PHẨM “VÔ TƯỚNG”
Phần sau quyển 466 đến phần đầu
quyển 467, Hội thứ II, ĐBN.
(Tương đương phẩm “Vô Tướng Vô Đắc,
phần sau Q.373
cho đến phần đầu Q.379, Hội thứ I,
ĐBN)
Tóm lược:
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại thưa
Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp đều
lấy vô tánh mà làm tự tánh, các đại Bồ tát hiểu như thế nào mà vì lợi ích an
vui hữu tình cần cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Vì tất cả pháp đều lấy
vô tánh làm tự tánh, các đại Bồ tát vì muốn lợi ích an vui hữu tình. Vì sao?
Các loại hữu tình đủ kiến chấp đoạn thường, trụ có sở đắc, khó điều phục, ngu
si điên đảo khó giải thoát được.
Thiện Hiện phải biết, kẻ trụ hữu
sở đắc, bởi tưởng có đắc, không đắc, không hiện quán, cũng không được Vô Thượng
Chánh Đẳng Bồ đề.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật
rằng:
- Nếu kẻ có sở đắc, không đắc, không
hiện quán, cũng không Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Kẻ không sở đắc, vì có đắc,
có hiện quán, có được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề chăng?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Nếu không sở đắc,
tức là đắc, tức là hiện quán, tức là Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì sao? Vì
chẳng hoại tướng pháp giới vậy.
Thiện Hiện phải biết! Nếu đối trong
cái “chẳng được đây” muốn có đắc, muốn đắc hiện quán, muốn đắc Vô Thượng Chánh
Đẳng Bồ đề, phải biết kẻ ấy muốn hoại pháp giới.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật
rằng:
- Nếu kẻ có sở đắc, không đắc, không
hiện quán, tức không Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Nếu không sở đắc tức là đắc,
tức là hiện quán, tức là Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Trong cái “chẳng được
đây”, không đắc, không hiện quán cũng không Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, các đại
Bồ tát làm sao từ sơ địa tiến đến thập địa? Làm sao được Vô sanh pháp nhẫn? Làm
sao được dị thục(1) thần thông? Làm sao được dị thục bố thí cho đến Bát nhã Ba
la mật? Làm sao được an trụ pháp sanh dị thục như thế để thành thục hữu tình,
nghiêm tịnh cõi Phật, ở chỗ chư Phật cung kính cúng dường để được căn lành, cho
đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề mà phước báo vẫn chưa hết, lần lượt cho đến
sau khi nhập Niết bàn thiết lợi la (xá lợi) của Phật và các đệ tử vẫn
được cung kính cúng dường mọi thứ, thế lực thiện căn như vậy mới đến nơi
đến chốn?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Vì tất cả pháp vô sở
đắc nên các đại Bồ tát có thể từ sơ địa tiến đến thập địa. Tức do đây nên được
Vô sanh pháp nhẫn. Tức do đây nên được dị thục thần thông. Tức do đây nên được
dị thục bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Tức do đây nên được an trụ pháp sanh
dị thục, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật. Ở chỗ chư Phật cung kính
cúng dường mới được căn lành, cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề mà phước báo
vẫn chưa hết, lần lữa cho đến sau vào Niết bàn, Thiết lợi la mình và các đệ tử
vẫn được các thứ cung kính cúng dường thế lực căn lành như vậy mới đến nơi đến
chốn.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật
rằng:
- Nếu tất cả pháp đều vô sở đắc, bố
thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật và các thần
thông có gì sai khác?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Vô sở đắc ấy, bố thí
cùng năm Ba la mật và các thần thông đều không sai khác. Nhưng vì muốn khiến kẻ
hữu sở đắc kia lìa các chấp đắm, phương tiện tuyên nói bố thí cùng năm Ba la
mật và các thần thông có tướng sai khác.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật
rằng:
- Vì nhân duyên gì vô sở đắc ấy, bố
thí cùng năm Ba la mật và các thần thông nói không sai khác?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Các đại Bồ tát khi
hành Bát Nhã thẳm sâu, chẳng đắc bố thí, chẳng đắc kẻ thí, chẳng đắc kẻ thọ,
chẳng đắc vật thí, chẳng đắc quả thí mà hành bố thí. Chẳng đắc tịnh giới mà hộ
trì tịnh giới. Chẳng đắc an nhẫn mà tu an nhẫn. Chẳng đắc tinh tấn mà siêng
tinh tấn. Chẳng đắc tĩnh lự mà vào tĩnh lự. Chẳng đắc Bát Nhã mà khởi Bát Nhã.
Chẳng đắc thần thông mà phát thần thông. Chẳng đắc bốn niệm trụ cho đến tám chi
Thánh đạo mà tu bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo. Chẳng đắc ba môn giải
thoát mà tu ba môn giải thoát. Chẳng đắc bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô
sắc mà tu bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Chẳng đắc tám giải thoát
cho đến mười biến xứ mà tu tám giải thoát cho đến mười biến xứ. Chẳng đắc Bồ
tát địa mà tu Bồ tát địa. Chẳng đắc Đà la ni, Tam ma địa mà tu Đà la ni, Tam ma
địa. Chẳng đắc năm nhãn, sáu thần thông mà tu năm nhãn, sáu thần thông. Chẳng
đắc Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng mà tu Như Lai mười lực
cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Chẳng đắc pháp vô vong thất, tánh hằng trụ
xả mà tu pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả. Chẳng đắc Nhất thiết trí, Đạo
tướng trí, Nhất thiết tướng trí mà tu Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết
tướng trí. Chẳng đắc hữu tình mà thành thục hữu tình. Chẳng đắc cõi Phật mà
nghiêm tịnh cõi Phật. Chẳng đắc tất cả Phật pháp mà chứng Vô Thượng Chánh Đẳng
Bồ đề.
Như vậy, Thiện Hiện! Các đại Bồ tát
nên hành vô sở đắc Bát Nhã thẳm sâu. Nếu đại Bồ tát thường hành vô sở đắc Bát
Nhã thẳm sâu, tất cả ác ma và bà con ma đều chẳng năng hoại.
Bấy giờ cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật
rằng:
- Bạch Thế Tôn! Sao gọi là đại Bồ
tát khi hành Bát Nhã thẳm sâu, nhất tâm(2) hiện khởi thời có thể nhiếp thọ
sáu Ba la mật; cũng có thể nhiếp thọ bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô
sắc; cũng có thể nhiếp thọ ba môn giải thoát; cũng có thể nhiếp thọ tám giải
thoát cho đến mười biến xứ; cũng có thể nhiếp thọ tất cả Đà la ni, Tam ma địa
môn; cũng có thể nhiếp thọ năm nhãn, sáu thần thông; cũng có thể nhiếp thọ Như
Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng; cũng có thể nhiếp thọ pháp vô
vong thất, tánh hằng trụ xả; cũng có thể nhiếp thọ Nhất thiết trí, Đạo tướng
trí, Nhất thiết tướng trí; cũng có thể nhiếp thọ ba mươi hai tướng Đại sĩ, tám
mươi tùy hảo?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Đại Bồ tát khi hành Bát
Nhã thẳm sâu, nếu pháp tu bố thí cho đến Bát Nhã đều được Bát Nhã nhiếp thọ thì
mới được viên mãn. Như vậy, cho đến pháp tu ba mươi hai tướng Đại sĩ, tám mươi
tùy hảo đều được Bát nhã Ba la mật nhiếp thọ thì mới được viên mãn.
Như vậy, Thiện Hiện! Các đại Bồ tát
khi hành Bát Nhã thẳm sâu, nhất tâm hiện khởi, thời có thể nhiếp thọ sáu thứ Ba
la mật. Như vậy cho đến cũng có thể nhiếp thọ ba mươi hai tướng Đại sĩ, tám
mươi tùy hảo.
Cụ thọ Thiện Hiện thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn! Tại sao đại Bồ tát
khi hành Bát nhã Ba la mật có làm việc gì đều được Bát nhã Ba la mật nhiếp thọ,
cho nên nhất tâm hiện khởi thời có thể nhiếp thọ sáu Ba la mật cho đến ba mươi
hai tướng Đại sĩ, tám mươi tùy hảo?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Các đại Bồ tát khi
hành Bát Nhã thẳm sâu, nếu pháp tu bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật đều được Bát
nhã Ba la mật nhiếp thọ nên xa lìa hai tưởng. Như vậy, cho đến pháp tu
ba mươi hai tướng Đại sĩ, tám mươi tùy hảo cũng được Bát nhã Ba la mật nhiếp
thọ nên xa lìa hai tưởng.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật
rằng:
- Tại sao đại Bồ tát khi hành Bát
Nhã thẳm sâu tuy hành bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật mà không hai tưởng? Như
vậy, cho đến tuy tu ba mươi hai tướng Đại sĩ, tám mươi tùy hảo mà không hai
tưởng?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Các đại Bồ tát khi
hành Bát Nhã thẳm sâu, vì muốn viên mãn bố thí Ba la mật, nên tức trong bố thí Ba
la mật nhiếp thọ tất cả Ba la mật, cho đến ba mươi hai tướng Đại sĩ, tám mươi
tùy hảo mà hành bố thí. Do nhân duyên đây mà không hai tưởng. Như vậy, cho đến
vì muốn viên mãn ba mươi hai tướng Đại sĩ, tám mươi tùy hảo, nên tức trong ba
mươi hai tướng Đại sĩ, tám mươi tùy hảo nhiếp thọ tất cả Ba la mật. Bởi nhân
duyên đây mà không hai tưởng.
Lại nữa, Thiện Hiện! Các đại Bồ tát
hành Bát Nhã thẳm sâu, nên khi hành bố thí Ba la mật trụ tâm vô lậu mà hành
bố thí. Hoặc khi hành tịnh giới cho đến Bát nhã Ba la mật trụ tâm vô lậu mà
hành tịnh giới cho đến Bát nhã Ba la mật. Vậy nên, tuy hành bố thí cho đến Bát
nhã Ba la mật mà không hai tưởng. Như vậy, cho đến hoặc khi tu ba mươi hai
tướng Đại sĩ thì trụ vào tâm vô lậu mà tu ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ; nếu
tu tám mươi tùy hảo, thì trụ tâm vô lậu mà tu tám mươi tùy hảo. Vậy nên, tuy tu
ba mươi hai tướng Đại sĩ, tám mươi tùy hảo mà không hai tưởng. (Q. 466, ĐBN)
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật
rằng:
- Sao là đại Bồ tát hành Bát Nhã
thẳm sâu, hoặc khi hành bố thí Ba la mật trụ tâm vô lậu mà hành bố thí, như vậy
cho đến hoặc khi tu tám mươi tùy hảo, trụ tâm vô lậu mà tu tám mươi tùy
hảo?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! nếu đại Bồ tát khi
hành Bát Nhã thẳm sâu, đem tâm ly tướng chẳng thấy các tướng mà hành bố
thí. Chỗ gọi chẳng thấy ai năng hành thí, thí những vật gì, ai thọ thí đây, vì
sao hành thí. Trụ trong tâm ly tướng vô lậu này, lìa keo lìa bẩn mà hành bố
thí. Bấy giờ, chẳng thấy sở hành bố thí, cũng lại chẳng thấy tâm vô lậu đây,
cho đến chẳng thấy tất cả Phật pháp.
Như vậy, đại Bồ tát trụ tâm vô lậu
mà hành bố thí. Cho đến đại Bồ tát khi hành Bát Nhã thẳm sâu, đem tâm ly tướng
chẳng thấy các tướng mà tu tám mươi tùy hảo. Chỗ gọi chẳng thấy ai tu tám mươi
tùy hảo, chẳng vì ai mà tu tám mươi tùy hảo, và vì sao mà tu tám mươi tùy hảo.
Trụ tâm ly tướng vô lậu đây, không nhiễm không đắm mà tu tám mươi tùy hảo, cũng
lại chẳng thấy tâm vô lậu này, cho đến chẳng thấy tất cả Phật pháp. Như vậy,
đại Bồ tát trụ tâm vô lậu mà tu tám mươi tùy hảo.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:
- Nếu đại Bồ tát khi hành Bát Nhã
thẳm sâu, đối tất cả pháp vô tướng vô tác, làm sao có thể viên mãn bố thí cho
đến Bát nhã Ba la mật? Như vậy, cho đến làm sao có thể viên mãn ba mươi hai
tướng Đại sĩ, tám mươi tùy hảo?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Các đại Bồ tát khi
hành Bát Nhã thẳm sâu, thường đem tâm ly tướng vô lậu mà hành bố thí,
tùy các hữu tình cần dùng của cải các thứ đều thí cho. Nếu có cần nội tài đầu
mắt tủy não, da thịt lóng đốt, gân xương thân mạng, cũng đều thí cho. Nếu có
cần ngoại tài quốc thành, vợ con, thân thuộc sở ái, các thức đồ trang nghiêm
cũng đều thí cho. Khi thí như thế, giả sử có người đến hiện tiền mắng nhiếc:
Khốn thay, Đại sĩ! Tại sao phải dùng hạnh đây làm chi chẳng ích lợi gì? Kẻ thí
như thế đời này đời sau vẫn chịu nhiều khổ não. Đại Bồ tát này vì hành Bát Nhã
thẳm sâu, nên dù nghe kẻ khác dìm pha, hủy báng mà chẳng thối lui. Chỉ khởi
nghĩ này: Kẻ kia dù có mắng nhiếc chẳng nên sanh lòng buồn hối, ta phải mạnh mẽ
thí các hữu tình vật cần dùng, thân tâm không mỏi. Đại Bồ tát này đem bố thí
đây ban cho các hữu tình bình đẳng chung có, hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ
đề. Lúc bố thí và hồi hướng, không thấy tướng ấy nghĩa là không thấy ai bố thí,
nơi thí, vật thí, ai nhận bố thí, lý do bố thí, cũng không thấy ai hồi hướng,
vì sao phải hồi hướng, hồi hướng như thế nào, hồi hướng cho ai, đối với
tất cả các vật và việc như vậy họ đều không thấy. Vì sao? Các pháp như vậy đều
do nội không nên rỗng không, như vậy cho đến do tự tướng không nên rỗng không.
Đại Bồ tát sau khi quan sát tất cả
pháp đều rỗng không rồi, lại khởi nghĩ này: Ai hồi hướng, hồi hướng cho ai, vì
sao phải hồi hướng… các pháp như thế đều bất khả đắc. Đại Bồ tát này do quán
như thế và nghĩ như thế, nên việc hồi hướng đó gọi là thiện hồi hướng.
Do đây, lại có thể thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật. Cũng thường viên
mãn bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Như vậy, cho đến cũng thường viên mãn ba
mươi hai tướng Đại sĩ, tám mươi tùy hảo.
Đại Bồ tát này dù thường viên mãn bố
thí Ba la mật như thế, mà chẳng nhiếp thọ quả thí dị thục. Dù chẳng nhiếp thọ
quả thí dị thục mà do bố thí khéo thanh tịnh nên tùy ý có thể sắm tất cả của
cải, giống như các trời Tha hóa tự tại cần dùng vật gì theo ý muốn liền hiện ra
tùy ý. Cũng lại như thế, các vật mà đại Bồ tát này cần dùng đều hiện ra đầy đủ
theo ý. Họ có thể đem các phẩm vật vi diệu để cung kính cúng dường tôn trọng
ngợi khen chư Phật Thế Tôn, cũng có thể làm cho trời, người, A tu la… có đầy đủ
các thứ cần dùng. Nhờ việc bố thí Ba la mật, vị ấy thu nhiếp các hữu tình, dùng
phương tiện thiện xảo bằng pháp ba thừa để an lập, giúp họ đều được lợi ích an
vui.
Như vậy, Thiện Hiện! Lúc thực hành Bát
Nhã thẳm sâu, nhờ năng lực của tâm vô lậu xa lìa tướng, đại Bồ tát này
có thể ở trong pháp vô tướng, vô tác làm viên mãn bố thí Ba la mật, cũng có thể
viên mãn các công đức khác. (Q. 467, ĐBN)
Lại nữa Thiện Hiện! Lúc thực hành Bát
Nhã thẳm sâu, các đại Bồ tát có thể dùng tâm vô lậu lìa tướng thọ trì tịnh
giới, nghĩa là nhiếp thuộc Thánh đạo vô lậu sẽ đạt được giới thiện thanh
tịnh. Tịnh giới như vậy không khuyết, không rỉ, không tì vết, không dơ bẩn,
không chấp trước vật gì, đáng được thọ dụng cúng dường, được người trí khen
ngợi. Nhờ tịnh giới đây nên chẳng chấp thủ (chẳng chấp đắm và nắm giữ) tất cả
pháp, nghĩa là chẳng chấp thủ sắc thọ tưởng hành thức; chẳng chấp thủ mười hai
xứ cho đến mười tám giới; chẳng chấp thủ ba mươi hai tướng Đại sĩ, tám mươi tùy
hảo; chẳng chấp thủ đại tộc Sát đế lợi, đại tộc Bà la môn, Trưởng giả, Cư sĩ;
chẳng chấp thủ trời Bốn đại vương chúng cho đến trời Tha hóa tự tại; chẳng chấp
thủ trời Phạm chúng cho đến trời Sắc cứu cánh; chẳng chấp thủ trời Không vô
biên xứ cho đến trời Phi tưởng phi phi tưởng xứ; chẳng chấp thủ quả Dự lưu cho
đến Độc giác Bồ đề, chẳng chấp thủ Bồ tát hạnh cho đến Vô Thượng Chánh
Đẳng Bồ đề.
Chỉ đem giới đã thọ trì như thế ban
cho các hữu tình bình đẳng chung có, rồi hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Và khi hồi hướng đem vô tướng, vô sở đắc, bất nhị làm phương tiện, chẳng lấy có
tướng, có sở đắc, có hai làm phương tiện. Đó là nói theo thế tục, chẳng theo
thắng nghĩa. Do nhân duyên đây, tất cả Phật pháp đều được viên mãn. Nhờ phương
tiện thiện xảo tịnh giới Ba la mật đây, các đại Bồ tát phát khởi bốn phần tĩnh
lự được thăng tiến, lại lấy không nhiễm đắm làm phương tiện, nên dẫn phát được
các thần thông. Đại Bồ tát này dùng thiên nhãn thông thanh tịnh thấy chư Phật
hiện tại mười phương vô biên thế giới vì các hữu tình tuyên nói Chánh pháp, đối
với việc đã thấy như thế thường chẳng quên mất, tùy pháp đã nghe làm các việc
lợi vui cho mình người không bỏ.
Đại Bồ tát này lại dùng tha tâm trí,
biết được tâm, tâm sở mười phương Phật và các hữu tình. Biết rồi năng khởi các
việc lợi vui tất cả hữu tình. Đại Bồ tát này dùng túc trụ trí biết các hữu tình
gây nghiệp đời trước. Bởi nghiệp đã gây chẳng dứt nên phải sanh vào nơi chịu
nhiều khổ vui. Biết rồi, nên nói nhân duyên bản nghiệp, khiến họ nhớ biết việc
làm đời trước mà cải sửa. Đại Bồ tát này dùng lậu tận trí an lập hữu tình hoặc
khiến trụ quả Dự lưu, hoặc khiến trụ quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, hoặc Độc
giác Bồ đề, hoặc khiến trụ Bồ tát thắng vị, hoặc khiến trụ Nhất thiết trí trí.
Tóm lại mà nói, đại Bồ tát này dù
sanh ở chỗ nào cũng tùy theo khả năng khác nhau của hữu tình mà tìm cách giúp
họ trụ vào phẩm vị thù thắng.
Thế nên Thiện Hiện! Lúc thực hành Bát
Nhã thẳm sâu, nhờ năng lực của tâm vô lậu lìa tướng nên đại Bồ tát này có thể ở
trong pháp vô tướng vô tác làm viên mãn tịnh giới Ba la mật, cũng có thể viên
mãn các công đức khác. (Q.467, ĐBN)
Lại nữa, Thiện Hiện! Các đại Bồ tát
khi hành Bát Nhã thẳm sâu, thường đem tâm ly tướng vô lậu mà tu an nhẫn.
Đại Bồ tát này từ sơ phát tâm cho đến ngồi yên tòa Bồ đề, ở giữa khoảng ấy giả
sử tất cả hữu tình đều cầm các thứ dao gậy ngói đá đua nhau đến gia hại, Bồ tát
này chẳng khởi một niệm sân hận.
Bấy giờ, Bồ tát nên tu hai nhẫn.
Những gì là hai? Một là nên chịu mắng nhiếc gia hại của tất cả hữu tình, chẳng
sanh tâm căm hận. Hai là nên khởi Vô sanh pháp nhẫn. Bồ tát này
nếu gặp các lời ác mắng nhục, hoặc gặp các thứ dao gậy gia hại, nên suy xét kỹ:
Ai mắng nhục, ai gia hại, ai bị lăng nhục, ai chịu gia hại, ai khởi hờn giận,
ai phải nhẫn chịu.
Lại phải suy xét kỹ tánh của tất cả
pháp đều không, pháp còn bất khả đắc huống là có pháp tánh, pháp tánh còn không
huống là có hữu tình. Lúc quán như vậy hoặc người mạ nhục, hoặc người bị mạ
nhục, hoặc người làm hại, hoặc người bị làm hại đều vô sở hữu, cho đến bị cắt
chặt thân thể thành nhiều phần tâm vị ấy cũng an nhẫn, hoàn toàn không có niệm
gì khác. Vị ấy quán sát như thật đối với pháp tánh như thế, nên có thể
chứng đắc Vô sanh pháp nhẫn.
Tại sao gọi là Vô sanh pháp nhẫn? Nghĩa
là khiến tất cả phiền não chẳng sanh, trí huệ vi diệu thường không gián đoạn và
quán các pháp rốt ráo chẳng sanh. Vậy nên gọi là Vô sanh pháp nhẫn.
Đại Bồ tát này an trụ trong hai thứ
nhẫn như thế, mau viên mãn được bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Mau viên mãn
được bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo. Mau viên mãn được bốn tĩnh lự, bốn
vô lượng, bốn định vô sắc. Mau viên mãn được tám giải thoát cho đến mười biến
xứ. Mau viên mãn được không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn. Mau viên mãn
Bồ tát thập địa. Mau viên mãn được tất cả Đà la ni, Tam ma địa. Mau viên mãn
được năm nhãn, sáu thần thông. Mau viên mãn được Như Lai mười lực cho đến mười
tám pháp Phật bất cộng. Mau viên mãn được pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả.
Mau viên mãn được Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Mau viên
mãn được ba mươi hai tướng Đại sĩ, tám mươi tùy hảo. An trụ thần thông thù
thắng như thế rồi, dùng thiên nhãn thanh tịnh hằng thấy chư Phật mười phương vô
biên thế giới hiện tại an ổn trụ trì, vì các hữu tình tuyên nói Chánh pháp, cho
đến chứng được Nhất thiết trí trí, khởi Phật tùy niệm thường không gián đoạn.
Đại Bồ tát này hành Bát Nhã thẳm sâu trọn nên thù thắng phương tiện khéo léo,
nghiêm tịnh cõi Phật, thành thục hữu tình, mau được đầy đủ Nhất thiết trí trí,
chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, quay xe diệu pháp độ chúng hữu tình.
Như vậy, Thiện Hiện! Lúc hành Bát
Nhã thẳm sâu, nhờ năng lực của tâm vô lậu lìa các tướng, các đại Bồ tát này có
thể ở trong pháp vô tướng vô tác làm viên mãn an nhẫn Ba la mật, cũng có thể
viên mãn các công đức khác. (Q.467, ĐBN)
Lại nữa, Thiện Hiện! Các đại Bồ tát
khi hành Bát Nhã thẳm sâu, thường đem tâm ly tướng vô lậu tu tinh tấn.
Đại Bồ tát này trọn nên thân tâm tinh tấn dũng mãnh. Do đây thường vào sơ tĩnh
lự cho đến năng vào tĩnh lự thứ tư trụ đầy đủ. Nương bốn tĩnh lự khởi vô lượng
thần thông biến hiện. Vì trọn nên thân tinh tấn dũng mãnh, nên nhờ sức thần
thông, trải qua giây lát có thể đến thế giới chư Phật mười phương như cát sông
Hằng. Lại đem các thứ cơm ăn áo mặc, đồ nằm, thuốc men và các thứ tư cụ khác,
cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen chư Phật Thế Tôn hiện thuyết Chánh
pháp. Do phước báo căn lành đây vô tận, cho đến chứng được Nhất thiết trí trí.
Do thế lực căn lành đây tăng thượng, được thành Phật rồi, lại vì vô lượng thế
gian trời, người, A tu la…, đem vô lượng thứ cơm ăn áo mặc đồ nằm thuốc men và
các tư cụ khác, cung kính cúng dường tôn trọng ngợi khen. Do thế lực căn lành
đây tăng thượng, sau vào Niết bàn, thiết lợi la mình và các đệ tử vẫn được vô
lượng thế gian trời, người, A tu la… cung kính cúng dường tôn trọng ngợi khen.
Đại Bồ tát này lại đem thần lực năng
đến thế giới chư Phật mười phương như cát sông Hằng, ở chỗ chư Phật lóng nghe
Chánh pháp. Nghe rồi thọ trì, cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề trọn chẳng
quên mất. Đại Bồ tát này lại đem thần lực thường đến thế giới chư Phật mười
phương như cát sông Hằng, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, tinh siêng
tu học Nhất thiết trí trí. Được viên mãn rồi, chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng
Bồ đề, quay xe diệu pháp độ chúng hữu tình.
Thiện Hiện! Do thực hành Bát Nhã
thậm sâu, thành tựu thân tinh tấn mạnh nê, nên các đại Bồ tát ấy có thể làm
cho tinh tấn Ba la mật sớm được viên mãn.
Lại nữa Thiện Hiện! Các đại Bồ tát
thực hành Bát Nhã thẳm sâu, thành tựu tâm tinh tấn dõng mãnh, nên sớm có
thể viên mãn các đạo vô lậu của bậc Thánh và các chi đạo khác thuộc về tinh tấn
Ba la mật. Nhờ đó, vị ấy có thể làm cho các nghiệp bất thiện nơi thân, khẩu, ý
không phát sanh. Đối với các pháp, đại Bồ tát này không chấp trước thường hoặc
vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh,
hoặc vắng lặng hoặc không vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc không xa lìa, hoặc cảnh
giới hữu vi hoặc cảnh giới vô vi, hoặc dục giới, hoặc sắc giới, hoặc vô sắc
giới, hoặc cảnh giới hữu lậu, hoặc cảnh giới vô lậu, hoặc bố thí cho đến Bát
nhã Ba la mật, hoặc nội không cho đến vô tánh tự tánh không, hoặc chơn như cho
đến cảnh giới bất tư nghì, nói rộng ra đại Bồ tát này đối với tất cả pháp Phật,
cũng không chấp trước! Vì sao? Vì pháp chấp trước và các hữu tình đều không tự
tánh và không thể nắm bắt.
Nhờ đại Bồ tát ấy thành tựu tâm tinh
tấn, dõng mãnh nên tuy thường tạo tác các việc lợi ích cho tất cả hữu tình
nhưng đối với hữu tình hoàn toàn vô sở đắc, tuy thường viên mãn pháp tu tinh
tấn Ba la mật nhưng đối với tinh tấn Ba la mật hoàn toàn vô sở đắc, tuy thường
viên mãn tất cả pháp Phật nhưng đối với pháp Phật hoàn toàn vô sở đắc, tuy
thường trang nghiêm tất cả cõi Phật nhưng đối với cõi Phật hoàn toàn vô sở đắc.
Đại Bồ tát này thành tựu thân tâm tinh
tấn như vậy, tuy có thể xa lìa tất cả ác pháp, lại có thể hộ trì tất cả thiện
pháp nhưng không chấp trước. Do không chấp trước nên từ cõi Phật này đến cõi
Phật khác, từ thế giới này đến thế giới khác, vì muốn làm lợi ích cho các loài
hữu tình, nên vị ấy muốn thị hiện các thần thông thì đều có thể thị hiện tự tại vô ngại.
Vì muốn lợi ích các hữu tình nên vị
ấy xả bỏ của báu hoặc xả bỏ vợ con, hoặc xả bỏ ngôi vua, hoặc xả bỏ các bộ phận
trong thân, hoặc xả bỏ thân mạng, tùy theo các hữu tình cần phải dùng phương
tiện như vậy mới được lợi ích, vị ấy liền dùng phương tiện như vậy để lợi ích
họ.
Như vậy, Thiện Hiện! Lúc hành Bát
Nhã thẳm sâu, nhờ năng lực của tâm vô lậu lìa tướng, các đại Bồ tát này có thể
ở trong pháp vô tướng vô tác làm viên mãn tinh tấn Ba la mật, cũng có thể viên
mãn các công đức khác. (Q.467,
ĐBN)
Lại nữa Thiện Hiện! Lúc thực hành Bát
Nhã thẳm sâu, các đại Bồ tát có thể dùng tâm vô lậu lìa tướng để tu tịnh lự.
Ngoài các định của Phật, đối với các định khác, đại Bồ tát này đều có thể viên
mãn. Đại Bồ tát này lìa dục ác bất thiện, có tầm có tứ, ly sanh hỷ lạc nhập vào
sơ tịnh lự và hoàn toàn an trụ trong đó, như vậy cho đến dứt vui dứt khổ, vui
buồn trước đây lặn mất, không khổ không vui, xả niệm thanh tịnh nhập vào tầng
thiền thứ tư và hoàn toàn an trụ trong đó. Đại Bồ tát này dùng tâm từ bi duyên
từ một phương cho đến tất cả thế gian khắp mười phương và hoàn toàn an trụ
trong đó, như vậy cho đến dùng tâm hỷ xả duyên khắp một phương cho đến tất cả
thế gian khắp mười phương và hoàn toàn an trụ trong đó. Đại Bồ tát này vượt các
sắc tưởng, diệt trừ tưởng, không tư duy các loại tưởng nhập vào Không vô biên,
Thức vô biên xứ và hoàn toàn an trụ trong đó, như vậy cho đến vượt qua tất cả
Vô sở hữu xứ, nhập vào Phi tưởng phi phi tưởng xứ và hoàn toàn an trụ trong đó.
Đại Bồ tát này an trụ vào tịnh lự Ba
la mật, có thể nhập thuận nghịch đối với tám giải thoát, tám thắng xứ, chín
định thứ đệ, mười biến xứ và hoàn toàn an trụ trong đó. Đại Bồ tát này có thể
hoàn toàn an trụ vào pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện, có thể
hoàn toàn an trụ vào vô gián Tam ma địa, như điển Tam ma địa, Thánh chánh Tam
ma địa, Kim cang dụ Tam ma địa. Đại Bồ tát này an trụ vào tịnh lự Ba la mật, tu
ba mươi bảy pháp Bồ đề phần và Đạo tướng trí làm cho đều được viên mãn. Dùng
Đạo tướng trí để hộ trì tất cả Tam ma địa rồi tuần tự tu vượt qua Tịnh quán địa
cho đến Độc giác địa, chứng nhập Bồ tát Chánh tánh ly sanh. Sau khi đã vào Bồ
tát Chánh tánh ly sanh, vị ấy tu các địa và thực hành viên mãn Phật địa. Tuy
đại Bồ tát này tuần tự tu tập vượt qua các địa nhưng khi đang tu không nắm giữ
quả chứng cho đến nếu chưa đạt được Nhất thiết trí trí.
Đại Bồ tát này an trụ tịnh lự Ba la
mật từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, để cung kính, cúng dường, tôn trọng,
ngợi khen chư Phật Thế Tôn, trồng các căn lành nơi các vị Phật, thành thục hữu
tình, trang nghiêm cõi Phật, từ thế giới này đến thế giới khác làm lợi ích hữu
tình, thân tâm không mệt mỏi, hoặc dùng bố thí, hoặc dùng tịnh giới, dùng an
nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, hoặc dùng Bát nhã Ba la mật để giúp đỡ các hữu tình,
hoặc dùng giới uẩn, định uẩn, huệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát trí kiến uẩn để
giúp đỡ các hữu tình, hoặc dạy hữu tình trụ vào quả Dự lưu, hoặc quả Nhất lai,
Bất hoàn, A la hán, hoặc Độc giác Bồ đề, hoặc trụ vào địa vị của đại Bồ tát,
hoặc trụ quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, tùy theo thế lực thiện căn và sự
tăng trưởng pháp lành của các hữu tình mà vị ấy tạo đủ các phương tiện giúp họ
an trụ.
Đại Bồ tát nào an trụ vào tịnh lự Ba
la mật, có thể phát sanh tất cả pháp môn Đà la ni, pháp môn Tam ma địa, có thể
chứng đắc bốn vô ngại giải và thần thông dị thục thù thắng. Đại Bồ tát này
thành tựu thần thông dị thục thù thắng quyết định không nhập trở lại thai mẹ để
nhiễm các dục lạc thế gian. Vì sao? Vì đại Bồ tát này khéo thấy khéo biết tất
cả pháp tánh đều như huyễn hóa. Dù biết các hành như huyễn hóa nhưng vị ấy vẫn
nương Bi nguyện nhiêu ích hữu tình. Tuy hữu tình được giúp và việc thi thiết
kia đều bất khả đắc nhưng vị ấy có thể an lập tất cả hữu tình, giúp họ an trụ vào
pháp bất khả đắc. Đây là dựa vào thế tục, không dựa vào thắng nghĩa.
Đại Bồ tát này an trụ vào tịnh lự Ba
la mật, tu hành tất cả tịnh lự, giải thoát, đẳng trì, đẳng chí cho đến viên mãn
quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề mà mình mong cầu, thường không xa lìa việc tu
tịnh lự Ba la mật.
Đại Bồ tát này thực hành Đạo tướng
trí, tìm cách làm phát sanh Nhất thiết tướng trí, an trụ ở trong đó vĩnh viễn
đoạn trừ tập khí tương tục, có thể tự lợi và lợi tha một cách đúng đắn, có thể
tạo ruộng phước thanh tịnh cho tất cả thế gian, trời, người, A tu la…, đáng
được nhận sự cúng dường cung kính của thế gian.
Như vậy, Thiện Hiện! Lúc hành Bát
Nhã thẳm sâu, nhờ năng lực của tâm vô lậu lìa tướng, các đại Bồ tát này có thể
ở trong pháp vô tướng vô tác làm viên mãn tĩnh lự Ba la mật, cũng có thể viên
mãn các công đức khác. (Q.467, ĐBN)
Lại nữa Thiện Hiện! Lúc thực hành Bát
Nhã thẳm sâu, các đại Bồ tát có thể dùng tâm vô lậu lìa tướng để tu Bát Nhã.
Đại Bồ tát này không thấy một pháp nhỏ nào thật có thành tựu, nghĩa là không
thấy sắc thật có thành tựu, không thấy thọ, tưởng, hành, thức thật có thành
tựu; không thấy sắc sanh, không thấy thọ, tưởng, hành, thức sanh; không thấy
sắc diệt, không thấy thọ, tưởng, hành, thức diệt; không thấy sắc là pháp tăng
ích, không thấy thọ, tưởng, hành, thức là pháp tăng ích; không thấy sắc là pháp
tổn giảm, không thấy thọ, tưởng, hành, thức là pháp tổn giảm; không thấy sắc có
tích tụ, không thấy thọ, tưởng, hành, thức có tích tụ; không thấy sắc có ly
tán, không thấy thọ, tưởng, hành, thức có ly tán; như vậy, cho đến không thấy
tất cả pháp hữu lậu hay pháp vô lậu thật có thành tựu, sanh diệt, tăng ích tổn
giảm, tích tụ ly tán. Quán như thật để thấy sắc là hư vọng, không chắc thật,
không tự tại; quán như thật để thấy thọ, tưởng, hành, thức là hư vọng, không
chắc thật, không tự tại. Như vậy, cho đến quán như thật để thấy tất cả pháp hữu
lậu, vô lậu là hư vọng, không chắc thật, không tự tại. Lúc quán như thật, Đại
Bồ tát này không chấp thủ tự tánh của sắc, không chấp thủ tự tánh của thọ,
tưởng, hành, thức như vậy cho đến không chấp thủ tự tánh của tất cả pháp hữu
lậu, không chấp thủ tự tánh của tất cả pháp vô lậu.
Đại Bồ tát này khi quán như thế
chẳng đắc tự tánh sắc, chẳng đắc tự tánh thọ tưởng hành thức. Như vậy, cho đến
chẳng đắc tự tánh tất cả pháp hữu lậu, chẳng đắc tự tánh tất cả pháp vô lậu.
Đại Bồ tát này hành Bát Nhã thẳm sâu
khi quán như thế rất sanh tin hiểu, đối tất cả pháp đều lấy vô tánh mà làm tự
tánh. Đối việc như vậy sanh tin hiểu rồi, năng hành nội không cho đến vô tánh
tự tánh không. Khi hành như thế đối tất cả pháp không sanh chấp trước.
Nghĩa là chẳng chấp trước sắc, chẳng chấp trước thọ tưởng hành thức. Chẳng chấp
trước mười hai xứ cho đến mười tám giới. Chẳng chấp trước nhãn xúc cho đến ý
xúc. Chẳng chấp trước nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm
duyên sanh ra các thọ. Chẳng chấp trước địa giới cho đến thức giới. Chẳng chấp
trước nhân duyên cho đến tăng thượng duyên. Chẳng chấp trước vô minh cho đến
lão tử. Chẳng chấp trước bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Chẳng chấp trước nội
không cho đến vô tánh tự tánh không. Chẳng chấp trước chơn như cho đến bất tư
nghì giới. Nói rộng ra, chẳng chấp trước tất cả pháp Phật.
Đại Bồ tát này khi hành Bát Nhã thẳm
sâu vô sở hữu thường viên mãn Bồ tát đạo. Nghĩa là thường viên mãn sáu Ba la
mật. Cũng thường viên mãn nội không cho đến vô tánh tự tánh không. Cũng thường
viên mãn chơn như cho đến bất tư nghì giới. Nói rộng ra, cũng thường viên mãn
tất cả pháp Phật. Đại Bồ tát này viên mãn đạo Bồ đề như thế rồi, lại năng viên
mãn Phật đạo lìa tối, nghĩa là thường viên mãn sáu Ba la mật và vô lượng vô
biên Phật pháp khác.
Đại Bồ tát này an trụ Phật đạo lìa
tối như thế, dẫn phát dị thục thần thông thù thắng, tùy các hữu tình kẻ nên
dùng bố thí thì dùng bố thí, kẻ nên dùng tịnh giới thì nên dùng tịnh giới, kẻ
nên dùng an nhẫn thì nên dùng an nhẫn v.v… mà nhiếp thọ. Kẻ nên dùng nhóm giới,
nhóm định, nhóm huệ, nhóm giải thoát, nhóm giải thoát trí kiến thì
dùng nhóm giới cho đến nhóm giải thoát trí kiến mà nhiếp thọ. Kẻ nên khiến an
trụ quả Dự lưu, hoặc quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề hoặc Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề tức phương tiện khiến an trụ quả Dự lưu cho đến Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Đại Bồ tát này thường hóa hiện các
thần thông, muốn đến thế giới mười phương như cát sông Hằng thì tùy ý đến, muốn
hiện trong các thế giới đã đến có các thứ ngọc báu tùy ý hóa hiện, khiến các
hữu tình trong thế giới đã đến thọ dụng các thứ ngọc báu đầy đủ vui thích. Đại
Bồ tát này từ một thế giới qua một thế giới làm lợi ích an vui vô lượng hữu
tình.
Đại Bồ tát này do dị thục sanh bố
thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Do dị thục sanh đạo Bồ tát nên hành Đạo tướng
trí. Do Đạo tướng trí được thành thục, nên lại chứng được Nhất thiết tướng trí.
Do chứng được trí đây, đối tất cả pháp không muốn nắm giữ. Nghĩa là
chẳng nắm giữ sắc, cũng chẳng nắm giữ thọ tưởng hành thức. Như vậy, cho đến
cũng chẳng nắm giữ hoặc pháp thiện hoặc pháp phi thiện, hoặc pháp hữu ký hoặc
pháp vô ký, hoặc pháp thế gian, hoặc pháp xuất thế gian, hoặc pháp hữu lậu hoặc
pháp vô lậu, hoặc pháp hữu vi hoặc pháp vô vi. Cũng chẳng nắm giữ sự chứng đắc
quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì sao? Vì tất cả pháp vô sở đắc, nên đại Bồ
tát này chẳng nắm giữ, mà vì các hữu tình tuyên nói không trái ngược về sự
không nắm giữ của tất cả
pháp tánh.
Như vậy, Thiện Hiện! Lúc hành Bát
Nhã thẳm sâu, nhờ năng lực của tâm vô lậu lìa tướng, các đại Bồ tát này có thể
ở trong pháp vô tướng vô tác làm viên mãn Bát nhã Ba la mật, cũng có thể viên
mãn các công đức khác. (Q.467,
ĐBN)
Thích nghĩa:
(1). Dị thục (異熟) Phạm:
Vipàka. Các nhà dịch cũ dịch là quả báo. Âm Hán: Tì bá ca. Gọi chung quả báo
cảm được do nghiệp thiện, ác đã tạo ở đời trước; vì quả khi chín (thục) thì
tính chất lại khác (dị) với nhân nên gọi là Dị thục. Vấn đề này có nhiều cách
giải thích. Cứ theo luận Thành duy thức quyển 2, thì Dị thục là nhân biến làm
quả, tính chất của quả này khác với tính chất của nhân. Nhân có thiện có ác, mà
quả thì là tính vô ký không thiện không ác, cho nên từ nhân chín thành quả thì
tính chất của nó đã biến đổi làm loại khác. Nhưng, cứ theo Thành duy thức luận
thuật ký quyển 2, thì Dị thục có ba nghĩa: 1- Dị thời thục
(chín khác thời), nghĩa là nhân và quả cách đời mới chín. 2- Biến dị thục (chín
đổi khác), nghĩa là quả do nhân đổi khác mà chín. 3- Dị loại thục (chín khác
loại), nghĩa là quả và nhân khác loại và do nhân chín mà thành quả. Trong ba
nghĩa nêu trên, Thuyết nhất thiết hữu bộ chủ trương Dị loại thục, Kinh bộ chủ
trương Biến dị thục, tông Duy thức cũng chủ trương Dị loại thục. Thuyết nhất
thiết hữu bộ và tông Duy thức tuy cùng chủ trương nghĩa Dị loại thục, nhưng ý
chỉ của hai tông thì không giống nhau. Thuyết nhất thiết hữu bộ cho rằng, sức
của tính vô ký yếu ớt, hệt như hạt giống đã mục nát, hoàn toàn thiếu
mất nghĩa nhân duyên, cho nên không chiêu cảm quả dị thục. Vì lẽ này, nên mối
quan hệ giữa Dị thục nhân và Dị thục quả được phối hợp với Nhân duyên trong bốn
duyên. Còn tông Duy thức thì cho rằng, nhân của đẳng lưu tập khí đều suốt cả ba
tính thiện, ác, vô ký. Nghĩa là trong quả Dị thục có bao
hàm nhân vô ký, cho nên tuy là nhân quả đẳng lưu, nhưng cần có sự
giúp đỡ của hạt giống nghiệp (nghiệp chủng tử) mới có thể dẫn sinh quả báo vô ký. Chính vì
quả báo vô ký và hạt giống nghiệp này mà gọi là Dị thục, và hạt
giống nghiệp này tức là nhân dị thục, còn quả báo vô ký thì là quả
dị thục. Theo đó, thì nhờ sức giúp đỡ của tăng thượng duyên mà nhân dị thục
(hạt giống nghiệp) thành quả dị thục, và nhân dị thục này là hạt giống của Tư
tâm sở thiện, ác tuơng ứng với thức thứ 6. Hạt giống Tư tâm sở nói trên đây có
hai công năng: 1- Công năng tự sinh khởi hiện hành. 2- Công năng giúp đỡ các
hạt giống vô ký dị thục khác khiến sinh ra. Nói theo nghĩa tự sinh
khởi hiện hành, thì hạt giống này là nhân gần, cũng tức là nhân đẳng lưu, quả
đẳng lưu. Còn nói theo nghĩa giúp đỡ các hạt giống vô ký dị thục
khác, thì hạt giống này là duyên tăng thượng, cũng tức là nhân dị thục, quả dị
thục. Ngoài ra, Dị thục nhân là một trong sáu nhân (Dị thục, Năng tác, Câu hữu,
Đồng loại, Tương ứng, Biến hành), Dị thục quả là một trong năm quả (Dị thục,
Tăng thượng, Sĩ dụng, Đẳng lưu, Li hệ). Năng lực sản sinh ra quả dị thục, gọi
là Hữu dị thục; ngược lại thì gọi là Vô dị thục. Tông Duy thức chia Dị thục làm
hai: 1- Chân dị thục (hoặc gọi tắt: Dị thục), là quả thể tổng báo của thức thứ
8. 2- Dị thục sinh, từ chân dị thục sinh ra, như thức A lại da là Chân dị thục,
sáu thức là Dị thục sinh. Ngoài ra, chúng sinh ở những nơi như: Địa ngục, quỉ
đói, súc sinh, châu Bắc câu lô, cõi trời Vô tưởng v.v.., vì không được nghe
pháp tu hành, cho nên thế giới của hạng chúng sinh này được gọi là Dị thục
chướng. Đây là do nghiệp nhân đời trước của chúng sinh chiêu cảm quả báo ở đời
này mà tái sinh vào các thế giới ấy, nên gọi là Dị thục chướng. [X. luận Đại tì
bà sa Q.20, Q.25; luận Câu xá Q.2, Q.6; Câu xá luận quang kí Q.2; Câu xá luận
bảo sớ Q.2; Huyền ứng âm nghĩa Q.23]. (xt. Quả Báo).
Có nhiều thứ dị thục quá. Các Ngài
vo tròn bóp méo nhiều thứ quá làm kẻ học đạo như người câm ăn phải mướp đắng.
Tội nghiệp! Cứ hiểu một cách nôm na dị thục là quả báo cũng tạm đủ! TB
(2). Nhất tâm: Theo từ điển Đạo
Uyển, nhất tâm 一 心; C:
yīxīn; J: ishin; P: ekāgattā; S: svacitta-mātra, eka-agra, eka-citta, dhyāna.
Tâm. 1- Là nền tảng căn bản nhất. Là chân như của mọi hiện hữu. “Nhất” nghĩa
thông thường là đồng nhất với tuyệt đối. “Tâm” có nghĩa là ‘chắc thật’. Cũng
vậy, nhất tâm là căn bản của toàn thể hữu tình. Là thực tại tuyệt đối căn bản
của mọi hiện tượng trong vũ trụ. Đây là tư tưởng trung tâm của Đại thừa khởi
tín luận (起信論), trong đó, Nhất tâm được xem là đồng nhất với
Pháp thân (法身; s: dharmakāya) và Pháp giới (法界; s: dharmadhātu); 2- Hợp
nhất tâm, do vậy, nên gọi 'hợp nhất tinh thần' hay là sự tập trung tâm ý. Tâm
an trú vào đức Phật A di đà khi quán tưởng đến Ngài; 3- Tập trung toàn tâm toàn
ý một cách nhiệt thành, không để cho tán loạn.
Ở đây có thể giải thích nhất tâm là
chỉ cho tâm chuyên chú vào 1 đối tượng, không cho các vọng niệm sanh khởi.
Sơ giải:
Phẩm “Vô Tướng” của Hội thứ II này
tương đương với phẩm “Vô Tướng Vô Đắc”, phần sau quyển thứ 373 cho đến phần đầu
quyển 379, Hội thứ I, ĐBN. Phẩm “Vô Tướng Vô Đắc” đã chiết giải rồi, nên chúng
tôi không cần lặp lại nữa. Vậy, xin Quý vị có thể quay lại tụng nếu cảm thấy
hứng thú.
---o0o---