PHẨM “VIỄN LY”
Cuối quyển 423 đến hết quyển 424, Hội thứ II.
(Tương đương phần cuối phẩm “Quán Hạnh”, Q.71 - Q.74, Hội thứ I, ĐBN)
Tóm
lược:
Bấy giờ, cụ thọ Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện rằng:
- Nhân giả: Thế nào gọi là Bồ tát Ma ha tát? Thế nào gọi là Bát
nhã Ba la mật? Thế nào gọi là quán sát các pháp?
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện đáp rằng:
- Tôn giả hỏi sao gọi là Bồ tát Ma ha tát?
- Xá Lợi Tử! Kẻ siêng cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề lợi vui
hữu tình, nên gọi Bồ tát. Đã giác như thật, năng khắp biết rõ tướng tất cả pháp
mà không sở chấp, nên lại gọi Ma ha tát.
Xá Lợi Tử lại hỏi Thiện Hiện rằng:
- Thế nào là Bồ tát Ma ha tát năng khắp biết rõ tướng tất cả
pháp mà không sở chấp?
Thiện Hiện đáp rằng:
- Xá Lợi Tử! Các Bồ tát như thật biết rõ tất cả tướng sắc mà
không sở chấp, như thật biết rõ tất cả tướng thọ tưởng hành thức mà không sở
chấp. Như thật biết rõ tất cả tướng mười hai xứ mà không sở chấp, như thật biết
rõ tất cả tướng mười tám giới mà không sở chấp. Như thật biết rõ tất cả tướng
nhãn xúc mà không sở chấp, như thật biết rõ tất cả tướng nhĩ tỷ thiệt thân ý
xúc mà không sở chấp. Như thật biết rõ tất cả tướng nhãn xúc làm duyên sanh ra
các thọ mà không sở chấp, như thật biết rõ tất cả tướng nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc
làm duyên sanh ra các thọ mà không sở chấp. Như thật biết rõ tất cả tướng nội
không mà không sở chấp, như thật biết rõ tất cả tướng ngoại không cho đến vô
tánh tự tánh không mà không sở chấp. Như thật biết rõ tất cả tướng pháp giới mà
không sở chấp; như thật biết rõ tất cả tướng chơn như, thật tế, bất tư nghì
giới, an ẩn giới… mà không sở chấp. Như thật biết rõ tất cả tướng sáu Ba la mật
mà không sở chấp; như thật biết rõ ba mươi bảy pháp trợ đạo mà không sở chấp.
Như vậy, cho đến như thật biết rõ tất cả tướng Phật mười lực, tất cả tướng bốn
vô sở úy cho đến mười tám pháp Phật bất cộng mà không sở chấp. Cho đến như thật
biết rõ tất cả tướng Nhất thiết trí mà không sở chấp; như thật biết rõ tất cả
tướng Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí mà không sở chấp.
Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện rằng:
- Tại sao lại gọi là tướng tất cả pháp?
Thiện Hiện đáp rằng:
- Xá Lợi Tử! Nếu do tướng trạng các hành biểu hiện như
vậy mà biết các pháp là sắc, là thanh, là hương, là vị, là xúc, là pháp, là bên
trong, là bên ngoài, là hữu lậu, là vô lậu, là hữu vi, là vô vi. Những tên này
là tướng tất cả pháp.
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Tôn giả đã hỏi: Thế nào gọi là Bát nhã
Ba la mật. Xá Lợi Tử! Có trí tuệ thắng diệu thì biết chỗ cần phải xa
lìa, nên gọi là Bát nhã Ba la mật.
Xá Lợi Tử nói:
- Trí này đối với pháp nào mà được vĩnh viễn xa lìa?
Thiện Hiện đáp:
- Trí tuệ này có thể xa lìa các uẩn, các xứ, các giới, các
phiền não kiến, và sáu đường v.v... nên gọi là Bát nhã Ba la mật. Lại nữa, Xá
Lợi Tử! Có trí tuệ thắng diệu thì biết chỗ vĩnh viễn đạt đến, nên gọi Bát nhã
Ba la mật.
Xá Lợi Tử hỏi:
- Trí này đối với pháp nào được vĩnh viễn đạt đến?
Thiện Hiện đáp rằng:
- Đối bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật đều năng vĩnh viễn đạt
đến, nên gọi Bát nhã Ba la mật. Đây đối nội không cho đến vô tánh tự tánh không
đều năng vĩnh viễn đạt đến, nên gọi Bát nhã Ba la mật. Đây đối bốn niệm trụ cho
đến tám Thánh đạo chi đều năng vĩnh viễn đạt đến, nên gọi Bát nhã Ba la mật.
Như vậy, đối Phật mười lực cho đến mười tám Phật bất cộng đều năng vĩnh viễn
đạt đến, nên gọi Bát nhã Ba la mật. Cho đến đây đối Nhất thiết trí, Đạo tướng
trí, Nhất thiết tướng trí đều năng vĩnh viễn đạt đến, nên gọi Bát nhã Ba la mật.
Xá Lợi Tử! Do nhân duyên đây nói là Bát nhã Ba la mật.
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Tôn giả đã hỏi: Như thế nào gọi là
quán sát các pháp. Xá Lợi Tử! Các Bồ tát khi tu hành Bát Nhã quán sát sắc cho
đến thức phi thường phi vô thường, phi vui phi khổ, phi ngã phi vô ngã, phi
tịnh phi bất tịnh, phi không phi bất không, phi hữu tướng phi vô tướng, phi hữu
nguyện phi vô nguyện, phi vắng lặng phi chẳng vắng lặng, phi xa lìa phi chẳng
xa lìa. Quán sát mười hai xứ, mười tám giới phi thường phi vô thường, phi vui phi
khổ, phi ngã phi vô ngã, phi tịnh phi bất tịnh v.v... cũng lại như thế. Quán
sát nhãn xúc cho đến ý xúc, quán sát nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến
ý xúc làm duyên sanh ra các thọ cũng lại như thế. Quán sát nội không cho đến vô
tánh tự tánh không... nói rộng ra cho đến quán sát tất cả pháp Phật cũng lại
như thế. Xá Lợi Tử! Tất cả như thế gọi là quán sát các pháp. Xá Lợi Tử! Các Bồ
tát khi tu hành Bát Nhã nên tác quán các pháp như vậy. (Q. 423, ĐBN)
Bấy giờ, cụ thọ Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện rằng: Nhân giả!
Duyên nào tác thuyết như vầy: Sắc chẳng sanh chẳng diệt tức chẳng phải sắc,
thọ tưởng hành thức chẳng sanh chẳng diệt cũng chẳng phải thọ tưởng hành thức?
Như vậy, cho đến Nhất thiết trí chẳng sanh chẳng diệt tức chẳng phải Nhất thiết
trí; Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí chẳng sanh chẳng diệt cũng chẳng phải
Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí?
Thiện Hiện đáp rằng: Xá Lợi Tử! Sắc, sắc tánh không; thọ
tưởng hành thức, thọ tưởng hành thức tánh không. Trong tánh không đây không
sanh không diệt, cũng không sắc cho đến thức. Do đây nên nói sắc chẳng sanh
chẳng diệt tức chẳng phải sắc, thọ tưởng hành thức chẳng sanh chẳng diệt cũng
chẳng phải thọ tưởng hành thức.
Xá Lợi Tử! Như vậy cho đến Nhất thiết trí, Nhất thiết trí
tánh không; Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí; Đạo tướng trí, Nhất thiết
tướng trí tánh không. Trong tánh không đây không sanh không diệt, cũng không
Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Do đây nên nói Nhất thiết
trí chẳng sanh chẳng diệt tức chẳng phải Nhất thiết trí; Đạo tướng trí, Nhất
thiết tướng trí chẳng sanh chẳng diệt cũng chẳng phải Đạo tướng trí, Nhất thiết
tướng trí.
Bấy giờ, cụ thọ Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện rằng: Nhân giả!
Duyên nào tác thuyết như vầy: Sắc chẳng hai tức chẳng phải sắc,
thọ tưởng hành thức chẳng hai cũng chẳng phải thọ tưởng hành thức? Như vậy cho
đến Nhất thiết trí chẳng hai tức chẳng phải Nhất thiết trí; Đạo tướng trí, Nhất
thiết tướng trí chẳng hai cũng chẳng phải Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí?
Thiện Hiện đáp rằng: Xá Lợi Tử! Hoặc sắc hoặc chẳng hai, hoặc
thọ tưởng hành thức hoặc chẳng hai. Tất cả như thế đều chẳng tương ưng, chẳng
phải chẳng tương ưng, vô sắc, vô kiến, vô đối, nhất tướng, chỗ gọi vô tướng. Do
đây nên nói sắc chẳng hai tức chẳng phải sắc, thọ tưởng hành thức chẳng hai cũng
chẳng phải thọ tưởng hành thức.
Xá Lợi Tử! Như vậy, cho đến hoặc Nhất thiết trí hoặc chẳng
hai; hoặc Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí hoặc chẳng hai. Tất cả như thế
đều chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng, vô sắc, vô kiến, vô đối, nhất
tướng, chỗ gọi vô tướng. Do đây nên nói Nhất thiết trí chẳng hai tức chẳng phải
Nhất thiết trí; Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí chẳng hai cũng chẳng phải
Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. (Q.
423, ĐBN)
Bấy giờ, cụ thọ Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện rằng: Nhân giả!
Duyên nào tác thuyết như vầy: Sắc vào vô nhị pháp số, thọ tưởng hành
thức vào vô nhị pháp số? Như vậy cho đến Nhất thiết trí vào vô nhị pháp số; Đạo
tướng trí, Nhất thiết tướng trí vào vô nhị pháp số?
Thiện Hiện đáp rằng: Xá Lợi Tử! Sắc chẳng khác vô sanh vô
diệt, vô sanh vô diệt chẳng khác sắc; sắc tức là vô sanh vô diệt, vô sanh vô
diệt tức là sắc. Thọ tưởng hành thức chẳng khác vô sanh vô diệt, vô sanh vô
diệt chẳng khác thọ tưởng hành thức; thọ tưởng hành thức tức là vô sanh vô
diệt, vô sanh vô diệt tức là thọ tưởng hành thức. Do đây nên nói sắc vào pháp
số không hai, thọ tưởng hành thức vào pháp số không hai.
Xá Lợi Tử! Như vậy, cho đến Nhất thiết trí chẳng khác vô sanh
vô diệt, vô sanh vô diệt chẳng khác Nhất thiết trí; Nhất thiết trí tức là vô sanh
vô diệt, vô sanh vô diệt tức là Nhất thiết trí. Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng
trí cũng lại như thế!
(Đoạn Kinh dưới đây tương đương với phẩm “Vô Sanh”,
phần cuối Q.74 - 75, Hội thứ I. ĐBN)
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Nếu
khi Bồ tát tu hành Bát Nhã quán sát các pháp, khi ấy Bồ tát Ma ha tát thấy ngã
vô sanh rốt ráo tịnh vậy, cho đến thấy kiến giả vô sanh rốt ráo tịnh vậy.
Thấy sắc vô sanh rốt ráo tịnh vậy, cho đến thấy thức vô sanh rốt ráo tịnh vậy.
Thấy mười hai xứ, mười tám giới vô sanh rốt ráo tịnh vậy. Thấy nhãn xúc vô sanh
rốt ráo tịnh vậy, cho đến thấy ý xúc vô sanh rốt ráo tịnh vậy. Thấy nhãn xúc
làm duyên sanh ra các thọ vô sanh rốt ráo tịnh vậy, cho đến thấy ý xúc làm
duyên sanh ra các thọ vô sanh rốt ráo tịnh vậy. Thấy nội không vô sanh rốt ráo
tịnh vậy, cho đến thấy vô tánh tự tánh không vô sanh rốt ráo tịnh vậy. Thấy sáu
Ba la mật, ba mươi bảy pháp trợ đạo, Phật mười lực vô sanh rốt ráo tịnh vậy,
cho đến thấy mười tám pháp Phật bất cộng vô sanh rốt ráo tịnh vậy. Thấy pháp Dự
lưu cho đến pháp A la hán vô sanh rốt ráo tịnh vậy, thấy Dự lưu cho đến A la
hán vô sanh rốt ráo tịnh vậy. Thấy pháp Độc giác vô sanh rốt ráo tịnh vậy, thấy
Độc giác vô sanh rốt ráo tịnh vậy. Thấy tất cả pháp Bồ tát vô sanh rốt ráo tịnh
vậy, thấy tất cả Bồ tát vô sanh rốt ráo tịnh vậy. Thấy pháp chư Phật vô sanh
rốt ráo tịnh vậy, thấy chư Phật vô sanh rốt ráo tịnh vậy. Thấy pháp tất cả hữu
tình vô sanh rốt ráo tịnh vậy, thấy tất cả hữu tình vô sanh rốt ráo tịnh vậy.
Bấy giờ, cụ thọ Xá Lợi Tử bảo Thiện Hiện rằng: Như tôi hiểu
nghĩa Nhân giả đã nói ngã cho đến kiến giả rốt ráo chẳng sanh. Sắc cho đến thức
rốt ráo chẳng sanh. Như vậy, cho đến pháp chư Phật và chư Phật rốt ráo chẳng
sanh. Tất cả pháp hữu tình và tất cả hữu tình rốt ráo chẳng sanh. Nếu như thế,
sáu thú thọ sanh lẽ không sai khác: Dự lưu chẳng được quả Dự lưu. Nhất lai
chẳng được quả Nhất lai cho đến A la hán chẳng được quả A la hán. Độc giác
chẳng được Độc giác Bồ đề. Bồ tát chẳng được Nhất thiết tướng trí. Bồ tát không
thể nào thấy sáu đường sanh tử sanh lòng nhàm chán, muốn chứng đắc năm pháp Bồ
để cứu vớt hữu tình.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu tất cả pháp rốt ráo không sanh
thì tại sao Dự lưu vì quả Dự lưu siêng năng tu đạo đoạn hẳn ba kiết sử. Tại sao
Nhất lai vì quả Nhất lai siêng năng tu đạo đoạn thêm tham, sân, si. Tại sao Bất
hoàn vì quả Bất hoàn siêng năng tu đạo đoạn hẳn hạ phần kiết sử. Tại sao A la
hán vì quả A la hán siêng năng tu đạo đoạn hẳn thượng phần kiết sử. Tại sao Độc
giác vì quả Độc giác siêng năng tu đạo tự mình ngộ pháp duyên khởi. Tại sao Bồ
tát vì độ vô lượng, vô biên hữu tình tu nhiều trăm ngàn hạnh khổ khó làm, chịu
đủ vô lượng khổ lớn khó nhẫn. Tại sao Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chứng đắc Vô
Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Tại sao chư Phật vì độ vô lượng hữu tình khổ nên
chuyển bánh xe chánh pháp?
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bảo Xá lợi Tử:
- Chẳng phải tôi ở trong pháp vô sanh kia thấy có sáu đường
thọ sanh sai khác. Chẳng phải tôi ở trong pháp vô sanh kia thấy có người có thể
vào Thánh đế hiện quán. Chẳng phải tôi ở trong pháp vô sanh kia thấy có Dự lưu
đắc quả Dự lưu, thấy có Nhất lai đắc quả Nhất lai, thấy có Bất hoàn đắc quả Bất
hoàn, thấy có A la hán đắc quả A la hán, thấy có Độc giác đắc quả Độc giác,
thấy có Bồ tát đắc Nhất thiết tướng trí. Chẳng phải tôi ở trong pháp vô sanh
kia thấy có Bồ tát nhàm chán sanh tử, đắc năm Bồ đề. Chẳng phải tôi ở trong
pháp vô sanh kia thấy có Thanh văn tu đạo đoạn kiết sử, thấy có Độc giác siêng
năng tu đạo tự mình ngộ pháp duyên khởi. Chẳng phải tôi ở trong pháp vô sanh kia
thấy có Bồ tát vì độ hữu tình nên tu nhiều hạnh khổ, chịu các khổ lớn, nhưng
các Bồ tát không phát sanh tưởng về hạnh khổ khó làm. Vì sao? Này Xá lợi Tử! Vì
nếu phát sanh tưởng về hạnh khổ khó làm, thì rốt cuộc không thể làm lợi ích lớn
cho vô lượng, vô số, vô biên hữu tình.
Này Xá lợi Tử! Tất cả Bồ tát đem vô sở đắc làm phương tiện,
đối với các hữu tình sanh tâm đại bi, an trụ tưởng như cha mẹ, anh em, vợ con
và thân mình. Vì độ thoát cho họ nên phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác
mới có thể làm lợi ích lớn cho họ.
Này Xá lợi Tử! Tất cả Bồ tát nên nghĩ như vầy: Như tự tánh
của ngã đối với tất cả pháp dùng tất cả phương tiện, tất cả nơi chốn, tất cả
thời gian mong cầu đều bất khả đắc. Các pháp nội ngoại cũng như vậy, đều vô sở
hữu bất khả đắc. Nếu trụ tưởng này liền không thấy có hạnh khổ khó làm. Do đây
có thể tu nhiều trăm ngàn hạnh khổ khó làm, làm lợi ích lớn cho vô lượng, vô
số, vô biên hữu tình. Vì sao? Vì Bồ tát này đối với tất cả pháp, tất cả hữu
tình, tất cả phương tiện, tất cả nơi chốn, tất cả thời gian đều không chấp lấy.
Này Xá lợi Tử! Chẳng phải tôi ở trong pháp vô sanh kia thấy
có Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác,
chuyển bánh xe diệu pháp độ vô lượng chúng sanh. Vì sao? Xá lợi Tử! Vì tất cả
pháp, tất cả hữu tình bất khả đắc.
Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện rằng:
- Ý ông muốn sao? Vì muốn đem pháp sanh để được sở chứng, hay
muốn đem pháp vô sanh để được sở chứng?
Thiện Hiện đáp:
- Tôi chẳng muốn đem pháp sanh để được sở chứng, cũng chẳng
muốn đem pháp vô sanh để được sở chứng.
Xá lợi Tử hỏi:
- Nếu như vậy thì làm gì có đắc, có hiện quán?
Thiện Hiện đáp:
- Tuy có đắc, có hiện quán nhưng thật không do hai pháp ấy
có chứng đắc. Này Xá lợi Tử! Chỉ là tùy theo thế gian mà nói, lập ra có đắc
có hiện quán, chứ chẳng phải trong thắng nghĩa có đắc có hiện quán. Cũng vậy,
chỉ là tùy theo thế gian mà nói, lập ra Dự lưu, có quả Dự lưu, Nhất lai có quả
Nhất lai, Bất hoàn có quả Bất hoàn, A la hán có quả A la hán, Độc giác có quả
Độc giác, Bồ tát có Bồ tát hạnh, chư Phật có quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh
Giác của chư Phật chứ chẳng phải trong thắng nghĩa có Dự lưu v.v...
Xá lợi Tử hỏi:
- Nếu tùy theo thế gian mà nói, lập ra có đắc có hiện quán và
có quả Dự lưu cho đến có quả Vô Thượng Bồ đề chứ chẳng phải là thắng nghĩa, thì
sáu đường sai khác cũng tùy theo thế gian mà nói, chứ chẳng phải thắng nghĩa
sao?
Thiện Hiện đáp:
- Đúng vậy! Vì sao? Này Xá lợi Tử! Vì chẳng phải trong thắng
nghĩa có nghiệp dị thục và nhiễm tịnh.
Khi ấy, Xá lợi Tử hỏi Thiện Hiện:
- Ý ông muốn thế nào? Vì muốn làm cho pháp chưa sanh được
sanh, hay là muốn làm cho pháp đã sanh sanh?
Thiện Hiện đáp:
- Tôi không muốn làm cho pháp chưa sanh, được sanh, cũng
không muốn làm cho pháp đã sanh sanh.
Xá lợi Tử hỏi:
- Những gì là pháp chưa sanh mà nhân giả không muốn làm cho
pháp đó sanh?
Thiện Hiện đáp:
Xá Lợi Tử! Sắc là pháp chưa sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh.
Vì sao? Vì tự tánh không vậy. Thọ tưởng hành thức là pháp chưa sanh, tôi chẳng
muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh không vậy. Cho đến chư Phật Vô Thượng Chánh
Đẳng Bồ đề là pháp chưa sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh
không vậy.
Xá lợi Tử hỏi:
- Những gì là pháp đã sanh mà nhân giả không muốn làm cho pháp ấy sanh?
Thiện Hiện đáp:
- Này Xá Lợi Tử! Sắc là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn khiến
sanh. Vì sao? Vì tự tánh không vậy. Thọ tưởng hành thức là pháp đã sanh, tôi
chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh không vậy. Cho đến chư Phật Vô Thượng
Chánh Đẳng Bồ đề là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh
không vậy.
Khi ấy, Xá lợi Tử hỏi Thiện Hiện:
- Vì muốn khiến sanh sanh, hay muốn khiến chẳng sanh sanh?
Thiện Hiện đáp rằng:
-Tôi chẳng muốn khiến sanh sanh, cũng chẳng muốn khiến chẳng
sanh sanh. Vì sao? Xá Lợi Tử! Sanh cùng chẳng sanh hai pháp như thế đều chẳng
tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng, vô sắc, vô kiến, vô đối, nhất tướng, chỗ
gọi vô tướng. Do nhân duyên đây tôi chẳng muốn khiến sanh sanh, cũng chẳng muốn
khiến chẳng sanh sanh.
Xá lợi Tử lại hỏi Thiện Hiện:
- Đối với pháp vô sanh đã nói, nhân giả có muốn biện thuyết
tướng vô sanh không?
Thiện Hiện đáp:
- Xá lợi Tử! Đối với pháp vô sanh đã nói, tôi cũng không muốn
biện thuyết tướng vô sanh. Vì sao? Này Xá lợi Tử! Vì hoặc pháp vô sanh, hoặc
tướng vô sanh, hoặc muốn biện thuyết, tất cả như vậy đều chẳng tương ưng, chẳng
phải chẳng tương ưng, vô sắc, vô kiến, vô đối, nhất tướng gọi là vô tướng.
Xá lợi Tử lại hỏi Thiện Hiện:
- Đối với pháp không sanh phát sanh lời nói không sanh, lời
nói không sanh này cũng không sanh phải không?
Thiện Hiện đáp:
- Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Đối với pháp không sanh
phát sanh lời nói không sanh. Nghĩa của pháp và lời này đều không sanh. Vì sao?
Này Xá lợi Tử! Vì sắc không sanh; thọ, tưởng, hành, thức cũng không sanh. Vì
sao? Vì bản tánh là không. Mười hai xứ, mười tám giới không sanh. Vì sao? Vì
bản tánh là không. Nhãn xúc không sanh; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc cũng không
sanh. Vì sao? Vì bản tánh là không. Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra không
sanh; các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra cũng không sanh.
Vì sao? Vì bản tánh là không. Địa giới không sanh; thủy, hỏa, phong, không,
thức giới cũng không sanh. Vì sao? Vì bản tánh là không. Thân hành không sanh;
ngữ hành, ý hành cũng không sanh. Vì sao? Vì bản tánh là không. Bố thí Ba la
mật không sanh, cho đến Nhất thiết tướng trí cũng không sanh. Vì sao? Vì bản
tánh là không.
Này Xá Lợi Tử! Do nhân duyên này, đối với pháp không sanh
phát sanh lời không sanh; nghĩa và lời này đều không sanh.
Này Xá lợi Tử! Nghĩa của pháp thuyết ra, hoặc người thuyết,
hoặc người nghe đều vô sanh.
Bấy giờ, cụ thọ Xá lợi Tử khen Thiện Hiện:
- Trong những người thuyết pháp, Ngài là bậc nhất, trừ Phật
Thế Tôn không ai có thể bì kịp. Vì sao? Vì tùy theo các lời cật vấn về các pháp
môn Ngài đều đối đáp không có trở ngại.
Thiện Hiện đáp:
- Các đệ tử chư Phật đối với tất cả pháp không nương vào chấp
trước. Pháp đó đều có thể tùy theo lời cật vấn, mỗi mỗi đều đối đáp tự tại
không lo ngại. Vì sao? Vì tất cả pháp không có chỗ nương tựa.
Xá lợi Tử hỏi:
- Vì sao các pháp hoàn toàn không có chỗ nương?
Thiện Hiện đáp:
- Này Xá lợi Tử! Bản tánh của sắc là không, không nương
trong, không nương ngoài, không nương khoảng giữa. Bản tánh của thọ, tưởng,
hành, thức cũng là không, không nương trong, không nương ngoài, không nương
khoảng giữa. Bản tánh của mười hai xứ, mười tám giới là không, không
nương trong, không nương ngoài, không nương khoảng giữa. Bản tánh của nhãn xúc
là không, không nương trong, không nương ngoài, không nương khoảng giữa. Bản
tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc cũng là không, không nương trong, không
nương ngoài, không nương khoảng giữa. Bản tánh của các thọ do nhãn xúc làm
duyên sanh ra là không, không nương bên trong, không nương bên ngoài, không
nương khoảng giữa. Bản tánh của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm
duyên sanh ra cũng là không, không nương bên trong, không nương bên ngoài,
không nương khoảng giữa. Cho đến bản tánh của tất cả pháp Phật cũng là không,
không nương trong, không nương ngoài, không nương khoảng giữa.
Này Xá lợi Tử! Do nhân duyên này, ta nói bản tánh của các
pháp là không, nên hoàn toàn không có chỗ nương.
Lại nữa, này Xá lợi Tử! Các Bồ tát khi tu hành sáu pháp Ba la
mật nên thanh tịnh sắc cho đến thức. Nên thanh tịnh nhãn xứ cho đến ý
xứ. Nên thanh tịnh sắc xứ cho đến pháp xứ. Nên thanh tịnh nhãn giới cho đến ý
giới. Nên thanh tịnh sắc giới cho đến pháp giới. Nên thanh tịnh nhãn thức giới
cho đến ý thức giới. Nên thanh tịnh nhãn xúc cho đến ý xúc. Nên thanh tịnh các
thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra.
Nên thanh tịnh sáu pháp Ba la mật, 37 pháp trợ đạo, Như Lai mười lực, mười tám
pháp Phật bất cộng, cho đến nên thanh tịnh Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất
thiết tướng trí. Nên thanh tịnh đạo Bồ đề.
Lúc bấy giờ, cụ thọ Xá lợi Tử hỏi Thiện Hiện:
- Thế nào là Bồ tát khi tu hành sáu pháp Ba la mật làm thanh
tịnh đạo Bồ đề?
Thiện Hiện đáp:
- Này Xá lợi Tử! Sáu Ba la mật đều có hai loại: Một là thế
gian; hai là xuất thế gian.
Xá lợi Tử hỏi:
- Thế nào là bố thí thế gian? Thế nào là bố thí Ba la mật
xuất thế gian?
Thiện Hiện đáp:
- Này Xá lợi Tử! Bồ tát nào làm vị đại thí chủ, có thể bố thí
cho tất cả Sa môn, Bà la môn, người nghèo, người bệnh, người đơn côi, người đi
đường, người đi xin, cần ăn cho ăn, cần uống cho uống, cần xe cho xe, cần y
phục cho y phục, cần thuốc thang cho thuốc thang, cần đèn sáng cho đèn sáng,
cần đồ ngồi nằm cho đồ ngồi nằm v.v… Xin tay chân, máu mủ, xương tủy v.v… Như
vậy tất cả các vật bên trong, bên ngoài tùy theo người đó xin vật gì đều cho
đầy đủ. Nhưng khi hành bố thí như vậy, lại lấy sở đắc làm phương tiện
mong cầu đời này đời sau được an lạc cho đến chứng đắc Vô dư y Niết bàn. Người
đó chấp trước ba luân mà hành bố thí. Những gì là ba? Nghĩa là tưởng mình,
tưởng người, tưởng vật thí. Do chấp trước ba luân này mà hành bố thí, nên gọi
là bố thí thế gian.
Này Xá lợi Tử! Bồ tát khi hành bố thí cần phải thanh tịnh ba
luân. Những gì là ba? Một là không chấp ta là người thí; hai là không chấp
người kia là người nhận; ba là không chấp bố thí và quả bố thí. Bồ tát này khi
hành bố thí cần phải thanh tịnh ba luân.
Lại nữa, này Xá lợi Tử! Bồ tát nào lấy đại bi làm đầu, tu
phước bố thí cho khắp hữu tình. Đối với các hữu tình hoàn toàn vô sở đắc.
Cùng hữu tình bình đẳng đồng hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác nhưng ở
trong đó không thấy chút tướng nào. Do hoàn toàn không chấp trước mà hành bố
thí, nên gọi là bố thí Ba la mật xuất thế gian. Do duyên nào bố thí này gọi
là xuất thế gian? Vì việc làm không đồng với thế gian. Do đây nên nói là bố
thí Ba la mật xuất thế gian.
Xá lợi Tử hỏi:
- Thế nào là tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã
thế gian? Thế nào là tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật
xuất thế gian?
Thiện Hiện đáp:
- Xá lợi Tử! Bồ tát nào khi tu hành tịnh giới, an nhẫn, tinh
tấn, tịnh lự, Bát Nhã mà nương tựa, chấp trước ba luân, thì gọi là tu
hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã thế gian. Vì việc làm giống
với thế gian. Bồ tát nào khi tu hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát
Nhã mà không nương tựa, chấp trước, mà ba luân thanh tịnh, thì gọi là Ba la mật
xuất thế gian, vì việc làm không cùng với thế gian.
Này Xá lợi Tử! Như vậy, Bồ tát khi tu hành 6 pháp Ba la mật
làm thanh tịnh đạo Bồ đề.
Bấy giờ, cụ thọ Xá lợi Tử hỏi Thiện Hiện:
- Đạo Bồ đề của Bồ tát là gì?
Thiện Hiện đáp:
- Này Xá lợi Tử! Pháp không nội cho đến pháp không vô tánh
tự tánh là đạo Bồ đề của Bồ tát. Chơn như, pháp giới, thật tế, cảnh giới bất tư
nghì v.v... là đạo Bồ đề của Bồ tát. Bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật, tứ niệm
xứ cho đến ba mươi bảy pháp trợ đạo là đạo Bồ đề của Bồ tát. Pháp môn giải
thoát không, pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện là đạo Bồ đề của Bồ tát.
Tất cả môn Tam ma địa, tất cả môn Đà la ni là đạo Bồ đề của Bồ tát. Như Lai
mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng là đạo Bồ đề của Bồ tát.
Này Xá lợi Tử! Các pháp như vậy tích tụ công đức lớn vô
lượng, vô biên, đều là đạo Bồ đề của Bồ tát.
Lúc ấy, Xá lợi Tử khen Thiện Hiện:
- Lành thay! Lành thay! Đúng như lời ông nói. Này Thiện Hiện!
Công đức lớn tích tụ như vậy, là do thế lực của những Ba la mật nào làm được
như vậy?
Thiện Hiện đáp:
- Này Xá lợi Tử! Công đức lớn tích tụ đã nói như vậy đều do
thế lực Bát nhã Ba la mật làm ra. Vì sao? Này Xá lợi Tử! Vì Bát nhã Ba la mật
này năng làm mẹ tất cả pháp thiện. Pháp thiện của tất cả Thanh văn, Độc giác,
Bồ tát, chư Phật đều từ đây mà sanh, cũng nương đây mà trụ.
Này Xá lợi Tử! Chúng Bồ tát đời quá khứ tu hành Bát Nhã rất
viên mãn, nên đã chứng quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Chúng Bồ tát đời vị
lai tu hành Bát Nhã rất viên mãn, nên sẽ chứng quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh
Giác. Chúng Bồ tát trong vô lượng thế giới chư Phật khắp mười phương đời hiện
tại tu hành Bát Nhã rất viên mãn nên hiện chứng quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh
Giác.
Thiện Hiện bảo:
- Lại nữa, Xá Lợi Tử! Nếu Bồ tát nghe thuyết Bát nhã Ba la
mật tâm không nghi lầm, cũng không mê muội, phải biết Bồ tát này chẳng xả bỏ
tác ý tương ưng đại bi, lấy vô sở đắc mà làm phương tiện, thường siêng cứu vớt
tất cả hữu tình.
Khi ấy, Xá Lợi Tử bảo Thiện Hiện rằng:
- Nếu Bồ tát trụ như thế, hằng chẳng xả bỏ, trọn nên tác ý
tương ưng đại bi ấy, thời tất cả hữu tình lẽ ra cũng thành Bồ tát. Vì sao? Vì
tất cả hữu tình cũng trụ nơi đây và cũng có tác ý này, thường chẳng xả bỏ, thời
các Bồ tát cùng tất cả hữu tình lẽ không sai khác?
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bảo Xá lợi Tử:
- Lành thay! Lành thay! Thật như đã nói. Năng như thật biết ý
tôi muốn nói. Tuy hỏi tôi nhưng giống như làm rõ nghĩa tôi muốn nói. Vì sao?
Này Xá lợi Tử! Vì hữu tình chẳng có, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng chẳng
có, hữu tình không có thật, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng không có thật,
hữu tình vô tánh, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng vô tánh, hữu tình không,
nên biết trụ và tác ý như vậy cũng không, hữu tình viễn ly, nên biết trụ và tác
ý như vậy cũng viễn ly, hữu tình tịch tịnh, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng
tịch tịnh, hữu tình không hiểu biết, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng không
hiểu biết.
Này Xá lợi Tử! Sắc cho đến thức chẳng có, nên biết trụ và tác
ý như vậy cũng chẳng có. Sắc cho đến thức không có thật, nên biết trụ và tác ý
như vậy cũng không có thật. Sắc cho đến thức vô tánh, nên biết trụ và tác ý như
vậy cũng vô tánh. Sắc cho đến thức không, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng
không. Sắc cho đến thức viễn ly, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng viễn ly.
Sắc cho đến thức tịch tịnh, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng tịch tịnh. Sắc
cho đến thức không hiểu biết, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng không hiểu
biết.
Này Xá lợi Tử! Mười hai xứ, mười tám giới chẳng có, nên biết
trụ và tác ý như vậy cũng chẳng có; mười hai xứ, mười tám giới không có thật,
nên biết trụ và tác ý như vậy cũng không có thật, mười hai xứ, mười tám giới vô
tánh, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng vô tánh; mười hai xứ, mười tám giới
không, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng không; mười hai xứ, mười tám giới
viễn ly, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng viễn ly; mười hai xứ, mười tám giới
tịch tịnh, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng tịch tịnh; mười hai xứ, mười tám
giới không hiểu biết, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng không hiểu biết.
Này Xá lợi Tử! Nhãn xúc cho đến ý xúc chẳng có, nên biết trụ
và tác ý như vậy cũng chẳng có. Nhãn xúc cho đến ý xúc không có thật, nên biết
trụ và tác ý như vậy cũng không có thật. Nhãn xúc cho đến ý xúc vô tánh, nên
biết trụ và tác ý như vậy cũng vô tánh. Nhãn xúc cho đến ý xúc không, nên biết
trụ và tác ý như vậy cũng không. Nhãn xúc cho đến ý xúc viễn ly, nên biết trụ
và tác ý như vậy cũng viễn ly. Nhãn xúc cho đến ý xúc tịch tịnh, nên biết trụ
và tác ý như vậy cũng tịch tịnh. Nhãn xúc cho đến ý xúc không hiểu biết, nên biết
trụ và tác ý như vậy cũng không hiểu biết.
Này Xá lợi Tử! Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cho đến
các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra chẳng có, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng
chẳng có. Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cho đến các thọ do ý xúc làm
duyên sanh ra không có thật, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng không có thật.
Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh
ra vô tánh, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng vô tánh. Các thọ do nhãn xúc làm
duyên sanh ra cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra không, nên biết trụ và
tác ý như vậy cũng không. Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cho đến các thọ
do ý xúc làm duyên sanh ra viễn ly, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng viễn ly.
Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh
ra tịch tịnh, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng tịch tịnh. Các thọ do nhãn xúc
làm duyên sanh ra cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra không hiểu biết,
nên biết trụ và tác ý như vậy cũng không hiểu biết.
Này Xá lợi Tử! Địa giới cho đến thức giới chẳng có, nên biết
trụ và tác ý như vậy cũng chẳng có. Địa giới cho đến thức giới không có thật,
nên biết trụ và tác ý như vậy cũng không có thật. Địa giới cho đến thức giới vô
tánh, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng vô tánh. Địa giới cho đến thức giới
không, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng không. Địa giới cho đến thức giới
viễn ly, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng viễn ly. Địa giới cho đến thức giới
tịch tịnh, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng tịch tịnh. Địa giới cho đến thức
giới không hiểu biết, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng không hiểu biết.
Này Xá lợi Tử! Tất cả pháp Phật chẳng có, nên biết trụ và
tác ý như vậy cũng chẳng có; tất cả pháp Phật không có thật, nên biết trụ và
tác ý như vậy cũng không có thật; tất cả pháp Phật vô tánh, nên biết trụ và tác
ý như vậy cũng vô tánh; tất cả pháp Phật không, nên biết trụ và tác ý như vậy
cũng không; tất cả pháp Phật viễn ly, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng viễn
ly; tất cả pháp Phật tịch tịnh, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng tịch tịnh;
tất cả pháp Phật không hiểu biết, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng không hiểu
biết.
Này Xá lợi Tử! Thanh văn Bồ đề, Độc giác Bồ đề, Vô Thượng Bồ
đề chẳng có, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng chẳng có; Thanh văn Bồ
đề cho đến Vô Thượng Bồ đề không có thật, nên biết trụ và tác ý như vậy
cũng không có thật; Thanh văn Bồ đề cho đến Vô Thượng Bồ đề vô tánh, nên
biết trụ và tác ý như vậy cũng vô tánh; Thanh văn Bồ đề cho đến Vô Thượng Bồ đề
không, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng không; Thanh văn Bồ đề cho đến
Vô Thượng Bồ đề viễn ly, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng viễn ly;
Thanh văn Bồ đề cho đến Vô Thượng Bồ đề tịch tịnh, nên biết trụ và tác ý
như vậy cũng tịch tịnh; Thanh văn Bồ đề cho đến Vô Thượng Bồ đề không hiểu
biết, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng không hiểu biết.
Này Xá lợi Tử! Do nhân duyên này, các Bồ tát đối với việc trụ
và tác ý như vậy thường không rời bỏ, cũng không khác với hữu tình, vì tất cả
pháp không sai khác.
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn khen Thiện Hiện:
- Lành thay! Lành thay! Ông khéo thuyết giảng Bát nhã Ba la
mật cho các Bồ tát. Việc này hoàn toàn do thần lực của Như Lai. Nếu có người
nào muốn thuyết giảng Bát nhã Ba la mật cho các Bồ tát đều nên thuyết giảng như
ông. Bồ tát nào muốn học Bát nhã Ba la mật đều phải theo lời thuyết giảng của
ông mà học. Bồ tát nào theo lời thuyết giảng của ông mà học Bát nhã Ba la mật,
thời mau chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, chuyển bánh xe diệu pháp độ
vô lượng chúng sanh.
Khi cụ thọ Thiện Hiện thuyết giảng Bát nhã Ba la mật thậm
thâm như vậy cho các Bồ tát thì ở tam thiên đại thiên thế giới này biến động
sáu cách. Bấy giờ, Thế Tôn mỉm cười.
Cụ thọ Thiện Hiện liền bạch Phật:
- Do nhân duyên nào Ngài mỉm cười?
Phật bảo Thiện Hiện:
- Thiện Hiện! Như Ta hôm nay đang ở trong Tam thiên đại thiên
thế giới tuyên thuyết Bát nhã Ba la mật, cho các Bồ tát, có mười hai vạn ức
trời người v.v…, đối tất cả pháp được vô sanh nhẫn. Nay ở vô lượng, vô số, vô
biên thế giới trong mười phương cũng có Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đang thuyết
giảng Bát nhã Ba la mật, cũng có vô lượng, vô số, vô biên hữu tình đều phát tâm
Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác được lợi lạc lớn.
- Như ở Tam thiên đại thiên thế giới này, Ta đang thuyết
giảng Bát nhã Ba la mật cho các Bồ tát, có mười hai vạn ức trời người v.v…, đối
tất cả pháp được vô sanh nhẫn. Ngày nay, ở phương Đông có Như Lai Ứng Chánh
Đẳng Giác đang thuyết giảng Bát nhã Ba la mật cho các Bồ tát. Vô lượng, vô số,
vô biên thế giới ở phương Nam, Tây, Bắc, bốn góc, trên dưới cũng đều có Như Lai
Ứng Chánh Đẳng Giác đang thuyết giảng Bát nhã Ba la mật khiến vô lương, vô số,
vô biên chúng hữu tình ở ác cõi ấy, đều phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh
Giác được lợi lạc lớn.
Sơ
giải:
Tất cả giáo pháp của phẩm này đã được lặp lại nhiều lần,
ai cũng có thể hiểu nên không cần giải thích thêm. Điểm đáng lưu ý là phẩm này
nói:
“Tất cả pháp Phật chẳng có, nên biết trụ và tác ý như vậy
cũng chẳng có; tất cả pháp Phật không có thật, nên biết trụ và tác ý
như vậy cũng không có thật; tất cả pháp Phật vô tánh, nên biết trụ và
tác ý như vậy cũng vô tánh; tất cả pháp Phật không, nên biết trụ và tác
ý như vậy cũng không; tất cả pháp Phật viễn ly, nên biết trụ và tác ý
như vậy cũng viễn ly; tất cả pháp Phật tịch tịnh, nên biết trụ và tác ý
như vậy cũng tịch tịnh; tất cả pháp Phật không hiểu biết, nên biết trụ
và tác ý như vậy cũng không hiểu biết”.
Khi cụ thọ Thiện Hiện bảo Xá Lợi Tử như thế rồi kết luận: “Do
nhân duyên này, các Bồ tát đối với việc trụ và tác ý như vậy thường không rời
bỏ… (tất cả pháp Phật)”
Kinh thường bảo tất cả pháp Phật chẳng có, không thật, vô
tánh, tất cả pháp Phật là không, là viễn ly, là tịch tịnh, không hiểu biết. Tất
cả pháp Phật cũng không do Phật làm ra, cũng không do ai làm ra. Nếu tất cả mọi
người đều hiểu ra như vậy, trụ và tác ý như vậy thì thường không từ bỏ
tất cả pháp Phật, mau chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, chuyển bánh xe
diệu pháp độ vô lượng chúng sanh.
Rồi Phật bảo: Nếu có người nào muốn thuyết giảng Bát nhã
Ba la mật cho các Bồ tát thì phải như Thiện Hiện thuyết giảng giống như trong
phẩm “Viễn Ly” này!
Nói thì dễ nhưng hiểu biết “pháp Phật chẳng có, không
thật, vô tánh, tất cả pháp Phật là không, là viễn ly, là tịch tịnh, không hiểu
không biết” rồi giảng lại cho người là cả vấn đề. Phải tư duy thật sâu,
phải thực hành nhiều thì mới dám nói như vậy!
---o0o---