanh ra thì này Thiện Hiện! Đó là đại Bồ tát có thể học ba môn giải thoát
như vậy, cũng có thể học các cảm thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cho đến các
cảm thọ do ý xúc làm duyên sanh ra”.
Trước hết nên biết “thức
như việc huyễn, nhiều duyên hòa hợp, giả thi thiết có, thật chẳng khá được”
và cũng phải như thật biết “các cảm thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến
các cảm thọ do ý xúc làm duyên sanh ra tự tướng đều không”.
Phải quán biết thức như huyễn, thấy
biết như huyễn tức là không. Thấy biết các pháp tự tướng không. Kinh nói pháp
nào tự tướng không, thì lấy vô tánh làm tự tánh, mà vô tánh cũng là không. Khi
có cái thấy biết như vậy thì không còn bị động chuyển trôi lăn. Nếu không bị
động chuyển trôi lăn thì không thi vi tạo tác nữa. Như thế tức không còn ngăn
ngại mà Tâm Kinh bảo là đạt tới cứu cánh Niết bàn.
Đó chính là do học ba giải thoát
môn: Không, Vô tướng, Vô tác. Nếu học được như vậy thì có thể học tất cả pháp
môn, nên có thể tránh được ngoại cảnh ngăn che. Cảnh không ngăn che tức không
chuyển được mình thì mình có thể chuyển được cảnh.
Kết luận:
Phẩm “Thiện Đạt” của Hội thứ II này
tương đương với phẩm tên là “Các Pháp Bình Đẳng”, phần sau quyển 383 cho đến
phần đầu quyển 386, Hội thứ I, ĐBN nói lên bản tánh bình đẳng của tất cả
pháp để đưa đến giác ngộ về thật tướng tất cả pháp. Hội thứ II lại có phẩm tựa
là “Thiện Đạt”, chỉ thẳng thật tướng của các pháp, và khi hiểu được thật tướng
này thì giác ngộ chân như, mà nhập pháp giới. Cả hai phẩm cùng một tiến trình
như nhau trong việc hướng dẫn chúng sanh liễu đạo. Phẩm tựa có khác nhưng nội
dung không khác!
Nếu đọc phẩm này gặp nhiều trở ngại,
xin Quý vị quay lại tụng đọc phẩm “Các Pháp Bình Đẳng”, Hội thứ I, nếu muốn.
Chân như thật tướng và bình đẳng như như là một thứ.