HỘI THỨ IX.
(bố cục)
9. Hội thứ
IX: “Năng Đoạn Kim Cương” phần, 1 quyển.
Tương đương với Kim Cương Năng Đoạn Bát Nhã Ba La Mật Đa
(Phạm:Vajracchedikàprajĩàpàramità) tiếng Phạm. Nội dung đức Phật nói về việc
phát tâm hướng tới Bồ tát thừa, tu hành theo Bát Nhã và phương pháp nhiếp phục
tâm cho tôn giả Thiện Hiện (Tu Bồ Đề)
nghe. Các Kinh: Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật 1 quyển do các Ngài: Cưu ma La thập
đời Diêu Tần, Bồ đề Lưu chi đời Nguyên Ngụy và Ngài Chân Đế đời Trần dịch, Kinh
Kim Cương Năng Đoạn Bát Nhã Ba La Mật 1 quyển, do Ngài Cấp Đa dịch vào đời Tùy
và Kinh Năng Đoạn Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa 1 quyển, do Ngài Nghĩa Tịnh
dịch vào đời Đường v.v... đều là đồng bản của hội này. Pháp Uyển Châu lâm và
Khai Nguyên Thích Giáo lục nói bản tiếng Phạm của hội này có 300 kệ tụng.
---o0o---
“KIM CƯƠNG
NĂNG ĐOẠN” PHẦN hay
KIM CƯƠNG
BÁT NHÃ BA LA MẬT.
(Kinh ĐBN, Q.577, Hội thứ IX)
Dẫn nhập:
Như trên có
sơ thuật trong phần bố cục của Kinh ĐBN, thì trước và sau Ngài Huyền Trang tổng
cộng có năm Bản Kinh Kim Cương xuất hiện đồng với Hội thứ IX này. Đó là:
1. Kinh Kim
Cương Bát Nhã Ba La Mật, 1 quyển, do Ngài Cưu Ma La Thập (Kumàrajiva) dịch tại
chùa Thảo Đường tại Trường An, đầu thế kỷ thứ V, tức năm 402 Tây lịch, thuộc
đời Diêu Tần, ghi trong Đại
tạng Kinh mang số 0235;
2. Kinh Kim
Cương Bát Nhã Ba La Mật, 1 quyển, do Bồ Đề Lưu Chi (Bodhiruci) dịch, vào đời
Nguyên Ngụy, đầu thế kỷ VI, tức vào khoảng 508 Tây lịch,
Đại tạng Kinh, mang số 0235a và số
0236b;
3. Kinh Kim
Cương Bát Nhã Ba La Mật, 1 quyển, do Ngài Ba La Mật Đà (Paramàrtha), người Tàu
gọi là Chân Đế dịch vào đời Trần, khoảng giữa thế kỷ thứ VI, Đại tạng Kinh mang số
0237;
4. Kinh Kim
Cương Năng Đoạn Bát Nhã Ba La Mật, 1 quyển, do Ngài Đạt Ma Cấp Đa (Dharmagupta)
dịch vào đời Tùy, khoảng cuối thế kỷ thứ VI hay đầu thế kỷ thứ VII, Đại tạng Kinh mang số 0238;
5. Kinh Phật
Thuyết Năng Đoạn Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa, 1 quyển, do Ngài Nghĩa Tịnh đi
Ấn Độ mang bản chữ Phạn về và dịch vào đời Đường, đầu thế kỷ thứ VIII, sau Ngài
Huyền Trang, Đại tạng Kinh
mang số 0239.
Như chúng
tôi lưu ý trong bố cục của Kinh Đại Bát Nhã, do Ngài Huyền Trang dịch vào đời
Đường, khoảng giữa thế kỷ thứ VII: Trong 600 quyển của Kinh ĐBN thì chỉ có 481
quyển ở các Hội thứ 1, 3, 5, 11, 12, 13, 14, 15 và 16 (9 Hội) là do chính nhóm
của Ngài Huyền Trang dịch, 119 quyển còn lại thuộc các hội thứ: 2, 4, 6, 7, 8,
9, 10 (7 hội) đã có các vị đi trước dịch rồi và nhóm của Ngài Huyền Trang chỉ
sao lại thôi. Hội thứ IX, chỉ có 1 quyển
lấy tên là “Kim Cương Năng Đoạn” phần được nhóm của Ngài Huyền Trang sao lại ở
quyển thứ 577 trong Đại Bát Nhã.
“Kim Cương Năng Đoạn” phần, nguyên tác văn từ thông suốt từ trên xuống dưới một
mạch, không có phân đoạn. Về sau, Thái Tử Chiêu Minh chia Kinh này làm 32 đoạn và đặt tên cho mỗi đoạn riêng rẽ để tiện việc kiến
giải và tu học. Các nhà kiến giải sau này rất tán dương lối
phân đoạn và cách định danh các phân đoạn này và ghi lại trong các tác phẩm của
họ hoặc thêm bớt chút đỉnh. Tiếc thay con người tài hoa nhưng bạc mệnh, Thái tử
hưởng thọ chỉ có 31 tuổi đời.
Cũng nên nói
trước, đây là một quyển Kinh đặc biệt trong số 600 quyển ĐBN. Đặc biệt vì chỉ
một quyển Kinh nhỏ mà có thể diễn đạt đầy đủ về danh, thể, tông, tướng, dụng
cũng như hầu hết giáo lý của Hệ Bát Nhã:
1. Danh: Kim
Cương là dụ, Bát Nhã Ba La Mật là pháp.
Đây lấy thí dụ và pháp để lập danh;
2. Thể: Lấy
kim cương để thí dụ về văn tự và quán chiếu Bát Nhã của Kinh này. Chính vì kim
cương là một khoáng chất cứng rắn có thể chặt đứt phiền não, sanh thật tướng. Ba chữ này là thể chủ
yếu của Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật;
3. Tông: Tôn
chỉ duy nhất của Kinh này ở hai chữ vô
trụ, tức quán, giải, hành, môn của Kinh này đều nằm hết trong hai chữ đó;
4. Tướng:
Phật thuyết Kinh này vì muốn khai ngộ Như Lai trí tuệ giác tánh của chúng sanh
vốn sẵn có, nhưng vì chúng sanh “hợp trần nên bội giác” mà Kinh này là vô lượng
thậm thâm pháp bảo để duy trì Phật chủng, truyền thụ tâm ấn. Chỉ riêng điểm này
cũng đủ chứng tỏ Kinh này giáo phán cực
viên cực đốn. Vậy, có thể nói Kinh này lấy Đại thừa Viên và Đốn làm giáo
tướng. Hết thảy các giáo nghĩa: Tạng, thông, biệt, viên, tiểu, thỉ, chung, đốn
đều nhất loạt nhiếp hết;
5. Dụng: Là
công dụng. Tu mà có tôn chỉ đàng hoàn tất sẽ đem lại diệu dụng. Diệu dụng không
có chi khác là đoạn trừ chấp trước hư vọng. Kinh từ đầu tới cuối phá chấp triệt để cốt bứng gốc rễ
của phiền não và sở tri để chúng sanh được an vui tự tại.
---o0o---
Gợi ý:
Để chiết
giải Hội này chúng tôi chia Kinh làm hai phần chính:
- Phần thứ I: Trình bày
chính văn của Kinh, tức viết lại toàn bộ chánh văn “Kinh Cương Năng Đoạn” phần.
Nhưng chúng tôi chia Kinh làm nhiều phân đoạn và mỗi phân đoạn đặt tên riêng
tùy theo nội dung của từng giáo lý như công việc của Thái tử Chiêu Minh đã làm;
và
- Phần thứ II: Chiết giải từng phân đoạn
từ đầu cho đến hết quyển 577 để Quý vị độc giả dễ theo dõi, dễ nắm các giáo lý
Phật thuyết trong toàn thể Hội này.
Phần thứ I:
(Chánh văn: Toàn quyển
577 của Hội thứ IX)
Quyển thứ
577
Tôi nghe như vầy:
Một thuở, đức Bạc già phạm trụ trong
vườn Cấp Cô Độc, rừng Thệ đa, thành Thất la phiệt, cùng chúng đại Bí sô một
ngàn hai trăm năm mươi vị.
Bấy giờ, vào buổi sớm, đức Bạc già
phạm chỉnh sửa y phục, đắp y, bưng bát đi vào thành lớn Thất la phiệt (thành Xá vệ) khất thực. Khất thực xong,
đức Bạc già phạm trở về dùng cơm, thu dọn y bát, rửa chân; như thường lệ, sau
khi ăn xong, Ngài trải tòa, ngồi kiết già, thân thẳng nguyện chánh, trụ niệm
trước mặt.
Khi đó, các Bí sô đi tới chỗ Phật;
đến nơi, đảnh lễ chân Ngài, đi nhiễu bên phải ba vòng, lui ngồi một bên. Cụ thọ
Thiện Hiện cũng ngồi trong chúng hội ấy.
Trong chúng, cụ thọ Thiện Hiện từ
chỗ ngồi đứng dậy, chệch y vai phải, quì gối phải chấm đất, chấp tay cung kính
bạch Phật:
- Hy hữu thay thưa đức Thế Tôn! Đức
Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác khéo dùng sự nhiếp thọ tối thắng nhiếp thọ các Bồ
tát, cho đến đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đem sự phó chúc tối thắng phó chúc
cho các Bồ tát.
Làm sao hàng phục vọng tâm và làm sao an trụ chân tâm?
Bạch Thế Tôn! Những ai phát tâm
hướng tới Bồ tát thừa, nên trụ như
thế nào? Nên tu hành như thế nào? Nên nhiếp phục tâm như thế nào?
Đức Phật bảo cụ thọ Thiện Hiện:
- Hay thay! Hay thay! Thiện Hiện!
Đúng vậy! Đúng như ngươi đã nói. Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác có thể dùng sự
nhiếp thọ tối thắng nhiếp thọ các Bồ tát, cho đến đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng
Giác có thể đem sự phó chúc tối thắng phó chúc cho các Bồ tát. Vậy nên, Thiện
Hiện! Ngươi phải lắng nghe, thật khéo tác ý, Ta sẽ vì ngươi phân biệt giải
nói. Này Thiện Hiện! Những ai phát tâm hướng tới Bồ tát thừa thì nên trụ
như thế, tu hành như thế, nhiếp phục tâm như thế!
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Con nguyện muốn
nghe.
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Những ai phát tâm
hướng tới Bồ tát thừa, thì nên phát tâm như vầy: Có bao nhiêu loài hữu tình,
hữu tình được độ, bị độ, như sanh từ trứng, hoặc thai sanh, hoặc thấp sanh,
hoặc hóa sanh, hoặc có hình sắc, hoặc không có hình sắc, hoặc có tưởng, hoặc
không tưởng, hoặc chẳng phải có tưởng, chẳng phải không có tưởng, cho đến hữu
tình giới được tạo tác, bị tạo tác. Tất cả các hữu tình như vậy, ta đều giúp
nhập vào cõi Vô dư y Niết bàn vi diệu. Tuy đã độ vô lượng hữu tình đều được
diệt độ như thế, song không có hữu tình nào được diệt độ. Vì sao?
Thiện Hiện! Vì nếu các Bồ tát còn
tưởng chuyển hữu tình thì không thể gọi là đại Bồ tát. Vì sao?
Này Thiện Hiện! Vì các đại Bồ tát
chẳng nên nói có tưởng chuyển hữu tình; như vậy tưởng chuyển mạng giả, sĩ phu,
Bổ đặc già la (người hay chúng sanh),
ý sanh, nho đồng, tác giả, thọ giả, phải biết cũng thế. Vì sao? Thiện Hiện! Vì
không có một chút pháp nào gọi là người phát tâm hướng tới Bồ tát thừa.
Bố thí không chấp tướng thì phước đức không thể tính
lường.
Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ tát
chẳng trụ nơi việc hành bố thí, hoàn toàn vô trụ mà hành bố thí. Chẳng trụ nơi
sắc mà hành bố thí; chẳng trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp mà hành bố thí.
Thiện Hiện! Như vậy, đại Bồ tát
chẳng trụ tướng tưởng mà hành bố thí. Vì sao?
Thiện Hiện! Vì nếu đại Bồ tát hoàn
toàn không trụ mà hành bố thí, thì số phước đức kia chẳng thể tính lường.
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Hư
không phương Đông tính lường được không?
Thiện Hiện thưa:
- Bạch Thế Tôn! Không được.
- Này Thiện Hiện! Như vậy phương
Nam, Tây, Bắc, trên, dưới, bốn góc, tất cả hư không khắp mười phương thế giới
tính lường được không?
Thiện Hiện thưa:
- Bạch Thế Tôn! Không được.
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Đúng vậy, đúng vậy.
Nếu Đại Bồ tát hoàn toàn không trụ mà hành bố thí, thì số phước đức kia cũng
không thể tính lường.
Thiện Hiện! Như vậy Bồ tát chẳng trụ
tướng tưởng mà hành bố thí.
Có thể lấy các tướng đầy đủ để quán Như Lai chăng?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Có
thể lấy các tướng đầy đủ để quán Như Lai chăng?
Thiện Hiện thưa:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng được. Chẳng
thể lấy các tướng đầy đủ để quán Như Lai. Vì sao? Vì Như Lai nói các tướng đầy
đủ, tức chẳng phải các tướng đầy đủ.
Phật lại bảo cụ thọ Thiện Hiện:
- Thiện Hiện! Các tướng đầy đủ đều
là hư dối, cho đến chẳng phải tướng đầy đủ đều chẳng phải hư dối. Như vậy, nên
quán Như Lai bằng tướng chẳng phải tướng.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật:
- Bạch Thế Tôn! Sau đời đương lai
hậu thế, hậu thời, hậu phần năm trăm năm, khi Chánh pháp sắp diệt, thời phần
chuyển, có hữu tình nào nghe câu kinh điển nói sắc như thế, mà sanh thật tưởng
chăng?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Chớ nói rằng, sau đời
đương lai hậu thế, hậu thời, hậu phần năm trăm năm, khi Chánh pháp sắp diệt,
lúc thời phần chuyển, có hữu tình nào nghe câu kinh điển nói sắc như thế, mà
sanh thật tưởng chăng? Này Thiện Hiện! Sau đời đương lai hậu thế, hậu thời, hậu
phần năm trăm năm, khi Chánh pháp sắp diệt, lúc thời phần chuyển, có đại Bồ tát
đầy đủ giới, đầy đủ đức, đầy đủ tuệ. Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ tát ấy chẳng
phải ở một chỗ Phật vâng thờ cúng dường, chẳng phải ở một chỗ Phật trồng các căn
lành. Lại nữa Thiện Hiện! Đại Bồ tát ấy chẳng phải ở chỗ một trăm ngàn Phật
vâng thờ cúng dường, chẳng phải ở chỗ một trăm ngàn Phật trồng các căn lành,
được nghe câu kinh điển nói sắc như thế nên được một tâm tịnh tín.
Thiện Hiện! Như lai dùng Phật trí biết
vị ấy. Như Lai dùng Phật nhãn thấy vị ấy. Thiện Hiện! Như Lai rõ biết vị ấy.
Tất cả hữu tình sẽ sanh vô lượng, vô số phước đức, sẽ nắm giữ vô lượng, vô số
phước đức. Vì sao?
Thiện Hiện! Vì Đại Bồ tát ấy không
có tưởng chuyển ngã, hữu tình, mạng giả, sĩ phu, Bổ đặc già la, ý sanh, nho
đồng, tác giả, thọ giả.
Thiện Hiện! Đại Bồ tát ấy không có
tưởng chuyển pháp, không có tưởng chuyển phi pháp, không có tưởng chuyển cũng
không phải không có tưởng chuyển. Vì sao?
Thiện Hiện! Vì nếu đại Bồ tát có
tưởng chuyển pháp, thì vị ấy liền có chấp ngã, chấp hữu tình, chấp mạng giả,
chấp Bổ đặc già la… Nếu có tưởng chuyển phi pháp thì vị ấy cũng có chấp ngã,
chấp hữu tình, chấp mạng giả, chấp Bổ đặc già la… Vì sao?
Như Lai nói pháp dụ như chiếc bè sang sông.
Thiện Hiện! Vì không thể nắm giữ
pháp, cũng không thể nắm giữ phi pháp. Cho nên, Như Lai mật ý nói pháp môn dụ
như chiếc bè. Này những người trí, pháp còn nên bỏ, huống là phi pháp.
Phật phá cái chấp “Có thành Phật và nói pháp”.
Phật lại bảo cụ thọ Thiện Hiện:
- Này Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao?
Có chút pháp nào Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ
đề chăng? Có chút pháp nào Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đã nói chăng?
Thiện Hiện thưa:
- Bạch Thế Tôn! Như con hiểu nghĩa
Phật đã nói ấy, không có chút pháp nào Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chứng được
Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, cũng không có chút pháp nào là Như Lai Ứng Chánh
Đẳng Giác đã nói ra. Vì sao?
Bạch Thế Tôn! Vì pháp mà Như Lai Ứng
Chánh Đẳng Giác đã chứng, đã nói, đã tư duy đều không thể nắm giữ, không thể
tuyên thuyết, chẳng phải pháp, chẳng phải phi pháp. Vì sao? Vì các Hiền Thánh,
chúng sanh đều là sự hiển hiện của pháp vô vi.
Phật nói công đức thọ trì Kinh này nhiều hơn bố thí
thất bảo.
Phật bảo:
- Này Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao?
Nếu thiện nam, hoặc thiện nữ nào đem bảy báu đầy khắp ba ngàn đại thiên thế
giới mà bố thí, thì thiện nam tử, hoặc thiện nữ này nhờ nhân duyên đây được số
phước nhiều chăng?
Thiện Hiện thưa:
- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch
Thiện Thệ! Rất nhiều. Nhờ nhân duyên đây nên thiện nam, hoặc thiện nữ này được
số phước ấy rất nhiều. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì số phước đức mà Như Lai nói là
chẳng phải phước đức, cho nên Như Lai nói là số phước đức.
Phật lại bảo Thiện Hiện:
- Thiện Hiện! Nếu có thiện nam, hoặc
thiện nữ đem bảy báu đầy khắp ba ngàn đại thiên thế giới để bố thí, và nếu có
thiện nam, hoặc thiện nữ đối với pháp môn này, cho đến bốn câu kệ mà thọ trì
đọc tụng thông suốt rốt ráo và rộng vì người khác tuyên thuyết chỉ bày, như lý
tác ý, thì do nhân duyên đây số phước được nhiều hơn trước vô lượng, vô số. Vì
sao? Vì Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của tất cả các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng
Giác đều từ Kinh đây mà ra, chư Phật Thế Tôn đều sanh từ Kinh đây. Vì sao?
Này Thiện Hiện! Vì pháp chư Phật mà
Như Lai nói là chẳng phải pháp chư Phật. Cho nên Như Lai nói là pháp chư Phật.
Không nên chấp mình chứng bốn quả Thanh văn.
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Các
vị Dự lưu có nghĩ rằng: Ta chứng được quả Dự lưu không?
Thiện Hiện thưa:
- Bạch Thế Tôn! Không. Các vị Dự lưu
không nghĩ rằng, ta chứng được quả Dự lưu. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì các vị Dự
lưu không dự một chút pháp gì nên gọi là Dự lưu. Không dự sắc, thanh, hương,
vị, xúc, pháp nên gọi Dự lưu.
Bạch Thế Tôn! Nếu vị Dự lưu nghĩ như
vầy: Ta chứng được quả Dự lưu, tức là vị ấy chấp ngã, hữu tình, mạng giả, sĩ
phu, Bổ đặc già la v.v…
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Các
vị Nhất lai có nghĩ rằng: Ta chứng được quả Nhất lai không?
Thiện Hiện thưa:
- Bạch Thế Tôn! Không. Các vị Nhất
lai không nghĩ rằng, ta chứng được quả Nhất lai. Vì sao? Vì không có chút pháp
nào để chứng tánh Nhất lai, nên gọi Nhất lai.
Phật bảo:
- Này Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao?
Các vị Bất hoàn có nghĩ rằng: Ta chứng được quả Bất hoàn không?
Thiện Hiện thưa:
- Bạch Thế Tôn! Không. Các vị Bất
hoàn chẳng nghĩ rằng, ta chứng được quả Bất hoàn. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì
không có chút pháp nào để chứng tánh Bất hoàn, nên gọi là Bất hoàn.
Phật bảo:
- Thiện hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Các
vị A la hán có nghĩ rằng: Ta chứng được quả A la hán không?
Thiện Hiện thưa:
- Bạch Thế Tôn! Không. Các vị A la
hán chẳng nghĩ rằng, ta chứng được tánh A la hán. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì
không có chút pháp nào gọi là A la hán, do nhân duyên đây nên gọi là A la hán.
Bạch Thế Tôn! Nếu A la hán khởi nghĩ
như vầy: Ta chứng được tánh A la hán, tức là chấp ngã, hữu tình, mạng giả, sĩ
phu, Bổ đặc già la… Vì sao?
Bạch Thế Tôn! Vì Như Lai Ứng Chánh
Đẳng Giác nói: Con được trụ Vô tránh tối thượng bậc nhất. Bạch Thế Tôn! Dù con
là A la hán lìa hẳn tham dục, song con chưa từng khởi nghĩ như vầy: Ta được A
la hán lìa hẳn tham dục.
Bạch Thế Tôn! Nếu con khởi nghĩ
rằng: Ta được A la hán lìa hẳn tham dục, thì Như Lai chẳng nên nói với con
rằng: Thiện nam tử Thiện Hiện đắc trụ Vô tránh tối thượng bậc nhất. Vì
hoàn toàn vô trụ, nên Như Lai nói là Vô tránh trụ.
Phật phá cái chấp “Như Lai có đắc pháp”.
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Thuở
xưa, Như Lai ở chỗ đức Nhiên Đăng Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác có nắm giữ chút
pháp nào không?
Thiện Hiện thưa:
- Bạch Thế Tôn! Không. Thuở xưa, Như
Lai ở chỗ đức Nhiên Đăng Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, hoàn toàn không có chút
pháp nào để nắm giữ.
Phật phá chấp “Bồ tát có làm trang nghiêm cõi Phật”.
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Nếu có Bồ tát nói lời
như vầy: Ta sẽ thành tựu công đức trang nghiêm cõi Phật. Bồ tát nói như thế là
chẳng phải nói lời chơn thật. Vì sao? Thiện Hiện! Vì công đức trang nghiêm cõi
Phật ấy, Như Lai nói chẳng phải trang nghiêm. Cho nên Như Lai nói là công đức
trang nghiêm cõi Phật.
Phật dạy “Đừng sanh vọng tâm trụ chấp nơi nào”.
Vậy nên, Thiện Hiện! Bồ tát nên sanh
tâm hoàn toàn vô trụ như vậy. Nên sanh tâm chẳng trụ sắc, nên sanh tâm chẳng
trụ phi sắc. Nên sanh tâm chẳng trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp; nên sanh tâm
chẳng trụ phi thanh, hương, vị, xúc, pháp. Hoàn toàn sanh tâm vô trụ như thế.
Phật phá cái chấp “thân thể lớn như núi Tu di”.
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Như có người nam thân
thể to lớn, giả sử sắc thân của vị ấy như núi chúa Diệu Cao. Thiện Hiện! Ý
ngươi nghĩ sao? Thân thể của vị ấy có to lớn không?
Thiện Hiện thưa:
- Bạch Thế tôn! Thân thể của vị ấy
rất to lớn. Bạch Thiện Thệ! Rất to lớn. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì thân thể của
vị ấy, Như Lai nói là chẳng phải thân thể của vị ấy, nên gọi là thân thể. Chẳng
vì thân thể ấy mà gọi là thân thể.
Thọ trì Kinh này phước đức vô lượng.
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Cho
đến có bao nhiêu số cát trong sông Hằng, giả sử có số sông Hằng ngang với số
cát như thế, thì số cát của các sông Hằng này chắc là nhiều lắm phải không?
Thiện Hiện thưa:
- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch
Thiện Thệ! Nhiều lắm. Các con sông Hằng còn nhiều vô số, huống nữa là số cát
ấy..
Phật nói:
- Thiện Hiện! Ta nay bảo ngươi, khai
ngộ cho ngươi. Giả sử có thiện nam, hoặc thiện nữ đem bảy báu đẹp đựng đầy khắp
thế giới nhiều như số cát sông Hằng…, dâng cúng cho đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng
Giác. Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Thiện nam, hoặc thiện nữ này do nhân duyên
đây được số phước nhiều chăng?
Thiện Hiện thưa:
- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch
Thiện Thệ! Nhiều lắm. Thiện nam, hoặc thiện nữ này nhờ nhân duyên đây được số
phước ấy rất nhiều.
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Nếu đem bảy báu đựng
đầy khắp thế giới nhiều như số cát sông Hằng, dâng cúng cho đức Như Lai Ứng
Chánh Đẳng Giác, rồi thiện nam, hoặc thiện nữ nào đối với pháp môn đây, cho đến
bốn câu kệ mà thọ trì đọc tụng, thông suốt rốt ráo và vì người khác tuyên
thuyết chỉ bày, như lý tác ý, thì do nhân duyên đây, được số phước rất nhiều
hơn trước vô lượng, vô số.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu địa phương
nào đối với pháp môn này, cho đến vì người tuyên thuyết, chỉ bày bốn câu kệ thì
địa phương đó còn được thế gian, các trời, người, A tu la… cúng dường như cúng
dường linh miếu thờ Phật, huống nữa là hữu tình nào hay đối với pháp môn này
biên chép, thọ trì đọc tụng đầy đủ rốt ráo, thông suốt rốt ráo và rộng vì người
khác tuyên thuyết chỉ bày, như lý tác ý, thì hữu tình như thế thành tựu công
đức tối thắng hiếm có. Địa phương ấy, chỗ Đại sư ở, mỗi mỗi đều được các vị
phạm hạnh có trí tôn trọng.
Pháp môn này tên gì? Tại sao chúng con phải thọ trì?
Đức Phật nói xong, cụ thọ Thiện Hiện
lại thưa Phật:
- Bạch Thế Tôn! Pháp môn này nên gọi
tên gì? Con phải phụng trì như thế nào?
Phật bảo Thiện Hiện rằng:
- Cụ thọ! Pháp môn đây gọi là Năng
Đoạn Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật. Danh tự như thế, ngươi nên phụng trì. Vì sao?
Phật phá cái chấp về Kinh “Kim Cương Bát Nhã”.
Thiện Hiện! Vì Bát nhã Ba la mật như
vậy, Như Lai nói là chẳng phải Bát nhã Ba La Mật, cho nên Như Lai gọi là Bát
nhã Ba La Mật.
Phật phá cái chấp “Như Lai có thuyết pháp”.
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Có
chút pháp nào Như Lai có thể nói chăng?
Thiện Hiện thưa:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng có. Không có
chút pháp nào Như Lai có thể nói.
Phật phá cái chấp “có vi trần và thế giới”.
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Cho đến vi trần đại
địa trong ba ngàn đại thiên thế giới nhiều chăng?
Thiện Hiện thưa:
- Bạch Thế Tôn! Vi trần đại địa này
rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều.
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Vi trần đại địa, Như
Lai nói chẳng phải vi trần, cho nên Như Lai gọi là vi trần đại địa. Các thế
giới, Như Lai nói chẳng phải thế giới, cho nên Như Lai gọi là thế giới.
Phật phá cái chấp: “Thấy 32 tướng tốt của Phật là thấy
Phật”.
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Có
thể quán Như lai Ứng Chánh Đẳng Giác bằng ba mươi hai tướng Đại sĩ phu không?
Thiện Hiện thưa:
- Bạch Thế Tôn! Không. Chẳng thể
quán Như lai Ứng Chánh Đẳng Giác bằng ba mươi hai tướng Đại sĩ phu. Vì sao?
Bạch Thế Tôn! Vì ba mươi hai tướng
Đại sĩ phu, Như Lai nói là chẳng phải tướng, cho nên Như Lai gọi là ba mươi hai
tướng Đại sĩ phu.
Phật lại bảo Thiện Hiện:
- Này Thiện Hiện! Giả sử có thiện
nam, hoặc thiện nữ, cứ mỗi ngày là xả thí thân thể mình nhiều như số cát sông
Hằng. Xả thí thân mình như vậy trải qua kiếp số nhiều như số cát sông Hằng. Lại
có thiện nam, hoặc thiện nữ đối với pháp môn đây, cho đến bốn câu kệ, thọ trì
đọc tụng thông suốt rốt ráo và rộng vì người khác tuyên thuyết chỉ bày, như lý
tác ý. Do nhân duyên đây nên được phước rất nhiều hơn trước vô lượng, vô số.
Cụ thọ Thiện Hiện bùi ngùi rơi lệ.
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện nghe oai
lực của pháp, thương khóc rơi lệ, cúi người lau nước mắt rồi thưa Phật:
- Bạch Thế Tôn! Thật là hiếm có!
Bạch Thiện Thệ! Rất là hiếm có! Nay Như Lai đã nói ra pháp môn này, làm các
nghĩa lợi cho những kẻ phát tâm hướng tới Tối thượng thừa, làm các nghĩa lợi
cho những kẻ phát tâm hướng tới Tối thắng thừa.
Bạch Thế Tôn! Từ khi sanh trí tuệ
đến nay, con chưa từng được nghe pháp môn như thế.
Bạch Thế Tôn! Nếu hữu tình nào nghe
thuyết kinh điển thâm sâu như thế mà sanh tưởng chơn thật, thì phải biết hữu
tình này thành tựu sự tối thắng hiếm có. Vì sao?
Bạch Thế Tôn! Vì các tưởng chơn
thật, kẻ tưởng chơn thật, Như Lai nói là chẳng phải tưởng, cho nên Như Lai gọi
là tưởng chơn thật.
Người có hạt giống Bát Nhã
nên mới có thể tin hiểu thọ trì được Kinh này.
Bạch Thế Tôn! Nay con nghe pháp môn
như thế, lãnh ngộ tin hiểu, nhưng chưa là hiếm có. Đời đương lai hậu thế, hậu
thời, hầu phần năm trăm năm, khi Chánh pháp sắp diệt, lúc thời phần chuyển, nếu
hữu tình nào đối với pháp môn thâm sâu như thế mà lãnh ngộ tin hiểu, thọ trì
đọc tụng, thông suốt rốt ráo và rộng vì người khác tuyên thuyết chỉ bày, như lý
tác ý, thì phải biết hữu tình này thành tựu sự tối thắng hiếm có. Vì sao?
Bạch Thế Tôn! Vì các hữu tình ấy
không có tưởng ngã, hữu tình, mạng giả, sĩ phu, Bổ đặc già la, ý sanh, nho
đồng, tác giả, thọ giả. Vì sao?
Bạch Thế Tôn! Vì các tưởng ngã tức
là chẳng phải tưởng, các tưởng hữu tình, tưởng mạng giả, tưởng sĩ phu, tưởng Bổ
đặc già la, tưởng ý sanh, nho đồng, tác giả, thọ giả tức là chẳng phải tưởng.
Vì sao? Vì chư Phật Thế Tôn lìa tất cả
tưởng.
Phật xác nhận lời của Thiện Hiện.
Bấy giờ Thế Tôn bảo cụ thọ Thiện
Hiện:
- Đúng vậy, đúng vậy. Thiện Hiện!
Nếu các hữu tình nghe Kinh điển thâm sâu như thế, mà không kinh, không sợ,
không hoảng hốt, thì phải biết hữu tình ấy thành tựu sự tối thắng hiếm có. Vì
sao?
Phật phá cái chấp: “Bát Nhã là đệ nhất Ba la mật”
Thiện Hiện! Vì Như Lai nói Ba la mật
tối thắng là Bát nhã Ba La Mật. Thiện Hiện! Ba la mật tối thắng mà Như Lai đã
nói, được vô lượng chư Phật Thế Tôn cùng tuyên thuyết, nên gọi là Ba la mật tối
thắng. Như Lai nói Ba la mật tối thắng tức chẳng phải Ba la mật, cho nên Như
Lai gọi là Ba la mật tối thắng.
Phật phá chấp: “Nhẫn nhục Ba la mật”
Lại nữa, Thiện Hiện! Như Lai nói
nhẫn nhục Ba la mật tức chẳng phải Ba la mật, cho nên Như Lai gọi là nhẫn nhục
Ba la mật. Vì sao?
Thiện Hiện! Vì đời quá khứ xưa, Ta
từng bị vua Yết lợi cắt tay chân, xẻo thịt. Khi ấy, Ta hoàn toàn không có tưởng
ngã, hoặc tưởng hữu tình, hoặc tưởng mạng giả, hoặc tưởng sĩ phu, hoặc tưởng Bổ
đặc già la, hoặc tưởng ý sanh, hoặc tưởng nho đồng, hoặc tưởng tác giả, hoặc
tưởng thọ giả. Ta đều không có tưởng, cũng chẳng phải không có tưởng. Vì sao?
Thiện Hiện! Vì lúc đó nếu Ta có
tưởng ngã tức là có tưởng giận. Nếu Ta có tưởng hữu tình, tưởng mạng giả, tưởng
sĩ phu, tưởng Bổ đặc già la, tưởng ý sanh, tưởng nho đồng, tưởng tác giả, tưởng
thọ giả, tức là có tưởng giận. Vì sao?
Thiện Hiện! Vì Ta nhớ trong quá khứ
năm trăm năm, từng làm tiên nhơn, hiệu là Nhẫn Nhục. Bấy giờ, Ta hoàn toàn
không có tưởng ngã, không có tưởng hữu tình, không có tưởng mạng giả, không có
tưởng sĩ phu, không có tưởng Bổ đặc già la, không có tưởng ý sanh, không có
tưởng nho đồng, không có tưởng tác giả, không có tưởng thọ giả. Ta đều không có
tưởng, cũng chẳng phải không có tưởng.
Bồ tát phát Bồ đề tâm phải xa lìa tất cả vọng chấp.
Thiện Hiện! Đại Bồ tát phát tâm Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề nên xa lìa tất cả tưởng, chẳng trụ nơi sắc mà sanh tâm,
chẳng trụ phi sắc mà sanh tâm; chẳng trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp mà sanh
tâm; chẳng trụ phi thanh, hương, vị, xúc, pháp mà sanh tâm. Hoàn toàn vô trụ mà
sanh tâm. Vì sao?
Thiện Hiện! Vì các chỗ trụ chẳng phải là chỗ trụ. Do đó, Như Lai nói các Bồ tát
nên vô trụ mà hành bố thí. Chẳng nên trụ sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp mà
hành bố thí.
Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ tát vì
các hữu tình mà làm nghĩa lợi, nên phải xả bỏ bố thí như thế. Vì sao?
Thiện hiện! Vì các tưởng hữu tình
tức là chẳng phải tưởng. Tất cả hữu tình, Như lai nói chẳng phải hữu tình.
Như Lai nói thật, không nói hư dối.
Thiện Hiện! Như Lai là người nói lời
thật, người nói lời phải, người nói lời đúng, người nói lời chẳng khác.
Lại nữa, Thiện Hiện! Các pháp mà Như
Lai hiện tiền đã chứng, hoặc đã nói, hoặc đã nghĩ, thì ở trong ấy chẳng phải
chơn thật, cũng chẳng phải hư dối.
Thiện Hiện! Ví như một người vào nơi
nhà tối thì không thấy gì hết. Phải biết Bồ tát nếu rơi vào việc, nghĩa là rơi
vào việc mà hành bố thí, cũng lại như vậy.
Thiện Hiện! Ví như người mắt sáng,
khi đêm đã tàn, mặt trời chiếu sáng, thì thấy hình sắc mọi vật. Phải biết Bồ
tát chẳng rơi vào việc, nghĩa là chẳng rơi vào việc mà hành bố thí, cũng lại
như vậy.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu thiện nam,
hoặc thiện nữ đối với pháp môn đây mà thọ trì đọc tụng thông suốt rốt ráo và vì
người khác tuyên thuyết chỉ bày, như lý tác ý, thì Như Lai dùng Phật trí biết
rõ người này, Như Lai dùng Phật nhãn thấy rõ người này, Như lai độ người này.
Tất cả hữu tình như thế sẽ được vô lượng phước đức.
Lại nữa, Thiện Hiện! Giả sử thiện
nam, hoặc thiện nữ nào, vào phần đầu của ngày, đem thân thể mình nhiều như số
cát sông Hằng mà bố thí; vào phần giữa của ngày, lại đem thân thể mình nhiều
như số cát sông Hằng mà bố thí; vào phần cuối của ngày cũng đem thân thể mình
nhiều như số cát sông Hằng mà bố thí. Bố thí như thế trải qua vô số trăm ngàn
kiếp, nếu có hữu tình nào nghe pháp môn như thế mà không phỉ báng, thì do nhân
duyên đây sẽ được số phước nhiều hơn trước vô lượng, vô số; huống nữa là hay
đối với pháp môn như thế mà biên chép, thọ trì, đọc tụng thông suốt rốt ráo đầy
đủ và rộng vì người khác tuyên thuyết chỉ bày, như lý tác ý.
Lại nữa, Thiện Hiện! Pháp môn như
thế chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể cân lường. Phải nên mong cầu, cảm được quả dị
thục không thể nghĩ bàn.
Thiện Hiện! Như Lai tuyên nói pháp
môn như thế vì muốn lợi ích các hữu tình hướng tới Tối thượng thừa vậy.
Thiện Hiện!
Nếu có ai đối với pháp môn đây mà thọ trì, đọc tụng thông suốt rốt ráo và rộng
vì người khác tuyên thuyết chỉ bày, như lý tác ý, thì người này được Như Lai
dùng Phật trí biết rõ, được Như lai dùng Phật nhãn thấy rõ, được Như Lai độ
người này. Tất cả hữu tình như thế thành tựu vô lượng phước đức, đều sẽ thành
tựu vô biên phước đức chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể cân lường.
Thiện Hiện! Tất cả hữu tình như thế,
vai họ mang gánh Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của Như Lai. Vì sao? Thiện Hiện! Vì
pháp môn như thế chẳng phải các hàng hạ liệt có thể tin hiểu. Pháp mà
hữu tình nghe hiểu, chẳng phải các ngã kiến, chẳng phải các hữu tình kiến,
chẳng phải các mạng giả kiến, chẳng phải các sĩ phu kiến, chẳng phải các Bổ đặc
già la kiến, chẳng phải các ý sanh kiến, chẳng phải các thiếu niên kiến, chẳng
phải các tác giả kiến, chẳng phải các thọ giả kiến có thể nghe hiểu. Các loại
này, nếu có thể thọ trì đọc tụng, thông suốt rốt ráo và rộng vì người khác tuyên
thuyết chỉ bày, như lý tác ý, thì không có lẽ ấy!
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu địa phương
nào nghe được Kinh điển đây, thì địa phương ấy được thế gian các trời, người, A
tu la… cúng dường, kính lễ, đi nhiễu quanh bên phải, như linh miếu thờ Phật.
Lại nữa, Thiện Hiện! Như có thiện
nam, hoặc thiện nữ đối với Kinh điển đây, thọ trì, đọc tụng thông suốt rốt ráo,
và rộng vì người khác tuyên thuyết chỉ bày, như lý tác ý, mà bị khinh chê hủy
phạm, mắng nhiếc chê bai, thì vì sao? Thiện Hiện! Vì các hữu tình này đời trước
đã gây các nghiệp bất tịnh, lẽ ra rơi vào cõi ác, nhưng vì trong hiện pháp bị
người khinh chê hủy phạm, nên nghiệp bất tịnh đời trước đã gây thảy đều tiêu
diệt, sẽ được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì sao?
Người thọ trì Kinh này công đức nhiều hơn Phật Thích
Ca
cúng dường vô số chư Phật.
Thiện Hiện! Ta nhớ thuở quá khứ xa
xưa, hơn vô số kiếp, trước thời đức Nhiên Đăng Như Lai Ứng Chánh Đẳng
Giác, trước thời đó nữa, Ta từng gặp tám mươi bốn ức trăm ngàn chư Phật, Ta đều
vâng thờ. Đã vâng thờ rồi đều không trái phạm.
Thiện Hiện! Đối với chư Phật Thế Tôn
như thế, Ta đều được vâng thờ. Đã vâng thờ rồi đều không trái phạm. Sau đời
đương lai, hậu thời, hậu phần năm trăm năm, khi Chánh pháp sắp diệt, lúc thời
phần chuyển, nếu hữu tình nào đối với Kinh điển đây, thọ trì đọc tụng thông
suốt rốt ráo và rộng vì người khác tuyên thuyết chỉ bày, như lý tác ý, thì này
Thiện Hiện! Số phước đời trước của Ta so với số phước đây thì trăm phần không
bằng được, như vậy cho đến ngàn phần, hoặc trăm ngàn phần, hoặc ức trăm ngàn
phần, hoặc hơn ức trăm ngàn phần, hoặc số phần, hoặc kế phần, hoặc toán phần,
hoặc dụ phần, hoặc cực số phần cũng chẳng bằng được.
Thiên Hiện! Nếu Ta nói đầy đủ, chính
ngay khi ấy, số phước mà thiện nam, hoặc thiện nữ này được, cho đến số phước mà
thiện nam, hoặc thiện nữ này thọ trì, thì các hữu tình nghe được bèn mê ngất,
tâm nghi điên cuồng.
Cho nên, Thiện Hiện! Như Lai tuyên
thuyết pháp môn như thế chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể tính lường. Hãy nên mong
cầu, quả đạt được chẳng thể nghĩ bàn.
Đây là lần thứ hai, Thiện Hiện hỏi Phật hai câu hỏi
quan trọng.
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại thưa
Phật:
- Bạch Thế Tôn! Những người phát tâm
hướng tới Bồ tát thừa nên an trụ như thế nào? Nên tu hành như thế nào? Nhiếp
phục tâm như thế nào?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Những ai phát tâm
hướng tới Bồ tát thừa, phải nên phát tâm như vầy: Nơi cõi Vô dư y diệu Niết
bàn, ta đều làm cho tất cả hữu tình vào Niết bàn. Mặc dù độ tất cả hữu tình đều
được diệt độ, song không thấy có hữu tình nào được diệt độ. Vì sao?
Thiện Hiện! Vì nếu các đại Bồ tát
còn tưởng hữu tình, thì không gọi là đại Bồ tát. Vì sao? Vì các đại Bồ tát
chẳng nên nói rằng chuyển tưởng hữu tình; như vậy, chuyển tưởng mạng giả, tưởng
sĩ phu, tưởng Bổ đặc già la, tưởng ý sanh, tưởng thiếu niên, tưởng tác giả,
tưởng thọ giả, phải biết cũng vậy. Vì sao? Thiện Hiện! Vì không có một chút
pháp nào gọi là người hướng tới Bồ tát thừa.
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Khi
xưa, ở chỗ đức Nhiên Đăng Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, có chút pháp nào mà Như
Lai chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề chăng?
Cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật:
- Bạch Thế Tôn! Như con hiểu nghĩa
Phật nói, thì khi xưa ở chỗ đức Nhiên Đăng Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, Như Lai
không có chút pháp nào gọi là chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Như Lai không có chút pháp để chứng Vô Thượng Chánh
Đẳng Bồ đề:
Phật bảo cụ thọ Thiện Hiện:
- Đúng vậy, đúng vậy. Thiện Hiện!
Xưa kia, ở chỗ đức Nhiên Đăng Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, Như Lai không có
chút pháp nào chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì sao? Thiện Hiện! Vì khi
xưa ở chỗ đức Nhiên Đăng Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, nếu Như Lai có chút pháp
nào chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, thì đức Nhiên Đăng Như Lai Ứng Chámh
Đẳng Giác chẳng nên thọ ký cho Ta rằng: “Thiện nam tử! Vào đời đương lai, ngươi
tên là Thích Ca Mâu Ni Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác”.
Thiện Hiện! Vì Như Lai không có chút
pháp nào để chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, cho nên đức Nhiên Đăng Như
Lai Ứng Chánh Đẳng Giác mới thọ ký cho Ta rằng: “Thiện nam tử! Vào đời đương
lai, ngươi tên là Thích Ca Mâu Ni Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác”. Vì sao?
Thiện Hiện! Vì lời Như Lai tức là
thêm nghĩa chơn như chơn thật. Lời Như Lai tức là thêm nghĩa pháp tánh vô sanh.
Lời Như Lai tức là thêm nghĩa dứt hẳn đạo lộ. Lời Như Lai tức là bất sanh rốt
ráo. Vì sao?
Thiện Hiện! Nếu thật vô sanh tức là
nghĩa tối thắng. Thiện Hiện! Nếu ai nói như vầy: “Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác
chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề”, thì phải biết lời này không chơn thật.
Vì sao?
Thiện Hiện! Vì người ấy hủy báng Ta,
nên khởi chấp chẳng thật. Vì sao?
Thiện Hiện! Vì không có chút pháp
nào mà Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Tất cả pháp đều là Phật pháp.
Thiện Hiện! Những pháp mà hiện tiền
Như Lai đã chứng, hoặc đã nói, hoặc đã nghĩ, ở trong ấy chẳng thật, chẳng hư.
Cho nên Như Lai nói tất cả pháp đều là Phật pháp.
Thiện Hiện! Tất cả pháp, tất cả pháp
ấy Như Lai nói chẳng phải tất cả pháp. Cho nên Như Lai nói là tất cả pháp.
Đoạn chấp có thân lớn.
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Ví như người nam có
thân hình cao lớn.
Cụ thọ Thiện Hiện liền thưa Phật:
- Bạch Thế Tôn! Như Lai nói người
nam có thân hình to lớn, tức là chẳng phải thân, cho nên gọi là thân hình to
lớn.
Không có pháp nào gọi là Bồ tát:
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy.
Nếu các Bồ tát nói lời như vầy: “Ta phải diệt độ cho vô lượng hữu tình”, thì
không gọi là Bồ tát. Vì sao? Thiện Hiện! Vì có chút pháp nào gọi là Bồ tát
không?
Thiện Hiện thưa:
- Bạch Thế đức Tôn! Không có. Không
có chút pháp nào gọi là Bồ tát.
Hữu tình chẳng phải là hữu tình.
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Hữu tình, hữu tình ấy
Như Lai nói chẳng phải hữu tình, nên gọi là hữu tình. Cho nên Như Lai nói tất
cả pháp không có hữu tình, không có mạng giả, không có sĩ phu, không có Bổ đặc
già la...
Phá cái chấp thành tựu công đức trang nghiêm cõi Phật.
Thiện Hiện! Nếu các Bồ tát nói lời
như vầy: “Ta phải thành tựu công đức trang nghiêm cõi Phật”, thì cũng nói như
thế. Vì sao? Thiện Hiện! Vì công đức trang nghiêm cõi Phật, công đức trang
nghiêm cõi Phật ấy Như Lai nói chẳng phải trang nghiêm. Cho nên Như Lai gọi là
công đức trang nghiêm cõi Phật.
Đối với pháp vô ngã mà hiểu biết sâu xa thì được gọi
là Bồ tát.
Thiện Hiện! Nếu các Bồ tát đối với
pháp vô ngã mà tin hiểu sâu xa thì Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác gọi là Bồ tát.
Phật có đủ năm loại mắt:
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Như
Lai có nhục nhãn không?
Thiện Hiện thưa:
- Bạch Thế Tôn! Dạ có. Như Lai có
nhục nhãn.
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Như
Lai có thiên nhãn không?
Thiện Hiện thưa:
- Bạch Thế Tôn! Dạ có. Như Lai có
thiên nhãn.
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Như
Lai có tuệ nhãn không?
Thiện Hiện thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn! Dạ có. Như Lai có
tuệ nhãn.
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Như
Lai có pháp nhãn không?
Thiện Hiện thưa:
- Bạch Thế Tôn! Dạ có. Như Lai có
pháp nhãn.
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Như
Lai có Phật nhãn không?
Thiện Hiện thưa:
- Bạch Thế Tôn! Dạ có. Như Lai có
Phật nhãn.
Phật thấy biết hết tâm niệm của các chúng sanh trong hằng
sa thế giới.
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Cát
trong sông Hằng, Như Lai nói là cát chăng?
Thiện Hiện thưa:
- Bạch Thế Tôn! Đúng vậy. Bạch Thiện
Thệ! Đúng vậy. Như Lai nói là cát.
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Giả
sử trong sông Hằng có bao nhiêu số cát, thì có số sông Hằng bằng với số cát như
thế; cho đến trong vô số sông Hằng này có bao nhiêu số cát thì có bấy nhiêu thế
giới. Các thế giới này chắc là nhiều lắm phải không?
Thiện Hiện thưa:
- Bạch Thế Tôn! Đúng vậy. Bạch đức
Thiện Thệ! Đúng vậy. Các thế giới này rất nhiều.
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Cho đến trong các thế
giới ấy có vô số hữu tình, tâm loạn động của mỗi mỗi hữu tình ấy Ta đều biết
hết. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tâm loạn động, tâm loạn động ấy, Như Lai nói chẳng
phải loạn động. Cho nên Như Lai gọi là tâm loạn động.
Ba thời bất khả đắc:
Thiện Hiện! Vì tâm quá khứ bất khả
đắc, tâm vị lai, hiện tại bất khả đắc.
Phá cái chấp “phước đức nhiều”
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Nếu
thiện nam, hoặc thiện nữ nào dùng bảy báu đầy khắp ba ngàn đại thiên thế giới
đây, dâng cúng Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, thì thiện nam, hoặc thiện nữ này
nhờ nhân duyên đây được số phước chắc là nhiều lắm phải không?
Thiện Hiện thưa:
- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch
Thiện Thệ! Nhiều lắm.
Phật nói:
- Thiện Hiện! Đúng vậy, đúng vậy.
Thiện nam tử, hoặc thiện nữ kia nhờ nhân duyên đây mà được lượng phước ấy rất
nhiều. Vì sao? Thiện hiện! Vì nếu có phước đức thì Như Lai chẳng nói là phước
đức.
Phá cái chấp “quán Như lai bằng sắc thân viên thật hay
đầy đủ”.
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Có
thể quán Như Lai bằng sắc thân viên thật không?
Thiện hiện thưa:
- Bạch Thế Tôn! Không. Chẳng thể
quán Như Lai bằng sắc thân viên thật. Vì sao?
Bạch Thế Tôn! Vì sắc thân viên thật,
sắc thân viên thật ấy Như Lai nói chẳng phải viên thật. Cho nên Như Lai gọi sắc
thân viên thật.
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Có
thể quán Như Lai bằng các tướng đầy đủ không?
Thiện Hiện thưa:
- Bạch Thế Tôn! Không. Chẳng thể
quán Như Lai bằng các tướng đầy đủ. Vì sao?
Bạch Thế Tôn! Vì các tướng đầy đủ,
các tướng đầy đủ ấy Như Lai nói là chẳng phải tướng đầy đủ. Cho nên Như Lai gọi
là các tướng đầy đủ.
Phật phá cái chấp “Như Lai có thuyết pháp”
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Lẽ
nào Như Lai nghĩ như vầy: Ta có nói pháp? Này Thiện Hiện! Nay ông chớ nên khởi
quán như thế. Vì sao? Thiện Hiện! Vì nếu nói Như Lai có nói pháp tức là phỉ
báng Ta, vì chẳng thể nắm giữ được. Vì sao?
Thiện Hiện! Vì việc nói pháp, việc
nói pháp ấy không có pháp để đắc, nên gọi là thuyết pháp.
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa
Phật:
- Bạch Thế Tôn! Vào đời đương lai,
hậu thế, hậu thời, hậu phần năm trăm năm, khi Chánh pháp sắp diệt, lúc thời
phần chuyển, có hữu tình nào nghe nói pháp sắc loại như thế mà được thâm tín
chăng?
Phật phá cái chấp “thật có hữu tình”
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Người đó chẳng phải
hữu tình, chẳng phải chẳng hữu tình. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tất cả hữu tình ấy,
Như Lai nói chẳng phải hữu tình, nên gọi là tất cả hữu tình.
Vô pháp khả đắc.
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Có
chút pháp nào Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hiện chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ
đề?
Cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật:
- Bạch Thế Tôn! Như con hiểu nghĩa
Phật nói, thì không có chút pháp nào Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hiện chứng Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Đúng vậy, đúng vậy. Ở
trong một chút pháp, không có không đắc, nên gọi là Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Lại nữa, Thiện Hiện! Pháp này bình
đẳng. Ở trong đó, hoàn toàn bình đẳng, nên gọi là Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Vì không có tánh ngã, không có tánh hữu tình, không có tánh mạng giả, không có
tánh sĩ phu, không có tánh Bổ đặc già la…, bình đẳng như vậy, cho nên gọi là Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Tất cả pháp thiện, không có gì mà chẳng hiện chứng;
tất cả pháp thiện, không có gì mà chẳng khéo biết. Thiện Hiện! Pháp thiện, pháp
thiện ấy, Như Lai nói tất cả là chẳng phải pháp. Cho nên Như Lai gọi là pháp
thiện.
Phật nói công đức của người thọ trì Kinh này không thể
nghĩ bàn.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu thiện nam,
hoặc thiện nữ nào nhóm gom lượng bảy báu ngang bằng với ba ngàn đại thiên thế
giới, đem bảy báu trong ấy như núi chúa Diệu Cao mà bố thí; lại có thiện nam,
hoặc thiện nữ nào đối với Kinh Bát Nhã Ba La Mật này, cho đến bốn câu kệ, mà
thọ trì đọc tụng thông suốt rốt ráo, rộng vì người khác tuyên thuyết chỉ bày,
như lý tác ý, thì Thiện Hiện! Số phước nói trước so với số phước đây, trăm phần
không thể bằng, như vậy ngàn phần, hoặc trăm ngàn phần, hoặc trăm ức ngàn phần,
hoặc muôn ức ngàn phần, hoặc số phần, hoặc kế phần, hoặc toán phần, hoặc dụ
phần, hoặc cực số phần cũng không thể bằng.
Phật phá cái chấp “Ta có độ thoát hữu tình”
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Lẽ
nào Như Lai khởi nghĩ như vầy: Ta phải độ thoát các hữu tình? Thiện Hiện! Nay
ông chớ nên quán như thế. Vì sao? Thiện Hiện! Vì không có chút hữu tình
nào được Như Lai độ.
Này Thiện Hiện! Nếu có hữu tình nào
được Như Lai độ, thì Như Lai có chấp ngã, có chấp hữu tình, có chấp mạng giả,
có chấp sĩ phu, có chấp Bổ đặc già la... Thiện Hiện! Những sự chấp ngã ấy, Như
Lai nói là chẳng phải chấp, nên gọi là chấp ngã…, chỉ những kẻ phàm phu ngu si
mới cố chấp. Thiện Hiện! Kẻ phàm phu ngu si ấy, Như Lai nói là chẳng phải sanh,
nên gọi là phàm phu ngu si.
Có thể quán Như Lai bằng các tướng đầy đủ không?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Có thể
quán Như Lai bằng các tướng đầy đủ không?
Thiện Hiện thưa:
- Bạch Thế Tôn! Như con hiểu nghĩa
Phật vừa nói, thì không thể quán Như Lai bằng các tướng đầy đủ.
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Hay thay, hay thay!
Đúng vậy, đúng vậy. Đúng như lời ông nói, không thể quán Như Lai bằng các tướng
đầy đủ.
Thiện Hiện! Nếu quán Như Lai bằng
các tướng đầy đủ, thì Chuyển luân Thánh vương tức là Như Lai? Cho nên, chẳng
nên quán Như Lai bằng các tướng đầy đủ. Như vậy, nên quán Như Lai bằng các
tướng chẳng phải tướng.
Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ:
Ai dùng sắc quán Ta,
Dùng âm thanh tìm Ta,
Kẻ ấy hành tà đạo,
Chẳng thể thấy Ta được.
Nên quán pháp tánh Phật,
Tức Pháp thân Đạo sư.
Pháp tánh chẳng bị biết,
Nên kia chẳng hiểu được.
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Như
Lai Ứng Chánh Đẳng Giác dùng các tướng đầy đủ để hiện chứng Vô Thượng Chánh
Đẳng Bồ đề? Thiện Hiện! Nay ông chớ nên quán như thế. Vì sao? Thiện Hiện! Vì
Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chẳng do các tướng đầy đủ mà hiện chứng Vô Thượng
Chánh Đẳng Bồ đề.
Phật phá chấp “không đoạn không diệt”
Lại nữa, Thiện Hiện! Những người
phát tâm hướng tới Bồ tát thừa, có kiến lập chút pháp nào, hoặc hoại hoặc đoạn
sao? Thiện Hiện! Nay ông chớ nên quán như vầy: những người phát tâm hướng tới
Bồ tát thừa quyết chẳng kiến lập chút pháp nào, hoặc hoại hoặc đoạn.
Người ngộ “tất cả pháp vô ngã” phước đức nhiều hơn
người bố thí bảy báu.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu thiện nam,
hoặc thiện nữ nào đem bảy báu đầy khắp thế giới như số cát sông Hằng v.v… dâng
cúng Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác; nếu có Bồ tát nào đối với các pháp vô ngã, vô
sanh mà được kham nhẫn, thì do nhân duyên đây nên Bồ tát này được lượng phước
nhiều hơn trước kia.
Lại nữa, Thiện Hiện! Bồ tát chẳng
nên nhiếp thọ số phước đức.
Cụ thọ Thiện Hiện liền thưa Phật:
- Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát chẳng
nên nhiếp thọ số phước đức?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Nhiếp thọ mà chẳng
nhiếp thọ, cho nên gọi là nhiếp thọ.
Phật phá cái chấp “Như Lai có đi, đứng, nằm ngồi”.
(Uy nghi
tịch tĩnh)
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu ai nói
rằng: Như Lai hoặc đi, hoặc đến, hoặc đứng, hoặc ngồi, hoặc nằm thì người này
chẳng hiểu nghĩa Ta nói. Vì sao? Thiện Hiện! Vì Như Lai tức là chơn như chơn
thật, hoàn toàn không từ đâu đến, cũng không đi về đâu, nên gọi là Như Lai Ứng
Chánh Đẳng Giác.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu thiện nam,
hoặc thiện nữ nào, đem sắc tượng của vô số thế giới bằng lượng cực vi trần v.v…
của đại địa khắp ba ngàn đại thiên thế giới, làm thành mực như lượng cực vi.
Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Lượng
cực vi này chắc là nhiều lắm phải không?
Thiện Hiện thưa:
- Bạch Thế Tôn! Lượng cực vi này rất
nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều. Vì sao?
Bạch Thế Tôn! Vì nếu lượng cực vi là
thật có thì Phật chẳng nên nói là lượng cực vi. Vì sao? Vì Như Lai nói lượng
cực vi tức là chẳng phải lượng, nên gọi là lượng cực vi. Như Lai nói thế giới
ba ngàn đại thiên tức chẳng phải thế giới, nên gọi là thế giới ba ngàn đại
thiên. Vì sao?
Bạch Thế Tôn! Vì nếu thế giới là
thật có tức là một hợp chấp (tướng). Như lai nói một hợp chấp tức là chẳng phải
chấp, nên gọi một hợp chấp.
Phật phá cái chấp về “ngã kiến”.
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Một hợp chấp đây chẳng
thể nói, chẳng thể hý luận. Nhưng tất cả phàm phu ngu si kia cố chấp pháp này.
Vì sao? Thiện Hiện! Vì nếu nói như vầy: Như Lai tuyên thuyết ngã kiến, hữu tình
kiến, mạng giả kiến, sĩ phu kiến, Bổ đặc già la kiến, ý sanh kiến, thiếu niên
kiến, tác giả kiến, thọ giả kiến, thì ý ông nghĩ sao, lời nói như thế là đúng
chăng?
Thiện Hiện thưa:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng đúng. Bạch
Thiện Thệ! Chẳng đúng. Nói như thế chẳng phải là lời đúng đắn. Vì sao? Vì Như
Lai nói ngã kiến, hữu tình kiến, mạng giả kiến, sĩ phu kiến, Bổ đặc già la
kiến, ý sanh kiến, thiếu niên kiến, tác giả kiến, thọ giả kiến tức là chẳng
phải kiến, nên gọi là ngã kiến… cho đến thọ giả kiến.
Phật phá cái “chấp pháp”
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Những người phát tâm
hướng tới Bồ tát thừa, đối với tất cả pháp nên biết như thế, nên thấy như thế,
nên tin hiểu như thế, chẳng trụ tưởng pháp như thế. Vì sao? Thiện Hiện! Vì
tưởng pháp, tưởng pháp ấy, Như Lai nói là chẳng phải tưởng, cho nên Như Lai gọi
là tưởng pháp.
Ứng hóa chẳng phải chân.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát
dùng bảy báu đầy khắp vô lượng, vô số thế giới, dâng cúng Như Lai Ứng Chánh
Đẳng Giác; nếu thiện nam, hoặc thiện nữ nào đối với Kinh Bát Nhã Ba La Mật này,
cho đến bốn câu kệ, mà thọ trì đọc tụng thông suốt rốt ráo, như lý tác ý và
rộng vì người khác tuyên thuyết chỉ bày, do nhân duyên đây nên được số phước
rất nhiều hơn trước vô lượng, vô số. Thế nào gọi là vì người khác mà tuyên
thuyết chỉ bày? Chẳng vì người tuyên thuyết chỉ bày, thì gọi là vì người tuyên
thuyết chỉ bày.
Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ rằng:
Những hòa hiệp mà có,
Như sao mù, đèn huyễn,
Sương, bọt, mộng, điện, mây,
Nên khởi quán như thế.
---o0o---
Phần truyền bá lưu thông.
Khi đức Bạc già phạm Thế Tôn thuyết
Kinh này rồi, Tôn giả Thiện Hiện và các Bí sô, Bí sô ni, nam cận sự, nữ cận sự
và các thế gian trời, người, A tu la, Kiện đạt phược… đều rất vui mừng, tín thọ
phụng hành.
Tới đây là hết phần chính văn của quyển 577 tức phần
“Kim Cang Năng Đoạn”. Sau đây là phần thích nghĩa và
lược giải.
---o0o---
Phần thứ II:
(Thích nghĩa
và lược giải quyển 577 của Hội thứ II)
Lời nói đầu:
Kinh “Kim
Cương Năng Đoạn” chỉ có một quyển (quyển 577) trong 600 quyển của Kinh Đại Bát
Nhã Ba La Mật. Kinh viết liên tục, không có chia làm nhiều đoạn ngắn. Chúng tôi
phân đoạn, mỗi đoạn đều có phẩm tựa và tùy theo phẩm tựa mà có những luận giải
khác nhau. Sau đây là chánh văn của kinh này viết theo kiểu chữ News Time
Roman “in thẳng” và viết theo kiểu “in
nghiêng” là những luận giải của chúng tôi
---o0o---
Làm sao hàng
phục vọng tâm và làm sao an trụ chân tâm?
“Bạch Thế
Tôn! Những ai phát tâm hướng tới Bồ tát thừa, nên trụ như thế nào? Nên tu hành
như thế nào? Nên nhiếp phục tâm như thế nào?
(…)Phật bảo:
- Thiện
Hiện! Những ai phát tâm hướng tới Bồ tát thừa, thì nên phát tâm như vầy: Có bao
nhiêu loài hữu tình, hữu tình được độ, bị độ, như sanh từ trứng, hoặc thai
sanh, hoặc thấp sanh, hoặc hóa sanh, hoặc có hình sắc, hoặc không có hình sắc,
hoặc có tưởng, hoặc không tưởng, hoặc chẳng phải có tưởng, chẳng phải không có
tưởng, cho đến hữu tình giới được tạo tác, bị tạo tác. Tất cả các hữu tình như
vậy, ta đều giúp nhập vào cõi Vô dư y Niết bàn vi diệu. Tuy đã độ vô lượng hữu
tình đều được diệt độ như thế, song không có hữu tình nào được diệt độ. Vì sao?
Thiện Hiện!
Vì nếu các Bồ tát còn tưởng chuyển hữu tình thì không thể gọi là đại Bồ tát. Vì
sao?
Này Thiện
Hiện! Vì các đại Bồ tát chẳng nên nói có tưởng chuyển hữu tình; như vậy tưởng
chuyển mạng giả, sĩ phu, Bổ đặc già la (người), ý sanh, nho đồng, tác giả, thọ
giả, phải biết cũng thế. Vì sao? Thiện Hiện! Vì không có một chút pháp nào gọi
là người phát tâm hướng tới Bồ tát thừa”.
Theo Kinh
văn thì cụ thọ Thiện Hiện hỏi Phật an trụ chân tâm trước và hàng phục vọng tâm
sau. Phật trả lời là phải hàng phục vọng tâm trước, nếu làm được như vậy tức là
an trụ chân tâm. Đây không phải là hai vấn đề riêng rẽ: Hàng phục vọng tâm là
biện pháp, khi hàng phục được vọng tâm thì chân tâm sẽ hiện, chân tâm hiện là
kết quả. Vì vậy, Phật trả lời phải hàng phục vọng tâm trước.
Đối với
người tu hành hàng phục vọng tâm là vấn đề sanh tử. Ngài Khuê Phong tức tôn giả
Tông Mật đã từng trả lời câu hỏi:“Thế nào là Đạo?” Ngài đáp: Vô ngại là Đạo. Hỏi: Lấy
cái gì để tu? Đáp: Biết vọng là tu. Hỏi: Phải tu mới thành hay chẳng cần dụng
công? Đáp: Đạo tuy vốn tròn, vọng khởi
làm phiền lụy, hết sạch vọng niệm tức thành công. Vọng tức phiền não, là
chướng ngại của tâm; hết vọng tức tu thành; tu thành vì đạt được vô ngại nên
gọi là Đạo”. Điều đó có nghĩa muốn an trụ chân tâm thì cần chế phục vọng tâm.
Thiện Hiện
bạch Phật: Làm sao hàng phục được vọng tâm? Phật đáp: Bồ tát phải độ chúng sanh
đều được vào Niết bàn, nhưng không thấy
có một chúng sanh nào được độ.
Câu trả lời
thật là nghịch đời! Nhưng tôn chỉ của Kim Cương là vô trụ tướng: Bồ tát khi độ chúng sanh, nếu còn thấy mình là người
độ (tức còn thấy ngã), thấy chúng sanh là người được độ (tức thấy tướng chúng
sanh), vào Niết bàn (tức còn thấy pháp). Như vậy, Bồ tát không còn là Bồ tát
nữa vì còn chấp ngã, chấp pháp, chấp bốn tướng. Đã chấp dù chỉ bằng mảy lông
sợi tóc thì làm sao hàng phục được vọng tâm? Làm sao an trụ được chân tâm? Làm
sao thâm nhập được Bát nhã Ba la mật?
Khi nhập thế
làm Phật sự, Bồ tát độ sanh phải lìa kiến chấp, tình chấp… thì phiền não chẳng
sanh, vọng chấp không sanh thì tâm mới an định. Đó là không hàng phục mà tự nhậm(1) hàng phục! Bồ tát vừa phát khởi vọng chấp có mình độ, có chúng
sanh được độ… tức Bồ tát còn chấp ngã, nhơn, bỉ, thử… thì phiên não dẫy đầy.
Kinh Tứ Nhị Thập chương ghi: “Giáo pháp của Ta: Niệm mà không trụ chấp nơi niệm, mới thật là niệm. Làm mà
không trụ chấp nơi làm, mới thật là làm. Nói
mà không trụ chấp nơi nói, mới thật là nói. Tu mà không trụ chấp nơi tu, mới thật là tu”. Đó là tôn chỉ vô trụ
tướng Bát nhã Ba la mật.
Cũng nên nói
thêm rằng: Dầu chấp người hay chấp vật cũng xuất phát từ một nguồn tâm, từ cái
ngã, ngã sở. Có chấp là có phân chia chủ khách, có mình người, có anh tôi, có
sanh diệt đối đãi, tức không thoát khỏi ngõ cụt của nhị nguyên…Vì đó là gốc rễ
của những phân chia, rạn nứt… Chân lý chỉ là một, chân lý bên này núi Pyrenées
không thể khác với bên kia. Không thể có hai thứ chân lý cùng sống chung trên
một quả địa cầu. Mặt trăng trên trời là chân lý duy nhất, cái duy nhất một.
Bóng trăng trên ngàn ao hồ sông nước, cũng chỉ là bóng trăng. Vậy, những cái
râu ria gọi là chân lý đó, chỉ là khía cạnh của chân lý, không phải là chân lý,
giống như hàng vạn bóng trăng trên ao hồ sông nước…
Lại nữa, ai
cũng thấy cũng biết cái ngã là cái rốn của vũ trụ, vì nó chi phối tất cả trong
thế giới thông tục này. Đụng tới cái ngã thì biết liền. Còn cái chân thật mầu
nhiệm là chân tâm, Phật tánh thì không ai thấy nổi.
Kinh thường
lặp đi lặp lại nhiều lần: Không thấy không biết thì không chấp, không chấp thì
vọng chẳng sanh, tức tâm thể tịch lặng. Đó là hàng phục vọng tâm cũng là an trụ
chân tâm.
Trong Truyền
Đăng Lục, mục nói về Tổ sư Đông độ Huệ Khả cầu Tổ Bồ đề Đạt Ma an tâm; Huệ Khả
bạch Tổ:
- Tâm con chưa
an, xin Thầy an cho.
Tổ Bảo:
- Đem tâm
ông đến đây, ta an cho.
Huệ Khả yên
lặng hồi lâu, nói:
- Con đã tìm
khắp nhưng không thấy được.
Tổ bảo:
- Ta đã an
tâm cho ông rồi đó.
An tâm không
phải làm bùa phép mầu nhiệm gì cả mà chỉ là hàng phục vọng tâm, đừng để tâm
sanh khởi. Tổ Lâm Tế nói rằng: “Nếu vọng khởi thì đừng cho nó tiếp
nối, còn nếu chưa khởi thì đừng để cho nó khởi. Như vậy, còn hơn quý vị đi hành
cước mười năm”.
Trong Pháp
bảo Đàn Kinh, phẩm thứ năm là “Tọa Thiền”, Tổ Huệ Năng lại nói: “…Nếu chấp
tâm, tâm vốn là vọng. Nếu coi tâm như huyễn thì không còn chỗ chấp vậy. Nếu nói
chấp tịnh, tánh người vốn tịnh, bởi vì vọng niệm che đậy chơn như, chỉ không có
vọng tưởng thì tánh tự thanh tịnh. Khởi tâm chấp về tịnh trở lại sanh ra cái
tịnh vọng. Vọng không nơi chốn, chấp ấy làm vọng; tịnh không hình tướng trở lại
lập thành hình tướng, cho là công phu, người khởi kiến giải này là chướng tự
bản tánh trở lại bị tịnh trói”(2).
Quán chiếu
soi rọi lại chính mình: Đừng để tâm sanh khởi là hàng phục tâm mà cũng là an
trụ tâm. Vọng đến liền biết mà không theo vọng, thì vọng tự biến, tâm tự yên
thôi. Động cũng không chấp mà tịnh cũng không chấp, chỉ không có vọng tưởng thì
tự tánh thanh tịnh.
Kinh Thủ Lăng Nghiêm Trực Chỉ, Phật nói: “Nếu cội gốc
của những cái lăng xăng, chớp nhoáng u uẩn đó vào được tính đứng lặng bản lai,
một phen tập khí bản lai đứng lặng như sóng mòi diệt hết, hóa thành nước đứng,
thì gọi là hết hành ấm. Người ấy có thể vượt khỏi chúng sanh trược, xét lại
nguyên do cội gốc là u uẩn vọng tưởng”.
Vọng hết tình dài dứt sạch thì trở lại cái tịch lặng bản nhiên.
Thành Phật
là dứt niệm phân biệt chấp trước, tâm thể tịch lặng có nghĩa là bản nhiên thanh
tịnh hiện tiền (nói hiện tiền nhưng chẳng có gì là hiện tiền, nó tự sẵn có
trước khi cha mẹ sanh). Trên con đường trở về quê cũ để an thân lập mệnh, việc
giữ thân tâm thanh tịnh là bước đầu cần yếu để nhiếp tâm, không cần biết đó là
lối tu “khán tịnh” hay “thấy tánh”. Còn phân biệt, chấp trước thì bản nhiên
thanh tịnh càng xa dần!
Cư sĩ Giang
Vị Nông người giảng lược Kinh này nói: Chỗ bảo là hàng phục, chính là hàng phục vọng tâm. Vọng tâm là tâm phân biệt, mà tâm phân biệt nổi dậy ở ngã
chấp, nên ngã kiến là gốc phân biệt. Nay trở về căn bản để khiển trừ, thì vọng
tưởng phân biệt tự nó hóa giải hết.
“Chúng sanh
không ngoài Dục, Sắc, Thức (chín loài ở ba cõi: Dục giới, Sắc giới và Vô sắc
giới) vì tham dục, mê sắc, thức tỉnh điên đảo nên mới gọi là chúng sanh. Nếu biết tại sao trở thành chúng sanh, thì
sẽ biết làm sao để độ chúng sanh. Biết vô số vô biên chúng sanh đều là hư
tướng của Dục, Sắc, Thức huyễn thành, thì biết diệt tướng Dục, Sắc, Thức sanh
diệt của nó, khiến vào chỗ bất sanh bất diệt, là thực không có chúng sanh, thực
không có chúng sanh nào đắc độ. Vì sao? Vì chúng sanh bị Dục, Sắc, Thức nó che
lấp đi. Bản tánh của chúng sanh là bất sanh bất diệt, là cùng với ta đồng thể,
thế thì chỗ nào gọi là chúng sanh, chỗ nào gọi là đắc. Quán chiếu như thế lâu
ngày thuần thục, thì cái kiến chấp tự nó hóa giải chẳng hay chẳng biết. Vì cớ
gì? Vì chúng ta cũng là chúng sanh, vì biết đương thể tức không, biết niệm nổi
dậy thì có, nếu không khởi thì tất
cả đều không, biết bổn lai bình
đẳng. Đây là lối hàng phục vừa hay vừa khéo, mới thật là cái hàng phục của
chẳng hàng phục.
Lại nữa,
dụng công chỉ cần trừ vọng, chân tâm chẳng hiện là bởi vọng che. Vọng chẳng trừ
hết mà nói là an trụ ở cái chơn như thì ngay đến một niệm này, vẫn còn nằm
trong vọng tưởng. Nên biết rằng ta trụ là có sở trụ, có sở trụ là có lập. Có sở
có lập thì trong đại viên kính còn dính bụi làm sao quang minh có thể chiếu
khắp được(3)”. Kinh lại nói: “Tâm cuồng vọng chẳng ngừng nghỉ,
ngừng nghỉ tức Bồ đề”. Tổ sư thiền có
câu: “Mỗi vọng niệm là một hóa thân Phật”. Vọng đến thì biết nó đến. Đó là cái “rõ ràng thường biết”, biết mà
không theo, thì vọng tự lặng. Vọng lặng thì tâm tự yên.
Tất cả yếu
chỉ trên đều nhằm thuyết minh hàng phục vọng tâm. Lại nữa, hàng phục phải có
phương tiện, mà phương tiện tức là phát tâm quảng đại. Tâm mở rộng là phá ngã.
Quên ngã nên mới có thể phát tâm độ hết mọi loài. Đây không nói hàng mà tự
nhiên hàng. Vì vậy mới có mục bố thí kế tiếp. Bố thí là phá ngã để tự hàng
phục.
Thích nghĩa cho đoạn này:
(1). Nhậm
hay nhậm vận nghĩa là sự việc được phát khởi một cách ngẫu nhiên, không do tạo
tác của tâm thức phân biệt.
(2). Trích
dẫn trong “Pháp Bảo Đàn Kinh”.
(3). Ý của
Ngài Giang Vị Nông (Kinh “Kim Cương Đại Bát Nhã Ba La Mật Giảng Nghĩa” do cư sĩ
Giang Vị Nông thuyết giảng ở thánh phố Thượng Hải và được một số đạo hữu ghi
chép lại thành sách phổ biến tại Trung Hoa và Đài loan, Đồ Nam Lão Nhân dịch,
có đăng trong Thuvienhoasen.org. Cũng nên biết cư sĩ đã tốn hơn 40 năm nghiên
cứu tu học Bát Nhã. Nên những điều mà cư sĩ thuyết ra rất uyên bác, nên chúng
tôi có trích dẫn để Quý vị học hỏi thêm).
---o0o---
Phật dạy: Bồ tát bố thí không nên chấp tướng.
“Thiện Hiện!
Đại Bồ tát chẳng trụ nơi việc hành bố thí, hoàn toàn vô trụ mà hành bố thí.
Chẳng trụ nơi sắc mà hành bố thí; chẳng trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp mà hành
bố thí. Như vậy, đại Bồ tát chẳng trụ tướng tưởng mà hành bố thí. Vì sao? Vì
nếu đại Bồ tát hoàn toàn không trụ mà hành bố thí, thì số phước đức kia chẳng
thể tính lường”.
Ở đoạn trên,
Phật dạy khi độ sanh phải phá trừ “ngã chấp”, tức không chấp bốn tướng: Ngã,
nhơn, chúng sanh và thọ giả(1). Đoạn này Phật dạy Bồ tát khi bố thí cũng phải
trừ “pháp chấp”, tức không trụ chấp tướng sáu trần: Sắc, thanh, hương, vị, xúc,
pháp. Đó là diệu hạnh vô trụ, chỗ an
trụ vi diệu của Bát nhã Ba La Mật.
Bố thí làm
sao tránh khỏi chấp tướng? Cho là cho một vật gì? Vật đó lớn nhỏ, tốt xấu? Đó
là chấp sắc. Nói một lời an ủi cho người khỏi lo sợ, gọi là vô úy thí; thuyết
một bài pháp, gọi là pháp thí. Đó là ngôn ngữ, âm thanh. Vậy làm sao bố thí mà
không chấp tướng? Đây là nói bố thí nhắm
vào TÂM. Bố thí là phóng hạ, là buông xả, là phủi sạch, không còn nắm bắt
(tướng). Có trụ là có dính mắc, trói buộc. Vô trụ là vô chấp, vô chấp thì
tâm mới thanh tịnh. Vì vậy, Phật bảo “hoàn toàn vô trụ mà hành bố thí”.
Không có trụ
vào sáu trần mà bố thí, tức buông xả sáu trần, tâm không duyên với một trần nào
hết thì tâm mới an trụ. Tâm luôn luôn duyên lự nơi sáu trần nên mới loạn động
sanh nhiễm sanh tịnh, vì vậy mới kẹt nơi sắc, dính nơi thanh, vướng nơi hương
vị… Do vướng mắc sáu trần nên loạn càng thêm loạn, muốn dứt không dứt được,
muốn lìa không lìa nổi, muốn buông bỏ lại nối tiếc… Bố thí là phóng hạ, buông
xả phủi sạch hết thì tự nhiên tâm an trụ.
Đối với sáu
trần đừng để tâm dính mắc. Đó là an trụ tâm. Vì vậy, mà thiền sư Bá Trượng bảo
rằng: “Tâm cảnh không đến với nhau thì giải thoát”. Nói thì quá dễ nhưng hành mới khó, vì lục trần là môi trường sống của
con người, làm sao mà lìa, làm sao mà khỏi nương vịn, dính mắc? Làm sao sống
trong tướng mà lìa tướng? Làm sao tâm được an trụ? Vậy, chỉ còn một cách là
“bội trần hợp giác”. Nên Phật bảo: “Ngoài không chấp tướng, trong như như
bất động”. Ngoài không chấp tướng tức là
bội trần, tâm như như bất động thì liền trở về tánh giác bản nhiên, tức hợp
giác.
HT. Thích
Thượng Siêu lại bảo: “… người bố thí phải luôn luôn lấy trí tuệ soi sáng để
thấy rõ sáu trần là giả hợp, biến động không ngừng. Nếu tâm trú trước vào nó
thì tâm cũng dễ giả hợp biến động không ngừng, làm sao an được. Trừ khi dùng
sáu trần làm bố thí mà trực ngộ sáu trần không có tự tánh, là chân không, đã là
chân không thì siêu không gian, siêu thời gian, thì tâm sẽ không bị trụ trước
ràng buộc vào đâu cả, tức tâm an trụ tự do không bị lệ thuộc ngoại cảnh danh
tướng”.
Tổ Lâm Tế
bảo: “Tỏ rõ được tướng không của các loại sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp
thì không gì trói buộc được. Đó là vô y đạo nhân”. Thái Hư đại sư bảo: “Chúng sanh trú sanh tử, Nhị thừa trụ Niết
bàn, Bồ tát liễu ngộ pháp không, sanh diệu dụng Bát Nhã cho nên không trụ, vì
không trụ nên trụ Bát Nhã”. Đại Bát Nhã
Ba La Mật cũng nói “Bất trụ nhất thiết pháp danh trụ Bát Nhã”, có nghĩa: Không trụ tất cả pháp, tức
trụ vào Bát Nhã.
“Không tướng ngã nhân là trí, độ
sanh là bi. Không trú pháp là trí, bố thí là bi. Không trú pháp thì phá trừ
được cái tâm chấp tướng có, làm việc bố thí thì phá trừ được
cái tâm chấp tướng không. Không chấp
vào tướng có, tướng không thì trí thể hiển bày mà trí dụng cũng viên mãn, nên
làm việc bố thí với trí Bát Nhã này, phước đức vô lượng, vô biên như hư không
không thể suy lường”.
Tóm lại, khi
làm Phật sự như bố thí chẳng hạn, nếu Bồ tát phá trừ ngã chấp, pháp chấp nghĩa
là không chấp mình là người bố thí (chấp ngã), kia là kẻ thọ thí (chấp nhân),
đây là vật bố thí (chấp pháp) thì các nhiễm ô phiền não không sanh, phiền não
không sanh tức tâm được thanh tịnh. Tâm thanh tịnh là tâm Phật, là Như như,
rộng rãi bao la như mười phương hư không. Nếu đem tâm thanh tịnh mà bố thí thì
được phước đức vô lậu thanh tịnh rộng lớn không gì bằng.
Bởi thế, nên Phật dạy: Bồ tát khi bố thí phải
“tam luân không tịch”, nghĩa là không thấy (chấp) có mình ban ơn, có kẻ chịu ơn
và vật bố thí. Như thế mới gọi là bố thí Ba la mật.
Bích Nham
Lục, tắc thứ nhất nói về “Cái trống không của Đạt Ma” kể rằng: Vũ Đế thường mặc
áo cà sa, đích thân giảng Kinh Phóng Quang Bát Nhã, giảng sống động đến mức
khiến hoa trời rơi tơi tả xuống đất biến thành ngọc lưu ly. Vũ Đế còn học Đạo
thờ Phật, ra lệnh cho thiên hạ xây chùa độ Tăng, tu hành theo giáo lý. Thiên hạ
gọi ông là Phật Tâm Thiên Tử.
Lúc Đạt Ma
mới đến gặp Vũ Đế, Vũ Đế bèn hỏi: “Trẫm xây chùa độ Tăng, như thế có công đức
chăng?” Đạt Ma nói “Chẳng có công đức gì cả”. Nói như thế chẳng khác gì xối
nước bẩn vào mặt người ta. Nếu như ai hiểu được câu nói “chẳng có công đức gì
cả” này, kể như người ấy đủ khả năng đối diện Đạt Ma. Thử nói xem xây chùa độ
Tăng mà lại chẳng có công đức gì cả? Ý nghĩa lời này là ở đâu?
Đó chẳng qua
là công đức hữu lậu, nhiều lắm kiếp sau làm trời người giàu sang sung sướng. Vì
vậy, Bồ Đề Đạt Ma mới nói là chẳng có công đức gì cả. Đối với Tổ công đức vô
lậu mới đáng gọi công đức. Vì khi làm Phật sự không thấy mình, không thấy
người, tức không thấy ngã, không thấy pháp… nghĩa là hành không có sở đắc, hành
như vô đạo hành, tam luân không tịch thì mới đáng gọi là công đức vô thượng,
không có gì sánh bằng!
Thích nghĩa cho đoạn Kinh này:
(1). Kinh
Kim Cương Năng Đoạn nói riêng hay Đại Bát Nhã nói chung liệt kê các tướng của
chúng sanh là: Hữu tình, mạng giả (dòng sinh mạng),
sanh giả (người sanh), dưỡng giả (người dưỡng dục), sĩ phu (người trưởng
thành), bổ đặt già la (chủ thể luân hồi), ý sanh (người do người sanh), nho đồng
(ngã tối thắng), tác giả (người tạo tác), thọ giả (người thọ), tri giả (người
biết), kiến giả (người thấy). Kinh “Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa” của
Ngài La thập dịch chỉ đề cập có bốn tướng là: Ngã, nhơn, chúng sanh và thọ giả.
---o0o---
Có thể lấy các tướng đầy đủ để quán Như Lai chăng?
“Phật bảo:
- Thiện
Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Có thể lấy các tướng đầy đủ để quán Như Lai chăng?
Thiện Hiện
thưa:
- Bạch Thế
Tôn! Chẳng được. Chẳng thể lấy các tướng đầy đủ để quán Như Lai. Vì sao? Vì Như
Lai nói các tướng đầy đủ, tức chẳng phải các tướng đầy đủ”.
Phật lại bảo
cụ thọ Thiện Hiện:
- Thiện
Hiện! Các tướng đầy đủ đều là hư vọng (giả dối), cho đến phi tướng đầy đủ đều chẳng phải hư vọng. Như
vậy, nên quán Như Lai bằng tướng chẳng phải tướng”.
Đoạn Kinh này
nối tiếp đoạn trước “vô trụ tướng mà trụ”, không trụ bất cứ một tướng nào hết
mới gọi là an trụ. Cái thân có 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp là thân có sanh diệt.
Thân tướng này do tứ đại hợp thành, nó có hình sắc, nên mắt trần có thể thấy
được. Vì vậy, Phật hỏi Thiện Hiện: Có thể lấy thân tướng để quán Như Lai chăng?
Dĩ nhiên ai cũng phải trả lời: Đúng thế! Nhưng cụ thọ trả lời ngược lại là
không thể lấy thân tướng để quán Như Lai. Vì Như Lai đây chỉ cho tự tánh thanh
tịnh, hay pháp thân vô tướng(1). Như vậy, với con mắt trần làm sao quán thấy
Như Lai.
Ngài Tuyết
Phong khi sắp tịch, tự làm bài minh, nói: “Từ duyên mà có trước có sau, có
thành có hoại, còn chẳng từ duyên mà được thì muôn kiếp vững bền”. Cái do duyên mà có như thân do cha mẹ sanh
ra, có sanh lão bệnh tử, nên gọi là có thành có hoại. Còn cái pháp thân chẳng
do duyên sanh mà được, nên nói là muôn kiếp vững bền. Xác thân thì có còn có
mất, còn pháp thân thì không bao giờ mất và Phật đã thành Đạo, nên Phật sống
trong tự tánh của Như Lai pháp thân đó. Nên không thể quán Như Lai qua 32 tướng
tốt, 80 vẻ đẹp.
Vì vậy, Hòa
Thượng Chí Công mới nói rằng: “Thân có tướng là thân vô tướng,
trên đường vô minh là đường vô sanh”. Cái
thân có tướng là thấy sắc thân bằng xương bằng thịt. Nhưng phải xuyên qua cái
sắc thân bằng xương bằng thịt này mới thấy được tánh. Tánh là vô tướng. Thấy
tánh là “kiến tánh” tức thành Phật. Thấy được như vậy thì sẽ chuyển vô minh
thành bất sanh bất diệt, nên nói là vô sanh.
Phải nhận ra
ngay nơi thân tướng này, “chỗ Như Lai nói, thân tướng tức chẳng phải thân
tướng” nghĩa là phải thấy xuyên qua thân
tướng bằng xương bằng thịt này mới quán được cái vô tướng kia.
Thái Hư đại
sư kiến giải đoạn này như sau: “Tướng sắc thân có thấy được, như
thân Phật có đủ 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp. Tu Bồ đề tuy thị hiện làm thanh văn mà
tâm liễu ngộ rằng hình tướng Phật, Bồ tát, chúng sanh đều là ảnh tượng bị duyên
của tâm phân biệt vọng tưởng, chớ không phải thật có. Nên khi Phật hỏi: Có thể
do thân tướng mà quán Như Lai chăng? Ông liền đáp: Không. Bởi vì thân tướng Như
Lai nói đó, tức là cái giả tướng của bốn đại, năm ấm hòa hợp tương tục, chứ
không phải là thân tướng chân thật”.
Tiếp theo
Phật bảo cụ thọ Thiện Hiện: “Các tướng đầy đủ đều là hư vọng (giả dối), cho đến phi tướng đầy đủ đều chẳng phải hư vọng. Như
vậy, nên quán Như Lai bằng tướng chẳng phải tướng”- Nguyên văn bằng chữ Hán là: “善thiện 現hiện. 乃nãi 至chí 諸chư 相tướng 具cụ 足túc 皆giai 是thị 虛hư 妄vọng. 乃nãi 至chí 非phi 相tướng 具cụ 足túc 皆giai 非phi 虛hư 妄vọng. 如như 是thị 以dĩ 相tương/tướng. 非phi 相tướng 應ưng 觀quán 如Như 來Lai”.
Đoạn Kinh
này do nhóm của Ngài Huyền Trang sao lại hoàn toàn khác hẳn với đoạn Kinh của
Ngài La thập dịch. Nguyên văn đoạn Kinh do La Thập dịch là: “Phật cáo Tu
Bồ đề: Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng. Nhược kiến chư tướng phi tướng tắc
kiến Như Lai”. Nhóm của Ngài Huyền Trang
dùng từ quán trong khi Ngài La Thập
dùng từ Kiến. Kiến có nghĩa là thấy
như mắt thấy cảnh như căn thấy trần. Thấy đòi hỏi có đối tượng cụ thể, thấy
hình tướng đẹp xấu… Còn quán là quán tưởng, quán chiếu nghĩa là dùng trí để
nghĩ tưởng.
Đoạn Kinh do
Ngài La Thập dịch nói rõ là thấy thân tướng kia tức chẳng phải thân tướng chân
thật, mà phàm tất cả tướng của thân căn thế giới, hình hình sắc sắc đều là hư
vọng, giả dối như hoa trong gương, trăng dưới nước, toàn không có tướng gì chân
thật cả! Nếu hiểu ra tất cả tướng đều hư dối như thế, tức là thấu rõ thật tướng
các pháp, là trí tuệ vô thượng, tức là đã thấy pháp thân Như Lai. Còn đoạn Kinh
của Ngài Huyền Trang là quán tánh, nếu người quán còn thủ tướng, tức còn phân
biệt chấp trước thì chỗ quán đó chính là thức vọng nên cũng chẳng thấy tánh. Vì
vậy, thấy hay nghĩ tưởng nọ kia đều là sanh diệt, nên trong Kinh ĐBN Phật lúc
nào cũng kêu gọi vô kiến, vô thức, vô niệm, vô tâm. Đoạn Kinh của Ngài Huyền
Trang dịch, Phật bảo “nên quán Như Lai bằng tướng chẳng phải tướng”. Điều này
có nghĩa là cũng quán Như Lai bằng tướng, nhưng chẳng phải là tướng cụ túc mà
là tướng như của Như Lai. Thấy mà
không thấy tướng, chỉ thấy tánh thì cũng đồng như quán tướng hay phi tướng mà
không bị tướng hay phi tướng nó che, thì liền chứng tánh. Vì vậy, mới nói tại
sao lìa tất cả tướng tức chư Phật(2).
Kinh Viên
Giác nói: Trong thế gian từ bậc Thánh nhân đến dân giả ngu dốt đều “nhận cái
thân tứ đại ngũ uẩn giả hợp làm thân tướng, nhận cái bóng dáng duyên theo sáu
trần làm tướng của tự tâm nên gọi là vô minh”. Nhận cái thân giả hợp làm thân tướng, nên bị tướng che nên chìm trong
sanh tử, quên đi chủ nhân ông là cái bất sanh bất diệt.
Cư sĩ Giang
Vị Nông giảng về đoạn này như sau: “Chấp tướng là chấp hữu, chấp tướng
mê tướng, nên vọng ngoại tìm cầu. Đó là bệnh chung của phàm phu. Nhị thừa trái
với phàm phu, hiểu rõ thân tướng là huyễn, rời huyễn nên thoát khỏi sanh tử,
nhưng lại mắc bệnh chấp “không”, cái không này vẫn là tướng, vì chấp không nên
trụ vào phi pháp tướng, nên Phật quở là chẳng hợp”.
Phải biết có
thể phải có dụng, có tánh ắt có tướng. Từ xưa tới nay, nói đến chấp trước của phàm phu không
ngoài cái tướng mà tìm cầu, chỉ cần biết cái tướng là hư vọng liền biết chỗ trở
về. Rơi vào chấp không lại là đoạn diệt, vì tánh và tướng không phải là một,
tánh là tánh, tướng là tướng, nên chẳng thể diệt tướng. Nhưng tánh và tướng
không phải khác. Tướng biếu thị của tánh, tánh là căn bản của tướng. Có căn bản
mà không có tướng, cũng chẳng làm gì được. Nên Bát Nhã nói chẳng trụ hai bên.
Chẳng trụ có, chẳng trụ không mới có thể xứng tánh. Chính vì tánh là vô tướng,
là vô sanh. Cái do cha mẹ sanh là có thành có hoại, cái vô sanh (tức pháp
thân), vì không ai sanh nên muôn kiếp vững bền là vậy. Phật chứng pháp thân nên
gọi là Như Lai. Chúng sanh và Phật đồng một thể tánh, nếu chúng sanh không trụ
ở một tướng nào hết, gọi là chân trụ. Chỉ cần biết tướng là không, liền được
thấy tánh. Đại chúng thấy Phật mặc áo, ăn cơm… thị hiện tướng phàm phu liền
chấp tướng phàm phu, nên chẳng thấy Như Lai. Tu Bồ Đề qua tướng thấy tánh, biết
Phật chẳng trụ tướng liền thấy Như Lai.
Như Lai sở
thuyết thân tướng là đề cập đến cả hai bên: Tánh là thể của tướng, tướng là
dụng của thể. Tướng nếu không có tánh thì chẳng dụng, tánh không có tướng thì
chẳng hiển hiện. Lìa tướng thì chẳng có gì gọi là tánh, lìa tánh thì không có
gì gọi là tướng, vấn đề còn lại là có
chấp trước hay không mà thôi. Chấp tướng là mê tướng, nên bị nó che, vì vậy
chẳng thấy tánh. Nếu chẳng chấp tướng hay phi tướng thì ngay ở tướng có thể
thấy tánh. Vì không chấp trước nên không rơi vào hai bên. Bát Nhã viên dung ở
chỗ này. Theo tướng mà nói thì gọi là thân tướng, theo tánh mà nói thì thể của
nó là không, tánh vốn vô tướng. Tướng là hư vọng, tánh là chân thật. Đừng đuổi theo vọng liền biết cái chân.
Nếu biết chư tướng phi tướng, thì tướng chẳng che lấp tánh, liền thấy Như Lai,
không cần diệt tướng, làm sao diệt nổi tướng, chỉ cần rõ tướng là hư vọng tức
chân tướng hiện tiền.
Trong Kinh ĐBN, phẩm “Hiện
Thế Gian”, quyển 510, Hội thứ III. Như Lai như thật giác tất cả pháp tướng như
thế nào?
“Huệ mạng Tu Bồ Đề nói với các Thiên tử: Tất
cả pháp tướng Như Lai như thật giác là vô tướng, chỗ gọi biến ngại là sắc,
lĩnh nạp là tướng thọ, tưởng tượng là tướng tưởng, tạo tác là tướng hành, rõ
biết là tướng thức, Như Lai như thật giác là vô tướng. Khổ não là tướng uẩn,
cửa sanh trưởng là tướng xứ, nhiều độc hại là tướng giới, Như Lai như thật giác
là vô tướng. Hay xả là tướng bố thí, không não nhiệt là tướng tịnh giới, chẳng
tức giận là tướng an nhẫn, chẳng giải đãi là tướng tinh tiến, không tán loạn là
tướng tĩnh lự, không chấp đắm là tướng Bát Nhã, Như Lai như thật giác là vô
tướng. Vô sở hữu là tướng nội không, chẳng điên đảo là tướng chơn như, chẳng hư
dối là tướng bốn Thánh đế, Như Lai như thật giác là vô tướng. Không rối não là
tướng bốn tĩnh lự, không hạn ngại là tướng bốn vô lượng, không ồn tạp là tướng
bốn định vô sắc, Như Lai như thật giác là vô tướng. Không trói buộc là tướng
tám giải thoát, chẳng toán loạn là tướng chín định thứ lớp, năng xa lìa là
tướng ba mươi bảy Bồ đề phần pháp, Như Lai như thật giác là vô tướng. Năng xa
lìa là tướng không giải thoát môn, không lấy đắm là tướng vô tướng giải thoát
môn, chán các khổ là tướng vô nguyện giải thoát môn, Như Lai như thật giác là vô
tướng. Ngôi nhiếp tịnh là tướng Tam thừa thập địa, tới địa giác là tướng mười
lực Bồ tát, Như Lai như thật giác là vô tướng. Năng xem soi là tướng năm nhãn,
không trệ ngại là tướng sáu thần thông, Như Lai như thật giác là vô tướng. Khó
khuất phục là tướng Như Lai mười lực, không khiếp sợ là tướng bốn vô sở úy,
không đoạn tuyệt là tướng bốn vô ngại giải, cho lợi vui là tướng đại từ, vớt
suy khổ là tướng đại bi, mừng việc lành là tướng đại hỷ, bỏ ồn tạp là tướng đại
xả, chẳng thể cướp là tướng mười tám pháp Phật bất cộng, Như Lai như thật giác
là vô tướng. Năng nghiêm đẹp là tướng tướng hảo, năng nhớ nghĩ là tướng pháp vô
vong thất, không sở chấp là tướng tánh hằng trụ xả, Như Lai như thật giác là vô
tướng. Nhiếp trì khắp là tướng tất cả Đà la ni môn, nhiếp thọ khắp là tướng tất
cả Tam ma địa môn, Như Lai như thật giác là vô tướng. Khéo thọ giáo là tướng
quả Thanh văn thừa, tự khai ngộ là tướng Duyên giác, tới Đại quả là tướng hạnh
Bồ tát Ma ha tát, đủ đại dụng là tướng chư Phật Chánh đẳng Bồ đề, Như Lai như
thật giác là vô tướng. Hiện Chánh đẳng giác là tướng Nhất thiết trí, cực khéo
thông suốt là tướng Đạo tướng trí, hiện đẳng biệt giác là tướng Nhất thiết
chủng trí, Như Lai như thật giác là vô tướng.
Thiên tử phải biết: Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đối với
tướng tất cả pháp như thế thảy đều năng như thật giác là vô tướng. Do nhân
duyên đây, Ta nói chư Phật được trí vô ngại không ai ngang bằng.
Bấy giờ, Phật bảo Huệ
mạng Tu Bồ Đề: Bát nhã Ba la mật sâu
thẳm là mẹ chư Phật năng chỉ thật tướng các pháp thế gian. Vậy nên, Như Lai Ứng
Chánh Đẳng Giác nương pháp mà trụ, cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen,
nhiếp thọ hộ trì chỗ nương pháp trụ. Pháp ấy tức là Bát nhã Ba La Mật sâu thẳm”.
Một
đoạn Kinh quá hay nói về tướng và vô tướng của các pháp một cách chính xác!
Nhưng chư Phật chư Bồ tát không trụ tướng mà cũng không trụ vô tướng, nhưng trụ
chỗ Phật trụ, đó là Bát nhã Ba La Mật thẳm
sâu.
Thích nghĩa cho đoạn Kinh này:
(1). Như như
hay Như có nghĩa là như vậy là như vậy, chẳng lúc nào chẳng như, chẳng sanh
chẳng diệt, chẳng khứ chẳng lai, nên gọi là Như Lai. Như đó mầu nhiệm xưa nay
vốn thanh tịnh, không bị vô minh che lấp, cũng không bị phiền não làm ô nhiễm;
chiếu rõ các pháp bình đẳng không hai. Vì bình đẳng không hai, nên nói là nhất
tướng chỗ gọi vô tướng. Như Lai tự tánh cũng như vậy, nên nói Như Lai pháp thân
vô tướng.
(2). Lìa tất
cả tướng tức là chư Phật, vì tất cả tướng CÓ KHÔNG đã lìa, thì tâm thanh tịnh.
Tâm thanh tịnh thì thật tướng sanh, thật tướng sanh tức vô minh ngã kiến đoạn
dứt, chân như pháp thân hiện ra nên gọi là chư Phật. Nên nói thấy tất cả tướng
không phải tướng tức thấy Như Lai.
---o0o---
Giáo pháp của chư Phật như chiếc bè đưa người qua
sông.
“Thiện Hiện!
Vì nếu đại Bồ tát có tưởng chuyển pháp, thì vị ấy liền có chấp ngã, chấp hữu
tình, chấp mạng giả, chấp Bổ đặc già la… Nếu có tưởng chuyển phi pháp thì vị ấy
cũng có chấp ngã, chấp hữu tình, chấp mạng giả, chấp Bổ đặc già la… Vì sao?
Thiện Hiện!
Vì không thể nắm giữ pháp, cũng không thể nắm giữ phi pháp. Cho nên, Như Lai mật
ý nói pháp môn dụ như chiếc bè. Này những người trí, pháp còn nên bỏ, huống là
phi pháp”.
Nếu chấp thủ
pháp tướng tức còn chấp ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả. Khi tâm còn chấp thủ dù
chấp pháp hay phi pháp thì vẫn còn ở trong vòng trói buộc của nhị nguyên đối
đãi, dấu hiệu của tâm phân biệt chưa tiêu. Bởi vậy, Phật dạy nên coi giáo pháp
của Ta như chiếc bè dùng để sang sông. Khi sang được bờ giác ngộ bên kia rồi
thì chánh pháp còn phải bỏ huống chi phi pháp. Vì nếu còn giữ lấy tức còn chấp
thủ, còn chấp thủ thì không thể gọi là thật giác. Muốn tâm an định, Phật bảo
pháp hay phi pháp đều phải bỏ. Nó chỉ là phương tiện đưa người sang sông, sang
sông thì phải quên đò.
Đoạn văn
trên nói: Được phước đức vô lượng như thế là do đâu? Là do những chúng sanh kia
thấu rõ tứ đại là giả hợp, bản lai vốn không, bốn tướng cũng không. Vả lại, năm
uẩn như huyễn hóa, sáu trần không thật. Tướng pháp là không, tướng phi pháp
cũng không, thì tâm lặng lẽ trong suốt, thì còn gì mà chấp trước. Chúng sanh đó
thấy ngã pháp đều không, tâm không còn quái ngại, cái bệnh chấp “không” cũng
không còn. Tới đó mới được rỗng rang tự tại.
Tóm lại, đây là phá chấp chớ không phải phá pháp.
Có chấp là có dính mắc, nếu không chấp thì pháp nào cũng tốt hết. Pháp đâu có
lỗi. Lỗi là do người chấp. Nên TT. Thích Đông Phương nói: “Chấp pháp
là chấp có, chấp phi pháp là chấp không, chấp có chấp không là nhị
nguyên. Pháp Phật bất nhị. Nên không chấp hai bên thì tương ưng với Bát Nhã. Đó
là “thầm hợp” với Như Lai, do đó Như Lai biết hết, thấy hết những chúng sanh đó
không sót. Chỗ đó nhà thiền gọi là ấn tâm, không cần đem vô phòng kín, giăng
màn rồi mới ấn tâm, chỉ ngay một niệm thanh tịnh đó, lìa tướng “có không” thì
liền được ấn tâm, ngay đó thấy Như Lai rõ ràng”.
Cư sĩ Giang
Vị Nông nói: “Chữ pháp trong trong câu “pháp thượng ưng xã” là trỏ
những pháp lục trần mà nói; chữ phi pháp trong câu “hà huống phi pháp” là trỏ
pháp phi hữu phi vô mà nói. Vì chưng lấy nghĩa hết thảy pháp chẳng sanh mà Bát
Nhã sanh, chỗ gọi hai bên chẳng thủ, là quán triệt tận đáy. Nên chính ngay lúc
độ, phải trừ cái diệt hữu diệt vô. Đã được diệt độ thì chẳng những pháp diệt
hữu diệt vô bỏ đi mà cả đến phi hữu phi vô cũng bỏ luôn nữa, mới thành ra Như
Lai của chư Pháp nhất như. Đây chính là chỗ thường thuyết của chư Phật. Như Thế
Tôn, Ngài cũng vậy, mặc áo ăn cơm biểu thị giống phàm phu; tiếng nói, tướng đẹp
nghiễm nhiên đầy đủ, đến đây sanh tử, Niết bàn, hai bên đều chẳng trụ. Hữu ư vô
ư? Diệc hữu diệc vô ư? Phi hữu phi vô ư? Tứ cú đều chẳng thể nói. Hai câu “bất
ưng thủ pháp, bất ưng thủ phi pháp” là yếu chỉ cần thiết vậy”.
Bậc liễu đạo
hiểu rằng: Thủ ở đây có nghĩa là nương tựa, nắm giữ, như chim tựa cành, như dây
leo nương dậu, không thoát khỏi ba cõi, sáu đường, vì bị pháp tướng che, nên
không thể nào chuyển được pháp mà trái lại bị pháp chuyển. Lục Tổ bảo rằng: “Pháp nào
cũng thông, pháp nào cũng đủ mà không thể có được một pháp nào, đó là bậc Tối
thượng thừa, niệm nào niệm nào cũng thành diệu huệ. Như thế mới vận dụng hết
thảy các pháp”. Vấn đề còn lại là xả chấp, buông bỏ hay phủi sạch mà thôi.
Giáo pháp Bát Nhã nói về “Không”, chẳng qua là một bài triết học nói về xả trừ
không hơn không kém.
Trong Trung
Bộ Kinh, Phật giảng rộng như sau: “Này các thầy Tỳ khưu, lời ta dạy
ví như chiếc bè, để đưa qua, không phải để cất giữ. Hãy nghe nhớ kỹ lời ta đây.
Ví như có người suốt ngày đi đường nhọc mệt gặp phải một con sông rộng nước
sâu; bờ sông bên này đầy lo sợ và hiểm nghèo, còn bờ bên kia thì yên ổn, không
sợ sệt, nhưng không có ghe thuyền đưa qua sông, mà cũng không có cầu bắc nối
hai bờ. Ví như người ấy nghĩ bụng như vậy: Quả thật sông thì rộng nước thì sâu,
bờ bên này đây lo sợ và hiểm nghèo, còn bờ bên kia thì yên ổn không sợ sệt;
nhưng không có thuyền mà cũng không có cầu đưa ta qua bờ bên kia. Sao ta không
thử lượm lặt những lau sậy, những que cành chà lá kết lại làm bè xem sao? Rồi
ngồi trên bè, ta dùng tay dùng chân làm chèo, chèo êm qua bờ bên kia. Theo đó,
nầy các Tỳ khưu, ví như người ấy lượm lặt những lau sậy, những que cành chà lá,
kết lại làm bè, rồi dùng tay dùng chân làm chèo, chèo êm qua bờ bên kia. Bấy
giờ, sông qua rồi, bờ đến rồi, ví như người ấy nói vầy: Quả thật chiếc bè ấy đã
giúp tôi nên việc lớn. Nhờ nó chở tôi, và tôi dùng tay dùng chân làm chèo, tôi
mới qua êm được đến bờ bên kia; bây giờ phỏng như tôi đội chiếc bè trên đầu
hoặc mang nó trên vai, và cứ thế mà lên đường đi đâu tùy thích? Các thầy Tỳ
khưu nghĩ sao? Người ấy dùng bè như vậy có khôn ngoan không?
Bạch Ngài, nhất định là không.
Vậy, nếu là người khôn ngoan, người
ấy phải xử trí làm sao với chiếc bè? Nầy các Tỳ khưu, người ấy nên nghĩ như
vầy: Quả thật chiếc bè ấy đã giúp tôi nên việc. Nhờ ngồi trên bè, và chèo bằng
tay chân, tôi qua êm được bờ bên kia. Giờ đây, nếu tôi bỏ lại chiếc bè ấy bên
bờ, hoặc vứt mặc nó chìm xuống nước, và tôi lại tiếp tục lên đường? Các thầy tì
khưu, nếu làm như vậy, người ấy đáng là người khôn ngoan khéo xử trí với chiếc
bè.
Cũng như vậy
đó, các thầy Tỳ khưu, giáo pháp tôi dạy các thầy ví như chiếc bè, cốt để đưa
qua không phải để mang giữ. Thấu rõ ví dụ ấy, thì đối với pháp, các thầy còn
phải xả thay huống gì là cái phi pháp”.
Bởi vậy, các thầy Tỳ khưu ơi, dầu là
sắc chất nào (rupam: vật chất hoặc thể
xác) dầu ở quá khứ, vị lai hay hiện tại, dầu ở trong hay ở ngoài, dầu thô
hay tinh, dầu tiện hay quí, xa hay gần, sắc nào cũng phải quán thấy đúng như
thực trong ánh sáng của chính trí, nghĩa là quán thấy như vầy:
“Cái này
không phải là của tôi,
Tôi không
phải là cái nầy,
Cái này
không phải là tự ngã của tôi”.
Bốn uẩn (khanda) còn lại là thọ (vedana:
cảm giác) tưởng (sanna: khái niệm)
hành (sankhara: căn bản tạo tác) và
thức (vinnanam: ý thức) cũng như vậy
đó. Người nào quán thấy thế gian như vậy thì lìa thế gian, và như thế là thoát
ly tất cả dục vọng tai hại, chứng đến tự do. Đó là người gạt bỏ chướng ngại
xong, hào lũy lấp cạn hết, là người đã bạt trừ, đã tự do, đã hoàn tất cuộc
chiến, đã trút bỏ gánh nặng, đã giải thoát.
Nói tóm lại, người ấy có tất cả đức
tính của bậc Đại Giác, đức tánh thành tựu trong sự phối hợp nhịp nhàng giữa ý
chí và trí thức.
Kinh Sutta
Nipata nói: “Ta đã đóng
xong chiếc bè chắc chắn, ta đã đến tận Niết bàn, ta đã qua bờ bên kia, chiến
thắng dòng cuồng lưu tham dục; ta không còn dùng chiếc bè vào việc gì nữa, vậy
trời muốn mưa cứ mưa”.
Vậy có gì
quý báu cần nắm giữ cất giấu nữa chăng?
---o0o---
Phật phá cái chấp “Như Lai có chứng đắc
quả Vô Thượng
Bồ đề và Thuyết pháp?
“Phật lại
bảo cụ thọ Thiện Hiện:
- Này Thiện
Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Có chút pháp nào Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chứng được
Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề chăng? Có chút pháp nào Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác
đã nói chăng?
Thiện Hiện
thưa:
- Bạch Thế
Tôn! Như con hiểu nghĩa Phật đã nói, không có chút pháp nào Như Lai Ứng Chánh
Đẳng Giác chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, cũng không có chút pháp nào là
Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đã nói ra. Vì sao?
Bạch Thế
Tôn! Vì pháp mà Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đã chứng, đã nói, đã tư duy đều
không thể nắm giữ, không thể tuyên thuyết, chẳng phải pháp, chẳng phải phi
pháp. Vì sao? Vì các Hiền Thánh, chúng sanh đều là sự hiển hiện của pháp vô vi”.
Sau 49 ngày
thiền định, khi sao mai vừa mọc, Phật đắc tam minh, ngũ nhãn, lục thần thông,
hàng phục ma quân, đoạn trừ tất cả tập khí phiền não tương tục, trở thành Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Rồi từ đó Ngài chu du khắp một phần ba xứ Ấn, thuyết pháp
độ sanh suốt 49 năm trước khi nhập Niết bàn. Nhưng tại sao Phật lại hỏi Thiện
Hiện: Như Lai có được quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác không? Như Lai có
thuyết pháp không? Và cụ thọ Thiện Hiện lại trả lời: Không.
Cụ thọ Thiện
Hiện từng theo Phật tu học bao năm mà tại sao không biết việc đó. Câu trả lời
của cụ thọ có nghĩa là Phật không chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, vì Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề chỉ là danh tự ngôn ngữ thế tục. Trong phẩm
“Chân như”, quyển 323, Hội thứ I, ĐBN, Thiện Hiện bạch Phật: “(…)Nếu
năng tin hiểu, không có pháp năng chứng, không có pháp sở chứng, không có xứ
chứng, không có thời chứng, cũng không do đây mà có sở chứng, thời năng tin
hiểu Vô thượng Bồ đề của chư Phật. Nếu chứng
biết, không có pháp năng sở, nơi chốn, thời gian… hay do đây mà được chứng,
thời có thể chứng được sở cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì sao? Bạch Thế Tôn!
Vì tất cả pháp đều rốt ráo rỗng không.
Trong rốt ráo không, đều không có pháp khá gọi là năng chứng, khá gọi sở chứng,
khá gọi xứ chứng, khá gọi thời chứng, khá gọi do đây mà có sở chứng. Vì sao?
Các pháp đều không, hoặc tăng hoặc giảm đều vô sở hữu, đều bất khả đắc”.
Vô sở hữu,
bất khả đắc ở đây có nghĩa là đừng lấy cái tâm tu hành mà mong cầu nắm bắt,
không có gì là chứng, không có gì là đắc nên gọi là vô sở hữu, bất khả đắc. Bát
Nhã ở đây phá cái chấp về danh tự ngôn ngữ. Quả vị Vô Thượng Bồ đề cũng là danh
tự do người đặt ra, có tên để gọi, nên nó cũng thuộc về danh tự ngôn ngữ. Nó là
cái vỏ bên ngoài, người ta gán cho mình, không thuộc về mình. Nếu người ta có
thể gán cho mình(nhãn hiệu) thì người ta cũng có thể lột ra được. Cái thầm ngộ,
tự chứng là cái thuộc về nội tâm, làm sao thấy được mà lột mà gỡ. Chỉ có mình
tự ngộ, tự chứng. Ở đây Phật phá cái chấp về danh tự ngôn ngữ, chứ không phá
pháp.
Đó là nói về
chứng đắc. Còn nói về thuyết pháp: Phật cũng từng nói pháp 49 năm, nhưng Phật
cũng phủ nhận là không có nói một chữ, vì pháp tự nhiên thành, pháp tự pháp
trụ. Trong Kinh Lăng Già, Phật nói kệ:
“Từ đêm Ta
thành Đạo
Đến khi nhập
Niết bàn
Ở trong
khoảng giữa ấy
Ta trọn không có nói
Duyên tự pháp trụ
Nên Ta nói
thế ấy”.
Pháp của
Phật không do tư duy, suy tưởng mà do Phật tự thấy tự chứng rồi nói lại cho
người. Tất cả pháp đều sẵn có trong trời đất, Phật không “chế” ra, không phải
Phật ra đời mới có, khi Phật chưa ra đời thì không. Vì vậy, Kinh thường nói
không do Phật làm ra, không do Bồ tát, Độc giác, Thanh văn hay trời người làm
ra… Nếu các pháp do người khác làm ra thì các pháp đó cũng thành sanh diệt, do
tạo tác mà thành. Nếu nói là “duyên tự
đắc pháp trụ”, tức là các pháp tự có chứ không phải ai nghĩ ra, chế ra.
---o0o---
Phật nói công đức thọ trì Kinh này nhiều hơn bố thí
thất bảo.
“Phật bảo:
- Này Thiện
Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Nếu thiện nam, hoặc thiện nữ nào đem bảy báu đầy khắp
ba ngàn đại thiên thế giới mà bố thí, thì thiện nam tử, hoặc thiện nữ này nhờ
nhân duyên đây được số phước nhiều chăng?
Thiện Hiện
thưa:
- Bạch Thế
Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều. Nhờ nhân duyên đây nên thiện nam,
thiện nữ này được phước rất nhiều. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì số phước đức mà Như
Lai nói là chẳng phải phước đức, cho nên Như Lai nói là số phước đức.
Phật lại bảo
Thiện Hiện:
- Thiện
Hiện! Nếu có thiện nam, hoặc thiện nữ đem bảy báu đầy khắp ba ngàn đại thiên
thế giới để bố thí, và nếu có thiện nam, hoặc thiện nữ đối với pháp môn này,
cho đến bốn câu kệ mà thọ trì đọc tụng thông suốt rốt ráo và rộng vì người khác
tuyên thuyết chỉ bày, như lý tác ý, thì do nhân duyên đây số phước được nhiều
hơn trước vô lượng, vô số. Vì sao? Vì Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của tất cả các
đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều từ Kinh đây mà ra, chư Phật Thế Tôn đều
sanh từ Kinh đây. Vì sao?
Này Thiện
Hiện! Vì pháp chư Phật mà Như Lai nói là chẳng phải pháp chư Phật. Cho nên Như
Lai nói là pháp chư Phật”.
Bảy báu là
thứ khó tìm mà dùng bảy báu đầy khắp Tam thiên đại thiên thế giới để bố thí thì
phước đức có được làm sao kể xiết. Nhưng nếu có người thọ trì Kinh này rồi
giảng nói cho người khác nghe, từ một quyển, nửa quyển hay ít nhất là bốn câu
kệ thì công đức của người này hơn người trước vô lượng vô số. Tại sao? Vì bố
thí tài vật: Cơm ăn, áo mặc… chỉ là giúp ích về vật chất cấp thời đem lại no ấm
cho con người, giải quyết được phần nào cái khổ não về vật chất. Nhưng bố thí
pháp (pháp thí) dù ở trong phạm vi nhỏ hẹp cũng có thể giúp con người có cuộc
sống an vui, giải thoát những phiền muộn của cuộc sống thế tục; trong phạm vi
lớn hơn thì cứu thoát người ra khỏi luân hồi sanh tử; cao hơn nữa thì giúp con
người thành Bồ tát, thành Phật cứu độ tất cả chúng sanh thoát khỏi sanh tử hay
vào Niết bàn.
Kinh này
giải bày diệu lý chơn như, bao gồm giáo lý hạnh quả. Chẳng những tự mình thọ
trì có thể tiến đến cực quả, mà còn giúp cho người khác thọ trì, khiến họ phát
Bồ đề tâm tu hành chánh hạnh, chứng căn bản trí và hậu đắc trí mà thẳng đến quả
Bồ đề. Rồi những vị đã thành đạt lại giáo hóa, cứu độ kẻ khác cũng như vậy. Cho
nên Kinh này được coi là mẹ của tất cả chư Phật, chư Bồ tát. Giáo lý của Kinh
này là tuyệt đối vô thượng thì lẽ dĩ nhiên, những ai thọ trì phải được phước đức
không thể tính lường nói chi đến việc so sánh với người bố thí bảy báu.
Nhưng các
pháp vô thượng này không có năng sở, ngoài vòng đối đãi, không thể luận bàn.
Cho nên nói không có người thuyết, không có người nghe, không có pháp bị
thuyết. Tất cả đều không, chỉ dùng lời nói để khiển trừ lời nói, nên tạm gọi là
pháp Phật. Nếu còn thấy Ta là người nói pháp, chúng sanh là người nghe và có
pháp do Ta thuyết, tức năng sở chủ khách vẫn còn nguyên, vọng chấp chưa tiêu
làm sao chứng Bát Nhã Trí. Vì thế, Phật bảo Thiện Hiện: Pháp Như Lai thuyết chẳng phải pháp chư Phật.
HT Thích
Thiện Hoa trong Phật Học Phổ Thông, khóa XII, sơ lược về Kinh Kim Cương, nói
như sau: “Từ hồi nào đến giờ, tất cả pháp không phải sắc, không phải tâm, không
phải trí không phải thức v.v… chỉ vì chúng sanh vọng chấp phân biệt, so sánh
đối đãi với nhau mà thành ra thế này hay thế kia như đối với hữu thì nói là vô,
đối với sắc thì gọi là tâm, đối với thức thì gọi là trí, đối với cao thì gọi là
thấp, đối với lớn gọi là nhỏ, đối với tốt gọi là xấu v.v… Nếu chúng sanh xa lìa
vọng chấp thì không có pháp gì gọi được (tức
thuyết được). Lúc bấy giờ hành giả mới thấy rõ các pháp không thể kêu gọi (ly danh tự tướng), không thể nói năng
luận bàn (ly ngôn thuyết tướng) hay
suy nghĩ được (ly tâm duyên tướng)".
Đó chính là yếu chỉ của Kim Cương Năng Đoạn,
cắt đứt tất cả dây mơ rễ má trong ngoài để tâm được an nhiên tự tại.
---o0o---
Không nên chấp mình chứng bốn quả Thanh văn.
“Phật bảo:
- Thiện
Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Các vị Dự lưu(1) có nghĩ rằng: Ta chứng được quả Dự lưu không?
Thiện Hiện
thưa:
- Bạch Thế
Tôn! Không. Các vị Dự lưu không nghĩ rằng ta chứng được quả Dự lưu. Vì sao?
Bạch Thế Tôn! Vì các vị Dự lưu không dự một chút pháp gì nên gọi là Dự lưu.
Không dự sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp nên gọi Dự lưu.
Bạch Thế
Tôn! Nếu vị Dự lưu nghĩ như vầy: Ta chứng được quả Dự lưu, tức là vị ấy chấp
ngã, hữu tình, mạng giả, sĩ phu, Bổ đặc già la v.v…
Phật bảo:
- Thiện
Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Các vị Nhất lai có nghĩ rằng: Ta chứng được quả Nhất
lai không?
Thiện Hiện
thưa:
- Bạch Thế
Tôn! Không. Các vị Nhất lai không nghĩ rằng, ta chứng được quả Nhất lai. Vì
sao? Bạch Thế Tôn! Vì không có chút pháp nào để chứng tánh Nhất lai, nên gọi
Nhất lai.
Phật bảo:
- Này Thiện
Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Các vị Bất hoàn có nghĩ rằng: Ta chứng được quả Bất
hoàn không?
Thiện Hiện
thưa:
- Bạch Thế
Tôn! Không. Các vị Bất hoàn chẳng nghĩ rằng, ta chứng được quả Bất hoàn. Vì
sao? Bạch Thế Tôn! Vì không có chút pháp nào để chứng tánh Bất hoàn, nên gọi là
Bất hoàn.
Phật bảo:
- Thiện
hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Các vị A la hán có nghĩ rằng: Ta chứng được quả A la
hán không?
Thiện Hiện
thưa:
- Bạch Thế
Tôn! Không. Các vị A la hán chẳng nghĩ rằng, ta chứng được tánh A la hán. Vì
sao? Bạch Thế Tôn! Vì không có chút pháp nào gọi là A la hán, do nhân duyên đây
nên gọi là A la hán.
Bạch Thế
Tôn! Nếu A la hán khởi nghĩ như vầy: Ta chứng được tánh A la hán, tức là chấp
ngã, hữu tình, mạng giả, sĩ phu, Bổ đặc già la… Vì sao?
Bạch Thế
Tôn! Vì Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác nói: Con được trụ Vô tránh tối thượng bậc
nhất. Bạch Thế Tôn! Dù con là A la hán lìa hẳn tham dục, song con chưa từng
khởi nghĩ như vầy: Ta được A la hán lìa hẳn tham dục.
Bạch Thế
Tôn! Nếu con khởi nghĩ rằng: Ta được A la hán lìa hẳn tham dục, thì Như Lai
chẳng nên nói với con rằng: Thiện nam tử Thiện Hiện đắc trụ Vô tránh tối
thượng bậc nhất. Vì hoàn toàn vô trụ, nên Như Lai nói là Vô tránh trụ”.
Thích nghĩa:
(1). Dự lưu:
預流; S: śrotāpanna; P: sotāpanna; dịch theo âm Hán Việt
là Tu đà hoàn hay Thất lai; chỉ một người mới nhập dòng, đạt quả thứ nhất của
Thánh đạo (ārya-mārga), trước đó một bậc Tùy tín hành (s: śraddhānusārin) hay
bậc Tùy pháp hành (s: dharmānusārin). Bậc dự lưu là người đã giải thoát ba trói
buộc đầu tiên là ngã kiến, nghi ngờ và giới cấm thủ (bám vào quy luật), nhưng vẫn
còn ô nhiễm (s: kleśa) dính mắc. Bậc dự lưu sẽ tái sinh nhiều nhất là bảy lần,
sau đó đạt giải thoát; nếu thoát được Ái dục (s: kāma-tṛṣṇā) và sân hận thì chỉ
cần tái sinh hai hay ba lần nữa.
Sơ giải:
Tu Tiểu thừa
thì chứng được bốn quả: Tư đà hoàn(Thất lai hay Dự lưu), Tư đà hàm(Nhất lai), A
na hàm(Bất hoàn) và A la hán:
- Quả thứ
nhất gọi là Tu đà hoàn, còn gọi là Thất lai hay Dự lưu: Các vị này đã đoạn được
kiến hoặc nhưng chưa đoạn được tư hoặc. Nên phải trở lại thế gian này bảy lần
nữa để đoạn trừ 9 phẩm tư hoặc, mới thoát khỏi sanh tử. Vì vậy, gọi là Thất
lai. Còn Dự Lưu có nghĩa là mới nhập vào dòng Thánh.
- Quả thứ
hai gọi là Tu đà hàm: Còn gọi là Nhất lai. Những vị này cần phải một lần nữa
tái sanh để đoạn trừ tư hoặc hay tư dục ở trong nội tâm. Kinh nói dục giới có 9
phẩm tức cái thấy sai lầm về Sự. Tư đà hàm phải đoạn 6 phẩm, còn ba
phẩm chưa đoạn hết, nên phải trở lại. Bởi tư hoặc không thể đoạn một lần thì
xong. Nếu cái thấy, cái hiểu biết sai lầm mà có người hướng dẫn chỉ bảo thì có
thể dứt trừ ngay được, còn cái nghiệp huân tập, cái dục trong nội tâm rất khó
sửa đổi, nên gọi là nghiệp tập vi tế. Bởi thế phải công phu lâu dài.
- Quả thứ ba
gọi là A na hàm hay Bất lai. Những vị này không còn trở lại nữa sau khi đoạn
trừ hết 9 phẩm tư hoặc, đoạn hết 9 phẩm thuộc về Dục giới này liền lên cõi Trời
Ngũ A Na Hàm thiên, ở đó rồi vào Niết bàn, không sanh trở lại Dục giới nữa, nên
gọi là Bất lai.
- Quả thứ tư
là A la hán: A la hán có nghĩa là:
1- Sát tặc:
Tức dứt sạch mọi phiền não;
2- Ứng cúng:
Là bậc giải thoát được nhơn thiên cúng dường;
3- Vô sanh:
Tức không còn tái sanh tử nữa.
Ở đây nhằm
nghĩa thứ ba là vô sanh. Trong Tứ Thập Nhị Chương có chép: Tu vô tu tu, chứng
vô chứng chứng. Nghĩa là tu không chấp vào mình tu, thế mới gọi là tu. Chứng
không chấp vào mình chứng, thế mới thật là chứng. Nếu người tu và chứng đúng
theo tinh thần này thì khế hợp với Bát Nhã, nghĩa là không còn vọng chấp ngã,
pháp và bốn tướng, thì mới là thật tu thật chứng(1).
Vì vậy,
Thiện Hiện mới lấy mình làm thí dụ: Cũng như con đây vì không có chấp mình có
tu chứng, nên mới được Như Lai cho là đắc Vô tránh tam muội, người ưa tu hạnh A
lan nhã, ly dục bậc nhất.
Hạnh vô
tránh là không thích tranh cãi, không tranh cãi là tức là thanh tịnh lặng lẽ.
Hạnh A lan nhã, hay hạnh viễn ly, sống xa trần lìa cấu cũng có nghĩa là thích
tịch tịnh. Ly dục tức không còn ham muốn, nắm bắt nữa. Nếu không ham muốn nắm
bắt thì tâm tịnh. Vậy, vô tránh tam muội, hạnh A lan nhã, ly dục đều chỉ cho
trạng thái hoàn toàn thanh tịnh, nên Thiện Hiện mới được Phật trao ký là bậc A
la hán, là trưởng lão lý giải Tánh Không vào bậc nhất trong 10 đệ tử lớn của
Phật thời bấy giờ.
Tóm lại, Vô
tránh tam muội, hạnh A lan nhã hay ly dục là nói tới cái tâm tịch tĩnh của
chính mình. Còn quả A la hán do cái tâm không còn sanh diệt chứ không có gì
khác. Đó là cái thầm chứng. Dầu cho ai thọ ký cho mình là Thất lai, Nhất lai,
Bất lai, A la hán, Độc Giác Bồ đề, Bồ tát hay quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh
giác cũng là những danh tự bên ngoài. Nếu khởi niệm mình đã chứng đắc bốn quả
tức mình có chỗ được, có được là có mất, tức vẫn còn sanh diệt. Có chỗ trụ tức
là còn dính tướng, dính tướng thì làm sao chứng tánh.
Nên học Bát Nhã là phá chấp để ly tướng, ly tướng thì
trở về với tự tánh chân thật. Vọng ngoại tìm cầu là tự dối mình dối người, nên
dễ bị gạt. Kim Cương năng đoạn là vậy.
Kinh ĐBN có
một đoạn Kinh cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: “Nếu năng tin hiểu, không có pháp
năng chứng, không có pháp sở chứng, không có xứ (xứ sở) chứng, không có thời (thời
gian) chứng, cũng không do đây mà có sở chứng, thời năng tin hiểu Vô thượng
Bồ đề của chư Phật. Nếu có chứng biết, không có pháp năng chứng, không có pháp
sở chứng, không có xứ chứng, không có thời chứng, cũng không do đây mà có pháp
sở chứng, thời năng chứng được sở cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì sao? Bạch
Thế Tôn! Vì tất cả pháp đều rốt ráo rỗng không. Trong rốt ráo không, đều không
có pháp khá gọi là năng chứng, khá gọi sở chứng, khá gọi xứ chứng, khá gọi thời
chứng, khá gọi do đây mà có sở chứng. Vì sao? Các pháp đều không, hoặc tăng
hoặc giảm đều vô sở hữu, bất khả đắc”.
Vì vậy, nếu
tu mà còn thấy mình tu, thấy mình chứng là còn thấy sở cầu, sở đắc dù đó là quả
vị nhỏ nhoi nhất. Còn thấy chỗ để cầu để đắc nên không bao giờ chứng đắc. Vô sở
hữu, bất khả đắc mới đắc mới hiện quán. Tôn chỉ Bát nhã Ba la mật là vậy!
Thích nghĩa cho đoạn sơ giải này:
(1). Quyển
567, phẩm “Pháp Giới”, Hội thứ VI, ĐBN. Phật bảo:
- “Thiên vương nên biết! Bát nhã Ba
la mật xuất thế và hậu đắc trí vô phân biệt có thể chứng, có thể đắc.
- Kính bạch Thế Tôn! Nghĩa chứng và
đắc có gì khác?
- Thiên vương nên biết! Bát nhã Ba
la mật xuất thế có khả năng thấy đúng
như thật nên gọi là chứng, hậu đắc trí thông
suốt nên gọi là đắc”.
Thấy đúng
chơn như thật tướng thì gọi là chứng. Thông suốt tất cả pháp thì gọi là đắc.
Nhưng chứng mà chẳng có gì để chứng, đắc cũng chẳng có gì để đắc, chỉ mình tự
hội. Mong cầu nắm bắt như nắm bắt một làn hương! Vì vậy, Kinh Bát Nhã khuyên
bảo phải đoạn trừ kiến chấp. Vì vậy, mới có đoạn Kinh sau.
---o0o---
Phật phá cái chấp “Như Lai có đắc pháp”.
“Phật bảo:
- Thiện
Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Thuở xưa, Như Lai ở chỗ đức Nhiên Đăng Như Lai Ứng
Chánh Đẳng Giác có nắm giữ chút pháp nào không?
Thiện Hiện
thưa:
- Bạch Thế
Tôn! Không. Thuở xưa, Như Lai ở chỗ đức Nhiên Đăng Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác,
hoàn toàn không có chút pháp nào để nắm giữ”.
Đoạn Kinh
trên Phật phá cái chấp “Như Lai có chứng đắc quả Vô Thượng Bồ đề và thuyết
pháp. Đoạn Kinh này Phật lại hỏi Thiện Hiện: Như Lai ở chỗ Phật Nhiên Đăng có
đắc pháp gì không?
Theo Kinh
Bổn Hành Tập và Thoại ứng: Phật Nhiên Đăng khi chưa xuất gia tên là Đĩnh Quang,
sau xuất gia thành đạo có tên là Nhiên Đăng. Lúc bấy giờ, Đức Thích Ca đang ở
thất địa Bồ tát có tên là Nho Đồng cũng còn gọi là Thiện Tuệ, đang lúc sắp mãn
A tăng kỳ kiếp thứ hai thì gặp Phật Nhiên Đăng nghe pháp chứng vô sanh pháp
nhẫn mà nhập bát địa tức vào A tăng kỳ kiếp thứ ba. Phật Nhiên Đăng vì đó mà
thọ ký: Từ đây về sau 91 kiếp, gọi là Hiền Kiếp sẽ làm Phật, hiệu là Thích Ca
Mâu Ni. Lịch sử là như thế. Nhưng khi Phật hỏi Thiện Hiện thì Thiện Hiện trả
lời: Như Lai ở chỗ Phật Nhiên Đăng hoàn toàn không có đắc pháp Vô Thượng Chánh
Đẳng Chánh giác.
Không phải
cụ Thọ không biết là Đức Thế Tôn được thọ ký từ Phật Nhiên Đăng. Trong Kinh Đại
Bát Nhã, phẩm “Khen Các Đức Tướng”, quyển 99, Hội thứ I, Phật đã kể lại việc
được thọ ký của mình trong thành Chúng Hoa trước mặt tất cả các đệ tử và các
Tiên Thiên. Cụ Thọ hơn ai hết biết rõ điều đó. Nhưng tại sao cụ Thọ Thiện Hiện
trả lời là không. Nếu Như Lai còn chấp mình “có đắc pháp và được thọ ký”, tức
Như Lai còn chấp ngã (Ta được), chấp pháp (đắc pháp) thì không phải là Như Lai.
Bởi thế, Thiên Hiện trả lời là Như Lai chẳng đắc pháp gì cả.
Vì Như Lai
không chấp mình có đắc pháp và được thọ ký, nên không mắc vào chấp bốn tướng mà
rơi vào hữu sở đắc, nên mới nhập được Bát Nhã. Như thế, mới gọi là đắc pháp và
được thọ ký. Đó là ý nghĩa của vô sở trụ, vô sở đắc của Kinh này.
Phẩm “So
Lường Công Đức” quyển 129, Hội thứ I, ĐBN Thiên Đế Thích bạch Phật:
- “Bạch Thế
Tôn! Bát nhã Ba la mật như thế là Đại Ba la mật, là Vô thượng Ba la mật, là Vô
đẳng đẳng Ba la mật. Bạch Thế Tôn! Bồ tát Ma ha tát tu hành Bát nhã Ba la mật
thẳm sâu như thế, tuy biết tâm hành cảnh giới của tất cả hữu tình sai khác, mà
bất đắc ngã, bất đắc hữu tình, mạng giả (dòng sinh mạng), sanh giả (người sanh), dưỡng giả (người dưỡng dục), sĩ phu (người trưởng thành), bổ đặt già la (chủ thể luân hồi), ý sanh (người do người sanh), nho đồng (ngã tối thắng), tác giả (người tạo tác), thọ giả (người thọ), tri giả (người biết), kiến giả (người thấy). Bồ tát Ma ha tát này
cũng bất đắc sắc, bất đắc thọ tưởng hành thức. Bồ tát Ma ha tát này cũng bất
đắc 12 xứ, bất đắc 18 giới. Bồ tát ma ha tát này cũng bất đắc địa giới, bất đắc
thủy hỏa phong không thức giới (lục đại
chủng). Bồ tát ma ha tát này cũng bất đắc vô minh, bất đắc hành, thức, danh
sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử sầu thán khổ ưu não (Thập nhị nhân duyên). Bồ tát ma ha tát
này cũng bất đắc bố thí Ba la mật, bất đắc tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh
lự, Bát nhã Ba la mật (lục độ). Bồ
tát ma ha tát này cũng bất đắc nội không, bất đắc ngoại không, nội ngoại không,
không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cảnh
không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng
không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh
không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không (18 pháp Không). Bồ tát ma ha tát này cũng bất đắc chơn như, bất đắc
pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly
sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới (Thập nhị chân như). Bồ tát Ma ha tát này
cũng bất đắc khổ Thánh đế, bất đắc tập, diệt, đạo Thánh đế (Tứ đế). Bồ tát Ma ha tát này cũng bất
đắc bốn tĩnh lự, bất đắc bốn vô lượng, bốn vô sắc định. Bồ tát Ma ha tát này
cũng bất đắc tám giải thoát, bất đắc tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến
xứ. Bồ tát Ma ha tát này cũng bất đắc bốn niệm trụ, bất đắc bốn chánh đoạn, bốn
thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám Thánh đạo chi (37 bảy pháp trợ đạo). Bồ tát Ma ha tát
này cũng bất đắc không giải thoát môn, bất đắc vô tướng, vô nguyện giải thoát
môn. Bồ tát Ma ha tát này cũng bất đắc năm nhãn, bất đắc sáu thần thông. Bồ tát
Ma ha tát này cũng bất đắc Phật mười lực, bất đắc bốn vô sở úy, bốn vô ngại
giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám Pháp Phật bất cộng. Bồ tát Ma ha
tát này cũng bất đắc pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả. Bồ tát Ma ha tát này
cũng bất đắc Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Bồ tát Ma ha
tát này cũng bất đắc tất cả Đà la ni môn, tất cả Tam ma địa môn. Bồ tát Ma ha
tát này cũng bất đắc Dự lưu, bất đắc Nhất lai, Bất hoàn, A la hán. Bồ tát Ma ha
tát này cũng bất đắc Dự lưu hướng Dự lưu quả, bất đắc Nhất lai hướng Nhất lai
quả, Bất hoàn hướng Bất hoàn quả, A la hán hướng A la hán quả. Bồ tát Ma ha tát
này cũng bất đắc Độc giác, bất đắc Độc giác Bồ đề. Bồ tát Ma ha tát này cũng
bất đắc Bồ tát Ma ha tát, bất đắc pháp Bồ tát Ma ha tát. Bồ tát Ma ha tát này
cũng bất đắc Chánh đẳng Chánh giác. Vì sao? Vì Bát nhã Ba la mật đây, chẳng phải nhân có sở đắc mà được hiện tiền vậy.
Vì sao? Vì Bát nhã Ba la mật thẳm sâu đều vô tự tánh, cũng bất khả đắc. Năng
đắc, sở đắc 2 chỗ nương, tánh tướng đều rỗng không bất khả đắc vậy.
Bấy giờ, Phật bảo Thiên Đế Thích
rằng: Đúng vậy! Đúng như lời ngươi nói. Vì sao? Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát
đem vô sở đắc làm phương tiện, tu hành Bát nhã Ba la mật thậm thâm hãy bất đắc
Bồ đề và Tát đỏa, huống là đắc Bồ tát. Bồ tát này đã bất khả đắc, thì đâu đắc
pháp Bồ tát. Bồ tát cùng pháp Bồ tát còn bất khả đắc, huống là đắc chư Phật và
pháp của chư Phật!”
Đó là giáo
lý vô sở hữu, bất khả đắc của Bát Nhã: Tất cả căn trần xứ giới, 18 pháp Không
cho tới tất cả các thiện pháp từ tứ đế, thập nhị nhân duyên, lục độ, bốn quả
Thanh văn, hoặc Độc giác Bồ đề hoặc Bồ tát, quả vị Phật đều bất khả đắc... Nên
Thiên đế Thích nói:
“Vì sao? Vì
Đại Bát Nhã Ba la mật đây, chẳng phải nhân có sở đắc mà được hiện tiền vậy. Vì
sao? Vì Đại Bát Nhã Ba la mật thậm thâm đều vô tự tánh, cũng bất khả đắc. Năng
đắc, sở đắc hai chỗ nương, tánh tướng đều trống không bất khả đắc vậy”.
---o0o---
Phật phá cái chấp “Bồ tát có làm trang nghiêm cõi
Phật”.
“Phật bảo:
- Thiện
Hiện! Nếu có Bồ tát nói lời như vầy: Ta sẽ thành tựu công đức trang nghiêm cõi
Phật. Bồ tát nói như thế là chẳng phải nói lời chơn thật. Vì sao? Thiện Hiện!
Vì công đức trang nghiêm cõi Phật ấy, Như Lai nói chẳng phải trang nghiêm. Cho
nên Như Lai nói là công đức trang nghiêm cõi Phật”.
Đoạn này
Phật phá cái chấp làm trang nghiêm cõi Phật. Bồ tát làm Phật sự, giáo hóa chúng
sanh, mỗi công hành đều hồi hướng Phật độ, đây gọi là trang nghiêm. Nhưng nếu
Bồ tát còn chấp ta làm Phật sự, ta giáo hóa chúng sanh tức chấp ngã, chấp pháp…
tức năng sở đây kia còn nguyên làm sao có thể trang nghiêm, thanh tịnh cõi
Phật.
Phải chăng
Bát Nhã đưa ra một phản biện ngược đời: “Không trang nghiêm mới chính là trang
nghiêm?” Thông thường người ta gọi đại Bồ tát trang nghiêm, có nghĩa nói một
cách nghiêm chỉnh rằng Bồ tát hiện thân ở cõi này mục đích là làm cho cõi này
mỗi ngày mỗi tươi đẹp hơn lên, mỗi ngày mỗi thanh tịnh trong sáng hơn lên vì
muốn cõi nước này không còn phiền não, khốn khổ nữa. Nói khác, là Bồ tát muốn
tạo một mô hình hoàn hảo, đầy trang nghiêm mà tất cả các cõi nước khắp Tam thiên
hằng ngưỡng mộ. Bồ tát mới an trụ trong Bát nhã Ba la mật, dạy chúng hữu tình
thực hành lục Ba la mật, tứ niệm xứ, mười tám pháp bất cộng cho đến Nhất thiết
trí để thành thục chúng sanh và thanh tịnh quốc độ. Đây gọi là đại Bồ Tát đại
trang nghiêm. Kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật do Ngài La Thập dịch, cũng nằm
trong Hội thứ II do Phật thuyết, quyển 05, diễn đạt như sau:
“Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch đức Thế Tôn! Theo con
hiểu ý Phật nói thời đại Bồ Tát không đại trang nghiêm là đại trang
nghiêm. Vì các pháp tự tánh rỗng không
vậy”.
Đức
Phật nói: “Phải lắm, đúng như lời ông nói. Nầy Tu Bồ Đề! Nhất thiết trí chẳng
phải là tác pháp, chúng sanh cũng chẳng phải là tác pháp. Đại Bồ Tát vì chúng
sanh này mà đại trang nghiêm. Tại sao? Vì tác giả bất khả đắc vậy.
Này Tu
Bồ Đề! Nhất thiết trí chẳng phải là pháp làm ra, sanh ra, chúng sanh này cũng
chẳng phải pháp làm ra, sanh ra. Tại sao? Vì sắc chẳng phải làm ra chẳng phải
chẳng làm ra; thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải làm ra chẳng phải chẳng làm ra;
ngã nhơn nhẫn đến tri giả, kiến giả chẳng phải làm ra, chẳng phải chẳng làm ra.
Tại sao
vậy? Vì các pháp rốt ráo bất khả đắc vậy”.
Đây không
phải là một phản biện nghịch đời. Vì Ma Ha Bát Nhã Ba
La Mật Đa quan niệm rằng: Các pháp tự tánh rỗng không, cho đến Nhất
thiết trí cũng chẳng phải là tác pháp, chúng sanh cũng không phải là tác pháp.
Bồ Tát vì chúng sanh này mà đại trang nghiêm. Tại sao? Vì tác giả bất khả đắc,
vì tất cả pháp rốt ráo cũng bất khả đắc. Nên trang nghiêm mà không thấy năng sở
thì mới thật là trang nghiêm!
Giáo pháp
của Bát Nhã tánh Không là: Các pháp tự tánh rỗng không, vô sở hữu, bất khả đắc.
Đó cũng chính là giáo pháp vô trụ vô trước vậy. Đoạn kế sẽ nói tiếp giáo pháp
này.
---o0o---
Phật dạy: “Đừng sanh vọng tâm trụ chấp nơi nào”.
“Vậy nên,
Thiện Hiện! Bồ tát nên sanh tâm hoàn toàn vô trụ như vậy. Nên sanh tâm chẳng
trụ sắc, nên sanh tâm chẳng trụ phi sắc. Nên sanh tâm chẳng trụ thanh, hương,
vị, xúc, pháp; nên sanh tâm chẳng trụ phi thanh, hương, vị, xúc, pháp. Hoàn
toàn sanh tâm vô trụ như thế”.
“Đừng sanh
vọng tâm trụ chấp nơi nào”. Đây là câu
nói thời danh mà Lục Tổ chứng nhập. Khi xưa Lục Tổ Huệ Năng nghèo dốt làm nghề
đốn củi nuôi thân và phụng dưỡng mẹ già. Một hôm, ông gánh củi đến bán cho một
phú ông, trong khi ngồi đợi để giao hàng thì nghe phú ông tụng Bát Nhã tới câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” liền hoắt ngộ, nên mới hỏi phú ông là tụng Kinh gì mà
hay quá vậy? Phú ông mới cho biết là tụng Kinh Kim Cang. Phú ông lại nói thêm ở
chùa Đông Thiền huyện Huỳnh Mai có Ngũ Tổ tên là Hoằng Nhẫn thường khuyên kẻ
Tăng người tục trì tụng Kinh này thì thấy tánh, thành Phật. Nghe tới đó,
chàng tiều phu trẻ tuổi có ý định đi tu, nhưng còn mẹ già không ai phụng dưỡng,
nên không biết tính sao. Phú ông nghe tâm sự như vậy, mới đề nghị: Vậy ngươi
nên đốn củi thật nhiều, ta sẽ trả vàng cho để nuôi mẹ. Lục Tổ làm việc vất vả,
tìm đủ số vàng nuôi mẹ, mới theo lời chỉ dẫn của phú ông lần đến thôn Hoàng
Mai, gặp Ngũ Tổ học đạo. Sau đó chứng ngộ và được Ngũ Tổ truyền y bát làm Tổ
thứ sáu. Đó là tóm tắt cái duyên chỉ nghe câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”
mà trở thành đại ngộ(1).
Đừng sanh
vọng chấp do sáu trần lôi cuốn mà sanh chấp ngã, chấp pháp, chấp các tướng… rồi
bị phiền não. Phiền não sẽ sanh ra các lậu hoặc, do lậu hoặc mà gây tạo tác, vì
tạo tác thì phải thọ quả, nên phải luân hồi trong sáu nẻo. Nếu không trụ chấp
nơi sáu trần hay bất cứ thứ gì khác… tâm sẽ an tịnh thì không tạo nghiệp, không
tạo nghiêp thì không bị lưu chuyển trong luân hồi sanh tử. Đó là pháp tu của
Đại thừa đốn giáo, rất giản dị nhưng mang nhiều hiệu quả trong việc “hàng phục
vọng tâm và an trụ chân tâm”.
Phần “Bát
Nhã Ba La Mật, quyển 600, Hội thứ XVI, ĐBN. Phật bảo:
“Chẳng phải tất cả các pháp có nghĩa
khá trụ. Vì sao? Vì tất cả pháp đều không nắm giữ. Bởi không nắm giữ nên không
thể trụ được. Nếu tất cả pháp có thể trụ, thì có thể thị hiện đây là pháp có
thể nắm giữ, đây là pháp thường trụ. Như Lai cũng có thể an trụ vào các pháp,
thị hiện các pháp, đây là pháp có thể nắm giữ, đây là pháp có thể tích tập.
Vì tất cả pháp không thể an trụ,
không thể nắm giữ, cũng không thể tích tập, cho nên không có pháp nào là thường trụ. Do đó mà Như Lai không an trụ vào
pháp nào, cũng không thị hiện đây là pháp có thể nắm giữ hay đây là pháp có thể
tích tập”.
Giáo lý này
được thuyết rất nhiều lần, nên chúng ta hiểu có trụ là có quái ngại, nhất là trụ
vào nhị pháp thường đoạn, được mất, có không v.v... Nhưng Kinh nhiều lần nói:
Chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ. Nếu không trụ vào chơn như pháp giới, chẳng trụ
vào Bát nhã Ba la mật thì làm sao tu hành hành, làm sao đắc quả? Trụ cứ trụ
nhưng đừng dính ngã, ngã sở vào đó. Nếu cho Ta có khả năng trụ vào chơn như
pháp giới hay bất cứ pháp nào được xem là mang lại nhiều công đức nhất... Do
chấp ngã và ngã sở làm nhiễu loạn sự an trụ này, liền khởi tâm tự cao, nên
chẳng có khả năng hồi hướng Nhất thiết trí trí.
Muốn được
như vậy thì không nên trụ chấp bất cứ thứ gì. Trụ trong chữ trụ xứ. Trụ là trú,
là ở; xứ là nơi chốn. Nói nôm na trụ xứ là chỗ ở, chỗ trú. Trong nhà Thiền hay
trong văn chương Phật giáo thường dùng những danh từ như bổn trụ, y chỉ, tông
phong, sở ngộ… nó mang màu sắc tinh thần nhiều hơn là chỗ ở, chỗ che nắng đụt
mưa thường ngày. Trụ xứ đó chính là địa bàn hoạt dụng của các đạo gia mà địa
bàn đó là vô sở trụ. Đó là cái kỳ
đặc ngược đời trong cuộc sống tâm linh của các Bồ tát.
Phật dạy: “Bồ tát nên
sanh tâm hoàn toàn vô trụ như vậy. Nên sanh tâm chẳng trụ sắc, nên sanh tâm
chẳng trụ phi sắc. Nên sanh tâm chẳng trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp; nên sanh
tâm chẳng trụ phi thanh, hương, vị, xúc, pháp. Hoàn toàn sanh tâm vô trụ như
thế”.
Trong Tương
Ưng Bộ Kinh, phần Phật tự thuyết có ghi: “Trong cái thấy không có nắm tướng
chung, không có nắm tướng riêng. Trong cái nghe chỉ là cái nghe, không có nắm
tướng chung, không có nắm tướng riêng v.v…”
Có thấy có nghe mà không sanh vọng tâm
chấp vào cái thấy nghe tức không trụ ở sắc hay thanh thì tâm không động. Đối
với chúng sanh tâm lúc nào cũng sanh khởi theo hình sắc danh tướng… Tâm càng
sanh thì càng khổ. Nên Phật khuyên đừng bám trụ vào đâu mà sanh tâm, thì mới
làm chủ trọn vẹn được chính mình.
Trong Bát
Nhã Bát Thiên Tụng, tương đương với Tiểu Bản Bát Nhã của Ngài Huyền Trang dịch,
có câu: “Tâm Như Lai không trụ bất kỳ đâu, không trụ trên các pháp hữu vi, không
trụ trên các pháp vô vi, và do đó không rời khỏi sở trụ”.
Kinh Duy Ma
cũng có đoạn: “Bồ đề không trụ, do đó không chứng” hay “nương theo
cội nguồn không trụ mà các pháp được thành lập”.
Kinh Lăng
Nghiêm lại nói: “Những vị Bồ tát như thế lấy tất cả cõi Phật làm trụ
xứ, nhưng không dính mắc vào trụ xứ này, vì vốn không thể thấy, không thể
chứng”.
Kinh Bát Nhã
thường nói: “Pháp mà Như Lai nói vốn bất khả đắc, không chướng
ngại như hư không, không dấu vết, pháp đó vượt ngoài tất cả những hình thức đối
nghịch, pháp không đối đãi, pháp vượt ngoài sanh tử, không đường để đến. Pháp
đó chỉ có thể chứng được đối với những ai theo Như Lai và tùy thuận với Chơn
như. Bởi vì Chơn như vốn không sanh khởi, vượt ngoài đến và đi, thường trú,
không biến dịch, không phân biệt, tuyệt đối độc nhất không có dấu vết của tâm
đạo v.v…”
Vậy đối với
chánh pháp còn không trụ, nói chi đến phi pháp. Đó cũng chính là tư tưởng “sang
sông thì phải quên đò”.
Trong Thiền luận III, Thiền sư D.T. Suzuki viết như sau:
“Khi chúng ta bảo rằng trụ xứ của Bồ
tát quả thực là không trụ xứ, rằng Bồ tát cố định ở chỗ không cố định, rằng
lang thang hay lơ lửng như những cụm mây trời không cần có hậu cứ, nói như thế
có vẻ không nói gì hết. Nhưng đó là đường lối của những nhà Đại thừa Phật giáo
đã tự luyện tập trong đời sống hành đạo của họ; không thể áp dụng những định
luật tiêu biểu của pháp thức suy luận vào đó”.
Vì vậy,
Thiền sư mới nói: “Khi có trụ điểm cố định, ở đâu đó, dù ở trong Bát
nhã, đấy là một kết quả nó trói buộc chúng ta, và chúng ta không còn độc lập
trong tri thức, đạo đức hay tâm linh. Bát nhã Ba la mật như thế dạy chúng ta
quét sạch mọi trụ điểm cố định có thể có, hay quét sạch mọi vọng tưởng. Khi đạt
được thế giới không còn những vọng tưởng, đấy là vô trụ xứ hay trụ trong Tánh
Không. Phật hay Bồ tát nói ra giáo pháp của mình từ chỗ vô trụ xứ đó; cho nên,
trong đó, không có người thuyết, không có pháp được thuyết cũng không có người
nghe thuyết”.
Phẩm “Hiện Tướng”, Q.570, Hội thứ
VI, ĐBN. Nói:
1- “(...)Vì đại Bồ tát này hành phương
tiện thiện xảo Bát Nhã sâu xa, tâm không có chỗ duyên cũng không có chỗ trụ.
Thí như có người sanh cõi Vô sắc, trong tám vạn đại kiếp chỉ có một thức, không
có chỗ trụ cũng không có chỗ duyên. Bồ tát hành phương tiện thiện xảo Bát Nhã
sâu xa như vậy, tâm không có chỗ duyên cũng không có chỗ trụ. Vì sao? Vì các Bồ
tát này, tâm không hành cũng không có chỗ hành, tâm không tưởng cũng không có
chỗ tưởng, tâm không duyên cũng không có chỗ duyên, tâm không dính mắc cũng
không có chỗ dính mắc, tâm không loạn cũng không có chỗ loạn, tâm không cao
thấp, tâm không thuận nghịch, tâm không buồn, không vui, không phân biệt, lìa
phân biệt, lìa Xa ma tha, Tỳ bát xá na, tâm chẳng theo trí, tâm chẳng trụ nơi
mình cũng chẳng trụ nơi khác, chẳng nương vào mắt mà trụ, chẳng nương vào tai,
mũi, lưỡi, thân, ý mà trụ, chẳng nương vào sắc mà trụ, chẳng nương vào thanh,
hương, vị, xúc, pháp mà trụ. Tâm chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, cũng chẳng ở hai
bên. Tâm chẳng duyên pháp cũng chẳng duyên trí, chẳng trụ 3 đời cũng chẳng lìa
3 đời”.
Đó là chỗ cao tuyệt của tu hành.
Muốn được như vậy thì phải gia công tập luyện thôi.
2- “(...) Trí
tuệ của các Bồ tát này không trụ hữu vi, không trụ vô vi; không trụ các uẩn và
các xứ, các giới, không trụ trong, ngoài và hai bên; không trụ thiện, ác và thế
gian hay xuất thế gian; không trụ nhiễm, tịnh, hữu lậu, vô lậu, hữu vi, vô vi;
không trụ ba đời và lìa ba đời; không trụ hư không, trạch diệt, phi trạch diệt.
Các Bồ tát này hành phương tiện thiện xảo Bát Nhã sâu xa, tuy tâm thường vô trụ
như vậy, nhưng thông đạt tánh tướng các pháp; dùng trí vô ngại, vô công dung
hạnh, tuyên thuyết các pháp thường tại tịch tĩnh, làm việc giáo hóa không có
ngừng nghỉ. Nguyện lực đời trước của các Bồ tát ấy vững mạnh, vô công dụng
hạnh, vì người khác mà nói pháp. Các Bồ tát ấy nhờ phương tiện thiện xảo Bát
nhã Ba la mật nên thường không kinh sợ. Vì sao? Vì hoặc đi, hoặc đứng, hoặc
ngồi, hoặc nằm có thần Chấp Kim Cang thường luôn đi theo bảo vệ”.
Cái khó là biết tất cả các pháp dù
mang nhiều công đức nhất mà không được trụ chấp. Vì mỗi khi có sở trụ là có
dính mắc. Có dính mắc là có quái ngại thì không phải là chân trụ. Đó mới gọi là
khó!
Kết luận:
(cho đoạn
Kinh này)
Cư sĩ Giang
Vị Nông nói: “Hiểu rõ chân thật nghĩa của vô sở trụ nhi sanh kỳ
tâm, thì chỗ bảo là sanh là nhậm vận tự nhiên mà sanh, chỗ bảo là trụ ấy là
không ngại gì tùy duyên mà trụ. Tùy duyên mà trụ là vô tâm ở cái trụ, tuy trụ
mà không có chỗ trụ. Nhậm vận tự nhiên mà sanh, là pháp nhĩ hiển hiện như thế,
nói sanh mà thực không có chỗ sanh. Quả nhiên, có thể như thế, thì pháp nào
cũng đều hiển lộ ra vô trụ chân tâm, vật nào cũng là Bát Nhã thật tướng. Như
chỗ Cổ đức nói: “Trần trần là báu, chỗ chỗ gặp nó”.
Cho nên cụ thọ Thiên Hiện trước đây
lúc thấy Thế Tôn mặc áo, cầm bình bát khất thực, đi ra đi về, hiển được diệu đế
vô sở trụ, liền từ trong đại chúng đứng ra tán thán: “Hi hữu thay Thế Tôn!
Thiện hộ niệm, thiện phó chúc” mà thỉnh vấn kẻ phát đại tâm phải làm sao mà
trụ, làm sao hàng phục? Thế Tôn nhân dịp này ấn chứng: “Thiện hộ niệm, phó
chúc, phải như chỗ ngươi nói mà trụ như thế, mà hàng phục như thế”.
Có người hỏi Ngài Bách
Trượng Hoàng Hải:
- Đối mọi cảnh,
làm sao được tâm như gỗ đá?
Sư nói:
- Tất cả mọi
pháp, vốn chẳng tự nói không, chẳng tự nói sắc, lại chẳng nói phải trái, dơ
sạch, lại cũng chẳng có tâm trói buộc người. Nhưng tự con người hư vọng tính
toán, làm như hiểu biết, khởi biết bao tri kiến, sanh biết bao là thương, sợ. Chỉ cần hiểu chư
pháp không tự sanh ra, tất cả đều từ một niệm của mình, vọng tưởng điên đảo, giữ tướng mà có
biết. Tâm và cảnh vốn không đến (với nhau), đương xứ mà giải thoát. Tất cả pháp
đương xứ mà tịch diệt, đương xứ đạo tràng vả tánh bổn hữu không thể gọi tên xếp
thứ, bổn lai chẳng phải phàm mà cũng chẳng phải Thánh, chẳng phải dơ
sạch mà cũng chẳng phải có không, lại cũng chẳng phải lành dữ, cùng các pháp
nhiễm tịnh tương ưng, gọi là nhân thiên Nhị thừa giới. Nếu tâm chấp nhơ sạch
chấm dứt, không trụ trói, không trụ mở,
không có mọi hữu vi vô vi thắt buộc thoát tâm lượng xứ, tại sanh tử mà tâm ấy
tự tại, rốt cùng không cùng với các vọng hư huyễn, trần lao uẩn giới, sanh tử
chư nhân hòa hợp, thong dong chẳng nương gá, tất cả không câu thúc, đi ở chẳng
ngăn ngại, tới lui sanh tử như cổng mở một thứ. Phàm người học đạo, nếu gặp mọi
thứ buồn vui, vừa lòng hay trái ý, tâm chẳng co rụt, không nghĩ đến danh văn,
lợi dưỡng, y phục, không tham công đức lợi ích, không bị vướng kẹt bởi các pháp
thế gian, không thân không thương, buồn vui thấy bình thường, mặc đồ thô để che
lạnh, ăn cơm hẩm để sống, ngố ngố như ngây như điếc, có chút phần tương ưng.
Nếu tại tâm học rộng chuyện hiểu biết, cầu phước cầu trí đều là sanh tử, đối
với bao đạo lý nào có ích gì, bị cảnh phong của tri giải thổi bay nhận chìm,
quày trở lại trong biển sanh tử. Phật là người không cầu, hễ cầu là trái lý. Đó
là lý không cầu, hễ cầu là thất bát. Nếu nắm bắt “vô cầu”, thì đồng như hữu cầu. Nếu nắm bắt trước vô vi
thì cũng giống như hữu vi. Cho nên Kinh nói: “Không thủ ở
pháp, mà không thủ ở chẳng phải pháp, cũng chẳng thủ nơi chẳng phải chẳng phải
pháp”. Lại nói: “Pháp Như Lai
đắc, pháp này không thật không hư”.
Nếu làm một đời tâm như gỗ đá một thứ, không bị bát phong, ngũ dục của ấm giới thổi đùa
nhận chìm, thì dứt được nhân sanh tử, pháp
trụ tự do. Không bị nhân giải của tất cả hữu vô trói buộc, không bị hữu lậu
câu thúc. Lúc khác lại lấy không bị nhân trói buộc làm nhân, đồng sự ích lợi.
Lấy vô trước tâm ứng với nhất thiết vật, lấy tuệ vô ngại cởi tất cả trói
buộc. Cũng gọi là theo bịnh mà cho thuốc vậy. (Ngũ Đăng Hội Nguyên)
Phẩm “Đa Vấn Bất Nhị”, quyển 363, Hội thứ I, ĐBN. Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- “Bạch Thế Tôn! Nếu vậy, Đại Bồ tát
do trụ chỗ nào mà chứng thật tế?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì
sao? Ông có do trụ đạo mà hết các lậu, tâm được giải thoát chăng?
- Bạch Thế Tôn! Không!
- Này Thiện Hiện! Ông do trụ phi đạo
mà được hết các lậu, tâm giải thoát chăng?
- Bạch Thế Tôn! Không!
-
Này Thiện Hiện! Ông do trụ đạo phi đạo mà được hết các lậu, tâm giải
thoát chăng?
- Bạch Thế Tôn! Không!
- Này Thiện Hiện! Ông do trụ phi đạo
phi phi đạo mà được hết các lậu, tâm giải thoát chăng?
- Bạch Thế Tôn! Không! Chẳng phải
con có trụ mà được hết các lậu, tâm vĩnh viễn giải thoát. Nhưng con hết các lậu, tâm được giải thoát là hoàn toàn không trụ vào
đâu.
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Đại Bồ tát cũng
như thế, tu hành Bát nhã Ba la mật hoàn toàn không trụ vào đâu mà chứng thật
tế”.
Có trụ thì
không chứng, vô trụ mới chứng. Giáo lý này có thể tìm thấy trong bất cứ quyển
Kinh nào thuộc Hệ Bát Nhã.
Tất cả giáo
lý vô trụ quan trọng được dẫn chứng trên như là một chuỗi ngọc vô giá cho hành
giả Bát Nhã, phải cố gắng nghiền ngẫm để tự thâm nhập như Lục Tổ thôi.
Thích nghĩa cho đoạn Kinh này:
(1). Truyền
thuyết này trích trong Kinh “Kim Cang Giảng Giải” của HT. Thích Thanh Từ.
---o0o---
Phật phá cái chấp “Thân thể lớn như núi Tu di”.
“Phật bảo:
- Thiện Hiện!
Như có người nam thân thể to lớn, giả sử sắc thân của vị ấy như núi chúa Diệu
Cao. Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Thân thể của vị ấy có to lớn không?
Thiện Hiện
thưa:
- Bạch Thế
tôn! Thân thể của vị ấy rất to lớn. Bạch Thiện Thệ! Rất to lớn! Vì sao? Bạch
Thế Tôn! Vì thân thể của vị ấy, Như Lai nói là chẳng phải thân thể của vị ấy,
nên gọi là thân thể. Chẳng vì thân thể ấy mà gọi là thân thể”.
Chúng ta
nghe HT. Chí Công đã nói ở trên: “Trong thân có tướng là thân vô
tướng, trên đường vô minh là đường vô sinh”. Báo thân là thân có tướng do cha mẹ sanh, có thành có hoại tức có
sống có chết, giả hợp do tứ đại tạo thành, nên có thể thấy lớn thấy nhỏ. Vì
vậy, Thiện Hiện trả lời thân vị ấy lớn lắm. Lớn như núi Tu di nên mới nói là
lớn. Vì cái lớn nhỏ này có thể thấy bằng mắt trần, so sánh được,
phân biệt được.
Nhưng pháp thân là thân vô tướng, không do
cha mẹ sanh, không thành không hoại, không có hình tướng, không có số lượng,
nên Ngài Phó Đại sĩ mới nói: “Có hình trọn chẳng lớn, không tướng
mới là chân”. Thấy tướng cho là lớn nhỏ
tức bị tướng che. Tướng che vì tưởng mà sanh vọng, vọng sanh
nên không phải là chân. Thấy tướng mà lìa tướng liền được cái chân thật hiện
tiền, nên nói là chứng tánh.
Đoạn Kinh
này phá cái chấp về thân tướng để tự mình soi lại cái thân tướng giả hợp này để
đừng tưng tiu chiều chuộng, quá lo lắng về nó mà quên đi những giá trị tinh
thần khác. Thấy tướng mà ôm cứng lấy tướng thì bị tướng che nên không thấy
tánh. Thấy tướng mà ly tướng thì tâm tự lặng. Đó chính là chỗ tu hành. Thấy vô
tướng là cái thấy chân thật, mới có đạo nhãn thanh tịnh.
Phẩm “Chân Như”, quyển 323, Hội thứ I, ĐBN. Phật bảo
Xá Lợi Phất:
“Xá Lợi Tử!
Có các Bồ tát vì sơ phát tâm chẳng lìa Nhất thiết trí trí, siêng tu bố thí,
tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật, phương tiện khéo
léo. Tuy nhớ tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác nhóm giới, nhóm định, nhóm huệ,
nhóm giải thoát, nhóm giải thoát tri kiến quá khứ, vị lai, hiện tại mà chẳng
lấy tướng. Tuy tu tất cả không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn cũng chẳng
lấy tướng. Tuy nhớ các thứ công đức căn lành mình người, cùng các hữu tình đồng
chung hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề cũng chẳng lấy tướng. Xá Lợi Tử! Bồ
tát Ma ha tát này chẳng trụ Thanh văn hoặc bậc Độc giác, thẳng tới Vô Thượng
Chánh Đẳng Bồ đề. Vì sao? Xá Lợi Tử! Bồ tát Ma ha tát này từ sơ phát tâm cho
đến rốt ráo thường chẳng xa lìa tâm Nhất thiết trí trí. Tuy tu bố thí mà chẳng
lấy tướng; tuy tu tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát Nhã cũng chẳng
lấy tướng. Tuy nhớ bao nhiêu nhóm giới, nhóm định, nhóm huệ, nhóm giải thoát,
nhóm giải thoát tri kiến của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác quá khứ, vị
lai, hiện tại cũng chẳng lấy tướng. Tuy tu tất cả đạo Bồ tát không, vô tướng,
vô nguyện giải thoát môn cũng chẳng lấy tướng”.
Bồ tát phải đem
tâm ly tướng mà tu các thiện pháp. Đối với sở tu, sở cầu không sở nhiếp thọ. Vì
năng tu sở tu đều vô sở hữu, bất khả đắc. Nếu năng hành được như vậy, thì không
bị tướng che, liền thấy Tánh.
Lại nữa,
Kinh nói: “Phật thuyết phi thân thị danh đại thân”. Phi thân là trỏ pháp thân mà nói, thị danh là trỏ báo thân mà nói. Báo
thân thì có hình tướng lớn nhỏ, đẹp xấu. Phi thân làm gì có hình tướng lớn nhỏ.
Kẻ đắc quả có pháp thân nhưng không trụ ở pháp thân này, nên mới chứng được vô
tướng mà xứng tánh, nên lúc nào cũng có đạo nhãn thanh tịnh. Thấy thân là phi
thân (vô tướng) thì có thể chuyển các pháp mà không bị pháp chuyển nên gọi là
đại thân. Thân lớn nói theo thế pháp là đại thân, trong thắng nghĩa không có
đại thân. Như thế mới gọi là thân đại sĩ.
---o0o---
Thọ trì Kinh này phước đức vô lượng.
“Phật bảo:
- Thiện
Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Cho đến có bao nhiêu số cát trong sông Hằng, giả sử có
số sông Hằng ngang với số cát như thế, thì số cát của các sông Hằng này chắc là
nhiều lắm phải không?
Thiện Hiện thưa:
- Bạch Thế
Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Nhiều lắm! Các con sông Hằng còn nhiều vô số,
huống nữa là số cát ấy.
Phật nói:
- Thiện
Hiện! Ta nay bảo ngươi, khai ngộ cho ngươi. Giả sử có thiện nam, hoặc thiện nữ
đem bảy báu đẹp đựng đầy khắp thế giới nhiều như số cát sông Hằng…, dâng cúng
cho đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Thiện nam,
hoặc thiện nữ này do nhân duyên đây được số phước nhiều chăng?
Thiện Hiện
thưa:
- Bạch Thế
Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Nhiều lắm. Thiện nam hoặc thiện nữ này nhờ nhân
duyên đây được số phước ấy rất nhiều.
Phật bảo:
- Thiện
Hiện! Nếu đem bảy báu đựng đầy khắp thế giới nhiều như số cát sông Hằng, dâng
cúng cho đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, rồi thiện nam hoặc thiện nữ nào đối
với pháp môn đây, cho đến bốn câu kệ mà thọ trì đọc tụng, thông suốt rốt ráo và
vì người khác tuyên thuyết chỉ bày, như lý tác ý, thì do nhân duyên đây, được
số phước rất nhiều hơn trước vô lượng, vô số”.
Số cát của
sông Hằng đã nhiều, giả dụ trên thế gian lại có rất nhiều sông Hằng ngang bằng
với số lượng của cát sông Hằng hiện có thì phải biết số sông Hằng này không thể
tính hết. Bây giờ, Phật lại hỏi số cát của các sông Hằng gộp lại đó có nhiều
không? Thiện Hiện trả lời: Nhiều, nhiều lắm! Nếu chỉ tính những sông Hằng mà
thôi, hãy còn nhiều vô số, huống chi tính tất cả số cát trong vô số sông Hằng.
Đây không có
ý so sánh to nhỏ, nhiều ít… mà mục đích Phật hỏi cụ Thọ: Có chúng sanh nào đem
bảy báu đầy Tam thiên đại thiên thế giới nhiều như số cát trong vô số Hằng mà
bố thí thì phước đức có nhiều không?
Thiện Hiện
bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Nhiều lắm!
Phật bảo Thiện Hiện: Nếu đem pháp môn này cho
đến bốn câu kệ thọ trì đọc tụng, thông suốt rốt ráo vì người khác tuyên thuyết
chỉ bày, như lý tác ý, do nhân duyên đây, được số phước rất nhiều hơn trước vô
lượng, vô biên.
Bố thí chẳng
ly tướng thì phước đức được hưởng là cõi nhân thiên giàu có sung sướng. Nhưng
nhân thiên cũng còn trong luân hồi sanh tử, nếu sanh một niệm bất giác thì cũng
bị đọa như thường, nên phước đức này là phước đức hữu lậu, có đó mất đó. Nhưng
nếu thọ trì Bát nhã Ba la mật để khai mở trí tuệ cho chúng sanh thoát khỏi luân
hồi sanh tử thì được phước đức vô lậu không thể nào tính đếm.
Kinh Kim
Cương không những độ người liễu sanh thoát tử mà còn giúp chúng sanh kiến tánh
thành Phật, rồi chúng sanh đó lại giáo hóa các chúng sanh khác cũng thành Phật
như mình, cứ thế nhân lên theo cấp số nhân thì phước đức không thể cân lường so
sánh nổi.
Ngài Phó Đại
Sĩ có bài kệ nói về ý này như sau:
Đựng bảy báu
đầy đại thiên
Bố thí trồng
ruộng phước
Chỉ được
phước hữu lậu
Hưởng phước
cõi nhân thiên.
Trì tụng bốn
câu kệ
Tạo duyên
lành với Phật
Muốn vào
biển vô vi
Phải nương
thuyền Bát Nhã.
Vì vậy, Kinh Bát Nhã được tán tụng là mẹ của
chư Phật và chư Bồ tát. Nên chỗ nào có thờ tụng Kinh này thì tất cả Thánh hiền,
Thiên nhân, Quỷ thần đều đến chỗ đó đi nhiễu, cúng dường, lễ bái… kính trọng
như chỗ đền, chùa, tháp… nơi có thờ Phật.
---o0o---
Thiện Hiện hỏi Phật: Pháp môn này tên gì?
- “Bạch Thế
Tôn! Pháp môn này nên gọi tên gì? Con phải phụng trì như thế nào?
Phật bảo
Thiện Hiện rằng:
- Cụ thọ!
Pháp môn đây gọi là “Kim Cương Năng Đoạn Bát Nhã Ba La Mật”. Danh tự như thế,
ngươi nên phụng trì. Vì sao?
Thiện Hiện!
Vì Bát nhã Ba la mật như vậy, Như Lai nói là chẳng phải Bát Nhã Ba La Mật, cho
nên Như Lai gọi là Bát Nhã Ba La Mật”.
Kim cương là
một khoáng chất cứng rắn và sắc bén có thể cắt chặt các loại vật mà không bị
các loại vật khác phá hoại. Kinh này ví như kim cương, vì có thể phá trừ những
phiền não, lậu hoặc… trói buộc làm cho con người sống trong đau buồn, khổ não.
Năng đoạn có nghĩa Kinh này có thể giúp con người dứt trừ, đoạn tận các phiền
não lậu hoặc nói trên. Nhưng lấy gì để đoạn trừ, phải lấy trí tuệ. Bát Nhã là
trí, trí này siêu việt không những giúp con người vượt mọi chướng ngại thế gian
mà còn mang lại sự an bình cho toàn thể chúng sanh trong tất cả cõi. Ba la mật
có nghĩa là rốt ráo viên mãn nhất có thể đưa người từ bờ mê đến bến giác.
Vì Kinh Kim
Cương có công năng như vậy, nên Phật bảo chúng hội “các ông phải phụng trì”.
Phụng là tuân theo, trì là hành trì. Hành trì không những có nghĩa là tự mình
chấp hành mà còn khuyên người khác chấp hành. Từ đầu quyển Kinh cho tới đoạn
này không lúc nào mà Kinh chẳng đề cập đến vấn đề này: Ưng hàng phục kỳ tâm, vân
hà hàng phục tức phát đại nguyện, hành đại hành; chẳng trụ cảnh giới lục trần,
hành rộng Lục độ, độ tất cả chúng sanh thành Phật mà chẳng thủ tướng độ sanh,
cho đến pháp và phi pháp đều chẳng thủ. Lột từ tầng như lột bẹ chuối, càng lột
càng tinh tế, qui kết đến chẳng trụ lục trần, sanh thanh tịnh tâm. Bao nhiêu
lời nói rốt ráo đều dẫn đến TÍN, GIẢI, HÀNH, CHỨNG tức là nhất nhất phải phụng
trì. Được như vậy thì mới có cơ hội chứng ngộ(1).
Mặc dầu vậy,
Kim cương hay gì gì đi nữa cũng chỉ là danh tự. Bát Nhã là pháp, pháp nào pháp
nào cũng là giả danh, nếu không tiêu hóa nổi thì cũng chỉ là tập giấy lộn để
trên bàn thờ, không ai đọc tụng, một ngày nào đó mình chết đi, con cháu đem tái
tạo, phục hồi hết (recycle). Như vậy, Như Lai nói chẳng phải là Bát nhã Ba la
mật. Bát Nhã chỉ trở thành Bát Nhã sống khi nó được úng dụng và thực hành, nên
Kinh nói: “Dĩ thị danh tự, như đương phụng trì”. Tám chữ này có nghĩa: Thấy cái
tên nên nghĩ tới cái nghĩa, hiểu cái nghĩa thì phải “y giáo phụng hành”. Đừng
chấp danh tự, danh tự chỉ là giả danh. Vì vậy, mới “không hoại giả danh mà bày
thật tướng”.
Cái quan
trọng là làm sao hiểu để thọ trì, muốn thế thì phải thật sự sống với Bát Nhã.
Lục Tổ nói: “Hoặc người Đại thừa, hoặc người Tối thượng thừa nghe
nói Kinh Kim Cương, vì tâm tỏ ngộ nên biết bản tánh tự có trí Bát Nhã, vì dùng
trí tuệ Bát Nhã thường quán chiếu, nên chẳng nhờ nơi văn tự”, tức người Đại thừa hay Tối thượng thừa
nghe nói Kinh Kim Cương tâm liền sáng tỏ, biết được, nhận được rõ ràng trí Bát
Nhã này có sẵn, chính là tự tánh của mình, cho nên từ đó mình ứng dụng ra,
thường quán chiếu luôn thì đâu có nhờ đến bên ngoài. Đó là vượt qua văn tự,
sống ngay với tự tánh Bát Nhã.
Thích nghĩa cho đoạn Kinh này:
(1). Ý của
cư sĩ Giang Vị Nông.
---o0o---
Phật phá cái chấp “có vi trần và thế giới”.
“Phật bảo:
- Thiện
Hiện! Cho đến vi trần đại địa trong ba ngàn đại thiên thế giới nhiều chăng?
Thiện Hiện
thưa:
- Bạch Thế
Tôn! Vi trần đại địa này rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều.
Phật bảo:
- Thiện
Hiện! Vi trần đại địa, Như Lai nói chẳng phải vi trần, cho nên Như Lai gọi là
vi trần đại địa. Các thế giới, Như Lai nói chẳng phải thế giới, cho nên Như Lai
gọi là thế giới”.(1)
Thích nghĩa:
(1). Đoạn Kinh này do Ngài La Thập dịch từ Phạn
sang Hán, như sau:
- “Tu Bồ đề, ư ý vân hà? Tam thiên Đại thiên thế giới,
sở hữu vi trần, thị đa phủ?
Tu Bồ
đề ngôn:
- Thậm
đa, Thế Tôn!
- Tu Bồ
đề! Chư vi trần, Như Lai thuyết phi vi trần thị danh vi trần. Như Lai thuyết
thế giới phi thế giới thị danh thế giới”.
HT Thích Trí Tịnh Việt dịch:
- “Này
Tu Bồ đề! Ý ông nghĩ sao? Tam thiên đại thiên thế giới có bao nhiêu vi trần, ấy
là nhiều chăng?
Tu Bồ
đề thưa:
- Bạch
Thế Tôn! Rất nhiều!
- Này
Tu Bồ đề, các vi trần Như Lai nói không phải vi trần, ấy gọi là vi trần. Như
Lai nói thế giới không phải thế giới ấy gọi là thế giới”.
Sơ giải:
Đoạn Kinh
này Phật phá cái chấp “thật có vi trần và thật có thế giới” tức phá cái chấp lớn nhỏ. Làm sao có thể
đoạn được pháp. Pháp hữu vi biểu hiện bằng hình thể hoặc vuông tròn
hoặc lớn nhỏ, tốt xấu… ai cũng thấy, ai cũng biết, ai cũng có thể phân biệt.
Người phân biệt tinh tế, giỏi nhất thế gian này phải nói là Phật. Phật là người
phân biệt chỉ cho mọi chúng sanh biết thế nào ngũ uẩn, thế nào là căn trần, xứ,
giới. Qua căn trần xứ giới ấy mà người thế gian cảm thọ phân biệt có lớn nhỏ,
tốt xấu... Ở đây Phật không có phá pháp mà Phật phá chấp. Có phân biệt là có
chấp, có chấp là có phiền não.
Chư Phật chư
Bồ tát cũng sống trong sai biệt như mọi chúng sanh khác, nhưng khác với chúng
sanh là “tâm không sai biệt”, như Thiền sư D.T. Suzuki trong cuốn “Cốt Tủy
của Đạo Phật” gọi là “sai biệt mà không sai biệt” và “phân biệt mà không phân
biệt” hoặc ngược lại “không sai biệt mà sai biệt” và “không phân biệt mà phân
biệt”. Đó là thế giới của chư Phật chư Bồ tát.
Thế giới đó
là thế giới vô phân biệt hay vô sai biệt, vì thế giới này tuyệt đối không những
không chấp nhận đối đãi giữa các tương quan mà siêu vượt trên tất cả các mối
tương quan của ý thức. Khi nói thế giới thật lớn có nghĩa là so sánh với cái
thật nhỏ như vi trần, nên thấy thế giới lớn. Vì cái thấy của con mắt phàm tình
là đòi hỏi phải có đối tượng mà đối tượng đó chính là hình tướng. Còn thấy mà
không thấy tướng hay thấy vô tướng tức thấy tánh, lại là cái thấy đặc biệt của
Phật đạo. Vì vậy, Tam Tổ Tăng Xán trong “Tín Tâm Minh”, mới nói:
Cực tiểu
đồng đại
Ngôn tuyệt cảnh giới.
Cực đại đồng
tiểu
Bất biến
biên biểu.
Dịch:
Cực nhỏ đồng
cực lớn
đồng nhau
bặt cảnh duyên.
Cực lớn đồng
cực nhỏ
đồng nhau
chẳng giới biên.
Quên được
cái niệm lớn nhỏ, rộng hẹp, thấp cao… thì vượt qua kiến chấp, tình chấp mới
thấy tâm mình vô ngại, rộng lớn không ngằn mé. Cho nên không còn cảnh giới để
mình phân biệt nữa, không còn bờ mé để mình duyên theo, ngay đó tâm mới được
thênh thang rỗng suốt. Như vậy, mới hiểu được câu Phật nói: “Chẻ một hột
cải có thể nhét một quyển Kinh, trên đầu mảy lông chứa hết Tam thiên đại thiên
thế giới”.
1. Tề trụ trì hỏi:
- Thế nào là
Đại thừa?
Thần Hội đáp:
- Tiểu thừa.
Lại hỏi:
- Nay hỏi Đại
thừa vì sao lại nói đó là Tiểu thừa?
Sư đáp:
- Nhân vì có
tiểu nên mới lập ra đại. Nếu không có tiểu thì đại lấy đâu mà sanh ra. Đại mà
ông hỏi đây là đại của tiểu. Cái gọi Đại thừa trống không chẳng có một vật, do
đó làm sao nói đại tiểu được. Tỉ như hư không, hư không chẳng hạn lượng mà
không thể nói là chẳng hạn lượng. Hư không chẳng có ngằn mé mà chẳng
thể nói là không ngằn mé. Đại thừa cũng lại như thế. Do đó
mà Kinh Phật nói: “Hư không chẳng có trung gian, chẳng có ngằn mé, pháp thân
chư Phật cũng thế”. Do đó mà ông hỏi Đại thừa ta mới đáp
là Tiểu thừa. Đạo lý rõ ràng mà còn kinh ngạc nổi gì! (Thần Hội
ngữ lục)
2. Trong
Kinh “Lăng Nghiêm” nói: Cái “thấy” không có vuông tròn, lớn nhỏ mà lớn nhỏ,
vuông tròn là tại cảnh vật. Nên Phật bảo:
- “A Nan, tất cả chúng sanh từ vô thỉ
đến giờ vì mê mình (tâm) làm vật, bỏ
mất cái chân tâm của mình, bị cảnh vật xoay chuyển, nên thấy có lớn nhỏ, rộng
hẹp, tốt xấu v.v… Nếu ai chuyển xoay được cảnh vật, thân tâm được sáng suốt
viên mãn, thì đồng với chư Phật. Lúc bấy giờ, không rời đạo tràng mà trên đầu
một mảy lông, có thể chứa đựng khắp mười phương thế giới”.
Lược giải
đoạn Kinh này trong “Phật Học Phổ Thông”, HT. Thích Thiện Hoa bảo:
“Từ nơi thể
tánh chơn tâm, vì vô minh vọng động, sanh ra có hư không và thế giới, chúng
sanh cùng cảnh vật, nên gọi “mê mình làm vật”.
Khi có cảnh
vật rồi, cứ theo đó mà phân biệt xấu tốt, lớn nhỏ, mừng giận… nên nói “bị vật
chuyển xoay”.
Đến hết vô
minh vọng động, trở lại với thể tánh chơn tâm, thì các cảnh vật ấy không còn;
như người thức giấc chiêm bao, thì cảnh chiêm bao hết, nên nói “xoay chuyển
vật” là thế.
Lúc bấy giờ,
một sợi lông hay mười phương thế giới cũng đều là chơn tâm cả. Đã đồng là chân
tâm, thì không còn thấy thế giới lớn hơn sợi lông, hay sợi lông nhỏ hơn thế
giới, vì đồng thể tánh, nên nói “trên đầu sợi lông, có thể chứa đựng mười
phương thế giới”.
Đoạn này lý
thâm, phải suy nghĩ nhiều mới hiểu.
---o0o---
Phật phá cái chấp “Thấy 32 tướng tốt của Phật là thấy
Phật”.
“Phật bảo:
- Thiện
Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Có thể quán Như lai Ứng Chánh Đẳng Giác bằng ba mươi
hai tướng Đại sĩ phu không?
Thiện Hiện
thưa:
- Bạch Thế
Tôn! Không. Chẳng thể quán Như lai Ứng Chánh Đẳng Giác bằng ba mươi hai tướng
Đại sĩ phu. Vì sao?
Bạch Thế
Tôn! Vì ba mươi hai tướng Đại sĩ, Như Lai nói là chẳng phải tướng, cho nên Như
Lai gọi là ba mươi hai tướng Đại sĩ”.
Đoạn trên
Phật phá cái chấp to nhỏ của thế giới và vi trần tức phá cái chấp về y báo (cái hình tướng tạo thành thế
giới chung quanh ta), đoạn này Phật phá chánh
báo (chấp thân) nghĩa là chấp thấy 32 tướng tốt của Phật là thấy được Phật.
Đây là lần thứ hai Phật lặp lại câu hỏi này. Trước Phật hỏi: Có thể lấy các
tướng đầy đủ để quán Như Lai chăng?
Câu trả lời
cũng như đoạn trước: Nếu còn thấy tướng đầy đủ là còn chấp nhân, chấp ngã nghĩa
là còn thấy người thấy ta là còn thấy tướng, liền bị tướng che nên không thể
thấy tánh. Mà thấy tánh thì thành Phật nên nói là thấy Như Lai. Cái thân 32
tướng tốt cũng chỉ là phần vật chất do đất nước gió lửa tạo thành, có thành có
hoại; còn pháp thân là cái không có hình tướng nên muôn kiếp vững bền. Nên khi
nói đến xác thân thì phải xuyên qua cái xác thân bằng xương bằng thịt mà thấy
pháp thân.
Có tướng thì
mới có thể, có thể thì mới có dụng. Đó là tương duyên. Khi Phật bác bỏ 32 tướng
cho là không thật thì không có gì là thật cả. Phật sợ nói như vậy lại có người
chấp là đoạn diệt nên liền nói: 32 tướng tức chẳng phải tướng Đại sĩ, đó gọi là
tướng Đại sĩ. Vì tướng là cái dụng chứa thể, thể là căn bản của dụng. Nếu đoạn
diệt tướng thì làm gì có thể có dụng. Ý Phật nói phải xuyên qua sắc tướng đó mà
tu học quán chiếu thì sẽ thấy pháp thân vô tướng, nên có thể chứng tánh. Chứng
tánh là thấy Phật tánh nên nói là thấy Phật.
Ngài Giang
Vị Nông bình giảng đoạn này như sau:
“(…)Nếu
trước ở tướng thì chỗ thấy là tướng của ứng thân, chẳng phải là thể của pháp
thân, sao có thể gọi là thấy Như Lai? Hiểu rõ Như Lai làm sao mà thấy, thì biết
32 tướng cũng do duyên hội mà sanh, đương thể tức không. Đương thể tức không
nghĩa là có mà chẳng phải có. Duyên hội mà sanh tức không mà chẳng phải không.
Có mà chẳng phải có, cho nên gọi là phi tướng, không mà chẳng phải không cho
nên gọi “thị danh tam thập nhị tướng”. Nên Kinh nói “Như Lai thuyết tam thập
nhị tướng tức thị phi tướng, thị danh tam thập nhị tướng”
“Nói, một
chữ PHI là khiến chẳng trước ở có.
Nói, một chữ THỊ là chẳng khiến trước ở không,
mà nói PHI nói THỊ cả hai là khiến hai bên đều chẳng thể trước. Vì cớ sao đều
chẳng thể trước? Vì trong thân này, ngoài thế giới, y báo chánh báo đều do nhân
duyên hòa hợp mà sanh. Đương lúc duyên hội mà sanh, hiển nhiên hiện ra thân
tướng y báo chánh báo (mọi người đều thấy) há có thể chấp không? Đương lúc duyên tán mà diệt mất, thì thân này ở chỗ nào, thế
giới này ở chỗ nào, há có thể chấp có?
Chẳng những thế, y chánh hai báo đương lúc nó duyên sanh đã là do nhân duyên
hòa hợp nên gọi đó là sanh, thì có thể thấy trừ nhân duyên ra không có thật
pháp nào khác, nên lúc hiện thị danh tức là lúc phi hữu, cho nên nói hữu tức
phi hữu. Lại cũng đương lúc phi hữu tức là lúc hiện thị danh, cho nên nói phi
hữu mà hữu. Hợp lại mà xem, há chẳng phải có
không đồng thời đầy đủ ư? Đã đồng
thời đầy đủ, nên trước Không trước Có đều chẳng phải, cho nên nay thị phi cùng
nói, tức là khiến kẻ nghe pháp khế hội cái ý có không đều đầy đủ, chẳng thể
trước”.
Theo kiến
giải này cái không nằm trong cái có và ngược lại cái có lại nằm trong cái không, tức có không đều đồng thời đầy đủ trong nhất chân pháp giới. Vậy, có
không, đoạn thường, bỉ thử… đều dẹp, như vậy mới diệt trừ được vọng niệm mà
sanh tịnh tâm. Tịnh tâm là tâm Phật, tức thành Phật nên nói là thấy Như Lai.
Thuyết như vậy, già chiếu đồng thời, quá hay quá đủ!
---o0o---
Cụ thọ Thiện Hiện bùi ngùi rơi lệ.
“Phật lại
bảo Thiện Hiện:
- Này Thiện
Hiện! Giả sử có thiện nam, hoặc thiện nữ, cứ mỗi ngày là xả thí thân thể mình
nhiều như số cát sông Hằng. Xả thí thân mình như vậy trải qua kiếp số nhiều như
số cát sông Hằng. Lại có thiện nam, hoặc thiện nữ đối với pháp môn đây, cho đến
bốn câu kệ, thọ trì đọc tụng thông suốt rốt ráo và rộng vì người khác tuyên
thuyết chỉ bày, như lý tác ý. Do nhân duyên đây nên được phước rất nhiều hơn
trước vô lượng, vô số.
Bấy giờ, cụ
thọ Thiện Hiện nghe oai lực của pháp, bùi ngùi rơi lệ, cúi người lau nước mắt
rồi thưa Phật:
- Bạch Thế
Tôn! Thật là hiếm có! Bạch Thiện Thệ! Rất là hiếm có! Nay Như Lai đã nói ra
pháp môn này, làm nghĩa lợi cho những kẻ phát tâm hướng tới Tối thượng thừa,
làm nghĩa lợi cho những kẻ phát tâm hướng tới Tối thắng thừa.
Bạch Thế
Tôn! Từ khi sanh trí tuệ đến nay, con chưa từng được nghe pháp môn nào như thế”.
Khi thuyết
tới đây, Phật bảo Thiện Hiện có người xả thí thân mạng của mình nhiều kiếp như
số cát sông Hằng cũng không bằng người trì tụng, vì người tuyên thuyết chỉ bày
Kinh này thì phước đức hơn người thí mạng trong vô lượng vô số kiếp. Nghe tới
đó Thiện Hiện rơi lệ, cúi người lau nước mắt rồi thưa Phật: Rất là hiếm có! Nay
Như Lai đã nói ra pháp môn này, đem nhiều nghĩa lợi cho những kẻ phát tâm hướng
tới Tối thượng thừa, Tối thắng thừa.
Chỗ Thiện
Hiện bùi ngùi rơi lệ không phải vì phước đức vô lượng do trì tụng hay thuyết
giảng chỉ bày cho người, nhưng Thiện Hiện rơi lệ là vì mình được phúc duyên
nghe được Kinh điển thậm thâm này, mà xưa kia Bồ Tát Thường Đề phải chẻ xương bán tủy
ngày đêm cầu khẩn mới được nghe và cũng vì Kinh này luôn luôn được tán tụng là
mẹ sanh mẹ dưỡng của chư Phật chư Bồ tát; tất cả các thiện pháp, các Thánh pháp
hy hữu, các pháp mầu Phật đạo, tư lương Bồ đề Bồ tát… đều lưu xuất từ Kinh này;
nó cũng là pháp ấn, tâm ấn, trí ấn của các đức Như lai ở mười phương ba đời;
giáo lý của nó không thể cân lường, không thể nghĩ bàn, các công đức của nó
cũng như vậy.
Đó là chỗ
qui kết, thú hướng thù thắng của Kinh này như vậy. Nên Thiện Hiện mặc dầu có
trí tuệ, có pháp nhãn nhưng không thể suy lường nổi, nên rơi lệ buộc miệng
khen: Thật hy hữu!
---o0o---
Người nghe hiểu Kinh này
mà sanh tưởng chân thật phải biết là hiếm có.
“Bạch Thế
Tôn! Nếu hữu tình nào nghe thuyết Kinh điển thâm sâu như thế mà sanh tưởng chân
thật, thì phải biết hữu tình này thành tựu sự tối thắng hiếm có. Vì sao?
Bạch Thế
Tôn! Vì các tưởng chơn thật, kẻ tưởng chơn thật, Như Lai nói là chẳng phải
tưởng, cho nên Như Lai gọi là tưởng chơn thật”.
1. Kinh này
thậm sâu huyền diệu như vậy nên cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật rằng kẻ nào nghe
thuyết Kinh điển này mà sanh tưởng chân thật, sẽ thành tựu sự thù thắng hiếm
có. Thành tựu đó không ngoài trí tuệ và công đức của tu phước huệ. Hữu tình
nghĩ tưởng không ngoài sắc và dục. Tâm tưởng luôn luôn bị khuấy động vì sắc dục
chẳng khác nào nước gặp gió tạo thành sóng mòi, nên quên đi giác tâm, cái bản
nhiên thanh tịnh của mình. Bây giờ, nhờ Bát Nhã phá chấp, đoạn trừ tất cả phiền
não tập khí nối nhau thì quay trở lại thấy
cái thật tướng của chính mình hay nói khác là thấy lại khuôn mặt tròn đầy
khi xưa (bản lai diện mục).
Ngài Phó đại
sĩ có bài kệ(1):
“Chưa có,
cảnh không tâm; từng không tâm không cảnh.
Cảnh quên
tâm tự diệt; tâm diệt cảnh cũng không.
Trong Kinh
gọi thật tướng; lời diệu lý lại sâu.
Chứng biết
chỉ có Phật; tiểu Thánh dễ nhận đâu”.
Nếu tâm
không phân biệt thì cảnh có cũng như không, cảnh bặt thì tâm không có chỗ bám.
Ngay đó sinh thật tướng. Bởi vì, không có cảnh nào mà không có tâm; cũng chưa
có tâm nào mà không có cảnh. Nhưng tâm dong ruỗi theo cảnh là tâm hư dối, tâm
chấp cảnh quên mình, tâm lang thang vọng tưởng. Khi cảnh quên rồi thì tâm tự
dứt, không có cảnh để tâm duyên theo, ngay đó tâm được lặng. Chỗ tâm cảnh đều
vắng lặng nên nói là thật tướng. Nhưng thật tướng đó không phải dễ thấy. Cho
nên lời nói đó là vi diệu, vượt ngôn ngữ nói năng. Bởi vậy, chứng biết chỉ
Phật, còn tiểu Thánh người ngoài dễ gì nhận được.
Vì vậy, Kinh
Lăng Nghiêm Phật bảo thị giả của mình: “A Nan, vì có trần cảnh, nên ở nơi
căn mới khởi ra phân biệt. Vì có năng phân biệt ở nơi căn, nên mới hiện ra cái
tướng bị phân biệt. Căn (kiến) và
cảnh (tướng) đối đãi nhau vọng hiện,
chớ không có thật (vô tánh), cũng như
hình cây lau gác nhau (ở xa thấy có tướng
người hay vật)”.
Qua bài kệ
trên cũng như lời giải thích của Phật nói về mối tương quan sanh diệt giữa tâm,
cảnh và thật tướng: Cảnh vật và tâm hư vọng này sở dĩ hiện hữu là nhờ nương tựa
nhau. Chúng không có tự tánh, cũng không tha tánh, nên gọi là duyên sanh. Duyên
sanh thì không thể đứng một mình, nó có là nhờ cái khác mà có. Thật tướng là
cái bất sanh diệt. Như con mắt tức căn, cái thấy. Cái thấy này đòi hỏi phải có
đối tượng, mà đối tượng là cảnh, cảnh là hư dối sanh diệt. Nên nói cái thấy đó
là hư vọng. Cũng cùng cái thấy mà biết quay lại, thâu nhiếp lấy tâm. Thấy lại
chính bản tâm mình, cái thấy đó là chơn tâm. Chơn tâm tức thật tướng, tức là
làm chủ trọn vẹn chính tâm thể của mình. Trong “Tín Tâm Minh” Tổ Tăng Xán nói:
Quy căn đắc
chỉ
tùy chiếu thất tông
Tu du phản
chiếu
thắng khước tiền không
Dịch:
Trở về nguồn
nắm mối
Dõi theo
ngọn mất tông
Phút giây
soi ngược lại
Trước mắt
vượt cảnh không.
Vì vậy,
Thiền sư D.T. Suzuki trong quyển viết về “Thiền” nói: “Khi thời
tiết đến thì nhận ra quá khứ và tương lai tự kết tinh, như đang là, trong hiện
thời Tuyệt đối, trong hiện tại Vĩnh hằng, an trú trong “ở đây và ngay bây giờ”
và làm chủ chính mình, hay nói khác là sống với ông chủ(2). Ông không còn là
một chúng sanh nữa, vừa là chúng sanh vừa không phải là chúng sanh. Có nghĩa là
ông trở về với chính mình và ở trong chính mình, ông an trú trong “ở đây và
ngay bây giờ”, ông không còn lệ thuộc bất cứ ai hay nô lệ bất cứ điều gì, mà
ông là ông chủ của đại thiên vũ trụ, của kho báu vô vàn quyền năng”.
2. Nhưng khi
nói đến thật tướng Phật sợ sẽ có người chụp lấy mà bám trụ, nên Phật bảo “thật
tướng đó chẳng phải là thật tướng chỉ tạm gọi là thật tướng”. Thật tướng cũng
chỉ là danh tự ngôn ngữ, nghĩ tưởng chấp trước vào danh tự giả tướng và cho là
thật thì cũng không tránh khỏi những sai lầm trói buộc của nó. Kinh Lăng
Nghiêm, Phật bảo: “(…)Mở gút đầu tiên là phá trừ ngã chấp (ngã, chúng sanh, mạng giả, thọ giả, v.v…)
trước chứng được nhơn không. Tiến đến tầng thứ hai là
phá trừ pháp chấp, sau chứng được pháp không. Ngã pháp đều không sanh,
thế mới gọi là Bồ tát đặng Vô sanh pháp nhẫn”. Tới đó không còn chấp tướng hay phi tướng, tướng cũng bỏ phi tướng
cũng bỏ, nên nói lìa các tướng tức chư Phật.
Muốn thấy tánh thì phải lìa tướng. Nếu không có công
phu thì làm sao mà lìa. Công phu là tu tập. Phải nói một chữ PHI tức là tuyệt
bách phi, lại cũng là tứ cú đều ly, chỗ gọi là hữu cũng ly, vô cũng ly, diệc
hữu diệc vô(3) cũng ly, phi hữu phi vô cũng ly là vậy. Cổ đức nói vô tướng vô bất tướng. Và từ VÔ là
tuyệt đối, VÔ không có nghĩa vô đối với hữu (không đối với có), VÔ này là Tánh
Không Bát Nhã. Vì tướng và bất tướng vẫn là hai thứ đối đãi. Có đối đãi là có
động, có sanh diệt, nên gọi là vô thường. Mà tánh thể vạn cổ vẫn thường hằng,
bất biến, vô sanh vô diệt, không đối đãi, là tuyệt đối không, rốt ráo không
(tất cánh không) và cái không cuối cùng cũng không nốt. Nói tóm lại, tướng là
hữu, bất tướng là vô, vượt ngoài tướng bất tướng, tức vượt ngoài hữu và vô, nên
nói “vô tướng vô bất tướng” là lý tuyệt
đối vô. Đấy gọi là hữu vô tứ cú đều ly, nên Kinh nói “thị thực tướng giả
tắc thị phi tướng”, từ PHI chỉ cho công phu vậy.
“Công phu đó chẳng qua dùng hai chữ CHẲNG PHẢI
để làm yếu chỉ: Nói hữu nói vô đều mắng là chẳng phải, nói diệc hữu diệc vô
cũng mắng là chẳng phải… Vậy chẳng còn gì là thiên lệch, không còn chỗ để chấp
trước. Đây là pháp môn vi diệu để phản tỉnh”(4).
Đại Trí Độ
luận có kệ rằng:
“Hết thảy
thật, hết thảy chẳng phải thật
Hết thảy
thật cũng chẳng phải thật
Hết thảy
chẳng phải thật, chẳng phải chẳng phải thật
Ầy gọi là
thật tướng của chư Phật”.
Nói như vậy
vẫn còn chỗ để nói! Vậy xin hỏi thế nào là ly danh tự tướng, ly ngôn thuyết
tướng, ly tâm duyên tướng? Lìa tứ cú, tuyệt bách phi là gì(5)? Tổ Tăng Xán
trong “Tín Tâm Minh” bảo rằng:
Đa ngôn đa
lự
Chuyển bất
tương ưng
Tuyệt ngôn
tuyệt lự
Vô xứ bất thông
Dịch:
Nói nhiều thêm lo quẩn
Loanh quanh mãi chẳng xong
Dứt ngôn thì hết quẩn
Đâu đâu chẳng suốt thông.
Thích nghĩa cho đoạn Kinh này:
(1). Trích
trong Kinh Kim cang Giảng lục của TT. Thích Thông Phương.
(2). Ông chủ
hay bản lai diện mục hay còn gọi là Phật tánh.
(3). Diệc
hữu diệc vô trong tứ cú, phá trừ phiền não thiên chấp Có, Không để vào Đệ nhất
nghĩa đế, tức là pháp môn song chiếu Có và Không để hiển bày lý Trung đạo.
(4). Viết
theo ý của cư sĩ Giang Vị Nông, không trích dẫn nguyên văn dài dòng.
(5). Lìa tứ cú, tuyệt bách phi: Tứ cú là: Có, không, chẳng có chẳng không,
cũng có cũng không. Tất cả tứ tướng đều chẳng ngoài tứ cú này, nếu trụ thì
chướng ngại sự dụng của bản thể tự tánh mà sanh ra bách phi (đủ thứ sai lầm),
nếu lìa thì hiển bày đại dụng của tự tánh liền dứt niệm sai lầm.
---o0o---
Người có hạt giống Bát Nhã mới có thể thọ trì, truyền
bá Kinh này.
Tiếp theo cụ
thọ Thiện Hiện bạch Phật:
“Bạch Thế
Tôn! Nay con nghe pháp môn như thế, lãnh ngộ tin hiểu, nhưng chưa là hiếm có.
Đời đương lai hậu thế, hậu thời, hậu phần năm trăm năm, khi Chánh pháp sắp
diệt, lúc thời phần chuyển, nếu hữu tình nào đối với pháp môn thâm sâu như thế
mà lãnh ngộ tin hiểu, thọ trì đọc tụng, thông suốt rốt ráo và rộng vì người
khác tuyên thuyết chỉ bày, như lý tác ý, thì phải biết hữu tình này thành tựu
sự tối thắng hiếm có. Vì sao?
Bạch Thế
Tôn! Vì các hữu tình ấy không có tưởng ngã, hữu tình, mạng giả, sĩ phu, Bổ đặc
già la, ý sanh, nho đồng, tác giả, thọ giả… Vì sao?
Bạch Thế
Tôn! Vì các tưởng ngã tức là chẳng phải tưởng, các tưởng hữu tình, tưởng mạng
giả, tưởng sĩ phu, tưởng Bổ đặc già la, tưởng ý sanh, nho đồng, tác giả, thọ
giả tức là chẳng phải tưởng. Vì sao? Vì chư Phật Thế Tôn lìa tất cả tưởng”.
Sau khi nghe
Phật nhiều phen thuyết giải, Thiện Hiện lãnh hội được Kinh này. Nhưng nghĩ rằng
đời sau hậu bối không thường gần Phật, không thường nghe pháp thì làm sao có đủ
tín giải mà thọ trì. Nhưng nếu có chúng sanh nào đối với pháp môn thâm sâu như
thế mà liễu ngộ tin hiểu, thọ trì đọc
tụng, thông suốt rốt ráo và rộng vì người khác tuyên thuyết chỉ bày, thì phải
biết chúng sanh này thành tựu sự tối thắng hiếm có. Vì sao? Vì chúng sanh đó
thấy ngã không, pháp không, phi pháp cũng không, gọi là tam không, vượt hẳn
phàm phu tục tử, chắc người đó có căn tánh Đại thừa, nhiều đời thờ phụng cúng
dường vô số chư Phật nên mới có thể tín giải thọ trì Kinh này.
Phật đồng ý:
“Đúng vậy,
đúng vậy. Thiện Hiện! Nếu các hữu tình nghe Kinh điển thâm sâu như thế, mà
không kinh, không sợ, không hoảng hốt, thì phải biết hữu tình ấy thành tựu sự
tối thắng hiếm có”.
Trước đây
Phật bảo: Nếu thấy tướng chẳng phải tướng liền thấy Như Lai. Ở đây Phật nói:
Lìa chư tướng tức gọi là chư Phật. Trước đó Thiện Hiện nghe xong liền hỏi Phật:
Chúng sanh khi nghe Kinh này biết có tin được không? Tức còn có điểm còn do dự,
nghi ngờ liền bị Phật quở. Nhưng tới đây Ngài quả quyết rằng: “Nếu có người
nghe Kinh này mà không nghi ngờ kinh sợ, thì người này rất hy hữu”.
Kinh một mực
từ đầu tới cuối đều phá cái chấp tướng: Thấy 32 tướng tốt không phải là thấy
Như Lai; thấy tướng là phi tướng mới thấy Như Lai; lìa tất cả tướng mới gọi là
chư Phật. Đó là những điều đi ngược với pháp thức thường tục, nếu nghe như thế
mà không kinh không sợ mới thật là hy hữu.
Để đối trị
với những cái nhìn thông tục dễ dãi trong thế giới đang sống như là một thực
tại thường trụ, Bát Nhã lật úp thế giới đó và cho nó chỉ là những giả tướng,
mộng mị, huyễn hoặc…làm sao một con ngươi phàm tục không hoang mang nghi ngờ
cho được? Nhưng chủ đích của Bát nhã Ba la mật là phá trừ những sai lầm căn để,
chống lại sức mạnh cám dỗ của ngũ dục lục trần, để dẫn dắt con người đi đến chỗ
Thánh thiện hơn. Muốn được như vậy, không có gì khác là phải lìa tướng, lìa
tưởng, tránh động niệm.
---o0o---
Phật phá cái chấp “Bát Nhã là đệ nhất Ba la mật”
“Thiện Hiện!
Vì Như Lai nói Ba la mật tối thắng là Bát nhã Ba la mật. Thiện Hiện! Ba la mật
tối thắng mà Như Lai đã nói, được vô lượng chư Phật Thế Tôn cùng tuyên thuyết,
nên gọi là Ba la mật tối thắng. Như Lai nói Ba la mật tối thắng tức chẳng phải
Ba la mật, cho nên Như Lai gọi là Ba la mật tối thắng”.
Đại Bát Nhã
thường tán tụng: Bát Nhã là chỉ đạo của các Ba la mật. Nó như người có mắt, còn
các Ba la mật khác như bố thí, trì giới, an nhẫn, tinh tấn, thiền định như
người mù bẩm sanh. Nếu không có con mắt sáng hướng dẫn thì tất cả các Ba la mật
khác không thể đi được trên con đường chánh huống chi có thể đến được thành lớn
lợi vui. Lại nữa, Bát Nhã được coi là đệ nhất Ba la mật, vì nó đứng trên tất cả
ảnh tượng tạp nghiễm của các vật thể trần gian. Ánh sáng của nó soi rõ vạn hữu
và một khi chạm vào nào vật nào thì vật ấy bỏ hình tướng giả tạo để trở về thật
tướng của nó. Nó vượt trên mọi phân biệt đối đãi. Nó là trọng tâm chỉ đạo chung
của mọi suy tư và cảm giác. Vì vậy, nên nói Bát Nhã là đệ nhất Ba la mật.
Nhưng khi
nói Bát Nhã là đệ nhất Ba la mật thì Bát Nhã không còn là Bát Nhã nữa. Vì còn
thấy “tướng số một” của nó. Có nhất phải có nhị, tức có một thì phải có hai.
Như vậy, Bát Nhã không tránh khỏi phân biệt, so đo của cuộc đời thường của
lưỡng nguyên đối đãi. Cho nên, Phật mới nói “Chẳng phải đệ nhất Ba la mật mới
thật là Ba la mật”. Ở đây, Phật không cho mình chấp!
Có vị Tăng
hỏi Thiền sư Duy Giám:
- Phật và
chúng sanh là một hay hai?
Sư đáp:
Hoa nở đầy vườn hồng
Hoa rụng muôn cành trống.
Tăng hỏi:
- Rốt ráo là
một hay là hai?
Đáp:
Chỉ còn thừa một đóa
Ngày mai ngại gió rơi.
Nghĩa là đến
chỗ tột cùng rồi, một cũng không còn. Bởi vì trong tâm còn dấu vết của cái một
tức là có cái hai, có ít có nhiều đều không tránh khỏi ngõ cụt hai đầu. Bát Nhã
là không, là phủi tất cả, không cho bám vào bất cứ chỗ nào dù nhất hay nhị.
Tam tổ Tăng
Xán, trong “Tín Tâm Minh” nói:
Nhị do nhất
hữu
Nhứt diệc
mạc thử
Nhất tâm bất
danh
Vạn pháp vô cữu
Dịch:
Hai do một mà có
Một rồi cũng buông bỏ
Một tâm vốn chẳng sanh
Muôn pháp tội gì đó.
---o0o---
Phá cái chấp “nhẫn nhục Ba la mật”
“Lại nữa,
Thiện Hiện! Như Lai nói nhẫn nhục Ba la mật tức chẳng phải Ba la mật, cho nên
Như Lai gọi là nhẫn nhục Ba la mật. Vì sao?
Thiện Hiện!
Vì đời quá khứ xưa, Ta từng bị vua Yết lợi cắt tay chân, xẻo thịt. Khi ấy, Ta
hoàn toàn không có tưởng ngã, hoặc tưởng hữu tình, hoặc tưởng mạng giả, hoặc
tưởng sĩ phu, hoặc tưởng Bổ đặc già la, hoặc tưởng ý sanh, hoặc tưởng nho đồng,
hoặc tưởng tác giả, hoặc tưởng thọ giả. Ta đều không có tưởng, cũng chẳng phải
không có tưởng. Vì sao?
Thiện Hiện!
Vì lúc đó nếu Ta có tưởng ngã tức là có tưởng giận. Nếu Ta có tưởng hữu tình,
tưởng mạng giả, tưởng sĩ phu, tưởng Bổ đặc già la, tưởng ý sanh, tưởng nho
đồng, tưởng tác giả, tưởng thọ giả, tức là có tưởng giận. Vì sao?
Thiện Hiện!
Vì Ta nhớ trong quá khứ năm trăm năm, từng làm tiên nhơn, hiệu là Nhẫn Nhục.
Bấy giờ, Ta hoàn toàn không có tưởng ngã, không có tưởng hữu tình, không có
tưởng mạng giả, không có tưởng sĩ phu, không có tưởng Bổ đặc già la, không có
tưởng ý sanh, không có tưởng nho đồng, không có tưởng tác giả, không có tưởng
thọ giả. Ta đều không có tưởng, cũng chẳng phải không có tưởng”.
1. Ngài Huyền
Trang và Ngài Nghĩa Tịnh dịch từ “sàn đề”của tiếng Phạn là an nhẫn. Nhẫn là khả nhẫn, kham nhẫn có nghĩa là nhất tâm chánh
thụ. An là an trụ có nghĩa là tâm
không động. Một khi tâm động thì không còn nhẫn. Tâm chẳng động chẳng lay tức
an trụ.
Nhưng có một
số tác giả lại dùng từ nhẫn nhục. Nhục là
hủy nhục, nghĩa là bị ức hiếp nhục mạ mà có thể bỏ qua được. Đó là thái độ của
bậc trượng phu. “Ăn miếng trả miếng” thì ai cũng như ai. Trái lại bị lăng nhục
mà biết tha thứ thì thật hiếm có. Còn hiếm có hơn nữa là tự mình không cho đó
là nhục, mà cho đó là một thái độ “cần thiết” để tránh những đụng chạm rạn nứt
hay tan vỡ trong cuộc sống đảo điên này. Đây không phải chỉ nói tới cái cao
thượng thuộc về luân lý hay đạo đức của cuộc đời thường mà nói lên cái cao cả
của bậc siêu xuất: “Ai đánh ta má trái thì chìa má phải”. Đó là điều khó làm!
Bát Nhã còn
đi xa hơn thế nữa. Bát Nhã coi an nhẫn là cái đương nhiên của giác tâm, nó nằm
trong tự tánh. Vì tự tánh là không tịch
vốn không sân hận, không chống đối, không oán hận.
Nhưng Bát
Nhã lại ly tất cả tướng. Nếu coi an nhẫn là một trong sáu độ rốt ráo bậc nhất
để đạt cảnh giới giác ngộ thì vô hình chung an nhẫn được đề cao. Như vậy, là
còn chấp trước. Một khi có chấp trước thì không còn tương ưng với Bát Nhã nữa.
Bát Nhã sẽ dỡ nón ra đi.
An nhẫn chỉ
trở thành rốt ráo, viên mãn khi tâm ngã đều không, chính cái không đó cũng
không được thủ trước. Nên Phật bảo “không thấy mình an nhẫn Ba la mật như thế
mới gọi là an nhẫn Ba la mật”.
2. Phật có kể
lại cho chúng hội biết “về quá khứ, Ta là vị tiên nhân tu hạnh nhẫn nhục đến
500 đời. Bị vua Ca Lợi cắt xẻo thân thể từng đoạn, nhưng ta không sân hận vì ta
không còn chấp ngã, hữu tình, mạng giả, sanh giả, sĩ phu, nho đồng v.v…”
Trong Kinh
Đại Niết Bàn và Luận Tỳ Bà Sa có câu chuyện đại khái như sau: Khi Phật còn tu
Bồ tát đạo, có một vị vua ở thành Phú Đan Na, tên là Ca Lợi, một hôm cao hứng
dẫn các cung phi mỹ nữ đi “cắm trại” ngoài thành. Sau khi ăn uống xong, vua mệt
mỏi ngủ thiếp. Các cung nữ rủ nhau đi hái hoa, đi lần đến chỗ Bồ tát đang ngồi.
Vì muốn cho cho các cung nữ dứt lòng tham dục nên Bồ tát thuyết pháp cho họ.
Khi vua tỉnh giấc không thấy bọn cung nữ ở đâu nên đi tìm. Vua Ca Lợi thấy tiên
nhân đang trò chuyện với các cung nữ của mình, liền bảo:
- Ngươi đem
huyễn thuật cám dỗ cung nữ ta phải không?
Tiên nhân
trả lời:
- Tôi tịnh
giới đã lâu, không còn tâm ô nhiễm.
Vua hỏi:
- Ngươi đắc
quả La hán chưa?
Trả lời:
- Chẳng đắc!
Hỏi:
- Ngươi đắc
quả Bất hoàn chưa?
Trả lời.
- Chẳng đắc!
Vua nói:
- Nay ngươi
còn thiếu niên, đã chưa đắc quả chắc còn ham dục nên mới dòm ngó cung nữ ta?
Trả lời:
- Tôi tuy
chưa đoạn hết tham dục, nhưng tâm không tham.
Hỏi:
- Người tiên
luyện khí ăn trái cây thấy sắc còn ham, huống chi tuổi còn cường thịnh như
ngươi.
Trả lời:
- Thấy sắc
mà ham không phải ăn trái cây hay luyện khí mà chính do hộ niệm vô thường, bất
tịnh.
Vua trách:
- Người
khinh thường người khác, chê dèm người khác, sao được coi là tịnh giới!
Trả lời:
- Có đố kỵ
mới gọi là chê dèm, không đố kỵ không phải là chê dèm.
Vua hỏi:
- Sao gọi là
giới?
Trả lời:
- Nhẫn là
giới.
Vua liền rút
gươm cắt tay chân, xẻo tai mũi vị tiên nhân, rồi hỏi:
- Nhẫn
chăng?
Trả lời:
- Nếu đại
vương cắt xẻ tấm thân này ra muôn mảnh, thì cũng như hạt bụi nhỏ, tôi rốt ráo
có thể nhẫn, chẳng nổi một niệm sân.
Bấy giờ, bầy
tôi can gián vua chưa nguôi giận. Lúc đó tứ Thiên vương, làm mưa kim cang sa,
vua sợ hãi, quì gối xuống tạ tội. Tiên nhân liền
nguyện: Nếu tôi không có niệm sân, thì khiến thân bình phục như cũ. Vừa nguyện
xong, thì thân của vị tiên nhân được lành lặn như cũ. Rồi tiên nhân nói: Ngày nào Ta thành đạo quả sẽ độ đại vương trước
hết. Và khi Phật thành đạo Ngài độ Kiều Trần Như, tức tiền thân của vua Ca Lợi.
Vị Tiên nhân bị chặt chân tay, xẻo mũi mà không
oán hận vì Ngài không thấy có ngã, không thấy mình bị nhục, bị hành hạ. Nếu còn
thấy mình bị nhục, bị hành hạ tức chưa được nhẫn nhục rốt ráo.
Nhẫn nhục
như Hàn Tín lòn trôn giữa chợ hay Câu Tiễn nếm phân của Phù Sa để chờ ngày phục
hận thì không phải là nhẫn nhục Ba la mật.
---o0o---
Bồ tát phát Bồ đề tâm phải xa lìa tất cả vọng chấp.
“Thiện Hiện!
Đại Bồ tát phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề nên xa lìa tất cả tưởng, chẳng
trụ nơi sắc mà sanh tâm, chẳng trụ phi sắc mà sanh tâm; chẳng trụ thanh, hương,
vị, xúc, pháp mà sanh tâm; chẳng trụ phi thanh, hương, vị, xúc, pháp mà sanh
tâm. Hoàn toàn vô trụ mà sanh tâm. Vì sao?
Thiện Hiện!
Vì chỗ trụ chẳng phải là chỗ trụ. Do đó, Như Lai nói các Bồ tát nên vô trụ mà
hành bố thí. Chẳng nên trụ sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp mà hành bố thí.
Lại nữa,
Thiện Hiện! Đại Bồ tát vì các hữu tình mà làm nghĩa lợi, nên phải xả bỏ bố thí
như thế. Vì sao?
Thiện hiện!
Vì các tưởng hữu tình tức là chẳng phải tưởng. Tất cả hữu tình, Như lai nói
chẳng phải hữu tình”.
Kinh nói đi
nói lại không ngoài không ngoài ly tướng. Có phân biệt tướng nên mới có chấp
tướng. Một khi có chấp tức có động niệm thì làm sao an trụ tâm. Kinh nói “tín
tâm thanh tịnh sẽ sanh thật tướng”. Thật tướng chỗ gọi vô tướng là tên khác của
giác tâm. Khi ly được một phần tướng thì chứng một phần giác tâm, ly tất cả
tướng tức trở về cái bản nhiên tịch lặng. Như vậy, có thể thấy từ phàm phu đến
cứu cánh giác, công phu tu tập không ngoài ly tướng. Nếu tâm còn trụ chấp nơi
lục trần tức còn phân biệt chấp trước, nên Phật nói “nếu tâm có trụ tức chẳng
phải trụ”, phải trụ ở chỗ vô trụ mới thật an trụ chân tâm.
Ngài Xuyên
Thiền sư mới có bài tụng:
Kiến sắc phi
can sắc
Văn thinh
bất thị thinh
Sắc thinh vô
ngại xứ
Thấu đáo
Pháp vương thành.
Dịch:
Thấy sắc không
mê sắc
Nghe tiếng
chẳng nhiễm tiếng
Sắc tiếng
đều không ngại
Mới đến Pháp
vương thành.
Nếu Bồ tát khi làm lợi ích cho
chúng sanh mà tâm còn chấp tướng nghĩa là còn thấy mình bố thí, người thọ thí
và vật bố thí, tức còn chấp ngã (mình, người) chấp pháp (vật bố thí) thì chỉ
được phước hữu lậu, không phải là Bố thí Ba la mật. Bởi thế, Phật dạy Bồ tát
làm lợi ích chúng sanh không nên chấp tướng ngã, hữu tình, mạng giả, sĩ phu,
nho đồng, tác giả, thọ giả… thì được phước vô lậu không thể tính đếm. Bố thí
như vậy mới được gọi là bố thí Ba la mật.
Bố thí là
hành vi xả kỷ lợi tha, nên không trụ chấp bất cứ nơi nào. Có trụ có chấp thì
rơi vào cảnh giới tối tăm như người từ ngoài sáng đi vào nơi tối tăm thì còn
thấy được gì? Nếu không trụ chấp, kinh nói “không trụ tất cả pháp là trụ trong
Bát Nhã” mà trụ Bát Nhã là khai mở trí tuệ giống như người có mắt lại được ánh
sáng mặt trời chiếu soi nên thấy rõ mọi vật.
Vì vậy, Phật bảo: “Nếu thiện nam,
hoặc thiện nữ đối với pháp môn đây mà thọ trì đọc tụng thông suốt rốt ráo và vì
người khác tuyên thuyết chỉ bày, như lý tác ý, thì Như Lai dùng Phật trí biết
rõ người này, Như Lai dùng Phật nhãn thấy rõ người này, Như lai độ người này.
Tất cả hữu tình như thế sẽ được vô lượng phước đức.
Lại nữa, Thiện Hiện! Giả sử thiện
nam, hoặc thiện nữ nào, vào phần đầu của ngày, đem thân thể mình nhiều như số
cát sông Hằng mà bố thí; vào phần giữa của ngày, lại đem thân thể mình nhiều
như số cát sông Hằng mà bố thí; vào phần cuối của ngày cũng đem thân thể mình
nhiều như số cát sông Hằng mà bố thí. Bố thí như thế trải qua vô số trăm ngàn
kiếp, nếu có hữu tình nào nghe pháp môn như thế mà không phỉ báng, thì do nhân
duyên đây sẽ được số phước nhiều hơn trước vô lượng, vô số; huống chi đối với pháp môn đây mà thọ trì, đọc tụng thông
suốt rốt ráo và rộng vì người khác tuyên thuyết chỉ bày, như lý tác ý, thì
người này được Như Lai dùng Phật trí biết rõ, được Như Lai độ người này. Tất cả
hữu tình như thế thành tựu vô lượng phước đức, đều sẽ thành tựu vô biên phước
đức chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể cân lường”.
Vì vậy, Phật bảo: “Thiện Hiện! Pháp môn như thế chẳng
thể nghĩ bàn, chẳng thể cân lường. Phải nên mong cầu, quả dị thục không thể
nghĩ bàn”.
Trong Kinh
Niết Bàn có kể câu chuyện, khi Phật còn trong thời kỳ tu Bồ tát hạnh, là một
tiên nhân tha thiết cầu Kinh Đại thừa. Trời Đế Thích muốn thử thách nên hiện
làm quỷ La sát, đói khát muốn ăn thịt người, mới đứng trước động tiên nhân đọc
hai câu kệ: Chư hành vô thường, thị danh
diệt pháp tức tất cả pháp thuộc tạo tác đều vô thường, sinh diệt. Vị tiên
nhân nghe hai câu kệ hết sức vui mừng, liền lần ra cửa động để xem ai nói, thì
thấy một con quỷ rất ghê sợ. Nhưng vì muốn nghe pháp Phật, nên vị tiên nhân
đánh bạo hỏi:
- Xin lỗi!
Có phải ông là người vừa nói hai câu kệ không?
Quỷ La sát trả
lời:
- Phải.
Vị tiên nhân
hỏi tiếp:
- Vậy, xin
ông đọc tiếp cho tôi nghe được không?
Quỷ La sát
trả lời:
- Tôi đang
đói không thể nói được, muốn tôi nói phải cho ăn no mới nói được.
Tiên nhân
hỏi:
- Thức ăn
của ông là gì?
Đáp:
- Tôi chỉ
dùng thịt sống máu tươi.
Vị tiên nhân
mới nghĩ: Nếu ta hy sinh thân mạng thì làm sao nghe được Kinh, nên đề nghị với
quỷ La sát:
- Thôi bây
giời tôi leo lên cây cao, ông ghi câu kệ trên tảng đá gần đó, tôi ở trên đọc
được kệ xong, liền gieo mình xuống để ông ăn. Ông có chịu không?
Quỷ La sát
nhận lời. Vị tiên nhân leo lên cây và quỷ La sát viết tiếp phần kệ còn thiếu: Sinh diệt diệc dĩ, tịch diệt vi lạc, nghĩa
là sinh diệt hết rồi, thì tịch diệt là vui. Ngay đó vị tiên nhân từ trên cao
gieo mình xuống, quỷ La sát hiện nguyên hình trời Đế Thích đỡ Ngài và tán thán:
- Công đức
tu hành của Ngài chắc chắn sẽ trở thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh giác. Xin
Ngài đừng quên tôi khi đạt đạo.
Đó là câu
chuyện cầu đạo mà không tiếc thân mạng của Phật trong khi còn tu Bồ tát đạo. Trong
ĐBN này, phẩm "Thường Đề Bồ Tát, quyển thứ 398, Hội thứ I có một vị Bồ tát
có tên là Thường Đề hay còn gọi là "Bồ tát Thường khóc" chẻ xương bán
tủy để nghe Bát Nhã. Đó là những vị cầu pháp không tiếc thân mạng của mình. Tài
thí chỉ giải quyết được những nhu cầu vật chất hiện tại như cơm ăn, áo mặc…
nhiều lắm là được phước đức hữu lậu; còn pháp thí thì được công đức vô lậu
không thể nghĩ bàn. Nên Phật nói: “Những người như thế có thể gánh vác đạo quả Vô thượng
Bồ đề của Như Lai”.
---o0o---
Người thọ trì Kinh này công đức nhiều hơn
Phật Thích ca cúng dường vô số chư Phật.
“Thiện Hiện!
Ta nhớ thuở quá khứ xa xưa, trong vô số kiếp, trước thời đức Nhiên Đăng
Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, Ta từng gặp tám mươi bốn ức trăm ngàn chư Phật, Ta
đều vâng thờ. Đã vâng thờ rồi đều không trái phạm.
Thiện Hiện!
Sau đời đương lai, hậu thời, hậu phần năm trăm năm, khi Chánh pháp sắp diệt,
lúc thời phần chuyển, nếu hữu tình nào đối với Kinh điển đây, thọ trì đọc tụng
thông suốt rốt ráo và rộng vì người khác tuyên thuyết chỉ bày, như lý tác ý,
thì này Thiện Hiện, số phước đời trước của Ta so với số phước đây thì trăm phần
không bằng được, như vậy cho đến ngàn phần, hoặc trăm ngàn phần, hoặc ức trăm
ngàn phần, hoặc hơn ức trăm ngàn phần, hoặc số phần, hoặc kế phần, hoặc toán
phần, hoặc dụ phần, hoặc cực số phần cũng chẳng bằng được.
Thiện Hiện!
Nếu Ta nói đầy đủ, chính ngay khi ấy, số phước mà thiện nam, hoặc thiện nữ này
được, cho đến số phước mà thiện nam, hoặc thiện nữ này thọ trì, thì các hữu
tình nghe được bèn mê ngất, tâm nghi điên cuồng.
Cho nên,
Thiện Hiện! Như Lai tuyên thuyết pháp môn như thế chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể
tính lường. Hãy nên mong cầu, quả đạt được chẳng thể nghĩ bàn”.
Từ trước
Phật dùng thí dụ nào là bố thí bảy báu đầy cả tam thiên đại thiên, nào bố thí
cả thân mạng sớm trưa chiều tối trong vô số kiếp… tới đây Phật lấy chính bản
thân của mình làm thí dụ: Ở quá khứ xa xưa, trong vô số kiếp, trước khi được
Phật Nhiên Đăng thọ ký, Phật đã từng gặp tám mươi bốn ức trăm ngàn chư Phật,
đều vâng thờ. Nói như vậy, có nghĩa là Phật đã làm công quả biết bao nhiêu đời,
bao nhiêu kiếp, thờ phụng cúng dường không sót một đức Phật nào. Nhưng công đức
ấy cũng không bằng “hữu tình nào
đối với Kinh điển đây, thọ trì đọc tụng thông suốt rốt ráo và rộng vì người khác
tuyên thuyết chỉ bày, như lý tác ý, thì số phước đời trước của Phật so với số
phước đây thì như vậy trăm ngàn phần, hoặc trăm vạn ức phần hoặc số phần hoặc
kế phần hoặc toán phần hoặc dụ phần hoặc cực số phần cũng chẳng bằng được”.
Vì sao?
Vì chúng
sanh này được giác ngộ, đắc Chánh giác, đắc Nhất thiết trí trí, lại giáo hóa
chúng sanh khác cũng giác ngộ được đạo quả như mình. Rồi chúng sanh đó lại giáo
hóa các chúng sanh khác nữa cũng được như vậy, cứ thế nhân lên theo cấp số
nhân, thì phước đức làm sao kể hết. Vì Kinh này được coi là mẹ của chư Phật và
chư Bồ tát. Kinh này cũng nhiếp thọ tất cả Phật pháp hay nói khác tất cả pháp
thế gian và xuất thế gian đều lưu xuất từ Kinh này. Nên thọ trì, đọc tụng vì
người tuyên nói thì công đức không thể cân lường, tính đếm nổi! Vì vậy, Phật
lúc nào cũng nhắc nhở “nên mong cầu, vì quả đạt được không thể nghĩ bàn”.
Kinh Kim
Cương Năng Đoạn là một quyển Kinh ngắn mà Phật tán tụng việc thọ trì được phước
đức tổng cộng cả thảy là 14 lần. Nhưng Kinh Kim Cương chỉ là một quyển trong số
600 quyển của Đại Bát Nhã . Vậy, phải biết Kinh Đại Bát Nhã tán tụng việc thọ
trì Kinh này rộng lớn biết bao?
Phẩm “So Lường Công Đức”, Q.126, Hội thứ I, ĐBN, Phật bảo Thiên Đế
Thích:
“Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam,
thiện nữ v.v... chẳng lìa tâm của Nhất thiết trí trí, lấy vô sở đắc làm phương
tiện, đối với Bát nhã Ba la mật này chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh
cần tu học, như lý tư duy, vì các hữu tình tuyên thuyết truyền bá rộng rãi,
hoặc lại sao chép, trang trí đẹp đẽ, rồi dùng vô lượng tràng hoa, các thứ hương
xoa, hương bột tuyệt diệu, y phục, anh lạc, tràng phan, lọng báu, các thứ ngọc
quí, kỹ nhạc, đèn sáng, hết cả vật sở hữu cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi
khen thì thiện nam, thiện nữ v.v... ấy, ta nói, có được vô lượng vô biên công đức thù thắng trong hiện tại và vị lai”.
Để đáp lời Phật, Thiên Đế Thích cũng trong phẩm “So
Lường Công Đức”, quyển 129, Hội thứ I, ĐBN, tán thán:
“Bát nhã Ba la mật như thế thành tựu
công đức quảng đại thù thắng; Bát
nhã Ba la mật như thế thành tựu công đức thù thắng vô lượng; Bát nhã Ba la mật như thế thành tựu công đức thù thắng viên mãn; Bát nhã Ba la mật như thế
thành tựu công đức thù thắng vô biên;
Bát nhã Ba la mật như thế thành tựu công đức thù thắng vô đối; Bát nhã Ba la mật như thế thành tựu công đức thù thắng vô tận; Bát nhã Ba la mật như thế thành
tựu công đức thù thắng vô giới hạn;
Bát nhã Ba la mật như thế thành tựu công đức thù thắng không gì bằng; Bát nhã Ba la mật như thế, thành tựu công đức thù
thắng khó nghĩ bàn; Bát nhã Ba la
mật như thế thành tựu công đức thù thắng chẳng
thể nói hết”.
Bao nhiêu
lời tán tụng Bát nhã Ba la mật như thế thành tựu công đức quảng đại, vô lượng, vô biên, vô đối, vô tận, vô
giới hạn, không gì bằng, khó nghĩ bàn, chẳng thể kể xiết… là quá đủ, nên các
đoạn kế tiếp không cần lặp lại nữa!
---o0o---
Đây là lần thứ hai, Thiện Hiện hỏi Phật hai câu hỏi
quan trọng.
“Bấy giờ, cụ
thọ Thiện Hiện lại thưa Phật:
- Bạch Thế
Tôn! Những người phát tâm hướng tới Bồ tát thừa nên an trụ như thế nào? Nên tu
hành như thế nào? Nhiếp phục tâm như thế nào?
Phật bảo:
- Thiện
Hiện! Những ai phát tâm hướng tới Bồ tát thừa, phải nên phát tâm như vầy: Ta
đều làm cho tất cả hữu tình vào Vô dư y Niết bàn. Mặc dù độ tất cả hữu tình đều
được diệt độ, song không thấy có hữu tình nào được diệt độ. Vì sao?
Thiện Hiện!
Vì nếu các đại Bồ tát còn tưởng hữu tình, thì không gọi là đại Bồ tát. Vì sao?
Vì các đại Bồ tát chẳng nên nói rằng chuyển tưởng hữu tình; như vậy, chuyển
tưởng mạng giả, tưởng sĩ phu, tưởng Bổ đặc già la, tưởng ý sanh, tưởng thiếu
niên, tưởng tác giả, tưởng thọ giả, phải biết cũng vậy. Vì sao? Thiện Hiện! Vì
không có một chút pháp nào gọi là người hướng tới Bồ tát thừa.
Phật bảo:
- Thiện
Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Khi xưa, ở chỗ đức Nhiên Đăng Như Lai Ứng Chánh Đẳng
Giác, có chút pháp nào mà Như Lai chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề chăng?
Cụ thọ Thiện
Hiện thưa Phật:
- Bạch Thế
Tôn! Như con hiểu nghĩa Phật nói, thì khi xưa ở chỗ đức Nhiên Đăng Như Lai Ứng
Chánh Đẳng Giác, Như Lai không có chút pháp nào gọi là chứng được Vô Thượng
Chánh Đẳng Bồ đề”.
Đây là lần
thứ hai cụ thọ Thiện Hiện hỏi Phật: Người phát tâm hướng đến Đại thừa nên phát
tâm an trụ như thế nào và làm sao nhiếp phục tâm? Hàng phục và an trụ là vấn đề
lớn đối với người phát Bồ đề tâm, tu Bồ tát đạo. Nếu không giải quyết được vấn
đề này thì coi như không tu hành, không hàng phục hay an trụ chơn tâm.
Nếu tự tâm
còn thấy thật có chúng sanh cần diệt độ, thấy Niết Bàn là chỗ phải vào, tức tâm
vẫn còn khởi niệm, mỗi khi niệm khởi thì vọng sanh như vậy thì làm sao
năng đoạn được vọng mà nói đến tu
hành. Nên đoạn kinh trước cũng như đoạn này Phật nói “mặc dầu độ tất cả hữu
tình đều được diệt độ, song không thấy có hữu tình nào được diệt độ”. Điều đó có nghĩa là phải thật sự diệt tận năng
sở ngã sở, năng chấp ngã chấp thì mới có hy vọng tu hành Bát Nhã.
Nếu Bồ tát
còn nghĩ tưởng mình cần phát Bồ đề tâm, cần tu Bồ tát đạo, cần diệt độ hữu
tình… thì năng sở còn nguyên thì làm sao nhiếp phục tâm, làm sao tu hành mà nói
là an trụ hay không an trụ. Ngài Hoàng Bá bảo: “Biết rõ
tất cả chúng sanh vốn là Bồ đề, không lẽ Bồ đề lại được Bồ đề. Nay ông nghe nói
phát Bồ đề tâm, bèn cho là có cái tâm học làm Phật. Nếu chỉ nghĩ làm Phật, dù
ông tu ba A tăng kỳ kiếp cũng chỉ là Phật báo thân, hóa thân, cùng Phật chân
tánh bản nguyên của ông có gì dính dáng”.
Vì vậy, nên Phật bảo “thật không có pháp gì gọi là phát Bồ đề tâm”, chỉ theo thế tục nói như vậy thôi. Thật là
câu nói quá thậm thâm!
Như vậy,
phải biết là không có pháp phát Bồ đề tâm, Bồ đề ngay nơi tự tâm, không cần tìm
nơi nào khác. Quay về quán chiếu tự tâm, con đường trở về là phản tỉnh, là ánh
sáng, là quang minh chiếu diệu. Nên khi Phật hỏi cụ thọ:
- “Thiện Hiện!
Ý ngươi nghĩ sao? Khi xưa, ở chỗ đức Nhiên Đăng Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, có
chút pháp nào mà Như Lai chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề chăng?” Cụ thọ
Thiện Hiện bèn trả lời “Như Lai không có chút pháp nào gọi là chứng được Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề”. Tại sao?
Vì tu cũng
từ tâm, chứng cũng tự chứng, đặng đạo Bồ đề cũng tự thầm nhận. Không phải phát
tâm cầu Phật, rải năm cành hoa cúng dường, lót y, trải tóc che bùn… cho Phật
Nhiên Đăng đi qua mà được thọ ký. Đó chỉ là hình thức bên ngoài. Khi đúng thời
tiết, quả tự chín thì gọi là đắc pháp. Nhưng đắc cũng chẳng đắc gì cả, thầm ngộ
thì gọi là đắc. Vô minh là mê, chuyển thành giác thì gọi là ngộ. Mê ngộ chỉ là
sự chuyển đổi nơi tự tâm, chỉ có mình hay mình biết. Vì vậy, Thiện Hiện thầm
ngộ chỗ này, nên thưa Phật: “Như chỗ con hiểu ý Phật nói Như lai không có đắc
pháp Bồ đề với Phật Nhiên Đăng”.
Phật Nhiên
Đăng không có quả Bồ đề trao cho Thế tôn. Thế tôn tự tu tự chứng, công tròn quả
mãn thì đặng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Nói tu thành Phật là thành cái gì? Còn
trong Như Lai tạng tại triền thì gọi là thái tử Tất Đạt Đa, nếu giải thoát khỏi
triền phược tức Như Lai tạng xuất triền thì gọi là Phật Thích Ca Mâu Ni. Đó chính là trở về cái sẵn có của tự tâm. Vì vậy, Ngài Hoàng Bá mới nói: “Giả sử có
người tinh tấn tu hành trải qua ba A tăng kỳ kiếp, lần lượt qua các địa cùng
với người do một niệm chứng được, chỉ là chứng cái “sẵn có” trên ông Phật của
chính mình, kỳ thật không có thêm được một cái gì khác. Xem ra công dụng nhiều
kiếp đều là việc làm trong mộng”. Lại
thêm một câu nói thậm thâm nữa!
Phần “Na Già
Thật Lợi”, quyển 576, Hội thứ VIII, ĐBN: Khi
Bồ tát Na Già Thất Lợi nói với Bồ tát Mạn Thù Thất Lợi là muốn chứng Vô Thượng
Bồ đề. Mạn Thù Thất Lợi bảo:
- “Pháp Vô thượng Bồ đề chẳng thể
chứng. Ngài muốn chứng pháp ấy tức là hành hý luận. Vì sao? Vì Vô thượng Bồ đề
lìa tướng, tịch diệt. Vậy Ngài muốn trở thành người giữ lấy sự hý luận sao! Ví
như có người nói như vầy: “Tôi khiến huyễn sĩ ngồi tòa Bồ đề, chứng huyễn Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề”. Lời nói như thế quá ư hý luận. Vì các huyễn sĩ còn
bất khả đắc, huống nữa là khiến cho chứng được huyễn đại Bồ đề!
Huyễn đối với pháp huyễn chẳng hợp
chẳng tan, chẳng lấy chẳng bỏ, tự tánh đều Không. Chư Phật Thế Tôn nói tất cả
pháp chẳng thể phân biệt, đều như huyễn mộng. Nay Ngài muốn chứng Vô thượng Bồ
đề, há chẳng phải thành người phân biệt huyễn pháp! Nhưng tất cả pháp đều chẳng
thể lấy, cũng chẳng thể bỏ, không thành không hoại, chẳng phải pháp đối với
pháp có tạo tác và có diệt hoại. Không có pháp nào đối với pháp nào mà có hòa
hiệp, có chia lìa. Vì sao? Vì tất cả pháp chẳng hợp chẳng tan, tự tánh đều
Không, lìa ngã, ngã sở, đồng cõi hư không, không nói, không chỉ, không khen,
không chê, không cao, không thấp, không tổn, không ích, chẳng thể tưởng tượng,
chẳng thể hý luận, bản tánh hư tịch, rốt ráo đều Không, như huyễn như mộng, vô
đối, vô tỉ, sao có thể khởi tâm phân biệt nó được”.
Vì vậy, Kinh
nói tiếp nếu ai khởi chấp như vầy:
- “Như Lai
Ứng Chánh Đẳng Giác chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề”, thì phải biết người
ấy hủy báng Ta. Vì sao?
Thiện Hiện!
Vì không có chút pháp nào mà Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chứng được Vô Thượng
Chánh Đẳng Bồ đề.
Thiện Hiện!
Những pháp mà hiện tiền Như Lai đã chứng, hoặc đã nói, hoặc đã nghĩ, ở trong ấy
chẳng thật, chẳng hư. Cho nên Như Lai nói tất cả pháp đều là Phật pháp.
Thiện Hiện!
Tất cả pháp, tất cả pháp ấy Như Lai nói chẳng phải tất cả pháp. Cho nên Như Lai
nói là tất cả pháp”.
Vì sao? Vì
bản thể của tất cả pháp vốn như vậy là như vậy, không lúc nào chẳng như, không
phải do chư Phật làm ra, không do Bồ tát là ra, không phải do Độc giác, Thanh
văn, trời người làm ra… Người thấy tất cả pháp như, như vậy gọi là Như Lai. Nếu
không có cái thấy điên đảo nọ kia, sanh diệt, đoạn thường, hư thật… thì đồng
với cái thấy của Như Lai không khác.
1. Trong
Bích Nham Lục phần nói về “Tinh Thần Thiền Tông” có kể câu chuyện: "Đời
Đường có thiền sư Đạo Lâm cư ngụ trên nhánh cây cổ tùng, làm bạn cùng chim chóc
trong ngọn núi Tần Vọng ở phía Đông Nam huyện Thiệu Hưng tỉnh Chiết Giang.
Người đương thời gọi Ngài là Hòa thượng Ô Sào, vì chỗ Ngài ở giống như ổ quạ.
Ngày kia đệ tử của sư tên Hội Thông đến cáo từ để đi nơi khác. Sư hỏi:
- Thông định
về đâu?
Thông thưa:
- Con vì tầm
cầu Phật pháp mà xuất gia bái sư làm Thầy. Nhưng từ trước đến giờ Thầy chưa
từng thuyết pháp cho con nghe, nên nay con định đi nơi khác để học Phật pháp.
Đạo Lâm nói:
- Tưởng gì
gì chớ Phật pháp thì nơi đây ta cũng có chút đỉnh.
Hội Thông
vội hỏi:
- Thế Phật
pháp của Hòa thượng là thế nào?
Thiền sư bèn
bứt nơi áo của mình một sợi lông vải thổi nhẹ về phía Hội Thông. Hội Thông tỉnh
ngộ ngay không còn ý định lặn lội đi nơi khác cầu pháp nữa. Vậy, chỗ nào là
Phật pháp và làm sao Hội Thông tỉnh? Phật pháp tràn đầy trong vũ trụ, cũng tràn
đầy từ tâm. Nếu tâm không nọ kia, không còn điên đảo thì muôn pháp bất động như
như. Đó chính là chơn như pháp giới. Cái sờ sờ trước mắt, cần gì phải tìm cầu.
2. Vì vậy, có Thiền sư trụ trì chùa Thê Hiền ở Lư Sơn
từng nói với Tăng đồ: “Chỉ cần ra khỏi cổng Tăng đường, nhìn thấy ngọn Ngũ
Lão phong, là chuyện tham học một đời coi như đã đủ”. Tại sao? Vì ngọn Ngũ Lão Phong trong câu này là biểu trưng cho sự
hiện tiền. Vậy, nhìn thấy Ngũ Lão Phong tức coi trọng sự hiện tiền vậy!
Đó là “cái
ấy”, cái sẵn có trước mắt, tìm đâu xa.
3. Lại có
người hỏi Ngài Hoàng Bá:
- Ngay chính
khi ngộ, Phật ở chỗ nào?
Sư đáp:
- Hỏi từ đâu
đến? Biết từ đâu khởi? Nói nín động tĩnh, tất cả thanh sắc đều là Phật sự, chỗ
nào lại tìm Phật? Không thể trên đầu lại thêm đầu, trên mỏ lại thêm mỏ. Chỉ chớ
sanh kiến chấp khác, thì núi là núi, nước là nước, Tăng là Tăng, tục là tục,
núi sông, quả đất, mặt trời, mặt trăng, ngôi sao, thảy không ngoài tâm ông. Ba
ngàn thế giới là tự thể của ông, chỗ nào có nhiều thứ? Ngoài tâm không pháp,
khắp thấy núi xanh, hư không, thế giới rõ ràng mà không có bằng mảy tơ sợi tóc
cho ông sanh hiểu biết. Nên nói “Tất cả thanh sắc là mắt tuệ của Phật”.
Như Lai là
bản thể như như của các pháp, vì Như Lai lìa tất cả hư tướng của hết thảy pháp
sai biệt, nên chứng được chân tánh của tất cả pháp nhất như (chơn như thật
tánh). Tâm Phật chẳng dung chứa tướng sai biệt của tất cả các pháp nên mới gọi
là Như. Tâm Phật cũng chẳng nắm giữ tướng chung tướng riêng khác. Pháp tánh vốn
bình đẳng không tịch, vì chứng biết cái bản lai không tịch ấy nên gọi là Phật
Như Lai.
Mê muội bình
đẳng (không biết bình đẳng là gì) bèn chấp thủ sai biệt thì tâm theo pháp
chuyển, ngay chánh pháp còn chướng ngại huống chi phi pháp. Ở trong sai biệt mà
nhận ra bình đẳng, thì tâm đã chuyển, chuyển từ mê muội triền phược sang giải
thoát, tức hiểu rõ các pháp đều là chân như thật tướng. Cổ đức bảo “đưa đón
khách khứa, gánh nước bửa củi, đi đứng nằm ngồi, trong sáu thời ở trên chư pháp
đem nghĩa này ra thực hành tức là cái đó”.
“Cái đó” tức chân như, pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bình đẳng tánh,
pháp định, pháp trụ, thật tế… Hiểu biết như vậy thì nói huyền thuyết diệu làm
gì. Sáu thời “cứ đói ăn mệt ngủ”. Đó là đời sống sinh hoạt không nỗ lực, vô
công dụng hạnh, vô đạo hành hay nói khác là sinh hoạt không trước ý cứ “đói ăn,
mệt ngủ”.
Phải biết
thiên hạ vốn vô sự, người ngu tự làm rối mình. Kinh Lăng nghiêm bảo: “Tự tâm lại
trách tự tâm, chân tâm biến thành huyễn”
là thế. Còn nghĩ nọ kia thì còn vọng, vọng sanh thì trần ai nổi sóng. Đó chính
là tự mình làm rối mình. Thiền sư Duy Tín nói lúc chưa ngộ thì thấy núi là núi,
nước là nước. Đến khi được thiện tri thức chỉ chỗ vào, thì thấy núi không phải
là núi, nước không phải là nước. Sau 30 năm Duy Tín được chỗ an ổn, mới thấy
sông núi vẫn là sông núi cũ(1). Chư pháp từ xưa vẫn như vậy, nay vẫn như vậy,
không lúc nào chẳng như. Vì vậy, Phật nói: “Như là bản thể như như của các
pháp”.
Hiểu đạo rồi thì gạt bỏ được tất cả kiến chấp tình
chấp, không giữ không bỏ, thì mặc tình thấy biết! Trong “Tín Tâm Minh”, Tổ Tăng
Xán nói:
Viên đồng thái hư
Vô khiếm vô
dư
Lương do thủ
xả
Sở dĩ bất
như
Dịch:
Tròn đầy tợ
thái hư
Không thiếu
cũng không dư
Bởi mãi lo
giữ bỏ
Nên chẳng
được như như.
Chúng sanh
chấp Như Lai đặng quả Bồ đề, vì chúng sanh chưa hiểu hai chữ Như Lai. Như Lai
là bản thể như như của các pháp, đã là như như, nên không có đặng pháp nào cả.
Chỉ vì tỏ rõ cứu cánh giác ngộ, không biết gọi là gì, nên tạm gọi là Vô Thượng
Chánh Đẳng Chánh giác vậy thôi. Nên Phật nói tiếp: “Như Lai
đặng quả Bồ đề không thực không hư”.
Không thực vì là giả thi thiết mà có. Nhưng quả đó do nhiều đời nhiều kiếp tu
hành, tích tụ công đức nên tự chứng ngộ. Cái chứng ngộ là cái có thật, do mình
tự chứng tự biết, nên nói là chẳng hư.
Vì vậy, Phật
nói với cụ Thọ: “Những pháp mà hiện tiền Như Lai đã chứng, hoặc đã nói,
hoặc đã nghĩ, ở trong ấy chẳng thật, chẳng hư. Cho nên Như Lai nói tất cả pháp
đều là Phật pháp”.
Thích nghĩa cho đoạn Kinh này:
(1). Nguyên
văn câu nói của Thiền sư Duy Tín là: “Sãi tôi 30 năm trước khi chưa học Thiền,
thấy núi là núi, thấy nước là nước. Sau nhân theo bậc thiện tri thức chỉ cho
chỗ vào thì thấy núi chẳng phải núi, nước chẳng phải nước. Rồi nay thể nhập
chốn yên vui tịch tĩnh, y nhiên thấy núi chỉ là núi, thấy nước chỉ là nước”.
---o0o---
Tại sao Phật nói tất cả pháp là Phật pháp?
“Thiện Hiện!
Những pháp mà hiện tiền Như Lai đã chứng, hoặc đã nói, hoặc đã nghĩ, ở trong ấy
chẳng thật, chẳng hư. Cho nên Như Lai nói tất cả pháp đều là Phật pháp.
Thiện Hiện!
Tất cả pháp, tất cả pháp ấy Như Lai nói chẳng phải tất cả pháp. Cho nên Như Lai
nói là tất cả pháp”.
Phẩm “Khéo Đạt”, quyển 472, ĐBN, Tu Bồ đề bạch Phật:
- “Bạch Thế Tôn!
Pháp giới chẳng khác sắc thọ tưởng hành thức, cũng chẳng lìa sắc thọ tưởng hành
thức. Sắc thọ tưởng hành thức tức là pháp giới, pháp giới tức là sắc thọ tưởng
hành thức. Bạch Thế Tôn! Pháp giới chẳng khác mười hai xứ cho đến mười
tám giới, cũng chẳng lìa mười hai xứ cho đến mười tám giới. Mười
hai xứ cho đến mười tám giới tức là pháp giới, pháp giới tức là mười hai xứ cho
đến mười tám giới.
- Bạch Thế Tôn!
Pháp giới chẳng khác địa giới cho đến ý thức giới, cũng chẳng lìa địa giới cho
đến thức giới. Địa giới cho đến thức giới tức là pháp giới, pháp giới tức là
địa giới cho đến thức giới. Pháp giới chẳng khác nhân duyên cho đến tăng thượng
duyên, cũng chẳng lìa nhân duyên cho đến tăng thượng duyên. Nhân duyên cho đến
tăng thượng duyên tức là pháp giới, pháp giới tức là nhân duyên cho đến tăng
thượng duyên.
- Bạch Thế Tôn!
Pháp giới chẳng khác vô minh cho đến lão tử, cũng chẳng lìa vô minh cho đến lão
tử. Vô minh cho đến lão tử tức là pháp giới, pháp giới tức là vô minh cho đến
lão tử. Pháp giới chẳng khác bố thí Ba la mật cho đến Bát nhã Ba
la mật, cũng chẳng lìa bố thí Ba la mật cho đến Bát nhã Ba la mật. Bố thí Ba la
mật cho đến Bát nhã Ba la mật tức là pháp giới, pháp giới tức là bố
thí Ba la mật cho đến Bát nhã Ba la mật.
- Bạch Thế Tôn!
Pháp giới chẳng khác các thiện pháp; cũng chẳng lìa các thiện pháp. Các thiện
pháp tức pháp giới, pháp giới tức là các thiện pháp.
- Bạch Thế Tôn!
Pháp giới chẳng khác Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết chủng trí; cũng
chẳng lìa Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết chủng trí. Nhất thiết trí,
Đạo tướng trí, Nhất thiết chủng trí tức là pháp giới; pháp giới tức là Nhất
thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết chủng trí.
- Bạch Thế Tôn!
Pháp giới chẳng khác quả Dự lưu cho đến Duyên giác, cũng chẳng lìa quả Dự lưu
cho đến Duyên giác. Quả Dự lưu cho đến Duyên giác tức là pháp giới, pháp giới
tức là quả Dự lưu cho đến Duyên giác.
- Bạch Thế Tôn!
Pháp giới chẳng khác Bồ tát hạnh, chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề;
cũng chẳng lìa tất cả Bồ tát hạnh, chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Tất cả
Bồ tát hạnh, chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề tức là pháp giới; pháp giới
tức là tất cả Bồ tát hạnh, chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Pháp giới chẳng khác pháp thiện phi
thiện, cũng chẳng lìa pháp thiện phi thiện. Pháp thiện phi thiện tức là pháp
giới, pháp giới tức là pháp thiện phi thiện. Pháp giới chẳng khác pháp hữu ký
vô ký, cũng chẳng lìa pháp hữu ký vô ký. Pháp hữu ký vô ký tức là pháp giới,
pháp giới tức là pháp hữu ký vô ký. Pháp giới chẳng khác pháp hữu lậu vô lậu,
cũng chẳng lìa pháp hữu lậu vô lậu. Pháp giới chẳng khác pháp thế gian xuất thế
gian, cũng chẳng lìa pháp thế gian xuất thế gian. Pháp giới chẳng khác pháp hữu
vi vô vi, cũng chẳng lìa pháp hữu vi vô vi. Tất cả pháp tức là pháp giới, pháp
giới tức là tất cả pháp.
Phật bảo:
- Tu Bồ Đề! Như vậy. Đúng như ngươi đã
nói. Trong chơn pháp giới không có tất cả các thứ phân biệt hý luận. Pháp giới
chẳng khác sắc thọ tưởng hành thức, cũng chẳng lìa sắc thọ tưởng hành thức.
Pháp giới tức sắc thọ tưởng hành thức, sắc thọ tưởng hành thức tức pháp giới.
Như vậy, cho đến pháp giới chẳng khác pháp hữu
vi vô vi, cũng chẳng lìa pháp hữu vi vô vi. Pháp giới tức pháp hữu vi vô vi,
pháp hữu vi vô vi tức pháp giới.
Lại nữa, Tu Bồ
Đề! Các Bồ tát Ma ha tát khi hành sâu Bát nhã Ba la mật, nếu thấy có pháp lìa
pháp giới ấy, bèn chẳng đạt tới sở cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vậy nên, Tu
Bồ Đề! Các Bồ tát Ma ha tát khi hành sâu Bát nhã Ba la mật chẳng thấy có pháp
lìa chơn pháp giới.
Tu Bồ Đề phải
biết: Các Bồ tát Ma ha tát khi hành sâu Bát nhã Ba la mật biết tất cả pháp tức
chơn pháp giới, phương tiện khéo léo vì các hữu tình, thuyết có danh tướng sai
khác”.
Câu hỏi và
câu trả lời của Phật trong đoạn Kinh nói trên cho biết: Tất cả pháp từ Tứ đế,
thập nhi nhân duyên, lục độ vạn hạnh cho đến pháp Thanh văn, Bích Chi Phật, Bồ
tát hạnh, Vô Thượng Bồ đề… nói chung là tất cả pháp chẳng khác pháp giới cũng
chẳng lìa pháp giới. Đại Bồ tát hành sâu Bát Nhã nếu thấy có pháp lìa pháp giới
thì chẳng đạt được sở cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vậy nên, các đại Bồ tát
khi hành sâu Bát Nhã chẳng thấy có pháp lìa chơn pháp giới. Chơn pháp giới đó
tức là tất cả pháp kể cả Phật pháp, Phật pháp tức chơn pháp giới không hai
không khác, không lìa không đoạn, dầu có Phật ra đời hay chẳng ra đời chơn như,
pháp giới, pháp tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế… vẫn thường trụ.
Nhưng khi
Phật nói: Tất cả pháp là Phật pháp thì sợ có người lại chấp thủ nắm bắt, nên
Phật liền phá: “Thiện Hiện!
Tất cả pháp, tất cả pháp ấy Như Lai nói chẳng phải tất cả pháp. Cho nên Như Lai
nói là tất cả pháp”.
Cũng đoạn
Kinh ở quyển 472, phẩm “Khéo Đạt”, ĐBN nói trên, Phật bảo: “Tu Bồ Đề! Hoặc pháp thiện pháp phi
thiện, hoặc pháp hữu ký pháp vô ký, hoặc pháp hữu lậu pháp vô lậu, hoặc pháp
thế gian xuất thế gian, hoặc pháp hữu vi pháp vô vi, tất cả pháp như thế thảy đều nằm trong pháp giới vô tướng vô vi tánh
không”.
Tới đây Phật
bảo tất cả pháp đều nằm trong pháp giới vô tướng vô vi tánh không là có ý muốn
khuyên chúng sanh đừng bám vào các pháp mà bị trói. Một khi bị trói buộc thì
không còn tự do trong tư tưởng và hành động. Nếu coi các pháp là không, vô sở
hữu, bất khả đắc thì không còn mong cầu nắm bắt, tâm mới được thong dong tự
tại. Cái gì đến sẽ đến ngoài cái mong chờ của chính các ông, chỉ cần một sát na
tương ưng cùng diệu huệ (Bát Nhã) thì các ông có đầy đủ quyền năng,“có thể dùng
một ngón tay ném thế giới qua phương khác hay mang về chỗ cũ mà tất cả chúng
sanh trong đó không hề hay biết”.
Trong phần “Mạn Thù Thất Lợi, quyển 574, ĐBN, Mạn Thù
Thất Lợi trình bày cho Phật về quan điểm của mình đối với Phật pháp:
“Lại nữa, bạch Thế Tôn! Nương tu Bát nhã Ba la mật sâu thẳm như thế, trong tất cả pháp trọn chẳng thấy có đây
là Phật pháp, đây chẳng Phật pháp, đây khá nghĩ bàn, đây chẳng khá nghĩ bàn, vì
tất cả pháp tánh không sai khác vậy. Nếu các hữu tình năng tu Bát nhã Ba
la mật sâu thẳm như thế quán tất cả pháp đều là Phật
Pháp, vì thuận Bồ đề vậy, quán tất cả pháp đều chẳng thể nghĩ bàn, vì rốt ráo
không vậy. Các hữu tình này đã từng gần gũi cúng dường cung kính trăm ngàn Phật
trồng các căn lành, mới năng tu hành Bát nhã Ba la mật được như thế”.
Bát Nhã
thường dùng lối diễn tả nghịch đảo để khơi dậy cái trí năng tiềm ẩn nơi mọi
chúng sanh như lối diễn đạt trong phần “Mạn Thù Thất Lợi, quyển 574 nói trên,
Phật hỏi Mạn Thù Thất Lợi:
- “Mạn Thù Thất Lợi! Đối với pháp
của Phật, lẽ nào ngươi không mong cầu ư?
- Bạch Thế Tôn! Nay con chẳng thấy
có pháp nào là không phải pháp của Phật thì cầu ở chỗ nào?
- Mạn Thù Thất Lợi! Đối với pháp của
Phật, ngươi đã thành tựu rồi chăng?
- Bạch Thế Tôn! Nay con hoàn toàn
chẳng thấy pháp nào để gọi là pháp của Phật thì thành tựu cái gì?”
Tu tất cả
pháp Phật mà không thấy pháp Phật, không thấy mình tu không thấy mình chứng. Đó
mới khế hợp với Kinh “Tứ Thập Nhị Chương”: Tu mà không nói tu, chứng mà không
nói chứng mới thật là tu, là chứng!
---o0o---
Đoạn chấp cái thân lớn.
“Phật bảo:
- Thiện
Hiện! Ví như người nam có thân hình cao lớn.
Cụ thọ Thiện
Hiện liền thưa Phật:
- Bạch Thế
Tôn! Như Lai nói người nam có thân hình to lớn, tức là chẳng phải thân, cho nên
gọi là thân hình to lớn”.
Trước đây
Phật đã phá cái chấp lớn nhỏ của thế giới và vi trần, bây giờ Phật phá cái chấp
thân hình to lớn. Dầu hình tướng có lớn như núi Tu Di thì cũng do đất nước gió
lửa tạo nên. Cái gì do duyên sanh thì có thành có hoại… Tu Bồ đề hiểu ý Phật
nói, liền trả lời: Người có thân hình to lớn tức chẳng phải thân lớn mà qua cái
thân lớn thấy được pháp thân vô tướng đầy đủ công đức, tùy duyên biến hiện khắp
cả chỗ để hóa độ chúng sanh, thì mới nói là thân lớn. Còn có niệm lớn nhỏ là
còn phân biệt thì làm sao nhập Bát Nhã Trí. Đó là phá cái chấp về nhục thân để
thấy cái pháp thân.
---o0o---
Không có pháp nào gọi là Bồ tát:
“Phật bảo:
- Thiện
Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy. Nếu các Bồ tát nói lời như vầy: “Ta phải diệt độ cho
vô lượng hữu tình”, thì không gọi là Bồ tát. Vì sao? Thiện Hiện! Vì có chút
pháp nào gọi là Bồ tát không?
Thiện Hiện
thưa:
- Bạch Thế
đức Tôn! Không có. Không có chút pháp nào gọi là Bồ tát”.
1. Bồ tát thấy
mình đã độ chúng sanh, thấy chúng sanh cần được độ, tức còn chấp ngã pháp là
còn bệnh. Nên đoạn Kinh này nói rõ ràng: Nếu Bồ tát chấp mình độ chúng sanh thì
không phải là Bồ tát vì còn thấy năng độ sở độ tức còn chấp ngã chấp pháp. Có
thủ có chấp nên vẫn thấy khác biệt giữa mình người… thì không phải là chơn Bồ
tát.
Có vị Tăng
hỏi quốc sư Huệ Trung:
- Làm sao
được thành Phật?
Ngài Huệ
Trung đáp:
- Phật và
chúng sanh đồng dẹp hết thì được giải thoát.
Bặt niệm
phàm Thánh thì được giải thoát. Kinh Lăng Nhiêm Phật bảo: “Bất tùy
phân biệt thì giải thoát”. Lục Tổ lại
nói: “Chẳng ngộ thì Phật là chúng sanh, còn khi ngộ thì chúng sanh là
Phật”.
Chúng sanh,
Phật, Bồ tát cũng chỉ là những danh tự dỉễn tả sự chuyển đổi trạng thái của cái
tâm này. Chúng sanh cũng có tâm, nhưng là tâm mê. Bồ tát cũng có tâm, tâm giác
mà giác từng phần. Phật cũng có tâm, tâm giác, tâm giác trọn vẹn nên gọi là
Phật.
Bồ tát sau
khi tu Lục độ vạn hạnh hoàn tất, vượt 10 địa, đoạn trừ tất cả phiền não tập khí
tương tục mới chứng quả. Bồ tát lập đại nguyên cứu độ chúng sanh, ngày nào còn
một chúng sanh chưa được diệt độ thì ngày đó Bồ tát không vào Niết Bàn. Nhưng
Bồ tát hóa độ chúng sanh như thế nào? Không phải bằng phép mầu mà Bồ tát có thể
đưa tất cả chúng sanh vào Niết bàn. Bồ tát cũng giống như tất cả các chúng sanh
khác, chỉ khác với chúng sanh khác là giác
ngộ, nên nói là hữu tình giác ngộ. Rồi từ cái giác ngộ đó, Bồ tát lại giáo
hóa hữu tình giải thoát tất cả trói buộc, các hệ lụy thế gian nên nói là vào
Niết bàn.
Nhưng nếu Bồ
tát còn thấy mình độ chúng sanh, thì Bồ tát còn chấp mình là người độ, chúng
sanh là người được độ, và Niết bàn là pháp chân thật để giải thoát. Như vậy, Bồ
tát còn thấy mình(ngã), người(nhơn), pháp…, nên Kinh nói vì còn chấp thủ nên
“không phải là Bồ tát”.
2. Không có
pháp gọi là Bồ tát?
Phẩm “Tam Giả”, quyển thứ, MHBNBLMĐ Kinh thuật lại
cuộc vấn đáp giữa Thế Tôn và Tu Bồ đề luận về Bồ tát như sau:
- “Này
Tu Bồ Đề! Sắc, thọ, tưởng, hành, thức có phải là Bồ Tát chăng?
- Không
phải. Bạch đức Thế Tôn!
Này Tu
Bồ Đề! Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý, sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, nhãn
thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức có phải là Bồ Tát chăng?
- Không
phải. Bạch đức Thế Tôn!
Này Tu
Bồ Đề! Địa chủng, thủy chủng, hỏa chủng, phong chủng, không chủng, thức chủng
có phải là Bồ Tát chăng?
- Không
phải. Bạch đức Thế Tôn!
Này Tu
Bồ Đề! Vô minh, hành thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh,
lão, tử có phải là Bồ Tát chăng?
- Không
phải. Bạch đức Thế Tôn!
Này Tu
Bồ Đề! Như như tướng của ngũ uẩn nhẫn đến như như tướng của thập nhị nhơn duyên
có phải là Bồ Tát chăng?
- Không
phải. Bạch đức Thế Tôn!
Này Tu
Bồ Đề! Rời ngoài như như tướng ấy có phải là Bồ Tát chăng?
- Không
phải. Bạch đức Thế Tôn!
Này Tu
Bồ Đề! Ông thấy nghĩa gì mà cho rằng tất cả những pháp kể trên và ly những pháp
ấy không phải là Bồ Tát như vậy?
- Bạch
đức Thế Tôn! Chúng sanh còn rốt ráo bất khả đắc huống lại là Bồ Tát. Sắc còn
bất khả đắc huống là sắc hay rời sắc là Bồ Tát, huống là như như tướng của sắc
hay rời như như tướng của sắc là Bồ Tát. Nhẫn đến thập nhị nhơn duyên hay rời
thập nhị nhơn duyên là Bồ Tát, huống là như như tướng hay rời như như tướng của
thập nhị nhơn duyên là Bồ Tát.
Lành
thay, lành thay! Đúng như vậy. Nầy Tu Bồ Đề! Vì đại Bồ Tát và chúng sanh bất
khả đắc nên Bát nhã Ba la mật cũng bất khả đắc. Cần phải học như vậy”.
Bồ tát còn
bất khả đắc thì pháp Bồ tát cũng bất khả đắc. Danh xưng bất khả đắc, pháp tạo
ra danh xưng cũng bất khả đắc. Gốc đã bất khả đắc thì cành lá cũng bất khả đắc!
---o0o---
Hữu tình chẳng phải là hữu tình.
“Phật bảo:
- Thiện
Hiện! Hữu tình, hữu tình ấy Như Lai nói chẳng phải hữu tình, nên gọi là hữu
tình. Cho nên Như Lai nói tất cả pháp không có hữu tình, không có mạng giả,
không có sĩ phu, không có Bổ đặc già la…”
Chúng sanh
là do tứ đại (đất, nước, gió, lửa) và ngũ uẩn duyên hợp mà thành. Những loài có sanh là do ngũ uẩn hiện
ra sanh tướng, vốn không có thực thể. Một khi tứ đại tan rã, ngũ uẩn bám vào
đâu? Nên nói chúng sanh không thực là chúng sanh. Kinh ĐBN, Phật nói “sắc là
hình tướng, thọ là lãnh nạp, tưởng là ức niệm, hành là trôi lăn, thức là phân
biệt…” Tất cả đều do vọng tâm sanh ra. Vọng tâm không thật, thì ngũ uẩn cũng
không thật. Vì vậy, khi Phật hỏi Tu Bồ đề: Ngũ uẩn có phải là Bồ tát Không? Tu
Bồ đề đáp: Không!
Tứ đại là
huyễn, ngũ uẩn cũng là huyễn. Vậy cái gì do tứ đại và ngũ uẩn hợp lại sao gọi
là thật được. Nhưng duyên hợp thì tướng sanh. Kinh nói tướng sanh là do “duyên
hợp giả có”. Có mà không có tự thể nên gọi là giả, vì không có tự thể nên Kinh
nói “đương thể tức không”. Thân tướng vô thường, hợp rồi tan, thành rồi hoại…
nên nói “hết thảy tướng tức phi tướng”.
Kinh Kim
Cương là ly tướng, khiển chấp, không ngoài mục đích là phá cái vỏ bên ngoài như
phá cái kém để con ngài hóa bướm mà bay cao. Nhất thiết chúng sanh tắc phi
chúng sanh cốt là phá ngã phá tướng. Vì vô ngã là Niết bàn và ly tướng thì gọi
là chư Phật.
Phần “Đại
Bát Nhã Ba La Mật”, quyển 593, khi nói về trí tối cao của Phật đạo, Phật mật ý
nói rằng:
“…Tất cả hữu tình đều không phải hữu tình.
Tất cả hữu tình đều là điên đảo chấp
trước hữu tình.
Tất cả hữu tình đều là biến kế sở
chấp hữu tình.
Tất cả hữu tình đều là hư dối sở
duyên hữu tình.
Tất cả hữu tình đều là bại hoại tự
hành hữu tình.
Tất cả hữu tình đều là vô minh duyên
hành hữu tình.
Vì sao? Thiện Dũng Mãnh! Nếu pháp
của tất cả hữu tình, chẳng có các loài hữu tình tạo tác pháp kia, thì gọi là vô
minh duyên hành hữu tình.
Pháp nào
không có? Nghĩa là chấp ta, chấp của ta, chính ta chấp cái của ta, sự chấp ấy
là nắm giữ, bám víu, pháp đó chẳng có. Nếu có pháp đó thì tất cả hữu tình đều
chấp là ta, chấp là của ta, chính ta chấp cái của ta, sự chấp kia là nắm giữ,
bám víu, nên cho là thật có, không gọi hư dối. Không có pháp đó mà các hữu tình
vọng chấp là ta, chấp là của ta, chính ta chấp cái của ta, sự chấp ấy là nắm
giữ, bám víu đều không thật có, đều là hư dối, nên nói thế này: Tất cả hữu tình
không thật hữu tình, tất cả hữu tình đều là vô minh duyên hành hữu tình.
Này Thiện
Dũng Mãnh! Không phải hữu tình là có chút thật pháp có thể chấp là ta, hoặc
chấp là của ta, hoặc là nắm giữ hai chấp ấy, bám víu đều không thật pháp. Nên
nói tất cả hữu tình là không thật hữu tình; nên biết không hữu tình ấy là khái
niệm chẳng thật. Nói chẳng thật ấy phải biết đó là khái niệm không phải hữu
tình, như trong tưởng không thật hữu tình, tất cả hữu tình vọng chấp là thật;
nên nói tất cả hữu tình không thật hữu tình.
Này Thiện Dũng Mãnh! Nói không thật
ấy là đối với trong này không thật, không khởi. Vì tất cả pháp đều là không
chơn thật, cũng không phát khởi. Hữu tình trong này do hư dối chấp trước mà tự
ràng buộc. Nên có thể nói tất cả hữu tình đều là hư dối, duyên theo hữu tình,
họ đối với việc làm của mình không thể hiểu rõ, nên nói là không thật hữu tình.
Tức là trong nghĩa này phải giác ngộ viên mãn cùng khắp. Nếu họ đối với các
hành có giác ngộ viên mãn cùng khắp, thì biết người ấy gọi là Bồ tát”.
Nếu hiểu rõ
các pháp, thông đạt các pháp như vậy thì gọi là Bồ tát, là Phật. Nên trong đoạn
Kinh Kim Cương Năng Đoạn này Phật bảo: “Hữu
tình chẳng phải là hữu tình”. Cái thấy biết các pháp, thông đạt các pháp
như vậy chỉ có Bồ tát, chư Phật, mới có thể nói hữu tình không phải là hữu tình. Còn chúng ta chấp ngã-ngã sở khởi hành phân biệt, nên thấy hữu
tình là thật hữu tình, nên không thể siêu hóa nổi.
---o0o---
Phá cái chấp thành tựu “công đức trang nghiêm cõi
Phật”.
Thiện Hiện!
Nếu các Bồ tát nói lời như vầy: “Ta phải thành tựu công đức trang nghiêm cõi
Phật”, thì cũng nói như thế. Vì sao? Thiện Hiện! Vì công đức trang nghiêm cõi
Phật, công đức trang nghiêm cõi Phật ấy Như Lai nói chẳng phải trang nghiêm.
Cho nên Như Lai gọi là công đức trang nghiêm cõi Phật”.
Bồ tát làm
Phật sự có chấp: “Ta phải thành tựu công đức trang nghiêm cõi Phật” không? Nhưng thế nào là trang nghiêm cõi Phật? Phẩm “Đạo Sĩ”, quyển 476, ĐBN, Ngài Huyền
Trang dịch, Phật bảo: “Tu Bồ Đề! Các
Bồ Tát Ma ha tát từ sơ phát tâm cho đến thân rốt sau, thường tự thanh tịnh ba
thô trọng nơi thân ngữ ý, cũng thanh tịnh ba thứ thô trọng cho người, nên năng
nghiêm tịnh cõi Phật”. Trong Chương I “Quốc Độ
Phật”, Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết, Phật bảo trưởng giả Bảo Tích rằng: “Cho nên,
Bảo Tích, nếu Bồ tát muốn làm thanh tịnh quốc độ, hãy làm thanh tịnh tự tâm.
Tùy theo tâm tịnh mà Phật độ tịnh”. Điều
này có nghĩa muốn thành tựu trang nghiêm cõi Phật thì trước tiên phải thanh
tịnh tự tâm.
Một cá nhân
thanh tịnh, thì gia đình được thanh tịnh. Gia đình thanh tịnh thì xóm làng
thanh tịnh, xóm làng thanh tịnh thì quận tỉnh được thanh tịnh, quận tỉnh thanh
tịnh thì quốc độ thanh tịnh. Tổng thể chỉ
hoàn thiện khi cá thể biết hòa đồng cá
biệt tánh về vật chất cũng như tinh thần vào tổng thể đó. Do sự hòa đồng vì
quyền lợi chung, nó vượt lên cái riêng tư của mình để đạt ích lợi chung. Nên
muốn thành tựu Phật quốc thì phải thành tựu chúng sanh. Thành tựu chúng sanh
không gì hơn là thanh tịnh tam nghiệp của chính mình trước.
Nên, Kinh
Viên Giác nói: “Do tâm thanh tịnh nên sáu thức thanh tịnh, do sáu
thức thanh tịnh nên sáu căn thanh tịnh, do sáu căn thanh tịnh nên sáu trần
thanh tịnh, do sáu trần thanh tịnh nên bốn đại, mười hai xứ, mười tám giới và
25 loài đều thanh tịnh” tức cõi nước được
thanh tịnh. Vì vậy, Tịnh Độ tông có câu “tâm bình thế giới bình, tâm tịnh
thế giới tịnh”.
Bồ tát làm
những việc khó làm, muốn biến đổi thế giới đầy uế trọc thành cõi Tịnh độ, Bồ
tát phát Bồ đề tâm, tu Bồ tát đạo, thanh lọc tự tâm trước khi dẫn dắt chúng
sanh đến chỗ an lạc. Đó là ý nghĩa Bồ tát làm trang nghiêm cõi Phật. Nhưng Bồ
tát còn chấp mình (Ta làm=năng), trang nghiêm cõi Phật (tịnh quốc độ=sở) thì Bồ
tát còn chấp thủ.
Nếu còn chấp
thủ, thì công đức đó chỉ là công đức hữu lậu. “Trang
nghiêm Phật độ, thành tựu chúng sinh, không phải tự minh gầy dựng một hoa viên
để rồi khép cửa vườn hồng, an nhàn tự tại mà tiêu pha năm tháng”(1).
Trang nghiêm
Phật độ mà không thấy mình trang nghiêm. Đó chính là hành đạo mà chẳng thấy
hành, gọi là vô đạo hành, vô công dụng hạnh, nên mới được gọi công đức vô lậu,
vô tận, vô biên không có gì bằng.
Thích nghĩa cho phần lược giải này:
(1). Câu nói
của Ngài Tuệ Sĩ trong phần giới thiệu tác phẩm “Nhận thức và Tánh Không” của
Hồng Dương Nguyễn văn Hai.
---o0o---
Đối với pháp vô ngã mà hiểu biết sâu xa thì được gọi
là Bồ tát.
“Thiện Hiện!
Nếu các Bồ tát đối với pháp vô ngã mà tin hiểu sâu xa thì Như Lai Ứng Chánh
Đẳng Giác gọi là Bồ tát”.
Ngã, như là
cái áo khoác gói trọn một cá thể. Vì là cái áo khoác nên có kích thước màu sắc
khác nhau; vì là cá thể nên thành phần cấu tạo nên cá thể về vật chất và tinh
thần cũng khác nhau: Khác nhau giữa cá thể với cá thể, và cũng khác nhau giữa
cá thể với tập thể. Về vật chất tức vóc dáng, đẹp xấu, mạnh yếu… Về tinh thần
(ý chí và dục vọng) tạo thành một thứ văn hóa hay nhân sinh quan khác nhau do
huân tập bởi hoàn cảnh hay lịch sử. Đó là nói theo Tục đế.
Cổi cái áo
khoác bên ngoài thì dễ, phá cái thể bên trong mới khó. Cái nằm bên trong là ý
chí và dục vọng là nhân tố chính tạo thành cái ngã thì rất khó thay đổi vô
cùng. Ý chí và dục vọng lúc nào cũng dung dưỡng ngã và ngã sở. Dung có nghĩa
bao che, dưỡng có nghĩa nuôi cho nó lớn lên. Vì được nuôi nấng, nuông chiều,
bao che… nên ích kỷ, cống cao, khinh mạn và đôi khi lấn áp những cái gì không phải
nó hay không thuộc về nó. Đó chính là mầm móng của những rạn nứt, đổ vỡ trong
cộng đồng xã hội.
Xã hội chỉ
được yên vui khi cá thể tự hòa đồng trong tập thể và chính tập thể cũng phải
biết chia sẻ với từng cá thể. Tổ Tăng Xán bảo: Một tức là tất cả, tất cả tức là
một (nhất tức nhất thiết, nhất thiết tức nhất). Kinh Hoa Nghiêm nói: “Một nhiếp Tất cả, và Tất cả thu về Một.
Một là tất cả và Tất cả là Một. Một trùm Tất cả và Tất cả ở trong Một. Mọi vật
đều như thế, mọi hiện hữu đều như thế”. Bồ tát là người làm đẹp thế gian
này, nên Bồ tát phải quên mình (phá ngã) mới có thể hy sinh cho tất cả chúng
sanh khác. Đó là lý do tại sao Phật bảo nếu Bồ tát tin hiểu vô ngã một cách sâu
sắc thì Như Lai mới gọi là Bồ tát.
Phá ngã là
bước đầu thành thục chúng sanh, thanh tịnh Phật độ, không như bậc Tiểu thừa, tu
mau để chứng thật tế, liền nhập Niết bàn, quên đi những thống khổ của biết bao
sanh linh khác.
---o0o---
Phật có đủ năm loại mắt.
“Phật bảo:
- Thiện
Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Như Lai có nhục nhãn không?
Thiện Hiện
thưa:
- Bạch Thế
Tôn! Dạ có. Như Lai có nhục nhãn.
Phật bảo:
- Thiện
Hiện! Ý ông nghĩ sao? Như Lai có thiên nhãn không?
Thiện Hiện
thưa:
- Bạch Thế
Tôn! Dạ có. Như Lai có thiên nhãn.
Phật bảo:
- Thiện
Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Như Lai có tuệ nhãn không?
Thiện Hiện
thưa rằng:
- Bạch Thế
Tôn! Dạ có. Như Lai có tuệ nhãn.
Phật bảo:
- Thiện
Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Như Lai có pháp nhãn không?
Thiện Hiện
thưa:
- Bạch Thế
Tôn! Dạ có. Như Lai có pháp nhãn.
Phật bảo:
- Thiện
Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Như Lai có Phật nhãn không?
Thiện Hiện
thưa:
- Bạch Thế
Tôn! Dạ có. Như Lai có Phật nhãn”.
Đoạn Kinh
này không phải chỉ xếp loại suông năm loại mắt khác nhau giữa chúng sanh và
Phật hay giữa phàm và Thánh mà Kinh muốn nói đến cái thấy và cái biết sâu cạn
gọi là “đạo nhãn” của chúng sanh trong thập giới như thế nào về nhân sanh và vũ
trụ, mặc dầu Phật không đề cập đến các chúng sanh trong địa ngục, ngạ quỷ, súc
sanh hay A tu la có cái nhìn như thế nào, nhưng chúng ta cũng thừa biết bốn
loại chúng sanh này, nhãn quang đầy đen tối.
Địa ngục thì khói lửa ngập trời, rên la thảm
thiết. Cái thấy của chúng sanh này không ngoài hình phạt và máu lửa. Ngạ quỷ
thì bụng to cổ nhỏ, chúng sanh này vì tham muốn vơ vét, ăn nuốt cho đầy hầu
bao, nhưng cổ quá nhỏ, nên cái thấy của họ chỉ là thèm khát vật chất. Súc sanh
vì Dục mà bị đọa đầy. Cái thấy của chúng sanh này chỉ là ăn uống và tham dục:
Cha lấy con, anh lấy em, gian dâm vô độ nên cái thấy của chúng sanh này chỉ là
lửa dục che mờ tâm trí. Cái thấy A tu la chỉ là cái thấy thiên lệch đảo điên:
Thương thì thương thật nhiều mà ghét cũng lắm, vì binh vực cho cái thương ghét
thiên lệch nên sanh giận hờn, đấu tranh, chém giết, máu lửa.
Vì mắt là
cửa sổ của tâm hồn. Nên nhìn đôi mắt người ta có thể đoán biết người đó nghĩ
gì, muốn gì. Nhục nhãn là con mắt của
phàm phu. Thánh phàm gì cũng có con mắt thịt, nhưng qua con mắt thịt đó lại
có cái nhìn khác nhau, có nhãn quang khác nhau. Con mắt là tiền trần, dùng để
thấy, tiếp theo cái thấy ý thức liền nhảy vào can dự. Khi ý thức tham dự thì có
phân biệt, và theo sau phân biệt là cảm thọ. Có cảm thọ nên sanh phân biệt. Sau
phân biệt là chấp nhất. Nên sanh ra hành động. Hành động thì có tốt xấu, được
mất có không mà chìm trong sanh tử. Nên Phật bảo “thấy mà
phân biệt là có phiền não”. Đó là cái thấy
nhục cảm của chúng hữu tình.
Thiên nhãn là mắt của chư thiên, vì phân biệt với
nhục nhãn nên mới có thiên nhãn. Nhục nhãn nhìn xa nhất là chân trời. Nhưng
Thiên nhãn có thể nhìn xa đến vạn trượng, có khi thấy cả một hay nhiều thế
giới, có khi thấy cả trung thiên thế giới, vì không bị sắc chất làm ngăn ngại.
Kinh thường nói những vị có thiên nhãn là những vị tu đắc thập thiện hay đắc
thiền định nên thác sanh vào hai mươi lăm cảnh giới
hiện hữu (thập nhị ngũ hữu), nên mới có cái thấy xa như vậy.
Tuệ nhãn hay
huệ nhãn là con mắt của hàng nhị thừa (Thanh văn hay Duyên giác) nhờ tu Tứ
đế và thập nhị nhơn duyên, có con mắt trí, còn gọi là thật trí hay chân trí… vì
có thể sanh khởi hậu đắc trí.
Pháp nhãn là
con mắt của Bồ tát nhờ tu lục độ vạn hạnh mà chứng hậu đắc trí, còn gọi là
quyền trí hay biến trí… Với trí này không những Bồ tát chứng lý chân không,
thông suốt hết thảy Phật pháp mà còn thông hết tất cả pháp thế gian, nhân quả,
tâm niệm sai biệt của chúng sanh để tùy duyên hóa độ.
Phật nhãn có thể thấy cả hằng hà sa số Tam thiên
đại thiên thế giới, thấy tất cả chư Phật ở mười phương, thấy tâm hành sai khác
của các loại chúng sanh, thấy từ mấy tầng địa ngục cho đến cõi vô sắc giới của
chư thiên.
Cổ
đức có bài tụng:
Thiên
nhãn thông chẳng ngại
Nhục
nhãn ngại chẳng thông
Pháp
nhãn hay quán tục (tục đế)
Huệ
nhãn thấy rõ không (chơn đế)
Phật
nhãn như ngàn nhật (mặt trời).
Mắt
phàm phu thấy có ngại mà chẳng thông. Mắt nhị thừa (Thanh văn và Duyên giác)
tuy thấy thông nhưng có ngại. Bồ tát được ngũ thông có đủ ba thứ mắt nhưng
không thể trong một lúc thấy được ba cảnh (nhơn, thiên và A la hán). Riêng mắt
Phật thì trong mỗi sát na đồng thời thấy được tất cả cảnh giới.
Chúng
sanh vẫn có đủ năm thứ mắt đó. Nhưng vì mê vọng chấp trước, cho nên bị che lấp
đi. Khi mê vọng hết thì cũng đồng như chư Phật nào có khác. Thấy mà lập thêm
“cái biết” (phân biệt) tức là gốc của vô minh, vì vậy nên nói “người ngộ thì
trong ngoài viên thoát, kẻ mê thì tâm cảnh dính khằng”. Đó là lý do tại sao
Phật đề cập đến ngũ nhãn ở đây.
Cái
thấy của chư Phật là như như, gọi là đồng thể nhất quán: Đồng thể đại từ, đồng
thể đại bi… tất cả đều bình đẳng, nên cái thấy đó thanh tịnh hơn bao giờ hết!
---o0o---
Phật thấy biết hết tâm niệm của các chúng sanh trong
hằng sa thế giới.
“Phật bảo:
- Thiện
Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Cát trong sông Hằng, Như Lai nói là cát chăng?
Thiện Hiện
thưa:
- Bạch Thế
Tôn! Đúng vậy. Bạch Thiện Thệ! Đúng vậy. Như Lai nói là cát.
Phật bảo:
- Thiện
Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Giả sử trong sông Hằng có bao nhiêu số cát, thì có số
sông Hằng bằng với số cát như thế; cho đến trong vô số sông Hằng này có bao
nhiêu số cát thì có bấy nhiêu thế giới. Các thế giới này chắc là nhiều lắm phải
không?
Thiện Hiện
thưa:
- Bạch Thế
Tôn! Đúng vậy. Bạch đức Thiện Thệ! Đúng vậy. Các thế giới này rất nhiều.
Phật bảo:
- Thiện
Hiện! Cho đến trong các thế giới ấy có vô số hữu tình, tâm loạn động của mỗi
mỗi hữu tình ấy Ta đều biết hết. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tâm loạn động, tâm loạn
động ấy, Như Lai nói chẳng phải loạn động. Cho nên Như Lai gọi là tâm loạn
động. Vì sao?
Thiện Hiện!
Vì tâm quá khứ bất khả đắc, tâm vị lai bất khả đắc, tâm hiện tại bất khả đắc”.
Cát sông
Hằng nhiều vô lượng vô biên không thể tính đếm được. Đức Thế Tôn hỏi rằng: Như
có những sông Hằng, bằng số cát của một sông Hằng, rồi lại có những cõi Phật
nhiều bằng số lượng cát của các sông Hằng ấy, như thế có nhiều chăng? Thế Tôn
lại bảo: Chẳng những các cõi nước Phật rất nhiều ngần ấy, Như Lai cũng đều thấy
hết, biết hết, mà cả đến bao nhiêu tâm của chúng sanh ở trong ngần ấy cõi nước
Phật, khó mà tính hết được, nhưng Như Lai cũng đều biết rõ hết.
Nhưng vừa
nói tới “tâm”, sợ chúng sanh vọng chấp “có tâm nào khác nữa ngoài cái tâm này”
mà không nhập được Kim Cương Bát Nhã, nên Phật liền phá “Như Lai nói “tâm”
không phải thật có tâm, chỉ giả gọi là tâm. Không nói đến vọng tâm, không nói
đến chân tâm, không phân biệt đối đãi thì ngay đó Bát Nhã hiện tiền. Còn chỗ
nào để bám, chỗ để trụ mà dính mắc. Nên Phật giải thích: Vì tâm quá khứ đã
diệt, tâm vị lai chưa đến, tâm hiện tại không dừng trụ, nên ba thời tâm đều bất
khả đắc.
1. Đây là
giai thoại thời danh “ba thời tâm đều bất khả đắc” thuộc tắc thứ tư trong Bích
Nham Lục như sau: Qui Sơn vốn là một Giảng sư về Kim Cương tại Tứ Xuyên. Theo
lời dạy trong Kinh thì trong trí tuệ đạt được sau khi chứng được Kim Cương Dụ
Định (Vajropamasamàghi) hành giả học uy nghi Phật trong một ngàn kiếp, tu tập
Phật hạnh trong một ngàn kiếp nữa, sau đó mới thành Phật. Thế mà bọn ma ở
phương Nam lại nói “thấy tánh thành Phật”. Đức Sơn lấy làm công phẫn, gánh theo
bộ Kim Cương Sớ Sao về phương Nam để dẹp tan bọn ma này. Thấy thầy ta công phẫn
như thế thì hiểu thầy ta là một tay mãnh liệt như thế nào.
Lúc đến
Phong Châu, Đức Sơn gặp một bà lão bán bánh rán bên lề đường, mới đặt gánh sớ
sao xuống, định mua vài món ăn điểm tâm. Bà lão hỏi: “Thầy mang theo cái gì
vậy?” Đức Sơn nói: Kim Cương Kinh Sớ Sao”. Bà lão nói: “Tôi có một câu hỏi, nếu
thầy trả lời được, xin biếu bánh cho thầy điểm tâm, còn nếu không trả lời được
thì xin đến nơi khác mà mua”. Đức Sơn nói: “Cứ hỏi đi”. Bà lão nói: “Quá khứ
tâm bất khả đắc, hiện tại tâm bất khả đắc, vị lai tâm bất khả đắc, chẳng hay
hòa thượng muốn điểm cái tâm nào đây?” Đức Sơn không nói năng gì được. Câu hỏi
bất ngờ từ miệng của một mụ nhà quê tầm thường mà không trả lời nổi, thì làm
sao thi thố với các Thiền sư trí tuệ. Cái tài đa văn quảng kiến của Đức Sơn
“cũng chỉ là vay mượn”: Kim Cương cũng do Phật dạy, sớ sao cũng do Thầy Tổ soạn
ra, chớ không phải của chính mình nghĩ. Nếu bỏ Kinh, bỏ sớ thì mờ mịt như bao
nhiêu kẻ khác. Đức Sơn bỏ ý định thi thố, mới hỏi thăm đường đến Long Đàm tham
khán.
Tội nghiệp
cho Đức Sơn bị bà lão hỏi “ông điểm tâm nào?”, lại nghĩ là có một cái tâm nào
đó trong quá khứ, vị lai, hiện tại ngoài cái tâm này, nên bị gạt, mà ngớ ra.
Quá khứ đã qua, tương lai chưa đến, còn hiện tại thì trôi chảy không ngừng.
Mình vừa nói hiện tại thì nó thành quá khứ rồi!
Ngài Xuyên
Thiền sư có bài kệ diễn tả ý nghĩa này như sau:
Hai mắt trơ
trơ chỉ ngó chăm,
Tìm mãi ba
đời chẳng thấy tâm
Tuyết nguyệt
phong ba thường đối diện
Kiếm rơi hà
tất khắc ghe tầm!
Câu chuyên
kể một khách vui Xuân dạo thuyền trên sông để ngoạn cảnh, lơ đễnh như thế nào
không biết, làm rơi kiếm xuống sông. Khách liền lấy dao khắc vào bẹ thuyền để
đánh dấu chỗ kiếm rơi, chờ tàu đậu lại sẽ lặn xuống tìm. Đến khi thuyền đậu,
lặn xuống tìm hoài mà chẳng thấy. Anh ta thắc mắc: Cây kiếm vừa rơi xuống tôi
khắc lên bẹ thuyền làm dấu mà sao tìm hoài chẳng thấy? Người trí thấy vậy mới
bảo anh ta: Anh dại quá, kiếm rơi thì phải lặn xuống tìm ngay tại chỗ đó, chớ
đợi đến bây giờ, thuyền trôi làm sao tìm được.
Đó là không
gian, đó là thời gian, mình phải ngộ nhập cái “sát na vĩnh hằng” trong cái xuôi
ngược của cuộc sống. Đừng mong khởi tìm cầu ở đâu đâu. Vì tâm quá khứ đã diệt,
tâm hiện tại không dừng, tâm vị lai chưa đến. Trong cảnh phong ba tuyết nguyệt
đều biểu lộ cái chân thường, cần gì phải lặn hụp tìm tòi đâu xa. Nếu không trực
nhận nổi thì chẳng khác như khách chơi xuân khắc dấu trên bẹ thuyền để tìm kiếm
thì chẳng khác nào mò kim đáy biển.
2. Đoạn trước
Phật phá cái tâm duyên theo sáu trần, đoạn này Phật phá cái tâm duyên “theo
thời”. Cái tâm sống theo thời là tâm sanh diệt hư giả, luôn luôn nghĩ tưởng, so
sánh, tiếc nuối: Sống trong hiện tại lại than khổ, nên hối tiếc quá khứ xa xưa
rồi mong mỏi một tương lai nào đó. Đứng núi này trông núi nọ như hai chàng Lưu
Nguyễn nhập thiên thai.
Chắc không
ai quên được câu chuyện Lưu Thần và Nguyễn Triệu không biết lơ ngơ như thế nào
mà lại lạc được vào bồng lai tiên cảnh, suốt ngày rượu thịt, đờn ca xướng hát,
cung nữ hầu hạ, muốn gì được nấy. Nhưng ở lâu rồi sanh chán, muốn quay về quê
nhà. Thế rồi hai chàng từ giã cảnh tiên quay lại đường trần, tìm về quê cũ. Khi
về đến nơi thì gia đình phân tán, kẻ sống người chết, lại phải làm ăn khổ nhọc.
Nhớ đến cảnh non bồng khi xưa, hai chàng lại muốn quay lại. Nhưng dịp may không
đến hai lần. Thỏa nguyện hay nuối tiếc là cái bệnh ngàn đời của chúng sanh. Vì
vậy, mà Phật biết hết “cái tâm loạn động của mỗi mỗi hữu tình” như số cát trong
vô lượng vô số cát của các sông Hằng hợp lại.
3. Tiếc nuối
quá khứ, rồi chán chường hiện tại, lại mơ ước tương lai, thành ra điên đảo hoài
không yên. Sống trong cái tâm cuồng loạn như vậy làm sao yên vui cho được. Cho
nên có một Thiền sư đi đâu cũng cười nói ồn ào, làm cho các Thiền khách cùng
liêu không chịu nổi, nên mới bạch với hòa thượng. Hòa thượng kêu người lên quở:
- Sao ông
cười nói ồn ào làm phiền huynh đệ!
Người ấy trả
lời:
- Bạch hòa
thượng! Cuộc đời là mộng mà con muốn sống với mộng vui, chớ không muốn sống với
mộng khổ. Vì vây, con cười hoài.
Thật dễ
thương quá!
Thích nghĩa cho đoạn Kinh này:
(1). Trích
dẫn trong Kinh Kim cang Giảng giải của HT. Thích Thanh Từ.
---o0o---
Vô pháp khả đắc.
“Phật bảo:
- Thiện
Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Có chút pháp nào Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hiện chứng
Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề không?
Cụ thọ Thiện
Hiện thưa Phật:
- Bạch Thế
Tôn! Như con hiểu nghĩa Phật nói, thì không có chút pháp nào Như Lai Ứng Chánh
Đẳng Giác hiện chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Phật bảo:
- Thiện
Hiện! Đúng vậy, đúng vậy. Ở trong một chút pháp, không có không đắc, nên gọi là
Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Lại nữa,
Thiện Hiện! Pháp này bình đẳng. Ở trong đó, hoàn toàn bình đẳng, nên gọi là Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì không có tánh ngã, không có tánh hữu tình, không có
tánh mạng giả, không có tánh sĩ phu, không có tánh Bổ đặc già la…, bình đẳng
như vậy, cho nên gọi là Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Tất cả pháp thiện, không có
gì mà chẳng hiện chứng; tất cả pháp thiện, không có gì mà chẳng khéo biết.
Thiện Hiện! Pháp thiện, pháp thiện ấy, Như Lai nói tất cả là chẳng phải pháp.
Cho nên Như Lai gọi là pháp thiện”.
Phẩm “Thiện Hữu”, quyển 552, Hội thứ IV, ĐBN. Thiện Hiện bạch:
“Bạch Thế Tôn! Con không thấy pháp
nào có thể được thọ ký quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật, cũng
không thấy pháp đối với quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật có thể
chứng, thời chứng, nơi chứng và do đây chứng, hoặc pháp sở chứng đều không
thấy. Vì sao? Vì tất cả pháp đều vô sở đắc; ngay trong tất cả pháp vô sở đắc
thì người chứng, pháp chứng, thời chứng, nơi chứng và do đây chứng đều bất khả
đắc”.
Kinh nói rõ
là không có pháp để thọ ký Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, cũng không thấy pháp đối
với quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề có thể chứng, vì không có năng chứng, sở
chứng, pháp chứng, thời chứng, xứ chứng. Tất cả pháp đều bất khả đắc. Quả vị Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề cũng chỉ là giả danh, do người khác gán (gắn) cho mình,
thọ ký cũng là do người khác cho mình. Nhưng quả vị đó lấy ở đâu ra? Đó là năng
sở đều không, tu đến một lúc nào đó đúng thời tiết cây trổ hoa đơm quả, thì gọi
là chứng. Chứng chẳng qua thì tự thầm ngộ, chỉ có mình biết.
Phần “Na Già
Thật Lợi”, quyển 576, Hội thứ VIII, ĐBN. Bồ tát Na Già Thất Lợi nói với Bồ tát Mạn Thù Thất
Lợi là muốn chứng Vô Thượng Bồ đề, Mạn Thù Thất Lợi bảo:
“Pháp Vô thượng Bồ đề chẳng thể
chứng. Ngài muốn chứng pháp ấy tức là hành hý luận. Vì sao? Vì Vô thượng Bồ đề
lìa tướng, tịch diệt. Vậy Ngài muốn trở thành người nắm giữ lấy hý luận hay
sao? Ví như có người nói như vầy: “Tôi khiến huyễn sĩ ngồi tòa Bồ đề, chứng
huyễn Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề”. Lời nói như thế quá ư hý luận. Vì các huyễn
sĩ còn bất khả đắc, huống nữa là khiến cho chứng được huyễn đại Bồ đề!
Huyễn đối với pháp huyễn chẳng hợp
chẳng tan, chẳng lấy chẳng bỏ, tự tánh đều Không. Chư Phật Thế Tôn nói tất cả
pháp chẳng thể phân biệt, đều như huyễn mộng. Nay Ngài muốn chứng Vô thượng Bồ
đề, há chẳng phải thành người phân biệt huyễn pháp! Nhưng tất cả pháp đều chẳng
thể lấy, cũng chẳng thể bỏ, không thành không hoại, chẳng phải pháp đối với
pháp có tạo tác và có diệt hoại. Không có pháp nào đối với pháp nào mà có hòa
hiệp, có chia lìa. Vì sao? Vì tất cả pháp chẳng hợp chẳng tan, tự tánh đều
không, lìa ngã, ngã sở, đồng cõi hư không, không nói, không chỉ, không khen,
không chê, không cao, không thấp, không tổn, không ích, chẳng thể tưởng tượng,
chẳng thể hý luận, bản tánh hư tịch, đều rốt ráo không, như huyễn như mộng, vô
đối, vô tỉ, sao có thể khởi tâm phân biệt nó được”.
Tất cả pháp
đều chẳng thể lấy cũng chẳng thể bỏ, không thành không hoại, chẳng phải pháp đối với pháp
có tạo tác, có diệt hoại. Tất cả pháp cũng chẳng hợp chẳng tan, tự tánh đều
không, lìa ngã, ngã sở, đồng cõi hư không, không nói, không chỉ, không khen,
không chê, không cao, không thấp... nên nói là bình đẳng như như. Người có cái
thấy biết như vậy gọi là Như Lai. Như Lai là lìa tướng tức không còn phân biệt
không chấp. Nên thuyết tới đây Phật bảo Thiện Hiện: “Pháp
thiện, pháp thiện ấy, Như Lai nói tất cả là chẳng phải pháp”. Phật không muốn chúng sanh dựa vào lời Phật phân biệt
chấp đắm, pháp thiện hay phi thiện, nên lại phủi ngay!
---o0o---
Phật phá cái chấp “Ta có độ thoát hữu tình”
“Phật bảo:
- Thiện
Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Lẽ nào Như Lai khởi nghĩ như vầy: Ta phải độ thoát các
hữu tình? Thiện Hiện! Nay ông chớ nên quán như thế. Vì sao? Thiện Hiện! Vì
không có chút hữu tình nào được Như Lai độ.
Này Thiện
Hiện! Nếu có hữu tình nào được Như Lai độ, thì Như Lai có chấp ngã, có chấp hữu
tình, có chấp mạng giả, có chấp sĩ phu, có chấp Bổ đặc già la... Thiện Hiện!
Những sự chấp ngã ấy, Như Lai nói là chẳng phải chấp, nên gọi là chấp ngã…, chỉ
những kẻ phàm phu ngu si mới cố chấp. Thiện Hiện! Kẻ phàm phu ngu si ấy, Như
Lai nói là chẳng phải sanh, nên gọi là phàm phu ngu si”.
Nếu còn quán
Ta là Phật, là hữu tình giác ngộ và chúng sanh là mê, cần phải độ là còn phân
biệt. Mà còn phân biệt phàm Thánh là còn phân chia. Như vậy, tâm ngã chưa thông
thì làm sao chứng tánh mà gọi là Phật. Nên, Phật bảo Thiện Hiện không nên quán
như thế.
Phật chúng
sanh vốn không hai, tự tánh chúng sanh xưa nay vốn là Phật, đầy đủ Phật tánh.
Chỉ cái danh, cái dụng khác nhau nên có hai tên. Nên thành Phật không phải là
đổi thể! Nếu giác rồi thì chúng sanh là Phật, cõi này là cõi Phật.
Con người
muôn đời sống theo tình thức của thế giới phân hai, nên dễ bị trói buộc bởi
hình sắc danh tướng. Khi Phật nói tới phàm phu liền nắm lấy tướng phàm phu,
nghe nói chúng sanh liền chấp chúng sanh, nghe nói Phật là chấp có Phật. Vì
phân biệt nên chấp, chấp Phật là đấng tối thượng, còn mình là kẻ tội lỗi thấp
hèn. Vì vậy, nên thấy có Phật cứu độ mình. Nhưng
phải biết không ai có thể cứu ai hết, Phật làm ra mười hai bậc thang giáo lý,
cứ theo đó tu tập thì chính mình tự tu tự độ. Chỉ có mình tự độ, không ai có
thể độ mình. Vì vậy, Phật nói là Phật không có độ chúng sanh. Nếu chấp Phật
“Ta có độ sanh” tức Phật vẫn còn chấp thì sao được gọi là Như Lai?
---o0o---
Có thể quán Như Lai bằng các tướng đầy đủ không?
“Phật bảo:
- Thiện
Hiện! Ý ông nghĩ sao? Có thể quán Như Lai bằng các tướng đầy đủ không?
Thiện Hiện
thưa:
- Bạch Thế
Tôn! Như con hiểu nghĩa Phật vừa nói, thì không thể quán Như Lai bằng các tướng
đầy đủ.
Phật bảo:
- Thiện
Hiện! Hay thay, hay thay! Đúng vậy, đúng như lời ông nói, không thể quán Như
Lai bằng các tướng đầy đủ.
Thiện Hiện!
Nếu quán Như Lai bằng các tướng đầy đủ, thì Chuyển luân Thánh vương tức là Như
Lai? Cho nên, chẳng nên quán Như Lai bằng các tướng đầy đủ. Như vậy, nên quán
Như Lai bằng các tướng chẳng phải tướng.
Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ:
Ai dùng sắc quán Ta,
Dùng âm thanh cầu Ta,
Kẻ ấy hành tà đạo,
Chẳng thể thấy được Ta.
Nên quán pháp tánh Phật,
Tức Pháp thân Đạo sư.
Pháp tánh chẳng bị biết,
Nên kia chẳng hiểu được.
Phật bảo:
- Thiện
Hiện! Ý ông nghĩ sao? Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác dùng các tướng đầy đủ để hiện
chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề? Thiện Hiện! Nay ông chớ nên quán như thế. Vì
sao? Thiện Hiện! Vì Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chẳng do các tướng đầy đủ mà
hiện chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề”.
Kinh ở đoạn
trước Phật hỏi cụ thọ: “Có thể lấy các tướng đầy đủ để quán Như Lai chăng?
Cụ thọ Thiện Hiện trả lời: Chẳng thể lấy các tướng đầy đủ để quán Như Lai”.
Phật lại bảo cụ thọ Thiện Hiện: “Các tướng đầy đủ đều là hư dối, cho đến chẳng
phải tướng đầy đủ đều chẳng phải hư dối. Như vậy, nên quán Như Lai bằng tướng
chẳng phải tướng”.
Tới đây Phật
lặp lại câu hỏi này nhưng lấy ví dụ: “Nếu quán Như Lai bằng các tướng
đầy đủ, thì Chuyển luân Thánh vương tức là Như Lai? Cho nên, chẳng nên quán Như
Lai bằng các tướng đầy đủ. Như vậy, nên quán Như Lai bằng các tướng chẳng phải
tướng”.
Nếu quán Như
Lai bằng hình dáng bề ngoài có 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp thì Chuyển Luân Thánh
vương cũng có thể xem như Như Lai? Vì Chuyển luân Thánh vương cũng có hình dáng
đầy đủ như Như Lai. Điều này không có lý, vì Chuyển luân Thánh vương nhiều lắm
là chỉ do tu thập thiện, do tu bố thí được chút ít phước huệ mà được làm vua
trời. Muốn trở thành Phật, Như Lai thì phải tu tất cả thiện pháp thế gian, xuất
thế gian, phải trải qua 52 giai vị khác nhau, tích lũy không biết bao nhiêu
công đức thời gian mới được đạo quả Vô Thượng. Nếu chỉ nhìn hình tướng bên
ngoài mà so sánh, phân biệt thì lầm chấp thôi.
Vì vậy, bao nhiêu lời Phật nói đều là ly tướng dù thấy
nghe hay nghĩ tưởng. Thấy nghe nghĩ tưởng là cái cần thiết cho cuộc sống, đâu
có gì đáng trách. Đáng trách là liền sau cái thấy nghe nghĩ tưởng sanh ra phân biệt. Do phân biệt so đo
chấp nhất, nên có lấy có bỏ. Vậy, đầu mối chính là thức. Thức là cái chia
chẻ, phân hóa, nên mới lạc đạo, mất tông. Tổ Tăng Xán trong “Tín Tâm Minh” nói:
Yếu cấp
tương ưng
Duy ngôn bất
nhị
Bất nhị giai
đồng
Vô bất bao
dung
Thập phương
trí giả
Giai nhập
thư tông
Dịch:
Cần nhất
phải tương ưng
Cùng lẽ đạo
bất nhị
Bất nhị thì
hòa đồng
Không gì
chẳng bao dong
Mười phương
hàng trí giả
Đều chung
nhập một tông.
Vì vậy, Phật
tha thiết nói: Dùng hình tướng (tranh, tượng…), dùng âm thanh (chuông mõ,
nguyện cầu…) để được thành Phật, thành Bồ tát, thoát khổ, được giải thoát…
những người đó hành tà đạo, không
thể nào đạt đạo Bồ đề:
Ai dùng sắc
quán Ta,
Dùng âm thanh cầu Ta,
Kẻ ấy hành tà đạo,
Chẳng thể thấy Như Lai.
Thầy Tổ bày
ra việc “đọc Kinh gõ mõ”, làm phương tiện nhiếp tâm trong giai đoạn khởi tu. Nó
cũng chỉ là hình tướng, đến khi công phu thuần thuật thì chuông cũng bỏ mà mõ
cũng lìa. Tu là phát xuất từ tâm. Tức tâm tức Phật, ngoài tâm không Phật. Thấy
tâm tức kiến tánh thì thành Phật.
Tổ cũng dạy
rằng: “Kiến sắc phi can sắc, văn thinh bất thị thinh” - thấy sắc kệ sắc, tức đừng theo sắc, có tiếng cũng mặc tiếng, có nghe
cũng làm ngơ. “Ngộ thinh ngộ sắc như thạch tượng tài hoa. Kiến lợi kiến
danh như mãn duy trước tiết”- gặp sắc đẹp
hay tiếng hay như hoa trồng trên đá. Thấy lợi danh như bụi rớt vào tròng(mắt).
Đạt tới tình độ đó thì “dâm phòng tửu tứ vô phi thanh tịnh đạo tràng” tức coi thanh lâu tửu điếm chẳng khác như
đạo tràng thanh tịnh.
Vì vậy, ở
đây Phật dạy đừng chấp vào trần cảnh, phải vượt qua và vượt trên sắc tướng, âm
thanh thì mới nhập được pháp thân. Còn dính mắc trần cảnh, khởi vọng niệm phân
biệt thì tâm còn lang thang. Tổ Tăng Xán lại bảo:
Mạc trục hữu
duyên
Vật trụ
không nhẫn
Nhứt chủng
bình hoài,
Dẫu nhiên tự tận.
Dịch:
Ngoài chớ
đuổi duyên trần,
trong đừng
ghì không nhẫn
Cứ một mực bình tâm
thì tự nhiên dứt tận.
---o0o---
Phật phá chấp “không đoạn không diệt”
“Lại nữa,
Thiện Hiện! Những người phát tâm hướng tới Bồ tát thừa, có kiến lập chút pháp
nào hoặc hoại hoặc đoạn không? Thiện Hiện! Nay ông chớ nên quán như vầy: Những
người phát tâm hướng tới Bồ tát thừa quyết chẳng kiến lập chút pháp nào, hoặc
hoại hoặc đoạn”.
Kinh này từ
đầu tới cuối là “năng đoạn”, năng đoạn cái gì? Năng đoạn chấp trước: Chấp
tướng, chấp tâm, chấp cảnh, chấp pháp hay phi pháp, chấp Như Lai đắc Vô Thượng
Bồ đề, chấp Như Lai có thuyết pháp, chấp thân lớn như núi Tu Di, chấp lớn như
thế giới, chấp nhỏ như vi trần… Biết chấp như vậy không đúng, thì phải làm sao?
Thì phải đoạn chấp: Phá chấp chấp tướng mà tu bố thí, phá chấp nhẫn nhục Ba la
mật, phá chấp Bồ tát có độ sanh, phá chấp Bồ tát làm trang nghiêm cõi Phật, phá
chấp phước đức nhiều, phá chấp thấy sắc thân và tướng tốt là thấy Như Lai, phá chấp
thật có chúng sanh, phá chấp Phật có độ chúng sanh… Tới đây Phật phá luôn cái
chấp về đoạn diệt.
Chấp CÓ
(chấp thường), chấp KHÔNG (chấp đoạn) cũng đều là cuồng loạn không thể chứng
quả Bồ đề. Bởi thế, Phật nói “người phát tâm hướng tới Bồ tát thừa quyết chẳng
kiến lập chút pháp nào hoặc hoại hoặc đoạn”. Vì vậy, cho nên trong đoạn này
Phật ngăn cụ thọ Thiện Hiện “chẳng nên quán Như Lai bằng các tướng đầy đủ nên
được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh giác, cũng chẳng khởi niệm cho rằng người được
Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh giác mà nói pháp đoạn diệt”.
Do đó, Nhị
Tổ nói kệ: “Cứ một mực bình tâm, thì tự nhiên dứt tận”. Dứt tận không có nghĩa là đoạn diệt, không
còn gì. Như trường hợp của Nhị Tổ Huệ Khả, sau một thời gian an tâm mới thưa
với Sơ Tổ Bồ đề Đạt Ma:
- Bây giờ
con dứt hết các duyên.
Sơ Tổ gạn
lại:
- Có rơi vào
đoạn diệt không?
Tổ Huệ Khả
thưa:
- Chẳng rơi
vào đoạn diệt.
Sơ tổ bảo:
- Làm sao
biết không rơi vào đoạn diệt?
Ngài nói:
- Rõ ràng
thường biết, nói không thể đến!
Sơ Tổ bảo:
- Đây chính
là tâm thể của chư Phật đã truyền, ông trọn chớ hồ nghi!
Sơ Tổ dùng
câu nói “đây chính là tâm thể của chư
Phật” để ấn chứng cho Ngài Huệ Khả. Dứt hết hay dứt tận ngoại duyên có
nghĩa không phải là không còn gì hết mà vào lúc ấy tâm thể rỗng không vắng
lặng, cũng chính là lúc ấy linh chi mở ra cái có mầu nhiệm gọi là diệu hữu chân không. Có thể tin được
lắm!
Pháp nào vẫn
y như pháp nào từ xưa đã vậy, nay vẫn vậy, làm sao diệt được. Diệt cái tâm sanh
diệt đoạn thường, chứ làm sao diệt nổi pháp!
Phẩm “Tu Bồ Đề”, quyển 497, ĐBN, Ngài Huyền Trang
dịch: Tu Bồ đề nói với Phú Lâu Na về “Các pháp phi thường phi hoại”,
như sau: “Hoặc pháp thiện pháp phi thiện, hoặc pháp hữu ký pháp vô
ký, hoặc pháp hữu tội pháp vô tội, hoặc pháp hữu lậu pháp vô lậu, hoặc
pháp hữu nhiễm pháp vô nhiễm, hoặc pháp thế gian pháp xuất thế gian, hoặc pháp
tạp nhiễm pháp thanh tịnh, hoặc pháp sanh tử pháp Niết Bàn, hoặc pháp hữu
vi pháp vô vi, tất cả như thế đều phi thường phi hoại. Vì sao? Vì bản tánh là
vậy. Phú Lâu Na! Do nhân duyên đây, tôi tác thuyết này: Các pháp cũng vậy,
rốt ráo chẳng sanh, chỉ có giả danh đều vô tự tánh”.
---o0o---
Người ngộ “tất cả pháp vô ngã, vô sanh”
phước đức nhiều hơn người bố thí bảy báu.
“Lại nữa,
Thiện Hiện! Nếu thiện nam, hoặc thiện nữ nào đem bảy báu đầy khắp thế giới như
số cát sông Hằng v.v… dâng cúng Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác; nếu có Bồ tát nào
đối với các pháp vô ngã, vô sanh mà được kham nhẫn, thì do nhân duyên đây nên
Bồ tát này được lượng phước nhiều hơn trước kia.
Lại nữa,
Thiện Hiện! Bồ tát chẳng nên nhiếp thọ số phước đức.
Cụ thọ Thiện
Hiện liền thưa Phật:
- Bạch Thế
Tôn! Vì sao Bồ tát chẳng nên nhiếp thọ số phước đức?
Phật bảo:
- Thiện
Hiện! Nhiếp thọ mà chẳng nhiếp thọ, cho nên gọi là nhiếp thọ”.
1. Bao nhiêu
Kinh sách của Phật đều “phá ngã”. Ngã là cái rốn vũ trụ, ngã chi phối tất cả
mối tương quan, tương xung, tương khắc giữa con người. Ngã là đầu mối của mọi
phân chia ngăn cách, bao nhiêu đau thương, tan vỡ. Nên có bài kệ:
Trời không
cao, núi không cao,
Cái ngã mới
thật là cao.
Sông không
sâu, biển không sâu,
Cái ngã mới
thật là sâu.
Có anh có
tôi là có đúng có sai, có hay có dở, có tốt có xấu… Vì vậy, trong một quyển
sách viết về Phật pháp của HT Thích Thượng Siêu có tựa “Vô Ngã Là Niết Bàn”,
thuật lại câu chuyện: “Có một linh hồn tu luyện nhiều kiếp, đến gõ cửa Thiên
đàng của Thượng đế. Thượng đế hỏi:
- Ai đó?
Linh hồn
đáp:
- Tôi.
Thượng đế
hỏi tiếp:
- Tôi là ai?
Đáp:
- Tôi là
tôi.
Thượng đế
bảo:
- Ở đây
không có đủ chỗ cho ngươi và ta cùng ở, ngươi hãy đi nơi khác!
Linh hồn ấy
lui về trần gian tu hành thêm một ngàn năm nữa, xong lên gõ cửa Thiên đàng
một lần nữa. Thượng đế hỏi:
- Ai đó?
Đáp:
- Tôi.
- Tôi là ai?
Linh hồn
đáp;
- Tôi là Ngài.
Khi ấy Thiên
đế mới mở cửa cho vào.
Thí dụ trên
cho thấy một ngàn năm trước, tôi là tôi - còn chấp ngã nên không vào Thiên đàng
được. Một ngàn năm sau, tôi là Ngài, không còn chấp ngã mới vào được. Để bình
luận cho câu chuyện này, HT Thích Thượng Siêu viết rằng: “Niết bàn là
một cái gì tuyệt đối không dung chứa ngã. Niết bàn không có hạn lượng, không có
nơi chốn, vì Niết bàn vô tướng - vô tướng nên khó vào. Muốn vào Niết bàn, ta
cũng phải vô tướng như Niết bàn. Cửa Niết bàn cũng rất hẹp, chỉ bằng tơ tóc,
nên ta cũng không thể mang thêm một hành lý mà hy vọng vào Niết bàn được cả.
Cái thân đã không mang theo được, mà cả ý niệm về tôi, về ta cũng không thể
mang theo được. Cái tôi càng to thì càng xa Niết bàn. Nên biết rằng: Hễ hữu ngã
là luân hồi, mà VÔ NGÃ LÀ NIẾT BÀN”.
Bố thí bảy
báu chứa đầy tam thiên đại thiên thì phước đức không kể xiết. Nhưng phá ngã thì
được Niết bàn, tức giải thoát mọi ràng buộc thế gian thì dĩ nhiên phải hơn
phước đức bố thí bảy báu. Ngài Phó Đại sĩ được coi là hiện thân của Bồ tát Di
Lặc, có bài tụng:
Thí báu như
số cát,
Chỉ thành
hữu lậu nhân
Đâu bằng
quán vô ngã,
Suốt vọng
mới là chân.
Muốn chứng
vô sanh nhẫn,
Cốt nhờ lìa
tham sân.
Người rõ
pháp vô ngã,
Thong dong
khỏi sáu trần.
Đó là nói về
vô ngã, còn thế nào gọi là vô sanh? Theo thuyết của nhà Phật không
có vật nào tự sanh, cũng không có vật nào tự diệt, vì mọi vật không có tự thể,
nên không sanh không diệt. Do duyên hợp giả có, nên gọi là sanh. Duyên tan thì
gọi là diệt. Nhưng thế tục thì không dễ gì chấp nhận thuyết này, vì con mắt
trần “thấy” xưa không có, bây giờ mới có, như trước không có lúa, bây giờ gieo
hạt, hạt nẩy mầm lớn lên thành lúa. Người ta nói là lúa mới sanh. Lúa đơm hoa
nở hạt, người ta gặt, chỉ còn trơ gốc, trâu bò ăn không còn nữa thì nói lúa
diệt. Cái gì xuất hiện gọi là sanh, cái gì biến mất gọi là diệt.
Ngài
Phạm Chí Thanh Mục chú thích cuốn Trung Luận của Bồ tát Long Thọ nói về “bất
sinh bất diệt” của cây lúa như sau: Vạn vật không có sanh, vì sao? Vì thế gian
hiện thấy. Thế gian chính mắt thấy lúc ban sơ lúa chẳng sanh, vì sao? Vì lìa
lúa trong kiếp ban sơ thời lúa hiện nay không thể có được. Nếu lìa lúa trong
kiếp ban sơ mà có lúa hiện nay mới gọi là có sanh ra, song kỳ thật không có như
vậy. Thế nên chẳng sanh. Tại sao chẳng diệt? Vì thế gian hiện thấy. Thế gian
chính mắt thấy trong lúc ban sơ lúa chẳng diệt, nếu diệt thời nay không thể có
lúa, song kỳ thật có lúa. Thế nên chẳng diệt.
Thuyết luân
hồi cho biết sanh diệt, diệt sanh không ngừng, bất tận gọi là bất sanh bất diệt
(bất là không, là vô: Bất sanh bất diệt là không sanh không diệt hay vô sanh vô
diệt). Vậy có gì gọi là sanh, có gì gọi là diệt, chỉ như người thay áo, đổi họ,
thay tên: Nước bốc hơi thành mây, mây gặp lạnh đọng lại thành nước, nước rơi
xuống thành mưa. Mưa đổ xuống sông hồ biển cả. Rồi nước trong sông hồ biển cả
lại bốc hơi biến thành mây v.v… cứ thế luân lưu bất tận. Vậy, chỗ nào sanh ra
mây, chỗ nào sanh ra nước, chỗ nào sanh ra sông ngòi biển cả. Mây vẫn bay, mưa
vẫn rơi, nước ở sông hồ biển cả không bao giờ cạn? Vậy, chỗ nào gọi là diệt.
Đây không phải là lời ngụy biện!
Thuyết nhân
duyên hòa hợp trong phẩm “Đàm Vô Kiệt”, quyển 30, Ma Ha Bát Ba La Mật (đồng với
Hội thứ II, ĐBN), La Thập dịch thì như thế nào? “Phật bảo:
- “Này thiện
nam tử! Thân chư Phật cũng vậy, từ bổn nghiệp nhân duyên quả báo mà sanh. Lúc
sanh chẳng từ mười phương đến, lúc diệt cũng chẳng đi đến mười phương. Chỉ duyên hợp thì có, duyên rời thì tan.
Này thiện nam tử! Ví như đờn không
hầu, lúc phát ra tiếng không từ đâu đến, lúc tiếng diệt không chỗ đi. Vì các
duyên hòa hợp nên có tiếng. Có thùng, có cổ, có da, có dây, có trụ, có cần, có
người lấy tay khảy, các duyên ấy hòa hợp mà có âm thanh ấy. Âm thanh ấy cũng
chẳng từ thùng đờn nhẫn đến chẳng từ tay người phát ra. Các duyên hòa hợp bèn
có âm thanh. Lúc các duyên ấy rời tan, âm thanh cũng không có chỗ đi.
Này thiện nam tử! Thân chư Phật cũng
như vậy, từ vô lượng công đức nhân duyên sanh, chẳng từ một nhơn, một duyên,
một công đức sanh, cũng chẳng không nhơn duyên mà có. Vì các duyên hòa hợp nên
có. Thân chư Phật chẳng riêng từ một sự mà thành. Đến không từ đâu, đi không
đến đâu.
Này thiện nam tử! Phải biết chư
Phật, tướng đến, tướng đi như vậy.
Này thiện nam tử! Cũng phải biết tất
cả pháp không có tướng đến, đi. Nếu ông
biết chư Phật và các pháp không có tướng đến, đi, sanh, diệt thì tất là được Vô
Thượng Bồ Đề”.
Không gì tự
sanh, sanh là do nhiều nhân duyên hợp lại, nên nói là vô sanh. Kinh MHBNBLMĐ
nói: “Nếu ông biết chư Phật và các pháp không có tướng đến,
đi, sanh, diệt thì tất là được Vô Thượng Bồ Đề”. Được Vô
Thượng Bồ đề thì phước đức không thể tính đếm nổi.
Thuyết luân
hồi và nhân duyên hòa hợp dùng để giải thích cái vô sanh vô diệt của vạn hữu là
như vậy: Nước bắt đầu từ đâu mà có? Từ hơi nước chăng? Từ mây chăng? Từ mưa
chăng? Từ sông hồ biển cả chăng? Không có cái gì độc lập, tự chủ; cũng không có
cái khởi đầu và cũng không có cái chấm dứt? Nên trong Thiền ngữ định nghĩa vô
sanh như sau: “Vô sanh tức vô thủy, vô thủy tức vô sanh, như con gà
với trứng gà đều chẳng có sự bắt đầu, tức là hiển bày nghĩa vô sanh”(1).
2. Tu phải tu
cả hai phần phước lẫn huệ. Phước huệ phải cân như hai bánh xe, nếu có phước mà
không có huệ như xe chỉ có một bánh thì làm sao chạy được. Tu phước như người
bố thí bảy báu đầy cả Tam thiên đại thiên, thì phước đức làm sao kể xiết. Nhưng
tu phước mà thiếu Bát Nhã soi sáng, nếu mong cầu tham trước thì cũng là một
chướng ngại của tâm. Không nhiếp thọ phước đức trong khi hành thiện, tức làm
như vô sự, thì tâm được thanh tịnh. Tâm thanh tịnh thì sanh thật tướng. Như
vậy, không cần nhiếp thọ cũng tự nhậm nhiếp thọ. Ngài Phó Đại sĩ có bài tụng:
Vô sanh tức vô diệt
Vô ngã phục
vô nhơn
Vĩnh trừ
phiền não chướng
Tường từ hậu
hữu thân
Cảnh vong tâm diệc diệt
Vô phục khởi
tham sân
Vô bi không
hữu trí
Hốt nhiên đột nhậm chơn.
Dịch:
Không sanh cũng không diệt
Không ngã cũng không nhơn
Dứt trừ phiền não chướng
Không còn có hậu thân
Tâm cảnh đều vắng lặng
Do đâu khởi tham sân
Không bi cũng không trí
Tự nhậm nhập chơn như.
Sanh diệt,
đoạn thường, ngã pháp đều không, tất cả tập khí phiền não đều đoạn trừ. Phật
nói: “Bằng cái thấy biết như vậy, tâm ngươi giải thoát khỏi dục lậu. Giải thoát,
người biết người được giải thoát. Người biết cuộc tái sanh này đã giải trừ
xong, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm, sau đời hiện tại, không còn thọ
thân nào khác”(2).
Thích nghĩa cho đoạn Kinh này:
(1). Ngữ
vựng Thiền học.
(2). Kinh Tu
Bà Subha Sutta.
---o0o---
Phật phá cái chấp “Như Lai có đi, đứng, nằm ngồi”.
(Uy nghi
tịch tĩnh)
Lại nữa,
Thiện Hiện! Nếu ai nói rằng: Như Lai hoặc đi, hoặc đến, hoặc đứng, hoặc ngồi,
hoặc nằm thì người này chẳng hiểu nghĩa Ta nói. Vì sao? Thiện Hiện! Vì Như Lai
tức là chơn như chân thật, hoàn toàn không từ đâu đến, cũng không đi về đâu,
nên gọi là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác.
Như Lai
không từ đâu đến, cũng không đi đâu, nên gọi là Như Lai. “Như Lai giả, vô sở
tùng lai, diệc vô sở khứ, cố danh Như Lai”. Câu này chẳng phải bảo rốt ráo
không có lai khứ, mà có ý bảo lai cũng không có chỗ lai, khứ cũng không có chỗ
khứ. Nên gọi là Như Lai. Vì đến và đi là động, mà động là do tướng. Như Lai mà
động thì sao gọi là Như Lai?
Đoạn trước
định nghĩa Như Lai nghĩa là như của các pháp “Như
Lai giả, chư pháp như nghĩa”. Như Lai
hiểu cái thể chân thật của tất cả pháp, nó là như như, nó là như tướng, bởi vì
nó như vậy là như vậy, chẳng lúc nào chẳng như, chẳng dao động, đổi dời, bất
sanh bất diệt. Người thấy biết như vậy gọi là Như Lai. Nếu cho 32 tướng tốt, 80
vẻ đẹp là Như Lai, tức sắc thân bằng xương bằng thịt có đi đứng nằm ngồi, do tứ
đại hợp thành, thì khi tứ đại tan rã Như Lai ở chỗ nào? Đã là di động, đổi dời
thì không còn như nữa.
Thế nên,
hiểu rõ Như Lai chỉ pháp thân thanh tịnh, pháp thận tịnh thì không đến không
đi, không ngồi không nằm. Nếu nói Như Lai có đi đứng nằm ngồi là không hiểu
nghĩa Phật nói. Nên Phật bảo “Như Lai tức là chơn như chân thật,
hoàn toàn không từ đâu đến, cũng không đi về đâu, nên gọi là Như Lai Ứng Chánh
Đẳng Giác”.
Hy vọng đoạn
Kinh ngắn trong phẩm “Đàm Vô Kiệt”, quyển thứ 30, Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa,
do La Thập dịch sau đây làm sáng nghĩa “Như Lai không từ đâu đến, cũng không về
đâu”:
“Lúc ấy Đàm Vô Kiệt Bồ Tát (Pháp Dũng Bồ tát) bảo Tát Đà
Ba Luân Bồ Tát (Thường Đề Bồ tát): “Này
thiện nam tử! Chư Phật không từ đâu đến, đi cũng không đến đâu. Tại sao vậy?
Chư
pháp như, tướng chẳng động. Chư pháp như tức là chư Phật.
Pháp vô
sanh không đến, không đi. Pháp vô sanh tức là chư Phật.
Pháp vô
diệt không đến, không đi. Pháp vô diệt tức là chư Phật.
Pháp
thật tế không đến, không đi. Pháp thật tế là chư Phật.
Pháp
Không không đến, không đi. Pháp Không là chư Phật.
Pháp vô
nhiễm không đến, không đi. Pháp vô nhiễm là chư Phật.
Pháp
tịch diệt không đến, không đi. Pháp tịch diệt là chư Phật.
Tánh hư
không không đến, không đi. Tánh hư không là chư Phật.
Này thiện nam tử! Rời các pháp ấy không có Phật.
Chư Phật như, các pháp như, một như không sai khác.
Này
thiện nam tử! Như ấy thường một, không có hai, không có ba, ra ngoài các pháp
số, vì là vô sở hữu. Ví như tháng cuối xuân, giữa ban ngày lúc nắng nóng, có
người thấy ánh nắng dợn động bèn đuổi theo mong tìm được nước. Ý ông nghĩ
sao? Nước ấy từ ao nào, núi nào, suối nào chảy đến, nay đi về đâu, hoặc là chảy
về biển Đông, biển Tây, biển Nam, biển Bắc ư?
Tát Đà
Ba Luân thưa:
- Thưa
Đại sư! Trong ánh nắng còn không có nước, làm sao có được chỗ nước đến, nước
đi!
Này
thiện nam tử! Kẻ ngu vô trí bị khát bức ngặt, thấy nắng dợn bèn tưởng là nước.
Này
thiện nam tử! Nếu có người phân biệt chư Phật có đến có đi, phải biết các người
ấy đều là ngu phu.Tại sao vậy?
Này thiện nam tử! Chư Phật, chẳng thể lấy sắc thân
thấy được. Chư Phật, pháp thân không đến, không đi, cũng không chỗ đến, chỗ đi.
Này
thiện nam tử! Thí như nhà ảo thuật, thuật ra các thứ như voi, ngựa, bò, dê,
nam, nữ. Ý ông nghĩ sao? Ảo sự ấy từ chỗ nào đến, đi đến đâu?
- Thưa
Đại sư! Ảo sự không thật làm sao có chỗ đến, chỗ đi.
Này
thiện nam tử! Người mà phân biệt đức Phật có đến, có đi cũng như vậy.
Này thiện
nam tử! Ví như chiêm bao thấy voi, ngựa, bò, dê, nam, nữ. Ý ông nghĩ sao? Cảnh
vật được thấy trong chiêm bao có chỗ đến chỗ đi chăng?
- Thưa
Đại sư! Cảnh vật được thấy trong chiêm bao đều là hư vọng, làm sao lại có đến,
có đi.
Này
thiện nam tử! Nếu người mà phân biệt đức Phật có đến, có đi cũng như vậy.
Này
thiện nam tử! Đức Phật nói các pháp như chiêm bao. Nếu có chúng sanh nào chẳng
biết pháp nghĩa ấy, cho danh tự sắc thân
là Phật, người ấy phân biệt chư Phật có đến, có đi.
Vì
chẳng biết tướng thật tế của các pháp, nên đều là hạng ngu phu vô trí.
Các
người ấy mãi mãi qua lại năm đường, xa rời Bát nhã Ba la mật, xa rời Phật pháp.
Này
thiện nam tử! Đức Phật nói các pháp như ảo, như mộng. Nếu có chúng sanh nào
biết đúng thật, thì người ấy chẳng phân biệt các pháp, hoặc đến, hoặc đi, hoặc
sanh, hoặc diệt.
Nếu chẳng phân biệt các pháp hoặc đến, hoặc đi, hoặc
sanh, hoặc diệt thì có thể biết được thật tướng của các pháp mà đức Phật đã
nói. Người ấy hành Bát nhã Ba la mật gần Vô Thượng Bồ Đề, gọi là chân đệ tử,
chẳng hư vọng ăn của tín thí. Người ấy đáng nhận cúng dường, là phước điền thế
gian”.
Phẩm “Bồ Tát
Pháp Dũng”, quyển 399, Hội thứ I, ĐBN cũng có đoạn kinh tương đương như vậy. Bồ
tát Pháp Dũng nói: “Thiện nam tử! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác
chẳng thể lấy sắc thân mà thấy. Vì lẽ Như Lai ấy tức là pháp thân. Thiện nam
tử! Pháp thân Như Lai tức là chơn như pháp giới các pháp, chơn như pháp giới đã
chẳng thể nói có đến có đi, pháp thân Như Lai cũng lại như thế, không đến không
đi”.
Hai đoạn
kinh này nói rõ thế nào là “Như Lai có
đi, đứng, nằm ngồi”. Nếu không hiểu thì bị Phật mắng là ngu phu di sanh. Vì
sao? Vì pháp thân Như Lai tức là chơn như
pháp giới các pháp, chơn như pháp giới đã chẳng thể nói có đến có đi, pháp thân
Như Lai cũng lại như thế, không đến không đi.
---o0o---
Lý nhất hợp tướng.
“Lại nữa,
Thiện Hiện! Nếu thiện nam, hoặc thiện nữ nào, đem sắc tượng của vô số thế giới
bằng lượng cực vi trần v.v… của đại địa khắp ba ngàn đại thiên thế giới, làm
thành mực như lượng cực vi.
Thiện Hiện!
Ý ông nghĩ sao? Lượng cực vi này chắc là nhiều lắm phải không?
Thiện Hiện
thưa:
- Bạch Thế
Tôn! Lượng cực vi này rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều. Vì sao?
Bạch Thế
Tôn! Vì nếu lượng cực vi là thật có thì Phật chẳng nên nói là lượng cực vi. Vì
sao? Vì Như Lai nói lượng cực vi tức là chẳng phải lượng, nên gọi là lượng cực
vi. Như Lai nói thế giới ba ngàn đại thiên tức chẳng phải thế giới, nên gọi là
thế giới ba ngàn đại thiên. Vì sao?
Bạch Thế
Tôn! Vì nếu thế giới là thật có tức là một hợp chấp (tướng). Như lai nói một
hợp chấp tức là chẳng phải chấp, nên gọi một hợp chấp.
Phật bảo:
- Thiện
Hiện! Một hợp chấp đây chẳng thể nói, chẳng thể hý luận. Nhưng tất cả phàm phu
ngu si kia cố chấp pháp này”.
Đoạn Kinh sau đây do Ngài La Thập dịch từ Phạn sang
Hán, và HT. Thích Trí Tịnh dịch từ Hán sang Việt, rõ ràng dễ hiểu hơn:
(Tu Bồ đề! Nhược thiện nam tử, thiện
nữ nhân, dĩ tam thiên đại thiên thế giới toái vi vi trần, ư ý vân hà? Thị vi
trần chúng ninh vi đa phủ?). Dịch:
- Tu Bồ đề!
Nếu có thiện nam tín nữ, đem cõi tam thiên đại thiên thế giới nghiền nát thành
vi trần, ý ông nghĩ sao? Số vi trần đó có nhiều không?
(Thậm đa Thế Tôn! Hà dĩ cố? Nhược
thị vi trần chúng thật hữu giả, Phật tắc bất thuyết thị vi trần chúng. Sở dĩ
giả hà? Phật thuyết vi trần chúng tắc thi vi trần chúng, thị danh vi trần
chúng. Thế Tôn! Như Lai sở thuyết tam thiên đại thiên thế giới, tắc phi thế
giới, thị danh thế giới. Hà dĩ cố? Nhược thế giới thực hữu tắc thị nhất hợp
tướng. Như Lai thuyết nhất hợp tướng tắc phi nhất hợp tướng, thị danh nhất hợp
tướng). Dịch:
- Bạch Thế
Tôn thật nhiều! Tại sao? Nếu vô số vi trần là thật có thì Phật chẳng nói là vi
trần. Tại sao? Vì Phật nói vô số vi trần, tức phi vi trần, thị danh vi trần.
Bạch Thế Tôn! Như Lai nói Tam thiên đại thiên thế giới, tức phi thế giới, thị
danh thế giới. Tại sao? Nếu thế giới thật có, tức là nhất hợp tướng. Như Lai
nói nhất hợp tướng, tức phi nhất hợp tướng, thị danh nhất hợp tướng.
(Tu Bồ đề! Nhất hợp tướng giả, tắc
thị bất khả thuyết, đãn phàm phu chi nhân, tham trước kỳ sự). Dịch:
- Tu Bồ đề!
Nhất hợp tướng tức chẳng thể nói, nhưng phàm phu không biết rồi sanh ra tham
ái.
Nghiền nát thế giới thì có vi trần. Hợp nhiều vi trần
thì có thế giới. Ai cũng biết điều đó! Nhưng các vật dầu lớn như thế giới hay
nhỏ như vi trần cũng không có tự thể, chúng có là do nhân duyên đối đãi mà
thành: Đập nhỏ thế giới thì thành vi trần, hợp nhiều vi trần thì thành thế
giới. Nhân cái này có mà cái kia có hay ngược lại. Nếu tách rời ra thì chẳng
thành thứ gì, vì các vật không có tự thể, đương thể tức không, nên nói chẳng
thật. Nếu chẳng thật thì chẳng thể nói giống, chẳng thể nói khác (bất đồng bất
dị), cũng không thể nói một nói nhiều (phi nhất phi đa).
Phật hỏi Tu Bồ đề: Như đem tam thiên đại thiên nghiền
nát thành vi trần, những vi trần như vậy có nhiều không? Tu Bồ đề trả lời: “Rất
nhiều! Nhưng nếu số vi trần thật có thì Phật chẳng nói là vi trần. Vì sao? Vì
Phật nói vô số vi trần, tức phi vi trần, thị danh vi trần". Như vậy cũng
chẳng có gì lạ? Vì theo Bát Nhã nếu một vật không có tự thể, tức là không. Nên
mới nói trên danh xưng thì có, nhưng thực thể thì không. Suy rộng ra, tam thiên
đại thiên thế giới cũng lại như thế. Thế giới cũng không, không có gì, nên nói
chẳng phải thế giới, ấy giả gọi là thế giới. Tại sao?
Nếu thế giới là thật có (dĩ nhiên mọi người đều cho là
thật có) tức là một hợp chất thuần nhất nguyên vẹn, có tự thể thì Phật gọi là
nhất hợp tướng(1). Nhưng đáng tiếc thế giới lại do nhiều vi trần hợp lại mà có.
Cái gì do hợp lại mà thành (duyên hợp) thì sao gọi là thuần nhất nguyên vẹn được.
Vậy, cái gì do duyên hợp mà có, đó là giả có nên chẳng phải thật, chỉ là giả
danh. Thế giới là giả thì hợp tướng của
thế giới cũng giả. Gốc đã giả thì cành nhánh làm sao thật được?
Nhất hợp tướng cũng không thể nói được. Không thể nói
được có nghĩa là không thể nói là một, cũng không thể nói khác, cũng không thể
nói hợp hay chẳng hợp, không như pháp
thân hiện khắp chỗ, viên dung vô ngại, không thể nói là một, là nhiều, là
hợp hay chẳng hợp. Trung luận nói rằng “chẳng một chẳng khác là vượt trên tất
cả”. Còn thấy tướng là thật thì liền
thấy có lớn có nhỏ, có nhiều có ít, có tốt có xấu… Đó là nhị nguyên đối đãi
của cuộc đời thường. Ngày nào còn sống trong nhị nguyên đối đãi của cuộc đời
thường thì không tránh khỏi những hệ quả của nó. Chỉ khi nào vượt qua vượt trên
những mâu thuẫn, đối đãi của tương đối tính thì con người sẽ đạt đến giới xứ
tuyệt đối của Tánh Không.
Thế giới, vi trần... cũng chỉ là những danh tự giả
tướng. Kinh ĐBN nói: “Phật cũng
là danh tự giả tướng, Bồ tát cũng chỉ là danh tự giả tướng, Bát nhã Ba la mật
cũng là danh tự giả tướng, vì tất cả danh tự giả tướng đều vô sanh.
Danh tự chưa
từng sanh khởi thật sự, chúng như hư không, không hề có dấu vết đến đi và do đó
vượt ngoài hình sắc danh tướng. Nói khác, hư không (akasa) tức Tánh Không. Pháp
của Phật tùy thuận hết thảy các pháp, lìa hết thảy chướng ngại, mà hết thảy các
pháp vốn bất khả đắc. Cũng như hư không, lìa hết thảy các chướng ngại. Các pháp
như hư không nên lìa hết thảy các ngôn thuyết. Các pháp là bình đẳng nên vượt
ngoài mọi pháp phân hai (bất nhị).
Các pháp vô sanh nên vượt ngoài pháp hiện khởi. Các pháp vốn vô diệt nên ngoài
pháp diệt tận. Các pháp vốn vô tướng nên vượt ngoài thủ tướng. Các pháp vốn vô
xứ nên hết thảy xứ đều bất khả đắc”.
Đoạn kinh ngắn này có thể giải thích tất cả gút mắt kể
trên!
Thích nghĩa
cho đoạn Kinh này:
(1). Một hợp chấp (Kinh Kim Cương Năng đoạn do HT
Thích Trí Nghiêm dịch): Trong khoa học ngày nay không thấy có danh từ nào tương
đương với một hợp chấp. Nếu nói là một hợp chất, thí dụ khí CO2 (carbon dioxide)
là một hợp chất gồm hai nguyên tố khác nhau hợp thành (1 nguyên tố carbon + 2 nguyên tố
oxy) thì có người hiểu, nhưng nói là một hợp chất, chớ không phải là một hợp
tướng. Một hợp tướng (Kinh Kim Cương do HT Thích Trí Tịnh dịch) cũng vậy, trong
khoa học không có danh từ tướng.
Ngữ Vựng Danh Từ Thiền Học định nghĩa nhất hợp tướng
là: “Thế giới do nhiều vi trần hợp thành, gọi là nhất hợp tướng. Thân người do
nhiều tế bào hợp thành cũng gọi là nhất hợp tướng. Tất cả vật chất đều do nhiều
nguyên tử hợp thành cũng như vậy”.
Tự điển Phật học đáng tin cậy là Phật Quang Tự điển,
định nghĩa như sau: “Phạm: Piịđa-gràha. Một hợp tướng. Chỉ cho 1 sự vật do
nhiều nhân duyên kết hợp mà thành. Nói theo quan điểm của Phật giáo thì tất cả
mọi hiện tượng trong thế gian đều là 1 hợp tướng. Kinh Kim Cương Bát nhã Ba la
mật (Đại 8, 752 trung) nói: Nếu thế giới có thực, thì đó là Nhất hợp tướng; Như
lai nói Nhất hợp tướng chẳng phải Nhất hợp tướng, đó gọi là Nhất hợp tướng”.
Nói nhiều, dẫn chứng nhiều chỉ làm rối thêm. Cứ quan
niệm một cách giản dị là còn thấy tướng là thật thì liền thấy có
lớn có nhỏ, có nhiều có ít, có tốt có xấu… Thế giới, vi trần... cũng chỉ là
những danh tự giả tướng. Chỉ cần nhớ: Ly tướng tức Phật là tốt! TB
---o0o---
Phật phá cái
chấp về “ngã kiến”.
“Vì sao? Thiện Hiện! Vì nếu nói như vầy: Như Lai tuyên
thuyết ngã kiến, hữu tình kiến, mạng giả kiến, sĩ phu kiến, Bổ đặc già la kiến,
ý sanh kiến, thiếu niên (nho đồng) kiến, tác giả kiến, thọ giả kiến,
thì ý ông nghĩ sao, lời nói như thế là đúng chăng?
Thiện Hiện thưa:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng đúng. Bạch Thiện Thệ! Chẳng
đúng. Nói như thế chẳng phải là lời đúng đắn. Vì sao? Vì Như Lai nói ngã kiến,
hữu tình kiến, mạng giả kiến, sĩ phu kiến, Bổ đặc già la kiến, ý sanh kiến,
thiếu niên kiến, tác giả kiến, thọ giả kiến tức là chẳng phải kiến, nên gọi là
ngã kiến… cho đến thọ giả kiến”.
Kinh MHBNBLMĐ, phẩm “Đoạn Chư Kiến”, quyển thứ 04, tập
01, Ngài Xá Lợi Phất bạch Phật: “Ngã kiến, thọ kiến, mạng
kiến, chúng sanh kiến, sanh kiến, dưỡng dục kiến, chúng số kiến, nhơn kiến, tác
kiến, sử tác kiến, khởi kiến, sử khởi kiến, thọ kiến, sử thọ kiến, tri giả
kiến, kiến giả kiến, đoạn kiến, thường kiến, hữu kiến, vô kiến, ấm kiến, nhập
kiến, giới kiến, đế kiến, nhơn duyên kiến, niệm xứ kiến, nhẫn đến bất cộng pháp
kiến, Phật đạo kiến, thành tựu chúng sanh kiến, tịnh Phật quốc độ kiến, Phật
kiến, chuyển pháp luân kiến.
Vì dứt trừ những kiến chấp trên đây mà vì mọi người
thuyết pháp nên Bồ Tát được gọi là đại Bồ Tát”.
Ngài Tu Bồ Đề hỏi: “Duyên cớ gì mà sắc kiến là vọng
kiến(1)? Duyên cớ gì thọ, tưởng, hành, thức kiến nhẫn đến chuyển pháp luân kiến
là vọng kiến?”
Ngài Xá Lợi Phất nói: “Lúc
thực hành Bát nhã Ba la mật, vì không phương tiện nên Bồ Tát ở nơi sắc sanh
kiến chấp, ở nơi thọ, tưởng, hành, thức nhẫn đến chuyển pháp luân sanh kiến
chấp, vì pháp dụng hữu sở đắc vậy.
Nơi đây đại Bồ Tát thực hành Bát nhã Ba la mật dùng
sức phương tiện mà vì họ thuyết pháp để dứt
trừ những vọng kiến, vì pháp dụng vô sở đắc vậy”.
Tiến trình của vọng bắt đầu từ cái thấy, thấy là cửa
ngõ đầu tiên thâu lượm các dữ kiện từ bên ngoài, rồi kế đến thức mới nhảy vào
phân tích, so sánh, chọn lựa: Cái gì hợp với nó thì nó giữ, cái gì nghịch với
nó thì nó loại trừ. Cái mà thức giữ lại gọi là kiến thức, một thứ văn hóa riêng
mà Phật đạo gọi là thân kiến mà thế tục gọi chung dưới một danh từ thật mỹ miều
là văn hóa hay nhân sinh quan (còn Phật đạo gọi kiến văn giác tri). Vì là nhân
sinh quan nên nó có cá tính riêng, độc lập với nhân sinh quan thuộc cá nhân
khác. Đây không phải là một diễn dịch hay là một hệ luận mà đây là một tương
duyên giữa căn trần, thức, giới. Vì vậy, đoạn Kinh trên nói rõ vì không có
phương tiện Bát Nhã, nên ở nơi sắc thọ tưởng hành thức sanh kiến chấp. Kiến
chấp này là vọng kiến, là sở đắc, cái mà mình có được do thâu lượm hay vay mượn
từ bên ngoài…
Vì vậy, mà Kinh MHBNBLMĐ cũng như ĐBN lúc nào cũng
khuyên là “nên đoạn chư kiến”. Muốn như vậy thì đừng sanh tâm phân biệt trụ
chấp nơi nào.
Chư kiến đó chỉ do cóp nhặt, vay mượn từ bên
ngoài mà danh từ chuyên môn gọi là hữu sư trí, cái trí phát sanh ra kiến do
thâu lượm qua bao nhiêu đời từ trước khi cha mẹ sanh. Chỉ cái kiến phát sanh từ
cần tu khổ nhọc ở giờ phúc chứng ngộ, gọi là tri kiến (tri kiến Phật nói trong
Kinh Pháp Hoa) hay Bát Nhã Trí. Đó là vô sư trí, là hậu đắc trí nó không do ai
chỉ dạy, nó xuất sanh từ huệ giác của chính mình.
Trong nhà Thiền có câu chuyện tạm đặt tên là “nhờ vả,
vay mượn”, như sau:
Ngưỡng Sơn Huệ Tịch theo Bá Trượng học Thiền. Sư có
cái lưỡi lém lỉnh và cái tài lượm lặt, thậm chí Tổ hỏi một Sư trả lời mười. Bá
Trượng nói: “Ta nghĩ, sau này sẽ có người khác độ ông”. Về sau, Ngưỡng Sơn đến
với Qui Sơn Linh Hựu. Qui Sơn hỏi: “Ta nghe nói trong lúc theo hầu Bá Trượng,
Bá Trượng hỏi một ông đáp mười, có phải vậy không?” Ngưỡng Sơn đáp: “Không dám!”
Qui Sơn hỏi: “Đối với thâm nghĩa của Phật pháp, ông đã đến đâu?” Ngưỡng Sơn sắp
mở miệng thì Qui Sơn hét lên. Ba lần hỏi, ba lần hé mồm, ba lần đều bị hét.
Cuối cùng Ngưỡng Sơn đành khuất phục, cúi đầu rơi nước mắt nói: “Thầy Bá Trượng
tiên đoán tôi sẽ được ích lợi với người khác, ngày nay người đó chính là thị là
đây”.
Sau ba năm chuyên cần theo học, một hôm, Qui Sơn thấy
Sư đang ngồi dưới gốc cây, Ngài đến gần lấy gậy thọt vào lưng, Ngưỡng Sơn quay
lại. Qui Sơn nói: “Này Tịch, giờ ông có thể nói một lời hay không?” Ngưỡng Sơn
đáp: “Không, không lời nào nữa, tôi không muốn nhờ vả vay mượn ai hết".
Qui Sơn bảo: “Này Tịch, ông hiểu rồi đó!”(2)
Mượn lời của người dầu là của Phật, của Tổ cũng đều là
kiến văn giác tri, không phải của mình. Rời thầy, rời Tổ, lìa Kinh sách… thì mờ
mịt, ích lợi gì!
Cái thấy nghe hiểu biết bằng thức là cái thấy nghe
hiểu biết phân hai, nên lúc nào cũng thiên lệch, nghiêng ngả. Thân kiến, biên
kiến, kiến thủ… thay vì nó giúp mình, nó lại che mờ cái huệ giác của chính
mình.
Nói chung, dưới bất cứ hình thức nào dù là Phật đạo
kiến, Phật kiến, chuyển pháp luân kiến… cũng đều là “bệnh”. Nên Phật nói “dứt
trừ những kiến chấp này mà vì mọi người thuyết pháp nên Bồ Tát được gọi là đại
Bồ Tát”. Vì đại Bồ tát là hữu tình giác ngộ. Dứt bỏ văn tự ngôn thuyết, trực
nhận bản tâm, không qua trung gian của kiến thức, tri thức. Có kiến là có chấp,
nên cho là chướng. Đó là sở tri chướng, nên nói là bệnh. Nó cũng là một thứ
phiền não, đi ngược với giải thoát và giác ngộ. Còn đối với Bồ tát khi giảng
thuyết Bát Nhã đưa ra ý kiến của mình thì sao?
Theo Bát nhã Ba la mật khi Bồ tát giảng
thuyết, không phải các Ngài phát biểu một quan điểm (nói
nôm na là có ý kiến) nào đó của riêng mình, mà đó là do tác dụng của Bát Nhã. Kinh Tiểu Phẩm Bát Nhã mở đầu bằng nghi
vấn về tư cách của Tu Bồ Đề khi các Ngài giảng thuyết về Bát Nhã. Tu Bồ Đề xác
định rằng không phải tự Ngài có khả năng giảng thuyết về ý nghĩa sâu xa của Bát
Nhã, nhưng chính diệu dụng của Bát Nhã là như thế: “Người nói là không, người nghe cũng không, tất cả đều
không. Giả tỉ có pháp nào cao hơn Niết bàn, tôi cũng gọi đó là không…”
Ngôn thuyết biện giải có tính cách bác học đòi hỏi tri
thức phân tích, có phần trừu tượng và ý niệm… hơn là
trực giác thực chứng thông qua kinh nghiệm tâm linh của từng cá thể. Không ai
cần lý luận hay biện giải để sống. Sống là “đói ăn mệt ngủ”, đó là đời sống vô
công dụng hạnh, vô đạo hành, vô kiến, vô niệm, vô sở y…
Kinh Lăng Nghiêm nói:
“Tri kiến lập tri tức vô minh bổn.
Tri kiến vô kiến tự tức Niết bàn”.
“Trên thấy biết mà lập thấy biết tức gốc Vô minh. Thấy
biết mà không thấy biết tức là Niết bàn”.
Có người hỏi Ngài Hoàng Bá:
- Nay chính khi ngộ, Phật ở chỗ nào?
Sư đáp:
- Hỏi từ đâu đến? Biết từ đâu khởi? Nói nín động tịnh,
tất cả đều là Phật sự, chỗ nào để tìm Phật? Không thể trên đầu lại thêm đầu,
trên mỏ lại thêm mỏ. Chỉ chớ sinh kiến
chấp, thì núi là núi, nước là nước, mặt trời mặt trăng, sao… thảy đều không
ngoài tâm ông. Ba ngàn thế giới là tự thể của ông, chỗ nào có nhiều thứ? Ngoài
tâm không có pháp, khắp thấy núi xanh, hư không, thế giới rõ ràng mà không bằng
mảy lông sợi tóc cho ông hiểu biết. Nên nói: “Tất cả thanh sắc là mắt tuệ của
Phật”.
Nhà Thiền gọi: “Chạm mắt là Bồ đề”. Tâm đã bặt niệm
thì thấy cái gì cũng là ánh sáng, cái gì cũng trong suốt, rỗng không. Thiền sư
Thiền Lão nói:
“Trúc biết hoa vàng đâu cảnh khác,
Trăng trong mây bạc lộ toàn chân”.
Không sanh kiến chấp thì núi là núi, sông là sông…Tâm
bặt niệm thì trăng trong mây bạc hiện toàn chân. Đó chính là đoạn chư kiến! Cổ
đức thường nói: “Cuồng tâm chẳng (chịu) nghỉ, nghỉ tức Bồ đề!”
1. Kinh Viên
Giác nói: “Này thiện
nam! Cái tâm hư vọng phân biệt (gọi là
thức sanh kiến chấp) này, nếu không có trần cảnh thì không có gì để phân
biệt cả. Lại nữa khi bốn duyên (tứ đại
hòa hợp thành thân) rã rời rồi, thì thân giả tạm này cũng không còn. Lúc
bấy giờ, cái vọng niệm phân biệt tích tụ trong thân thường duyên theo bóng dáng
sáu trần đó, cũng bị phân tán. Rốt cuộc rồi không còn thấy cái gì mà gọi là tâm
cả”.
Tâm ở đây có thể nói là sự hiểu biết theo vọng thức.
Tâm nếu phan duyên thì ngã kiến cũng tùy duyên mà nổi dậy. Nếu tâm chẳng sanh
thì ngã kiến không từ đâu mà ra, chỗ bảo là “biết huyễn liền ly, ly huyễn tức giác!”(3)
Vậy, ngã kiến, thọ mạng kiến, chúng sanh kiến, sanh
kiến, dưỡng dục kiến, chúng số kiến, nhơn kiến, tác kiến, sử tác kiến, khởi
kiến, sử khởi kiến, thọ kiến, sử thọ kiến, tri giả kiến, kiến giả kiến… cũng là
duyên hợp giả có, nên cũng gọi là huyễn. Đã biết huyễn tức là lìa, lìa huyễn
tức giác vậy.
2. Nhưng lìa
huyễn không có nghĩa là đoạn diệt. Có ngã kiến, thọ mạng kiến, chúng sanh kiến
v.v… tức có phân biệt, chấp trước. Phân biệt chấp trước này cũng phát xuất từ
thức thứ sáu và thức thứ bảy (Mạt na thức) mà ra. Thức chẳng phải vật gì khác,
tức là chân tánh vì cớ bất giác theo nhiễm
duyên hiện khởi nhiễm tướng, chỗ gọi là sanh diệt và bất sanh diệt hòa hợp
là vậy.
Chơn tánh là chơn như, bổn lai là một, viên mãn một
nói theo đệ nhất nghĩa đế. Một khi duyên theo nhiễm trần thì cái một đó bị phân
hóa làm hai. Từ đó mới có chơn giả, mê ngộ, phàm Thánh v.v… đối đãi nhau nói
theo Tục đế. Trên con đường trở về quê cũ, người ta cố xa lìa nhị nguyên đối
đãi, cái phân hai đó. Nhưng con đường trở về không phải dễ dàng gì. Một khi đã
bị chia chẻ phân hóa tức có mất mát, thì không tránh khỏi mất nhiều thời gian
và nghị lực dũng mãnh mới khôi phục được cái nguyên trạng của thuở ban đầu.
Trong Kinh Lăng Nghiêm, Phật dạy: “Căn và trần đồng thể (tâm), triền phược và giải thoát không hai (mê thì triền phược, ngộ thì giải thoát). Các thức hư vọng như hoa
đóm giữa hư không.
(…)Vì có
trần cảnh, nên ở nơi căn mới khởi ra phân biệt. Vì có năng phân biệt ở nơi căn,
nên mới hiện ra cái tướng bị phân biệt là cảnh. Căn (kiến) và cảnh (tướng) đối
đãi nhau vọng hiện, chớ không có thật (vô
tánh). Cũng như hình cây lau gác vào nhau (giống như hình người hay vật hay nói khác là tạo ảo ảnh).
Thế nên, khi
thấy, nghe, hiểu, biết mà khởi vọng niệm phân biệt, đó là vô minh triền phược.
Còn khi thấy nghe, hiểu biết mà không khởi vọng niệm phân biệt, đó là Niết bàn.
Ở trong chơn tâm thanh tịnh, không có dung chứa gì hết”.
Phật kết luận: “Chính sáu căn làm cho các ông sanh tử luân hồi và
cũng chính sáu căn làm cho các ông an vui giải thoát”. Tại vì sao? Vì căn là môi giới của trần với thức. Mê thì sống bằng
thức phân biệt chấp trước, nên phải chịu sanh tử luân hồi. Ngộ thì thức biến
thành trí nên gọi là an vui giải thoát. Khi mê thì sống trên tám thức: Nhãn
thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức, Mạt na thức và A lại
gia thức. Ý thức là thức thứ sáu hay phân biệt, thức thứ bảy là Mạt na thức hay
chấp ngã. Khi ngộ thì thức biến thành trí: Năm thức đầu biến thành Thành sở tác
trí, thức thứ sáu thành Diệu quan sát trí, thức thứ bảy thì thành Bình đẳng
tánh trí và thức thứ tám biến thành Đại viên cảnh trí.
Dầu cho thân tâm là huyễn, dầu cho các tướng ngã kiến,
thọ mạng kiến, chúng sanh kiến, sanh kiến, dưỡng dục kiến… không thật, cũng
không đoạn diệt. Bởi vì, chính báo thân này biến thành pháp thân, và chính cái
thấy do thức này lại cũng biến thành trí. Vậy, chẳng lìa các tướng ngã kiến,
thọ mạng kiến, chúng sanh kiến v.v… mà cũng không đoạn diệt chúng. Nên Thế Tôn
nói ngã kiến, thọ mạng kiến, chúng sanh kiến v.v… phi ngã kiến, thọ mạng kiến, chúng sanh kiến v.v… thị danh ngã kiến, thọ mạng kiến, chúng
sanh kiến v.v…Tức phi... thị danh... là ở chỗ đó.
“(…) trong
tất cả thời không khởi vọng niệm (tức tri
kiến bất sanh) thì đối với vọng tâm cũng chẳng cần diệt trừ. Trụ trong cái
vọng tưởng mà không thêm cái liễu tri, nơi không có liễu tri chẳng cần biện
chân thật”.
Vì vậy, Kinh Viên Giác khuyên: Bồ tát, chúng sanh
không khởi vọng niệm phân biệt thì đối với vọng tâm cũng chẳng cần dứt diệt, vì
không khởi thì không cần dứt, không cần diệt, tự nó lặng. Trụ cái vọng tưởng mà
không thêm cái liễu tri, vì thấy cảnh giả dối mà không dấy niệm phân biệt giả
dối, tức buông hết tất cả vọng tưởng. Nơi cái liễu tri chẳng biện chân thật, vì
không dấy niệm phân biệt giả dối, thì luận cái chân thật làm gì?
3. Trong tất cả
thời không khởi vọng niệm thì tri kiến không sanh. Tri kiến
bất sanh thì, căn, trần, thức vắng lặng. Tới đó không phải là hết, trở thành gỗ
đá mà tới chỗ đó thì chơn như, Phật tánh hiện tiền. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Nếu bỏ cái sanh diệt, giữ cái chơn thường, cái sáng
suốt chơn thường hiện tiền, các thứ tâm niệm căn, trần, thức đồng thời tiêu
mất. Tướng của vọng tưởng là trần, tình phân biệt là cấu, cả hai đều xa lìa,
thì pháp nhãn của ông liền sáng suốt, làm sao không thành bậc Vô Thượng Tri
giác”.
Kinh nói tiếp: “Nhân vọng mà có sanh, nhân sanh mà có
diệt, sinh diệt gọi là vọng, diệt vọng gọi là chơn, ấy gọi là hai danh tự
chuyển y Vô Thượng Bồ đề và Niết bàn của Như Lai". Thiền sư Hàm thị Giãi
giải thích như sau: Bất giác vọng động thì có niệm khởi. Niệm khởi tức là tướng
sanh, đương khi sanh liền diệt, diệt rồi lại sanh, do đó mà không hiểu biết,
niệm niệm tiếp nối gọi là vọng, rõ vọng tức là chơn, lại không có hai thể. Nên
Ngài Tào Khê (Lục Tổ) nói: “Trước niệm chẳng sanh là tâm, sau niệm chẳng diệt
gọi là Phật”, nghĩa là rõ biết thì không theo niệm trước tiếp tục, đương niệm rõ
ràng chẳng trở lại mê. Đây gọi là chuyển. Chuyển vọng giác làm Bồ đề, chuyển
sanh diệt làm Niết bàn, vốn đồng một thể, do mê và giác mà có tên khác. Ngài
Tào Khê lại nói: “Chỉ chuyển cái danh không có thực tánh vậy”. “Y” là Như Lai
tạng, y nơi bất giác mà có vọng động, y nơi vọng động mà có sanh diệt. Nay giác
ngộ rõ biết không có vọng, thì không có chỗ nào nương, tạng tánh tự nó là vậy,
nên chẳng có gì gọi là chuyển (chuyển là chuyển cái tướng chứ chẳng phải chuyển
cái thể).
Kinh Lăng Nghiêm lại nói: “Tuy Phật đã chỉ rõ ra vẫn không biết trở về. Nguyên
nhân cái mê là như vậy, là nhân mê tự có. Biết mê không nhân, thì vọng không có
chỗ tựa, sanh còn không có, làm gì có cái để diệt”. Tự có, tự mê, tự biết. Tự biết tự trở về, giong ruổi đâu có nhân nào
khác. Trở về cũng chẳng phải nhờ ai. Biết mê không giong ruổi,
hết giong ruổi gọi là trở về. Xưa sanh mà không sanh, nay diệt cũng không diệt.
Tới đây là bặt tri kiến, chỉ tự mình chứng biết mà thôi.
Kinh Viên Giác nói: “Biết huyễn tức là lìa, chẳng khởi phương tiện. Lìa
huyễn tức giác cũng không có thứ lớp”.
Kết luận:
(cho đoạn chiết giải này)
Tâm mê cũng tự mình, mà ngộ cũng không ngoài mình. Chỉ
mình tự “rối” mình mà thôi. Cổ đức nói: “Cuồng tâm không (chịu) nghỉ, nghỉ tức
Bồ đề”, phải có cái tâm “bất biến giữa dòng đời vạn biến”, đó là chỗ cần hạ
thủ. Kinh Kim Cương có ghi: “Bất thủ ư
tướng, như như bất động”. Tất cả tư tưởng
đó đều qui kết chỗ tri kiến bất sanh, cũng
là chỗ vô thức, vô tâm, vô niệm. Chủ yếu của tu hành là làm sao cho tâm được
thanh tịnh. Đạo Phật được gọi là Thanh-Tịnh-Đạo là vậy. Tín Tâm Minh của Tổ
Tăng Xán có câu: “Nhất tâm bất sanh, vạn pháp vô cửu”. Một tâm chẳng sanh thời muôn pháp không có lỗi. Tâm không nọ kia,
không phân biệt thì vạn pháp bình an, tất cả đều thanh tịnh. Tới chỗ này, nói
tức thuốc độc biến thành đề hồ, mà nín thì đề hồ biến thành thuốc độc. Thiền sư
Đức Sơn bảo: “Nói cũng ăn 30 gậy, nín cũng ăn 30 gậy”. Chỗ mầu nhiệm không vói
tới nổi, lý sự làm gì cho thêm mệt!
Chừng như thực thực hư hư
Chừng như gió lặng chừng như trăng ngừng.
Nghìn xưa trăng chỉ một vầng,
Nghìn sau trăng gió cũng ngần ấy thôi.
(Khuyết danh)
Chỉ cần một đoạn kinh ngắn này mà chịu nghiền ngẫm đọc
tụng thì cũng đủ an thân lập mệnh rồi, chẳng cần bôn ba hành cước vạn dậm,
chẳng cần ai ấn tâm làm gì?
Thích nghĩa
cho đoạn Kinh này:
(1). Vọng kiến (Phạm là vitatha): Chấp mê một
cách phi lý như vọng kiến, vọng thức, vọng tâm, vọng niệm, vọng chấp, vọng tình
v.v…
(2). Về sau đệ tử nối pháp của Thiền sư Qui sơn Linh
Hựu chính là Ngài Ngưỡng Sơn Huệ Tịch, khai sáng Thiền viện, xiển dương tông
phong Qui sơn Linh Hựu mà phát triển thành tông Qui Ngưỡng; Ngưỡng Sơn nhân đó
mà nổi danh trong giới Thiền.
(3). Tâm phan duyên là tâm sanh diệt, tâm mê. Tâm
chẳng sanh là chân tâm, tâm giác.
---o0o---
Phật phá “chấp pháp”.
“Phật bảo:
- Thiện
Hiện! Những người phát tâm hướng tới Bồ tát thừa, đối với tất cả pháp nên biết
như thế, nên thấy như thế, nên tin hiểu như thế, chẳng trụ tưởng pháp như thế.
Vì sao? Thiện Hiện! Vì tưởng pháp, tưởng pháp ấy, Như Lai nói là chẳng phải
tưởng, cho nên Như Lai gọi là tưởng pháp”.
Kinh Kim
Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa do Ngài La Thập dịch, ghi: “Tu Bồ đề!
Phát A nậu đa la Tam miệu Tam Bồ đề tâm giả, ư nhất thiết pháp ưng như thị tri,
như thị kiến, như thị tín giải, bất sanh pháp tướng. Tu Bồ đề! Sở ngôn pháp
tướng giả, Như Lai thuyết tức phi pháp tướng, thị danh pháp tướng”. Dịch:
“Này Tu Bồ đề! Người phát tâm Vô
Thượng Chánh Đẳng giác, đối với tất cả pháp phải biết như thế, phải thấy như
thế, phải tin hiểu như thế, không nên sanh pháp tướng. Này Tu Bồ đề, nói là
pháp tướng đó, Như Lai nói tức chẳng phải pháp tướng, ấy gọi là pháp tướng”.
Độ mà không
độ, khứ lai mà vô khứ lai, nhất hợp tướng bất khả thuyết, ngã kiến mà vô ngã
kiến, cho đến tâm như hư không v.v… tất cả là bất sanh. Không độ tức là độ, vô
lai khứ mà lai khứ, vô nhất hợp mà nhất hợp, vô ngã kiến mà có kiến… Đó chính
là chỗ bảo ưng như thị tri, như thị kiến, như thị tín giải. Ở đây Phật sợ chúng
sanh chấp về pháp tướng, nên Phật bảo: Như Lai nói pháp tướng chẳng phải là
pháp tướng, chỉ giả danh là pháp tướng, tạm gọi là pháp tướng (sở ngôn
pháp tướng giả, Như Lai thuyết tức phi pháp tướng, thị danh pháp tướng).
Bao nhiêu
lời nói đó để ta hiểu ngay đây một lúc buông sạch hết: Có cũng buông mà không
cũng buông, được niệm mất niệm đều thành Phật đạo, phải trái chân vọng đều về
nguồn. Kinh Viên Giác nói: “Sanh tử và Niết bàn cũng như giấc mộng hôm qua, vì
chúng sanh vốn là Phật từ xưa”.
Tới đây là
hết lý luận, nên Thiền sư Quán Đạt nhắc lại lời của Ngài Thạch Đầu như sau:
Chấp SỰ nguyên là mê mà khế LÝ chẳng phải ngộ”. Còn LÝ còn SỰ là còn phân chia
chưa phải ngộ. Khi dẫn như vậy, Ngài Cốc Ẩn mới hỏi:
- Ông cho đó
là lời nói thuốc hay lời nói bệnh?
Quán Đạt
đáp:
- Lời nói
thuốc.
Đó là kẹt ở
một bên rồi! Cho nên Cốc Ẩn mới quở:
- Ông lấy
bệnh làm thuốc đâu thể được.
Dầu nói
thuốc hay nói bệnh đều kẹt ở hai đầu, nên sư nói:
- Sự như
phong thư niêm kín, lý như mũi tên nhọn đầu. Chỗ mầu nhiệm đâu có thêm bớt,
thật chưa rõ y chỉ này?
Phong thư
niêm kín (bí mật) làm sao mà biết được trong đó nói gì. Mũi tên nhọn đầu trúng
thì toi mạng (nghĩa là tấn thối đều chết hết). Ngài Cốc Ẩn bảo:
- Chỗ mầu
nhiệm đến như thế đó cũng chỉ là lý sự thôi!
Dù nói hay
nói giỏi cách mấy cũng không rời lý sự, còn y chỉ của Tổ sư là chỗ trí biết
không thể đến được, huống hồ lý sự mà biết cùng tột hay sao? Nên chỗ này đức
Thế Tôn nói: “LÝ chướng, ngăn ngại cái thấy biết đúng; còn SỰ
chướng, tiếp nối các sanh tử”.
Chấp sự là
chấp theo tướng, tức dẫn mình đi trong sanh tử; còn nói lý này lý nọ là ngăn
ngại cái thấy biết đúng, tức chưa quên được lý sự, vì lý sự cũng không rời môi!
Khi nghe tới
đó, sư Quán Đạt như chợt tỉnh, bèn thưa:
- Như vậy,
làm sao thọ dụng?
Ngài Cốc Ẩn
bảo:
- Lời nói
chẳng rời khuôn sáo cũ.
Xưa nói như
thế nào thì bây giờ lặp lại như cũ, không khác. Sư than:
- Vừa dính
môi lưỡi, liền rơi vào đối đãi, trọn cửa chết!
Tức vừa mở
miệng là rơi vào cửa chết, nói ra là kẹt bên nọ bên kia. Vậy chỉ có nước là
ngậm miệng! Phải ngậm miệng như Ngài Duy Ma Cật ở thành Tỳ xá ly mà các Thiền
sư sau này xưng tụng là “Cái im lặng sấm sét!” (默如雷; mặc như lôi).
Ta có thể lấy phẩm “Tán Hoa”, trong quyển 554, ĐBN,
làm kết luận cho đoạn Kinh này: Phật bảo Khánh Hỷ:
“Khánh Hỷ nên biết! Vì pháp chẳng tu
pháp, pháp chẳng thấy pháp, pháp chẳng biết pháp, pháp chẳng chứng pháp.
Khánh Hỷ nên biết! Tánh tất cả pháp
không người tu; không người thấy, không người biết, không người chứng, không
hành động, không tạo tác. Vì sao? Vì tất cả pháp hoàn toàn không tác dụng.
Người thủ, sự thủ đều như hư không, vì tánh xa lìa vậy. Vì tất cả pháp chẳng
thể nghĩ bàn, người và sự nghĩ bàn đều giống như người huyễn, vì tánh xa lìa
vậy. Vì tất cả pháp không tạo tác, không lãnh thọ, như bóng sáng v.v... chẳng
chắc thật vậy.
Khánh Hỷ nên biết! Nếu đại Bồ tát
luôn tu như vậy, luôn thấy như vậy, luôn biết như vậy, luôn chứng như vậy thì
chính là hành Bát nhã Ba la mật, cũng không chấp trước tướng các pháp này.
Khánh Hỷ nên biết! Nếu đại Bồ tát
khi học như vậy thì chính là học Bát nhã Ba la mật”.
---o0o---
Ứng hóa chẳng phải chân.
“Lại nữa,
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát dùng bảy báu đầy khắp vô lượng, vô số thế giới, dâng
cúng Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác; nếu thiện nam, hoặc thiện nữ nào đối với Kinh
Bát nhã Ba la mật này, cho đến bốn câu kệ, mà thọ trì đọc tụng thông suốt rốt
ráo, như lý tác ý và rộng vì người khác tuyên thuyết chỉ bày, do nhân duyên đây
nên được số phước rất nhiều hơn trước vô lượng, vô số. Thế nào gọi là vì người
khác mà tuyên thuyết chỉ bày? Chẳng vì người tuyên thuyết chỉ bày, thì gọi là
vì người tuyên thuyết chỉ bày.
Bấy giờ, Thế
Tôn nói kệ rằng:
“Những hòa hiệp mà có,
Như sao mù, đèn huyễn,
Sương, bọt, mộng, điện, mây,
Nên khởi quán như thế”.
Đoạn này Kinh Kim Cương của Ngài La Thập, dịch
như sau:
Nguyên văn
bằng chữ Hán: “Tu bồ đề! Nhược hữu nhân dĩ mãn vô lượng A tăng kỳ
thế giới thất bảo, trì tụng bố thí; nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, phát
Bồ đề tâm giả, trì ư thử Kinh, nãi chí tứ cú đẳng, thọ trì đọc tụng, vì nhân
diễn thuyết, kỳ phước thắng bỉ. Vân hà vị nhân diễn thuyết? Bất thủ ư tướng,
như như bất động. Hà dĩ cố:
Nhất thiết
hữu vi pháp,
Như mộng,
huyễn, bào, ảnh,
Như lộ diệt
như điện,
Ưng tác như
thị quán.
Dịch: Này Tu Bồ đề, nếu có người đem bảy báu bằng thế giới
trải qua số kiếp vô lượng A tăng kỳ kiếp để bố thí. Nếu có thiện nam, thiện nữ
phát tâm Bồ đề đem Kinh này cho đến bốn câu kệ v.v… thọ trì, đọc tụng, vì người
diễn nói thì phước đức của người này còn hơn phước đức của người kia. Thế nào
là vì người diễn nói? Chẳng thủ nơi tướng, như như bất động. Vì cớ sao?
Tất cả pháp
hữu vi,
Như mộng,
huyễn, bọc, bóng,
Như sương
cũng như điện,
Nên khởi
quán như thế.
Mệnh đề
trước của đoạn Kinh “Ứng hóa chẳng phải chân” nói về thọ trì, đọc tụng, vì
người diễn nói Kinh này, dầu chỉ bốn câu kệ phước đức hơn người dùng bảy báu
bằng thế giới trải qua vô lượng A tăng kỳ kiếp bố thí. Chúng ta đã có quá nhiều
dịp nghe thuyết về các loại bố thí được phước đức như vậy rồi, nên không cần
lặp lại nữa.
Điểm đáng
chú ý là nữa mệnh đề sau: Thế nào là vì người diễn nói? Diễn nói ở đây là chẳng
thủ nơi tướng, tâm như như bất động.
Học và hành
Bát Nhã là để hiểu biết Bát Nhã, rồi quán chiếu Bát Nhã và sống với Bát Nhã tức
tự mình thọ trì, đọc tụng… Đó là con đường đưa đến trí tuệ Phật, trí tuệ Bát
Nhã. Và một khi đã ngộ nhập Bát Nhã rồi thì phát nguyện cứu độ chúng sanh.
Phương tiện cứu độ chính là vì người giảng nói để chúng sanh được ngộ nhập Bát
Nhã như mình. Đó là giải hành tương ứng. Giảng Kinh là giải môn, tu hành là hành
môn. Thỏa mãn được hai điểm này thì lo gì không đạt đạo. Nhưng muốn thực
hiện những điểm đó không phải dễ, hành giả Bát Nhã phải thọ trì, đọc tụng, vì
người giảng nói nhưng không chấp thủ tướng, không phân biệt tướng. Đó là điều
kiện tiên quyết cũng là chung quyết, vì một khi có chấp thủ, có phân biệt… thì
tự mình che lấp mình, rồi rơi vào tham ái, sanh vọng tâm vọng ngữ làm sao thâm
nhập được Bát Nhã nói chi đến việc hướng dẫn người khác.
Còn Phật
giảng pháp là từ tâm chứng dù có phân biệt đi nữa cũng lìa tướng, không rời
chánh niệm, không dính mắc nên không bị tướng che, đâu đâu cũng đầy lý đạo,
thông hóa pháp giới, nên chúng ta mới thấy, mới hiểu “tất cả pháp là Phật
pháp”. Nếu có người nói pháp lìa tướng, vô phân biệt, vô trước, tâm như như bất
động thì thầm hợp với tâm Phật, dĩ nhiên sự giảng nói đó mang nhiều lợi ích,
công đức không thể so lường nổi.
1. Nhưng làm
sao giảng thuyết cho người hiểu: “Bất thủ ư tướng, như như bất động?”
Trước hết
phải nói đến người thuyết bất thủ ư tướng có nghĩa là chẳng thủ trước. Nếu thủ
tức có nắm bắt buông bỏ thì tâm còn phân biệt, tâm phân biệt mới sanh ra chấp
đắm thì làm sao chứng tánh. Bản tánh là chỗ an nhiên tịch lặng, bất sanh bất
diệt, vô động nên gọi là như như.
Chữ bất thủ có nghĩa là vô tâm, vô thức, vô
trụ, vô trước, vô niệm, vô tâm. Kinh này từ đầu tới cuối đều nói lên y chỉ này:
Độ mà không thấy độ, bố thí mà không chấp tướng, chứng đắc mà không thấy mình
có chứng đắc, trang nghiêm không năng sở, đoạn thường chẳng nhiễm, đừng sanh
vọng chấp bất cứ nơi nào, hành coi như vô sự, thuyết pháp 49 năm mà cho mình
không có thuyết pháp… Còn thủ dù là thủ với bất cứ dưới hình thức nào đẹp hay
xấu, mê hay ngộ, thiện hay ác…, một khi có thủ là có chấp đắm ôm giữ, có chấp
đắm ôm giữ tức có phiền não. Như vậy, gọi là động niệm. Vô thủ thì vô chấp, vô
chấp tâm mới được như như. Như như là không sanh không diệt, không khứ không
lai, nên nói vô sở tùng lai vô sở khứ tức bất động.
“Sống là động nhưng lòng luôn bất
động
Sống là thương nhưng lòng chẳng vấn vương
Sống hiên ngang danh lợi xem thường
Tâm bất biến giữa dòng đời vạn biến”(1).
Kinh Viên
Giác nói: “Bao nhiêu thứ thủ xả đều là luân hồi”. Luân hồi là sanh rồi diệt. Nếu có thủ tức có xả, liền có đối đãi. Có
đối đãi chấp trước là có sanh diệt. Hết sanh rồi diệt, hết diệt rồi sanh, cứ
thế tiếp nối nên gọi là luân hồi. Nếu bất thủ, lìa chấp tức hết sanh diệt thì
liền thấy cái bất sanh diệt hiện tiền, nên nói bất thủ ư tướng như như bất
động. Như như bất động tức chơn như thật tướng. Vì chơn như thật tướng chỉ thể tính bất động, thường hằng, nằm ngoài
mọi lý luận nhận thức. Tri kiến được Chơn như tức là Giác ngộ, vượt ra khỏi thế
giới nhị nguyên, chứng được cái nhất thể giữa khách và chủ. Chân như đồng nghĩa
với tự Tánh Thanh Tịnh Tâm, Phật Tính, Pháp Thân, Như Lai Tạng, Thực Tướng,
Pháp Giới, Pháp Tánh… Nếu chứng được chân như, nhập được pháp giới thì kể như
mọi việc đều xong.
Có thầy Tăng
hỏi Thiền sư Pháp Nhãn: “Chẳng chấp lấy tướng, như như bất động, thế nào là
chẳng chấp lấy tướng, thấy chỗ bất động? Pháp Nhãn đáp: “Mặt trời mọc ở phương
Đông, lặn ở phương Tây”. Tăng đó cũng tỉnh ngộ.
Nếu thấy
được chỗ nầy mới biết rằng: Gió bão bay núi mà thường tịnh, nước sông đổ gấp mà
chẳng trôi(2). Nếu không thấy chỗ này thì không khỏi bị trách là lắm chuyện.
2. Tới đây Phật
nói bài kệ:
Tất cả pháp
hữu vi,
Như mộng,
huyễn, bọt, bóng,
Như sương
cũng như điện,
Nên khởi
quán như thế.
Tất cả pháp
hữu vi đều có hình tướng, thấy được, sờ mó được như nhà cửa, xe cộ, kể cả sơn
hà đại địa… Cái gì do tạo tác hay do con người làm ra, Phật bảo đều là hư dối
không thật giống như mộng huyễn, bọt bóng, như sương, như điện… có đó rồi mất
đó. Nếu quán như vậy thì không còn chấp thủ, tâm mới được thanh tịnh. Kinh Lăng
Nghiêm nói: “Trong thế gian, những vật gì làm ra, đều phải hoại
diệt”. Tất cả pháp thế gian không thoát
khỏi định luật vô thường: Sinh, trụ, dị, diệt. Biết như vậy thì đừng tham ái mà
khổ lụy thân tâm.
Tôi còn nhớ
năm ba câu chuyện đã đọc qua nhưng không rõ nằm trong quyển sách nào: Có một
tướng lãnh thích sưu tập đồ cổ, một hôm ông ấy uống trà, vô ý làm cho chung trà
vô giá rơi xuống đất. Nhờ lẹ tay nên chụp lại được, nhưng ông không khỏi giật
mình. Ông tự nghĩ, mình vào ra trận mạc không biết bao nhiêu lần, mạng sống chỉ
mành treo chuông mà không hề sợ hãi, tại sao một chung trà nhỏ này lại làm cho
mình hốt hoảng được? Nghĩ như thế nên ông ta vung mạnh tay đập nát chung trà.
Câu chuyên
thứ hai: Có mười thanh niên ăn trộm trâu để “đánh chén” và có một lão bà đồng
lõa cho mượn nhà, dao mổ trâu, nồi niêu chén bát để ăn nhậu với nhau. Vì hợp
với tánh tình và sở thích nên 10 chàng trai nguyện kiếp sau đầu thai làm con
bà.
Vì một phúc
duyên nào đó bà cụ trong kiếp kế tiếp được làm hoàng hậu. Trong cung có một lọ
hoa quý mà bà rất thích, chẳng may bị nô tỳ đánh bể. Nô tỳ quá sợ hãi khẩn cầu
bà tha tội. Hoàng hậu chỉ cái rương vừa mới được vua tặng và nói rằng: Những
vật đựng trong rương này còn quý giá hơn vạn lần xá chi cái lọ vô tri kia.
Phật đã biết
trong rương có đựng vật gì, nên báo cho hoàng hậu biết, trước khi mở rương.
Phật giải thích cho bà biết về cái vô thường của cuộc sống để bà bớt thống khổ.
Té ra trong rương đựng 10 cái thủ cấp của các đứa con thân yêu của bà. Vì chúng
vào triều còn mang kiếm nghênh ngang, bị bầy tôi dèm pha là muốn xoán vị, nên
bị vua cha chém đầu rồi bỏ vào rương tặng Bà.
Câu chuyện
này có ý nghĩa là dầu lọ hoa có quý giá cách mấy nó cũng chỉ là vật hữu vi khi
còn khi mất, sinh mạng của những người thân yêu quý giá hơn trăm nghìn lần còn
bị luật vô thường cướp đi huống chi là vật vô tri kia. Hoàng hậu nếu không được
giác ngộ trước, chắc khi mở nắp rương ra có lẽ bị chấn tim mà chết. Nhờ giác
ngộ mà bà hiểu rằng thâm tâm cũng là huyễn hoặc, có đó rồi mất đó, tụ tán không
ngừng như sương như điện… càng tham ái thì càng khổ(3)!
Đừng chấp
các pháp hữu vi là thật, là bền vững trường tồn với thời gian, chúng chỉ là bèo
bọt nổi trôi như sương như điện chớp… Đây là diệu quán, phải quán sâu, tương
tục mới dứt khổ mà được an vui, tự tại!
3. Nhưng không
có pháp hữu vi thì làm sao có pháp vô vi?
Hữu vi pháp
chẳng phải chỉ là thế gian pháp thôi, mà tất cả Phật pháp cũng là hữu vi
pháp, nên nói là nhất thiết. Kinh Viên Giác nói: “Các thế
giới của chư Phật nhiều như cát sông Hằng, đều ở trong tánh Viên giác(4) này.
Cũng như hoa đốm trong hư không, mặc tình lăng xăng khởi lên và lăng xăng diệt
mất. Nó không phải “tức” tánh Viên giác mà cũng không phải “ly” tánh Viên giác,
không phải triền phược và giải thoát, bởi thế nên biết sanh tử và Niết bàn như
giấc mộng hôm qua, vì chúng sanh vốn thành Phật từ lâu”.
“Phải biết sanh tử và Niết bàn đều
như giấc mộng hôm qua, cho nên không có sanh diệt cũng không khứ lai. Ở quả vị
sở chứng, không có “được” hay “mất”, “thủ” hay “xả”. Ở nơi kẻ năng chứng cũng
không có “tác”(tạo tác) hay “chỉ”(đình chỉ), “Nhậm”(sanh) hay “diệt”. Trong Viên giác (chân như) tất cả pháp bình đẳng, không có hoại diệt. Rốt ráo không
có người chứng và quả sở chứng”.
Đã là giấc
mộng hôm qua thì sanh tử, Niết bàn đâu có sanh có diệt, đâu có đến có đi. Nó
chỉ là giấc mộng không hơn không kém! Hiểu như vậy thì sanh tử, Niết bàn có
nghĩa lý gì. Chỗ chứng ấy (chân như) cũng không được không mất, không thủ không
xả, không tác không chỉ, không nhậm không diệt, không năng sở, không có người
chứng và quả vị để chứng. Bởi thể nhập chơn như rồi thì không còn năng sở nên
gọi là bình đẳng chẳng hoại.
Có được là
có mất, có thủ là có xả, có năng là có sở… liền có đối đãi. Có đối đãi nên hiện
tướng (tướng tức pháp hữu vi), liền có sanh diệt, nên đều là mộng, là huyễn…
Thế muốn chứng vô vi thì phải bắt đầu từ hữu vi mà hạ thủ. Hữu vi là hư vọng,
nhưng phải nhận biết hư vọng mà lìa. Lìa vọng tức chân. Vì vậy, Tổ dạy: “Hữu vi tuy
ngụy, xã chi tắt Phật đạo năng thành” (các
pháp hữu vi tuy biết là vọng nhưng nếu bỏ không tu thì không thành Phật đạo).
Cách tu cũng như lọc nước: Bỏ phèn vào nước đục, quấy lên, xong để cặn cáu lắng
xuống, gạn lấy nước sạch ở trên, đổ nước dơ đi thì được nước sạch. Nước dơ có
cặn ví như hữu vi pháp, nước trong tinh khiết như vô vi pháp. Nhưng còn nói đục
nói trong, nói nhiễm tịnh, nói hữu vi vô vi… là còn nằm trong nhị nguyên đối
đãi. Đục trong, nhiễm tịnh đều bỏ thì mới được như như bất động. Đó là chỗ rốt
ráo nhất mà Phật thuyết sau cùng để kết luận cho Kinh này.
4. Cư sĩ Giang
vị Nông nói: “Cho nên, chỗ khai Kinh này nói “thực vô chúng sanh
đắc diệt độ” phải từ độ hết chúng sanh mà ra; “ở pháp chẳng trụ” phải từ hành ư
bố thí mà ra. Các đoạn sau, chỉ thú cũng đều như thế: Độ chúng sanh, hành ư bố
thí là hành hữu vi pháp, tức hành hữu mà chẳng trụ hữu, quán cái không mà chẳng
trụ không. Tuy trọn ngày hành Lục độ vạn hạnh, trọn ngày giảng Kinh thuyết pháp
mà thực trọn ngày Niết bàn. Đây có thể biết bất thủ pháp phải từ bất thủ phi
pháp mà làm, tức phi phải từ thị danh mà
làm, chẳng chấp trước phải từ chỗ chẳng đoạn diệt mà làm ra, vô thực phải
từ vô hư mà làm ra, không Thánh không phàm tức từ trong có Thánh có phàm mà
thấy, bất nhất bất dị phải từ trong nhất dị mà thấy, bất lai bất khứ phải từ
trong lai khứ mà thấy. Đó gọi là chư
pháp nhất như, thị pháp bình đẳng, cho đến bất sanh bất diệt mà thị hiện sanh
diệt. Đây gọi là chẳng trụ sanh tử, chẳng trụ Niết bàn, tôn chỉ vô trụ ở
đây cứu cánh viên mãn vậy. Điểm then chốt là phải quán chiếu duyên sanh như
huyễn như mộng, để hiểu rõ nó là không, cho nên chẳng trụ.
Người học phương tiện cần yếu là
phải quán như thế. Quán như thế tức chẳng bỏ hữu vi, chẳng ngại vô vi, tự nhiên
nhi nhiên già chiếu đồng thời, vừa hay vừa hợp với như như bất động, viên giác
tánh hải”.
Đã biết các
tướng là hư vọng, là huyễn, là mộng, là bọt bóng… thì tâm không còn giong ruổi,
tầm cầu… tới đó là thanh tịnh. Tâm là chánh báo đã thanh tịnh thì trần cảnh là
y báo cũng thanh tịnh, nên Kinh Viên giác nói: “Vì một thế
giới thanh tịnh, nên nhiều thế giới cũng thanh tịnh. Vì nhiều thế giới thanh
tịnh nên 10 phương hư không (nói về không
gian) trùm khắp ba đời (nói về thời
gian) tất cả đều thanh tịnh, bình đẳng không động”.
Hư không đã bình đẳng không động, vì
bốn đại (thân) bình đẳng không động,
nên rõ biết Tánh viên giác (tâm )bình
đẳng không động”.
(…)”Vì tánh Viên giác (Chân tâm) thanh tịnh không động, viên
mãn trùm khắp tất cả, không có bờ bến, nên biết sáu căn, sáu trần, bốn đại cho
đến các pháp môn Đà là ni cũng thanh tịnh và viên mãn khắp giáp cả pháp giới”.
“Vì tánh Viên giác kia mầu nhiệm
viên mãn không hoại, nên bản thể của căn, bản thể của trần, không có một pháp
nào hoại diệt lộn lạo, cho đến các pháp môn Đà la ni, cũng không có hoại diệt
và lộn lạo…”
Hiện tượng
từ bản thể sanh mà hiện tượng bình đẳng không động, cố nhiên bản thể cũng bình
đẳng không động. Đó chính là như như bất động của Bát Nhã. Đã như như thì không
nói thật giả, mê ngộ… tức lìa nhị nguyên đối đãi. Đó là lý sự vô ngại pháp giới
và sự sự vô ngại pháp giới của Hoa Nghiêm. Kinh Pháp Hoa chép “Thị pháp
trụ pháp vị, thế gian tướng thường trụ” (pháp
nào pháp nào an trụ địa vị pháp đó, thế gian tướng là thường trụ tướng). Kinh
Lăng Nghiêm nói “Tứ đại châu biến, không có hoại diệt và tạp loạn lẫn nhau”.
Cổ nhân lại nói “Trần trần là báu, chỗ chỗ gặp nó”, vạn hữu đâu đâu đều là báu, pháp nào pháp nào cũng đều hiển lộ vô trụ
chơn như, vật nào vật nào cũng là Bát Nhã thật tướng.
5. Để hiểu rõ
vạn hữu như huyễn như mộng mà Phật nêu trong câu kệ ghi trên, chúng tôi trích
dẫn lời bình giải của Thiền sư D.T. Suziki và vài đoạn Kinh trong phẩm “Phật
Mẫu” nói về Tánh Không và Như Huyễn để quý vị có dịp thưởng thức thêm:
“Muốn giải thích về học thuyết Tánh
Không, không gì hơn là Bát Nhã dùng ấn tượng như huyễn. Để thí dụ xin đọc đoạn
Kinh đối chất giữa Phật và Tu Bồ đề như sau:
“Phật hỏi Tu Bồ đề: Này Tu Bồ đề, ý
ông nghĩ sao Huyễn (maga) khác với Sắc (rūpa), Sắc khác với Huyễn? Lại nữa, ý
ông nghĩ sao Huyễn khác với Thọ (vedanā), Tưởng (samjnà), Hành (samskarà), Thức
(vijnàna)? Và Thọ Tưởng Hành Thức khác với Huyễn như thế nào?”
“Tu Bồ đề thưa: Bạch Thế Tôn! Chúng
không khác. Nếu Sắc khác với Huyễn, Sắc không phải là Sắc. Nếu Huyễn khác với
Sắc, Huyễn không phải là Huyễn. Huyễn là Sắc, Sắc là Huyễn. Thọ, Tưởng, Hành,
Thức cũng lại như thế”.
Phật hỏi: “Này Tu Bồ đề! Ý ông nghĩ
sao, năm thủ uẩn có phải là Bồ tát không?”
“Tu Bồ đề thưa: “Bạch Thế Tôn!
Không”.
“Phật nói: “Này Tu Bồ đề, ông nên
biết rằng năm thủ uẩn tức thị Huyễn. Tại sao? Bởi vì Sắc là như Huyễn. Thọ,
Tưởng, Hành, Thức cũng như Huyễn; năm uẩn sáu căn tức thị Bồ tát, cho nên Bồ
tát cũng như Huyễn. Nếu ai muốn học Bát nhã Ba la mật, hãy như Huyễn mà học…
Những Bồ tát sơ trụ Đại thừa nếu theo các bậc thiện tri thức mà học, khi nghe
pháp đó sẽ không sinh Kinh hoàng và sợ hãi”.
Hãy nên như Huyễn mà học. Thật quá
lạ lùng, kỳ bí. Phải không? Hãy nghe Phật nói tiếp: Ví như Huyễn sư ở giữa ngã
tư đường dùng huyễn pháp của mình, làm hiện ra một đám người đông đảo. Vừa hiện
ra liền biến mất. Này Tu Bồ đề, ý ông nghĩ sao? Đám người huyễn đó có chỗ đến
thật sự ư? Chúng có thực? Chúng có chỗ đi đến? Chúng biến mất thực ư?
“Tu Bồ đề nói: Bạch Thế Tôn! Không?
“Phật đạy: “Bồ tát cũng như vậy. Tuy
độ vô lượng vô số chúng sanh đưa vào Niết bàn, kỳ thật không có chúng sanh được
dẫn tới Niết bàn. Những ai không kinh sợ khi nghe những giáo pháp như thế, đó
đích thực là những Bồ tát mình mặc giáp trụ Đại thừa.
“Tu Bồ đề nói với Mãn Từ Tử: Sắc của
người huyễn không trói không mở. Thọ, Tưởng, Hành, Thức cũng vậy, cũng không
trói không mở. Tại sao? Vì vô sở hữu nên không trói không mở, vì bất sanh nên
không trói không mở. Nếu Bồ tát biết rõ như vậy thì là thật sự an trụ trong Đại
thừa, mình vận giáp trụ Đại thừa.
“Rồi các Thiên tử hỏi Tu Bồ đề: Phải
chăng tất cả chúng sanh cũng đều như huyễn, và lại nữa cũng đều như mộng. Tại
sao? Bởi vì hết thảy chúng sanh cùng với huyễn mộng không hai không khác. Vì
vậy, hết thảy chúng sanh đều như huyễn như mộng. Bốn quả Thanh văn và Bích chi
Phật cũng đều như huyễn như mộng, cả đến Giác ngộ Tối thượng cũng như huyễn như
mộng.
Các Thiên tử nói: Nếu thế, cho đến
Niết bàn cũng như huyễn như mộng?
“Tu Bồ đề nói: Quả thực, Niết bàn
cũng như huyễn như mộng, huống chi pháp khác!
“Các Thiên tử hỏi: Tại sao thế?
“Tu Bồ đề trả lời: Dù có pháp nào
cao hơn Niết bàn, tôi cũng nói như huyễn như mộng. Bởi vì, huyễn mộng và Niết
bàn, không hai không khác”.
Từ quan điểm này, đương nhiên người
tuân hành Bát Nhã kết luận rằng: “Phật chỉ là danh tự giả tướng; Bồ tát cũng
chỉ là danh tự giả tướng; Bát Nhã cũng chỉ là danh tự giả tướng, vì tất cả danh
tự giả tướng đó vốn vô sanh.
“Danh tự chưa từng sanh khởi thực
thụ, chúng như hư không, không hề có dấu vết đến hay đi và do đó vượt ngoài
hình sắc danh tướng. Nói khác, hư không (àkàsa) tức Tánh Không. “Pháp của Phật
tùy thuận hết thảy các pháp, lìa hết thảy các chướng ngại, mà hết thảy các pháp
vốn bất khả đắc. Cũng như hư không, lìa hết thảy các chướng ngại. Các pháp như
hư không nên vượt hết thảy các ngôn thuyết. Các pháp là bình đẳng nên vượt
ngoài các pháp phân hai (bất nhị).
Các pháp vô sinh nên vượt ngoài các pháp hiện khởi. Các pháp vốn vô diệt nên
vượt ngoài các pháp diệt tận. Các pháp vốn vô tướng nên vượt ngoài thủ tướng.
Các pháp vốn vô xứ nên hết thảy xứ đếu bất khả đắc”.
“Từ chung kết trên cho chúng ta kết
luận rằng các pháp trong Kinh Bát nhã Ba la mật đa kỳ cùng là một thứ ảo ảnh,
mộng mị xa vời gần như đồng với vô thể. Nếu quan sát hết thảy các pháp tùy
thuận Bát nhã Ba la mật đa tức quan sát chúng tùy thuận Nhất thiết trí. Nếu
quan sát hết thảy các pháp tùy thuận với Nhất thiết trí tức quan sát chúng tùy
thuận với bản tánh hư không. Và nếu thế, giáo pháp của Bát Nhã kỳ cùng đáng gọi
là giáo pháp Không vô, vô sở hữu,
đích danh là “thuyết Như Huyễn”, học thuyết nói về tánh phi thực của vạn hữu.
Nên vì thế đừng lấy làm ngạc nhiên, khiếp đảm khi nghe về triết lý thậm thâm
Bát Nhã; Vạn hữu là bất thực, giả danh, là như huyễn như mộng. Khó mà đứng vững
trên khái niệm về sự bất thực của vạn hữu và khó mà nắm vạn hữu trong thực tính
“như như” của chúng.
“Nhưng chính khái niệm này của Bát
Nhã là nhầm để đối trị mê lầm căn để của
cái nhìn duy thực ngây ngô của con người đối với thế giới mà mình đang sống.
Cái nhìn duy thực đó coi thế giới (y
báo) như một thực tại thường trụ vĩnh viễn mà quên đi cái thế giới nội tại
(chính báo) của tư tưởng. Một sức mạnh chống lại sự lôi kéo của dục trần, luôn
luôn đưa con người xuống vực thẳm của phiền não!
“Trí Bát Nhã nắm được cái bất khả
đắc. Bởi vì, chỉ bằng trí Bát Nhã mới có thể điều chỉnh tất cả mọi thứ chấp thủ
và cũng nhờ đó mới có thể nhận chân “như tính” của hiện hữu và hành động theo
nó.
“Phiền não bao giờ cũng thiên lệch
và tạo ra mọi hình thái chấp trước, rồi do phiền não chấp trước mới tạo nghiệp,
dẫn đến đau khổ. Cứ thế xoay chuyển không dứt tạo thành một chu kỳ bất tận.
“Trong Trí Độ luận, Ngài Long Thọ
tả: Trẻ thơ thấy mặt trăng trong nước, trong lòng ước muốn vớt mặt trăng lên,
rồi ruỗi tay vào nước. Nước rung động, mặt trăng biến mất. Nước lặng, mặt trăng
lại hiện ra, nhưng không bao giờ vớt được, mới đem lòng phiền muộn.
“Cũng vậy, không phải phủ nhận cái thế giới hiện hữu, mà chỉ phủ nhận tính chất
bất khả thủ, khả đắc của nó. Kẻ trí người ngu khác nhau ở chỗ: Trí thấy nó
mà không ôm cứng lấy nó, còn ngu thì mắt và tâm háo hức không rời, dù phải đổi
trăm nghìn cay đắng. Bồ tát đã thấy rõ cái Như Huyễn, nên tháo gỡ hết mọi ràng
buộc. Đó là yếu chỉ của thuyết Như Huyễn trong giáo pháp Bát Nhã”.
Bài kệ sau
đây của Mãn Giác Thiền sư nói lên ý nghĩa đó:
“Thân như
bóng chớp chiều tà
Cỏ cây hoa
lá Xuân qua rụng rời
Sá chi suy
thịnh cuộc đời
Thịnh suy
như hạt sương rơi đầu cành”.
Thân này
cũng như thân của những người thân yêu nhất…cũng là hữu vi pháp, hư ngụy vô
thường, như bóng câu qua cửa sổ, như điện chớp, có rồi không. Như lúc còn trẻ
giống như mùa Xuân cỏ cây tươi tốt, lúc già thì úa tàn như lá Thu. Hiện tượng
vô thường xảy ra bất lúc nào, bất cứ ở đâu, chẳng có gì bền vững với thời gian.
Biết như vậy nên dù thịnh dù suy cũng không có gì sợ hãi. Nó cũng giống như hạt
sương sớm đọng trên đầu ngọn cỏ, có tụ có tán, thấy đó rồi mất đó.
Thấy rõ như
vậy, biết rõ như vậy, thì bất cứ trong trạng huống nào kể cả trước cái chết
cũng không có gì phải run sợ. Đó mới thấu rõ nghĩa của “chẳng thủ nơi tướng,
như như bất động”. Đấy gọi là thể nhập.
Thấy như vậy, biết như vậy và sống như vậy mới được như như. Phải luôn luôn
quán như thế!
Nếu quán
được như thế thì Kinh ĐBN, phần “Mạn Thù Thất Lợi”, thuộc quyển 574 nói là sẽ
được trí Vô đẳng đẳng hay trí Vô đối đối. Tới đây, Phật hỏi Mạn Thù Thất lợi:
- “Diệu trí như vậy không thể động
ư?
Mạn Thù Thất Lợi thưa:
- Bạch Thế Tôn! Diệu trí như vậy
không thể động. Như thợ vàng đốt luyện thỏi vàng cho được tinh ròng, đúng lượng
rồi thì không động đến nữa. Trí này cũng vậy, tu tập thành thục, không tạo tác,
không chứng đắc, không sanh ra, không kết thúc, không khởi lên, không chìm,
vững yên chẳng động”.
Như như bất
động là cái tướng bên ngoài, còn tâm bất động là diệu trí bên trong. Thể nhập
trong ngoài như thế thì gọi là Như Lai không khác.
Cảnh như do
tâm như. Điều đó có nghĩa là tâm như như bất động. Tâm như như bất động thì tất
cả pháp đều như, như vậy là như vậy. Như đó chính là bình đẳng, bình đẳng đó
chính là thanh tịnh.
Thích nghĩa cho đoạn Kinh này:
(1). Có lẽ
hai câu chuyên trên do Hòa thượng Thích Thanh Từ thuật trong một quyển sách nào
đó mà lâu ngày tôi quên đi, nên không thể trích dẫn chính xác. Xin thứ lỗi!
(2). Viện
dẫn bài “Tánh Không Tuệ Học Đông Phương” của Tăng Triệu:
“Gió bão bay
núi mà thường tịnh
Nước sông đổ
gấp mà chẳng trôi
Bụi trần
lăng xăng mà chẳng động
Trăng qua
bầu trời mà chẳng đi”.
(3). Không
tìm thấy xuất xứ của bài kệ trên. Tuy nhiên, có người cho bài kệ này của Sa môn
Thích Hạnh Hải, nhưng cũng không có gì làm chắc?
(4). Tánh
Viên giác còn gọi là Tự tánh, Chân tánh, Chân như, Kinh Pháp Hoa gọi là tri
kiến Phật, Kinh Bát Nhã gọi là Bát Nhã Trí, nhiều Kinh khác gọi là Bồ đề, Niết
Bàn hay Phật tánh. Các từ trên tương đương và có thể dùng thay thế cho nhau tùy
trường hợp.
---o0o---
Phần truyền bá lưu thông.
“Khi đức Bạc
già phạm Thế Tôn thuyết Kinh này rồi, Tôn giả Thiện Hiện và các Bí sô, Bí sô
ni, cận sự nam, cận sự nữ và các thế gian trời, người, A tua la, Kiện đạt
phược… đều rất vui mừng, tín thọ phụng hành”.
Khi Phật nói
Kinh “Kim Cương Năng Đoạn” xong, Trưởng lão Thiện Hiện, các vị Tỳ kheo, Tỳ kheo
ni, thiện nam tín nữ và các thế gian trời người, A tu la, Kiện đạt phược… đều
tín thọ, hoan hỷ vâng làm!
---o0o---
Đến đây chấm dứt phần chín,
(Hội thứ
IX).
Đọc hết “Kim
Cương Năng Đoạn” phần này có lẽ Quý vị độc giả quen với lối diễn tả “tức phi...
thị danh” tức vô thực phải từ vô hư mà có,
không Thánh không phàm tức từ trong Thánh phàm mà ra. Như Cư sĩ Giang vị Nông
nói: “Biết rõ rồi thì có không đều bỏ, không nắm không bắt thì mới thấy chư
pháp nhất như, thị pháp bình đẳng, cho đến bất sanh bất diệt mà thị hiện sanh
diệt. Đây gọi là chẳng trụ sanh tử, chẳng trụ Niết bàn, tôn chỉ vô trụ ở đây
cứu cánh viên mãn vậy. Điểm then chốt là phải quán chiếu duyên sanh như huyễn
như mộng, để hiểu rõ nó là không, cho nên chẳng trụ”. Nếu ngày ngày quán chiếu thực hành như thế thì có thể đoạn trừ các
chấp mà được an nhiên tịch tĩnh!
Hơn nữa, “Như
Lai nói các tướng đầy đủ, tức chẳng phải các tướng đầy đủ”, lối thuyết pháp này
có vẻ “không bình thường” trong phương-pháp-luận thường tục. “Công đức trang
nghiêm cõi Phật ấy, Như Lai nói chẳng phải trang nghiêm, cho nên Như Lai nói là
công đức trang nghiêm”. “Như Lai nói là
chẳng phải Bát nhã Ba la mật, cho nên Như Lai gọi là Bát nhã Ba la mật”. “Như Lai nói Ba la mật tối thắng tức chẳng
phải Ba la mật, cho nên Như Lai gọi là Ba la mật tối thắng”. “Như Lai nói nhẫn nhục Ba la mật tức chẳng
phải Ba la mật, cho nên Như Lai gọi là nhẫn nhục Ba la mật” v.v... và v.v...
Đây không
phải là lối nói “phủ định vô địch” của Tâm Kinh mà Thiền sư D.T. Suzuki thường
ca tụng. Đây cũng không phải là lối nói “đảo nghịch táo bạo” để dựng dậy cái
tâm ngái ngủ ngàn đời của người học đạo. Đây là lối nói: Vừa phủ định lại vừa
xác định, nhưng phủ định không có nghĩa là chối bỏ, xác định không có nghĩ là
đồng ý. Lối diễn đạt ở đây cũng không phải diễn dịch hay qui-nạp hay trong
phương-pháp-luận thường tục. Nên mới thoáng đọc có vẻ không bình thường. Không
bình thường nhưng lại rất bình thường, nên nói là lối diễn đạt kỳ đặc: “Nói đó rồi phủi đó, phủi hết, phủi sạch
không để tâm thể nắm bắt cất giữ bất cứ thứ gì”. Đoạn hay khiển là còn động
niệm đôi chút mặc dầu là cần thiết trong việc tu hành, nhưng phủi có nghĩa là
gạt nhẹ, buông bỏ hay phóng xả không để bất cứ thứ gì vướng bận nơi tâm.
Kinh này đối
với một số tác giả khác gọi là “Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật”. Nhưng Hội thứ IX
của Đại Bát Nhã lại gọi tên là “Kim Cương Năng Đoạn”. Nên một số các nhà chiết
giải Kinh này thường nói: Gươm kim cương mỗi khi vung lên là chặt đứt gốc rễ
đến tận cùng, mục đích không ngoài đoạn tâm để được bình đẳng như như mà sống
trong tự tại! Đối với chúng tôi: Lối diễn đạt của Kinh này không thể đặt tên,
tạm gọi là “già chiếu đồng thời”: Nói khác là một bài pháp phá chấp hay nhất: Nói
đó rồi phủi đó, phủi đó rồi nói đó, có hay không, xấu hay tốt... đều phủi hết,
cốt không để người nghe nắm giữ, cất dấu bất cứ thứ gì dù được coi là quý báu
nhất.
Thật là một
bộ kinh quá nhỏ, chỉ có một quyển mà giáo lý quá thậm thâm vi diệu. Nếu ai thọ
trì kinh này cẩn thận thì sẽ có được một bước tiến khá vững chắc trên con đường
học đạo, không cần tìm pháp nọ pháp kia.
Bây giờ,
chúng ta đọc tụng tiếp Hội thứ X. Phật thuyết pháp môn này tại vương cung của
trời Tha hóa tự tại tên “Nhất thiết
pháp thậm thâm vi diệu Bát Nhã lý thú thanh tịnh” cho các Bồ tát nghe. Chính nhờ pháp môn này
mà chư Phật hiện đẳng giác và Phật đoan quyết rằng chúng sanh nào thọ trì pháp
môn sâu xa mầu nhiệm này, thì sẽ dứt trừ được tất cả “phiền não chướng,
nghiệp chướng, báo chướng, dù cho chứa nhóm nhiều cũng chẳng thể nhiễm; tuy đã
tạo các ác nghiệp cực trọng nhưng cũng dễ tiêu trừ, chẳng đọa ác thú”.
Đó là phần “Lý Thú Bát Nhã” của pháp hội thứ X
thuyết tiếp sau đây. Mong rằng pháp hội này thật sự mang lại nhiều lý thú cho
độc giả!
Nhưng muốn
xóa bỏ tất cả phiền não chướng, nghiệp chướng, báo chướng cực kỳ nghiêm trong
đời và không bị đọa vào ác thú trong nhiều đời kiếp thì phải thọ trì cẩn thận
pháp hội này. Vì tất cả các giáo pháp ở đây rất cô động, rất khó hiểu. Phải
kiên nhẫn trì tụng thôi.
---o0o---