PHẨM “ XẢO TIỆN” hay “PHƯƠNG TIỆN THIỆN XẢO”
Quyển 460 cho đến phần đầu quyển 463, Hôi thứ II, ĐBN.
(Tương đương phần đầu phẩm “Đa Văn Bất Nhị”,
từ Q.351 - Q. 360, Hội thứ I, ĐBN)
Gợi ý:
Đây là một phẩm dài, giáo lý rất dồi dào, phong phú. Phẩm vừa tụng xong
thuyết về lục độ tương nhiếp tức nói sáu pháp bố thí, trì giới, an nhẫn, tinh
tấn, tịnh lự và Bát nhã Ba la mật hỗ trợ tương nhiếp nhau. Phẩm này thuyết
“Phương Tiện Thiện Xảo” cũng nói về sáu pháp Ba la mật, tức nói lên chức năng
của sáu pháp tu này trong việc thành tựu giác ngộ, không có nó thì không có một
kết quả thực tiễn nào trong việc chứng ngộ hay đạt Nhất thiết trí trí.
Tóm lược:
(Phương tiện thiện xảo của Bồ tát là gì?)
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ tát trọn nên sức phương tiện thiện xảo như
thế ấy, phát tâm Bồ đề phải trải qua bao lâu?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Đại Bồ tát này phát tâm Bồ đề phải trải qua trăm ngàn trăm
ức muôn ức kiếp.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Nếu Bồ tát trọn nên sức phương tiện thiện xảo như thế,
phải từng gần gũi cúng dường bao nhiêu Phật?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Bồ tát này phải từng gần gũi cúng dường chư Phật ngang với
cát sông Hằng.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Nếu Bồ tát trọn nên sức phương tiện thiện xảo như thế,
phải trồng những căn lành thù thắng nào?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Bồ tát này từ lúc phát tâm trở đi, không có bố thí, tịnh
giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật nào mà chẳng viên mãn tinh
siêng tu học. Do nhân duyên đây trọn nên sức phương tiện thiện xảo như thế.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Nếu Bồ tát trọn nên sức phương tiện thiện xảo như thế
rất là hiếm có?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Như vậy, như ngươi đã nói! Bồ tát này rất là hiếm có.
Thiện Hiện phải biết: Như vầng nhật nguyệt di chuyển khắp soi bốn cõi
đại châu làm sự nghiệp. Trong ấy có bao hữu tình hoặc phi tình theo thế lực ánh
sáng kia mà chuyển động đều thành sự nghiệp mình. Như vậy, Bát nhã Ba la mật
soi xúc năm Ba la mật kia làm các sự nghiệp, bố thí cùng năm Ba la mật thuận
theo thế lực Bát nhã Ba la mật mà chuyển, đều thành việc mình. (Q. 460, ĐBN)
Thiện Hiện phải biết: Như Chuyển luân vương nếu không xe bảy báu chẳng
gọi Luân vương. Cần có xe bảy báu mới được gọi Luân vương. Bố thí cùng năm Ba
la mật cũng lại như thế, nếu lìa Bát Nhã chẳng được gọi là Ba la mật. Chẳng lìa
Bát nhã Ba la mật mới được gọi là Đáo bỉ ngạn.
Thiện Hiện phải biết: Như có người nữ đoan chính đẹp đẽ giàu có, nếu
không được người chồng mạnh mẽ giữ gìn, dễ bị kẻ ác xâm phạm. Nếu có được người
chồng mạnh mẽ bảo vệ, chẳng bị ác nhân xâm phạm. Bố thí cùng năm Ba la mật cũng
lại như thế, nếu không nhờ sức Bát nhã Ba la mật nhiếp hộ dễ bị thiên ma và bè
lũ kia làm trở ngại. Nếu có sức Bát nhã Ba la mật nhiếp hộ, tất cả thiên ma bè
lũ kia chẳng thể làm trở ngại được.
Thiện Hiện phải biết: Như quân tướng mạnh mẽ thạo binh pháp, khéo chuẩn
bị các thứ giáp gậy bền chắc, oán địch lân bang chẳng thể xâm hại được. Bố thí
cùng năm Ba la mật cũng lại như vậy chẳng lìa Bát nhã Ba la mật, thiên ma bè lũ
bọn tăng thượng mạn, cho đến thứ Bồ Tát chiên đà la đều chẳng thể diệt hoại
được.
Thiện Hiện nên biết: Như các tiểu vương ở châu Thiệm bộ, tùy thời mà
triều cống phục dịch Chuyển luân Thánh vương, và nương theo Luân vương ấy để được thắng lợi. Cũng lại
như vậy, năm Ba la mật như bố thí, trì giới v.v... theo hỗ trợ Bát Nhã, và nhờ
thế lực Bát Nhã dẫn dắt mà chúng mau chứng đắc Nhất thiết trí trí.
Thiện Hiện phải biết: Như các nguồn nước ở phương Đông châu Thiệm bộ,
không nguồn nào chẳng đổ vào sông Hằng, rồi theo sông Hằng chảy vào biển cả. Bố
thí cùng năm Ba la mật cũng lại như vậy, nếu không được Bát Nhã thẳm sâu nhiếp
dẫn, thì không thể chứng Nhất thiết trí trí. (Q.461, ĐBN)
Thiện Hiện phải biết: Ví như các dòng nước, tùy lớn nhỏ, nếu đã vào biển
cả thì đồng một vị mặn. Như vậy, năm Ba la mật trước phải nhập vào Bát nhã Ba
la mật, mới được tên là năng đến bờ kia.
Thiện Hiện nên biết: Giống như Chuyển luân vương muốn đến chỗ nào thì có
bốn đạo quân đi theo sau và xe báu đi trước. Vua và bốn loại quân muốn ăn uống,
xe báu liền dừng. Sau khi đã ăn uống, vua muốn đi, xe liền đi trước. Xe ấy đi
hay dừng là tùy theo ý muốn của vua. Khi đã đến nơi thì nó không còn đi trước
nữa. Cũng như vậy, năm Ba la mật và các pháp lành muốn đến quả vị Vô Thượng
Chánh Đẳng Bồ đề thì phải nhờ Bát Nhã đi trước dẫn đường cùng tiến và dừng
không được rời bỏ nhau, nếu đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thì Bát nhã
Ba la mật không còn đi trước nữa.
Thiện Hiện nên biết: Giống như Chuyển luân vương muốn đến nơi nào thì có
bốn loại quân, bảy báu đi trước và sau. Bấy giờ, tuy xe báu đi đầu nhưng nó
không phân biệt tướng trước sau. Cũng vậy, năm Ba la mật và các pháp lành muốn
đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề phải nhờ Bát nhã Ba la mật đi trước dẫn
đường. Nhưng Bát Nhã không nghĩ: Ta đi đầu dẫn đường cho năm Ba la mật, chúng
đều đi theo ta. Năm Ba la mật như bố thí v.v... không nghĩ: Bát Nhã sâu xa ở
trước dẫn dắt và chúng ta theo sau pháp ấy. Vì sao? Tự tánh của sáu pháp Ba
la mật này và tất cả pháp đều trì độn, không có gì có (năng tạo, sở tạo)
tạo ra, không có chủ tể, hư vọng không thật, trống rỗng, vô sở hữu, tướng không
tự tại giống như sóng nắng, bóng trong gương, trăng đáy nước, như trò huyễn,
như mộng v.v... ở trong đó hoàn toàn không có tự thể, không có tác dụng chơn
thật. (Q. 360. ĐBN)
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp tự tánh đều không, không có tác dụng
chân thật, các Bồ tát làm sao tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến,
tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật, cầu chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Các Bồ tát đối sáu Ba la mật đây thường khởi nghĩ này: Thế
giới hữu tình tâm hằng điên đảo, chìm đắm sanh tử, chẳng tự thoát ra. Nếu ta
chẳng tu thắng hạnh khéo tiện, thì chẳng thể cứu vớt chúng ra khỏi bể khổ sanh
tử. Ta phải vì các loại hữu tình siêng tu bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật
thắng hạnh khéo tiện, chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề độ thoát đại khổ sanh tử
cho hữu tình.
Bồ tát này khởi nghĩ đây rồi, vì các hữu tình xả thí sở hữu tất cả trong
ngoài. Đã xả thí rồi, lại khởi nghĩ này: Ta đối trong ngoài đều thật không có
xả thí. Vì sao? Vật trong ngoài đây đều không, vô tự tánh, chẳng thể xả thí,
chẳng thuộc về ta. Bồ tát này do quán sát đây tu hành bố thí Ba la
mật chóng được viên mãn, mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Bồ tát này vì độ thoát khổ sanh tử cho các hữu tình nên trọn chẳng
phạm giới. Vì sao? Vì Bồ tát này thường khởi nghĩ: Ta vì giải thoát khổ sanh tử
tất cả hữu tình nên cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, quyết định chẳng nên
giết hại sanh mạng cho đến tà kiến, quyết định chẳng nên cầu cảnh diệu dục, cầu
giàu sang cõi người trời, cầu làm Đế Thích, Ma Phạm vương v.v…, cũng quyết định
chẳng nên cầu bậc Thanh văn hoặc Độc giác. Bồ tát này do quán sát đây tu
hành tịnh giới Ba la mật chóng được viên mãn, mau chứng Vô Thượng
Chánh Đẳng Bồ đề.
Bồ tát này vì độ thoát khổ sanh tử các hữu tình nên trọn chẳng phát khởi
tâm giận dữ thảy. Giả sử hằng bị hủy báng lăng nhục, chua cay quở mắng, đau đớn
thấu tim tủy, trọn chẳng phát khởi một niệm giận thù. Nếu lại hằng bị dao gậy
ngói đá đánh đập nơi thân, cắt đứt chém đâm, mổ xẻ… cũng chẳng phát khởi một
niệm ác tâm. Vì sao? Vì Bồ tát này quán sát tất cả tiếng (quở mắng) như
tiếng vang trong hang động, sắt (ngói đá, dao gậy) như bọt nổi, nên
chẳng khởi hận thù, làm hoại phẩm hạnh. Bồ tát này do quan sát đây tu hành
an nhẫn Ba la mật chóng được viên mãn, mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ
đề.
Bồ tát Ma ha tát này vì thoát khổ sanh tử các hữu tình, siêng cầu tất cả
pháp lành thù thắng. Cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, ở thời gian giữa
thường không lười nhác. Vì sao? Vì đại Bồ tát này hằng khởi nghĩ đây: Nếu ta
lười nhác chẳng năng cứu vớt tất cả hữu tình khiến xa lìa đại khổ sanh tử, cũng
chẳng năng được Nhất thiết trí trí. Đại Bồ tát này do quán sát đây tu hành
tinh tiến Ba la mật chóng được viên mãn, mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ
đề.
Bồ tát này vì độ thoát khổ sanh tử các hữu tình nên tu các thắng định,
cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề trọn chẳng phát khởi loạn tâm tương ưng tham
sân si. Vì sao? Bồ tát này thường khởi nghĩ: Nếu ta phát khởi loạn tâm tương
ưng tham sân si, thời chẳng thể mang lại lợi vui cho kẻ khác, cũng chẳng thể
chứng được sở cầu Phật quả. Bồ tát này do quán sát đây, tu hành tĩnh lự Ba
la mật chóng được viên mãn, mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Bồ tát này vì độ thoát khổ sanh tử các khổ sanh tử các hữu tình nên
chẳng lìa Bát nhã Ba la mật, cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thường siêng tu
học thắng huệ vi diệu thế gian, xuất thế gian. Vì sao? Vì Bồ tát này hằng khởi
nghĩ: Nếu lìa Bát nhã Ba la mật, đối các hữu tình chẳng năng thành thục được,
cũng chẳng thể được Nhất thiết trí trí. Bồ tát này do quán sát đây tu hành Bát
nhã Ba la mật chóng được viên mãn, mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Thiện Hiện! Do nhân duyên này, dù tất cả pháp không thật tác dụng, tự
tánh đều không, mà chúng Bồ tát siêng tu sáu thứ Ba la mật thường không lười
mỏi cầu chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả Ba la mật tánh không sai khác, đều là được Bát
nhã Ba la mật nhiếp thọ, đều do Bát nhã Ba la mật mà được thành mãn, lẽ nên
hợp làm một Ba la mật, chỗ gọi Bát nhã Ba la mật. Vì sao nói là Bát nhã Ba
la mật đối năm Ba la mật trước là tối là thắng, là tôn là diệu, là thượng là vô
thượng, vô đẳng, vô đẳng đẳng?
Phật bảo:
- Đúng vậy! Đúng lời ngươi nói! Sáu pháp Ba la mật này tánh không sai
khác, đều được Bát nhã Ba la mật hộ trì. Nếu không có Bát nhã Ba la mật, thì
năm Ba la mật như bố thí, an nhẫn v.v... không được gọi là Ba la mật. Phải
nương vào Bát nhã Ba la mật, năm Ba la mật như bố thí, an nhẫn v.v... mới được
gọi là Ba la mật. Vì vậy, năm Ba la mật trước thuộc vào Bát nhã Ba la mật, do
đó chỉ có một Ba la mật được gọi là Bát nhã Ba la mật. Cho nên, tất cả Ba la
mật tánh không sai khác.
Thiện Hiện nên biết: Như loài hữu tình tuy có các loại sắc thân khác
nhau, nhưng nếu có loài nào ở gần núi Tu di thì đều có cùng một màu sắc. Cũng
vậy, năm Ba la mật tuy có các phẩm loại khác nhau nhưng đều thuộc vào Bát nhã
Ba la mật, đều dựa vào Bát nhã Ba la mật mà tu thành tựu, đều nhập vào Bát nhã
Ba la mật không thể thi thiết danh tánh có khác.
Lại bố thí cùng các Ba la mật khác phải nương tựa Bát nhã Ba la mật mới
được vào Nhất thiết trí trí, mới được gọi là đến bờ kia. Vậy nên, sáu thứ Ba la
mật đều đồng một vị, tánh không sai khác, chẳng thể thi thiết đây là bố thí,
đây là tịnh giới… cho đến đây là Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Vì sáu thứ Ba la
mật đều đồng tới Nhất thiết trí trí, năng đến bờ kia, tánh không sai khác. Do
nhân duyên này, sáu pháp như bố thí, an nhẫn v.v... không thể bày ra danh tánh
sai khác.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:
- Ba la mật và các pháp, nếu theo thật nghĩa đều không có sai khác đây
kia hơn kém, duyên cớ nào lại nói Bát nhã Ba la mật đối năm Ba la mật là tối là
thắng, là tôn là cao, là diệu là vi diệu, là thượng là vô thượng, vô đẳng vô
đẳng đẳng?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Như vậy, như ngươi đã nói! Nếu theo thật nghĩa Ba la mật
và tất cả pháp đều không đây kia, hơn kém sai khác, chỉ nương thế tục nói có
đây kia hơn kém sai khác, thi thiết bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Vì muốn
độ thoát sanh lão bệnh tử các loại hữu tình nên dùng thế tục diễn nói. Nhưng
sanh lão bệnh tử của hữu tình đều chẳng thật có, chỉ giả thi thiết. Vì sao? Vì hữu
tình không biết các pháp là vô sở hữu. Bát Nhã thẳm sâu thông đạt tất cả các
pháp đều vô sở hữu có thể cứu vớt hữu tình ra khỏi sanh, lão, bệnh, tử. Vì vậy
nói, đối với năm Ba la mật, Bát nhã Ba la mật là hơn hết, là thù thắng, là tôn
là cao, là diệu là vi diệu, là thượng là vô thượng, vô đẳng vô đẳng đẳng.
Hơn nữa, Thiện Hiện! Bởi Bát nhã Ba la mật đây dùng vô sở đắc làm phương
tiện, thường nhiếp lấy tất cả thiện pháp, hòa hợp vào Nhất thiết trí trí an trụ
chẳng động, nên Ta hằng thường khen nói Bát Nhã.
(Bát Nhã đối với các thiện pháp có thủ có xả chăng?)
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:
- Bát Nhã thẳm sâu đối các thiện pháp có thủ có xả chăng?
Phật nói:
- Chẳng có, Bát Nhã thẳm sâu đối pháp đều không thủ không xả. Vì sao? Vì
tự tánh của tất cả pháp đều không, hoàn toàn không thủ, không xả.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:
- Bát Nhã thẳm sâu đối những pháp nào không thủ không xả?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Bát Nhã thẳm sâu đối sắc không thủ không xả, đối
thọ tưởng hành thức không thủ không xả. Đối mười hai xứ cho đến mười tám giới
không thủ không xả. Đối nhãn xúc cho đến ý xúc không thủ không xả. Đối nhãn xúc
làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ không thủ
không xả. Đối địa giới cho đến thức giới không thủ không xả. Đối nhân duyên cho
đến tăng thượng duyên không thủ không xả. Đối vô minh cho đến lão tử không thủ
không xả. Đối bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật không thủ không xả. Đối nội
không cho đến vô tánh tự tánh không, không thủ không xả. Đối chơn như cho đến
bất tư nghì giới không thủ không xả. Đối khổ Tứ đế cho đến ba mươi bảy trợ đạo
không thủ không xả. Đối bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc không thủ
không xả. Đối tám giải thoát cho đến mười biến xứ không thủ không xả. Đối
không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn không thủ không xả. Đối Nhất thiết
trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí không thủ không xả. Đối quả Dự lưu cho
đến Độc giác Bồ đề không thủ không xả. Đối tất cả Bồ tát hạnh cho đến quả vị Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề không thủ không xả. Đối Nhất thiết trí trí cũng không
thủ không xả.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:
- Bát Nhã thẳm sâu vì sao đối sắc không thủ không xả, cho đến đối với
Nhất thiết trí trí không thủ không xả?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Bát Nhã thẳm sâu chẳng tư duy sắc, vậy nên đối sắc
không thủ không xả. Cho đến chẳng tư duy Nhất thiết trí trí, vậy nên đối Nhất
thiết trí trí không thủ không xả.
(Vì sao Bát Nhã không tư duy tất cả pháp?)
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:
- Vì sao Bát nhã Ba la mật chẳng tư duy sắc cho đến chẳng tư duy
Nhất thiết trí trí?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Bởi Bát nhã Ba la mật đây đối sắc chẳng tư duy tất cả
tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, vậy nên chẳng tư duy
sắc. Cho đến đối Nhất thiết trí trí chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy
tất cả sở duyên, vậy nên chẳng tư duy Nhất thiết trí trí.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Nếu Bồ tát chẳng tư duy sắc cho
đến chẳng tư duy Nhất thiết trí trí làm sao tăng trưởng căn lành đã trồng? Nếu
chẳng tăng trưởng căn lành đã trồng, làm sao viên mãn Ba la mật? Nếu chẳng viên
mãn Ba la mật, làm sao chứng được sở cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Nếu khi Bồ tát chẳng tư duy sắc cho đến chẳng tư duy Nhất
thiết trí trí. Khi ấy Bồ tát bèn năng tăng trưởng căn lành đã trồng. Vì
căn lành đã trồng được tăng trưởng, nên mới năng viên mãn Ba la mật. Ba la mật
được viên mãn, thời năng chứng được sở cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì sao?
Thiện Hiện! Các Bồ tát chẳng tư duy sắc cho đến chẳng tư duy Nhất thiết trí trí
mới có thể tu đầy đủ các Bồ tát hạnh, chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:
- Duyên nào Bồ tát cần chẳng tư duy sắc cho đến chẳng tư duy Nhất thiết
trí trí, mới có thể tu đầy đủ các Bồ tát hạnh chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng
Bồ đề?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Các Bồ tát nếu tư duy sắc cho đến tư duy Nhất thiết trí
trí thời có sở đắc. Vì có sở đắc bèn chấp trước cõi Dục, cõi Sắc,
Vô sắc. Nếu chấp trước ba cõi thời chẳng thể tu đầy đủ Bồ tát hạnh, chứng được
Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Nếu Bồ tát chẳng tư duy sắc cho đến chẳng tư duy Nhất thiết trí trí là
vô sở đắc. Vì vô sở đắc nên chẳng chấp trước cõi Dục, cõi Sắc, Vô sắc, cho đến
tu đầy đủ Bồ tát hạnh, chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Vậy nên, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát muốn được tu đầy đủ Bồ tát hạnh, muốn
mau chứng được sở cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, phải siêng tu học Bát Nhã
thẳm sâu, chẳng nên tư duy chấp trước các pháp.
(Bát Nhã thẳm sâu trụ chỗ nào?)
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:
- Nếu Bồ tát tinh siêng tu học Bát Nhã thẳm sâu phải trụ nơi
nào?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Nếu Bồ tát tinh siêng tu học Bát Nhã thẳm sâu chẳng nên
trụ sắc, cho đến chẳng nên trụ Nhất thiết trí trí.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:
- Duyên nào Bồ tát tinh siêng tu học Bát Nhã thẳm sâu chẳng nên trụ sắc
cho đến chẳng nên trụ Nhất thiết trí trí?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Nếu Bồ tát tinh siêng tu học Bát Nhã thẳm sâu, vì đối tất
cả các pháp không chấp trước, nên chẳng trụ sắc, cho đến chẳng trụ Nhất thiết
trí trí. Vì sao? Thiện Hiện! Bồ tát này chẳng thấy có pháp khả đối trong ấy mà
khởi chấp trước và khả an trụ.
Thiện Hiện! Bồ tát như thế đem vô sở trước và vô sở an trụ mà làm
phương tiện, tinh siêng tu học Bát Nhã thẳm sâu.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát khởi nghĩ như vầy: Nếu năng được vô sở
chấp trước vô sở an trụ như thế, tinh tấn tu hành Bát Nhã thẳm sâu, là tu Bát
Nhã, là hành Bát Nhã. Ta năng được vô sở chấp trước như thế tu Bát Nhã thẳm
sâu, Ta năng được vô sở chấp trước như thế là hành Bát Nhã thẳm sâu, là hành Bát
nhã Ba la mật.
Thiện Hiện! Bồ tát này do nghĩ như thế, lấy tướng chấp trước, thì xa
lìa Bát nhã Ba la mật. Nếu xa lìa Bát nhã Ba la mật-đa thời xa lìa tĩnh lự,
tinh tiến, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật. Cũng xa lìa nội không cho đến
vô tánh tự tánh không. Cũng xa lìa chơn như cho đến bất tư nghì giới. Nói rộng
ra, cũng xa lìa tất cả pháp Phật. Vì sao? Vì Bát nhã Ba la mật vô sở chấp trước
đối tất cả pháp. Vì sao? Bát Nhã thẳm sâu đều vô tự tánh khá đối các pháp có sở
chấp trước.
Vậy nên, Thiện Hiện! Các Bồ tát khi tu hành Bát Nhã Ba mật khởi nghĩ như
vầy: Đây là Bát nhã Ba la mật, ta hành Bát Nhã, thời Bồ tát này tu hành Bát Nhã
đối với tất cả pháp và đối với Bát Nhã thẳm sâu đều có chấp trước.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát khi tu hành Bát Nhã khởi tưởng như vầy:
Đây là Bát nhã Ba la mật, ta hành Bát nhã Ba la mật tức là thực hành toàn bộ
thật tướng các pháp. Bồ tát này do khởi tưởng đây bèn lui Bát nhã Ba la mật.
Nếu lui Bát nhã Ba la mật thời là lui mất tất cả bạch pháp.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát khởi nghĩ như vầy: An trụ Bát Nhã thẳm
sâu là nhiếp thọ bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự Ba la mật cho
đến nhiếp thọ Nhất thiết trí trí. Bồ tát này lui mất Bát nhã Ba la mật. Nếu lui
mất Bát nhã Ba la mật thời chẳng năng nhiếp thọ bố thí, tịnh giới, an nhẫn,
tinh tiến, tĩnh lự Ba la mật, cho đến chẳng năng nhiếp thọ Nhất thiết trí trí.
Vì sao? Thiện Hiện! Chẳng phải lìa Bát nhã Ba la mật năng khắp nhiếp thọ Bồ đề
phần pháp và năng chứng được Nhất thiết trí trí.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát khởi nghĩ như vầy: An trụ Bát nhã Ba la
mật bèn đối Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề định được nhận ký. Bồ tát này thời lui
mất Bát nhã Ba la mật. Nếu lui mất Bát nhã Ba la mật, thời đối Vô Thượng Chánh
Đẳng Bồ đề chẳng được nhận ký. Vì sao? Thiện Hiện! Chẳng phải lìa Bát nhã Ba la
mật khá đối Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề được nhận ký vậy.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát khởi nghĩ như vầy: An trụ Bát nhã Ba la
mật thời năng dẫn phát bố thí cho đến tĩnh lự Ba la mật. Như vậy, cho đến năng
dẫn phát đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả. Bồ tát này như vậy là thối thất Bát
nhã Ba la mật. Nếu thối thất Bát nhã Ba la mật thời chẳng năng dẫn phát bố thí
cho đến tĩnh lự Ba la mật. Như vậy, cho đến chẳng năng dẫn phát đại từ, đại bi,
đại hỷ, đại xả. Vì sao? Thiện Hiện! Chẳng phải lìa Bát nhã Ba la mật mà năng
dẫn phát an trụ thắng pháp.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát khởi nghĩ như vầy: Phật biết các pháp
không tướng nhiếp thọ, tự chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Được Bồ đề rồi, vì
các hữu tình tuyên nói khai chỉ thật tướng các pháp, Bồ tát này nghĩ như vậy là
thối thất Bát Nhã thẳm sâu. Vì sao? Thiện Hiện! Như Lai đối với các pháp:
không hay, không biết, không nói, không chỉ. Vì sao? Vì thật tánh các
pháp chẳng thể hay biết, chẳng thể thi thiết, làm sao có hay biết nói chỉ tất
cả pháp ấy được? Nếu nói thật có hay biết nói chỉ tất cả pháp ấy được là
không có lẽ ấy. (Q.460, ĐBN)
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Các Bồ tát tu
hành Bát nhã Ba la mật, làm sao xa lìa được các lỗi lầm như thế?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Nếu Bồ tát tu hành Bát Nhã khởi nghĩ như vầy: Tất cả
pháp vô sở hữu chẳng thể nắm bắt. Nếu pháp vô sở hữu chẳng thể nắm bắt thời
không có kẻ năng hiện Đẳng giác, cũng không có năng tuyên nói khai chỉ. Nếu
hành như thế là hành Bát nhã Ba la mật lìa các lỗi lầm.
Đại Bồ tát nào chấp trước pháp vô sở hữu không thể nắm bắt, thì xa lìa Bát
nhã Ba la mật. Vì sao? Thiện Hiện! Vì Bát Nhã thẳm sâu không có chấp trước và
nắm giữ các pháp. Nếu chấp trước và nắm giữ các pháp thì xa lìa Bát nhã Ba
la mật.
(Bát Nhã đối với tất cả pháp xa lìa hay chẳng xa lìa?)
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật đối với Bát nhã Ba la mật là xa lìa
hay chẳng xa lìa? Tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí, đối với
tịnh lự cho đến bố thí Ba la mật là xa lìa hay chẳng xa lìa? Nói rộng ra, nếu
mười tám pháp không đối với mười tám pháp không v.v… cho đến Nhất thiết trí đối
với Nhất thiết trí xa lìa hay chẳng xa lìa, thì làm sao đại Bồ tát có thể tránh
được chấp trước mà dẫn phát Nhất thiết trí? Nếu Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng
trí đối với Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí xa lìa hay chẳng xa lìa, thì
làm sao đại Bồ tát có thể tránh được chấp trước mà dẫn phát Đạo tướng trí, Nhất
thiết tướng trí?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Bát nhã Ba la mật đối Bát nhã Ba la mật chẳng xa lìa
chẳng phải chẳng xa lìa. Vậy nên, đại Bồ tát tránh được chấp trước mà dẫn
phát Bát nhã Ba la mật. Tĩnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật
đối tĩnh lự cho đến bố thí Ba la mật chẳng xa lìa chẳng phải chẳng xa lìa. Vậy
nên, đại Bồ tát có thể tránh được chấp trước dẫn phát tĩnh lự cho đến bố thí Ba
la mật. Nói rộng ra, mười tám pháp không đối với mười tám pháp không v.v… cho
đến Nhất thiết trí đối với Nhất thiết trí chẳng xa lìa hay chẳng phải chẳng xa
lìa. Vậy nên, đại Bồ tát tránh được chấp trước mà dẫn phát Bát nhã Ba la mật.
Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí đối với Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí
chẳng xa lìa hay chẳng phải chẳng xa lìa. Vậy nên, đại Bồ tát tránh được chấp
trước mà dẫn phát Bát nhã Ba la mật.
Bát nhã Ba la mật đối với Bát nhã Ba la mật chẳng phải xa lìa, chẳng
phải chẳng xa lìa. Xa lìa hay chẳng xa lìa là nhị biên đối đãi. Không rơi vào
nhị biên đối đãi thì tránh được chấp trước.
Nếu không chấp trước thì đại Bồ tát có thể dẫn phát Bát nhã Ba la mật. Tất cả
pháp đối với tất cả các pháp cũng lại như thế. Nếu xa lìa hay chẳng xa lìa đều
bỏ thì không rơi vào nhị biên đối đãi, nghĩa là không còn chấp trước, tâm thể
mới được rỗng rang, tha hồ muốn làm gì cũng tự tại. Vì sao? Vì chẳng phải chính
tự tánh, chẳng phải lìa tự tánh, mà năng an trụ dẫn phát tự tánh.
Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ tát tu hành Bát nhã Ba la mật chẳng chấp
trước sắc rằng đây là sắc, sắc đây thuộc kia. Cũng chẳng chấp trước thọ
tưởng hành thức rằng đây là thọ tưởng hành thức, thọ tưởng hành thức đây thuộc
kia. Như vậy cho đến chẳng chấp trước Nhất thiết trí trí rằng đây là Nhất thiết
trí trí, Nhất thiết trí trí đây thuộc kia.
Thiện Hiện! Bồ tát này đối tất cả pháp như thế vì không chấp trước nên
mới năng dẫn phát được Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật. Cho đến năng dẫn phát
được Nhất thiết trí trí. Vì sao? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát tu hành Bát nhã Ba la
mật, đối với các pháp có sở chấp trước rằng đây là pháp, pháp đây thuộc
kia, thời chẳng năng tùy ý dẫn phát được công đức an trụ thắng diệu.
Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ tát tu hành Bát nhã Ba la mật chẳng quán
sắc hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã,
hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc
chẳng xa lìa. Cũng chẳng quán thọ tưởng hành thức hoặc thường hoặc vô thường,
hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng
lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Cho đến chẳng
quán Nhất thiết trí trí hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ,
hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng
vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa.
Bồ tát Ma ha tát này đối tất cả pháp như thế vì chẳng quán sát nên mới
năng dẫn phát được Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật. Như vậy, cho đến năng dẫn
phát được Nhất thiết trí trí. Vì sao? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát tu hành Bát Nhã
đối trong các pháp có sở quán sát hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc
khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng
vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, thời chẳng năng tùy ý dẫn phát được
công đức an trụ thắng diệu.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát tu hành Bát Nhã đồng thời là tu hành
tĩnh lự, tinh tiến, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật. Cũng là an trụ chơn
như cho đến bất tư nghì giới. Cũng là an trụ khổ tập diệt đạo Thánh đế. Cũng là
tu hành bốn niệm trụ cho đến tám Thánh đạo chi. Cũng là tu hành bốn tĩnh lự,
bốn vô lượng, bốn vô sắc định. Cũng là tu hành tám giải thoát cho đến mười biến
xứ. Cũng là tu hành không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn. Cũng là tu hành
Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Cũng là tu hành pháp vô
vong thất, tánh hằng trụ xả. Cũng là tu hành Nhất thiết trí, Đạo tướng trí,
Nhất thiết tướng trí. Cũng là tu hành tất cả Bồ tát hạnh. Cũng là tu hành chư
Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Cũng là tu hành Nhất thiết trí trí.
Lại nữa, Thiện Hiện! Bát Nhã thẳm sâu tùy đi chỗ nào, tất cả những gì
thuộc Ba la mật và tất cả Bồ đề phần pháp thảy đều đi theo. Bát Nhã thẳm sâu
tùy đến chỗ nào, thì tất cả những gì thuộc Ba la mật và tất cả Bồ đề phần pháp
thảy đều đến theo. Như vua Chuyển luân tùy đi chỗ nào thì bốn thứ dũng quân đều
đi theo. Vua Chuyển luân kia tùy đến chỗ nào bốn thứ dũng quân đều theo đến. Bát
Nhã thẳm sâu cũng lại như thế, tuy có đi đâu và có đến chỗ nào, thì tất cả
những gì thuộc Ba la mật và tất cả Bồ đề phần pháp đều đi theo đến, chỗ rốt ráo
đó là Nhất thiết trí trí.
Thiện Hiện! Như kẻ đánh xe giỏi ngồi xe tứ mã khiến tránh đường hiểm, đi
đường chính, ý muốn đến chỗ nào thì sẽ đến được chỗ đó. Cũng vậy, Bát nhã Ba la
mật và tất cả các Bồ đề phần pháp, khiến tránh đạo sanh tử, hành đạo tự lợi lợi
tha, để đến chỗ mong cầu là Nhất thiết trí trí.
(Thế nào là đạo, thế nào chẳng phải đạo của Bồ tát?)
Cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Thế nào là đạo, thế nào là chẳng phải đạo của các
Bồ tát?
Phật bảo Thiện Hiện:
- Đạo Trời người, đạo Thanh văn, đạo Độc giác chẳng phải là đạo của các
Bồ tát, bởi vì nương theo đó thì không thể đạt đến Nhất thiết trí trí. Bát
Nhã thẩm sâu phát sanh sáu pháp Ba la mật là đạo của các Bồ tát, bởi vì nương
vào đó thì chắc chắn có thể đạt đến Nhất thiết trí trí.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã thẳm sâu xuất hiện thế gian làm xong đại sự, chỗ
gọi chỉ rõ tướng đạo chẳng phải đạo cho các Bồ tát, khiến các Bồ tát biết là
đạo chẳng phải đạo, mau chứng được Nhất thiết trí trí chăng?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Như vậy, như ngươi đã nói! Bát Nhã thẳm sâu xuất hiện thế
gian làm xong đại sự, chỗ gọi chỉ rõ tướng đạo chẳng phải đạo cho các Bồ tát
biết, để Bồ tát theo đây mau chứng được Nhất thiết trí trí.
Lại nữa, Thiện Hiện! Bát Nhã thẳm sâu xuất hiện thế gian làm xong đại
sự, chỗ gọi độ thoát vô lượng vô số vô biên hữu tình, khiến được lợi ích an vui
thù thắng.
Thiện Hiện phải biết: Bát Nhã thẳm sâu dù thực hiện vô biên lợi ích an
vui cho người, mà đối việc như vậy cũng không chấp đắm.
Lại nữa, Thiện Hiện! Bát Nhã thẳm sâu mặc dù thị hiện làm sự nghiệp
nhưng không chấp đắm sắc, không chấp đắm thọ tưởng hành thức. Như vậy, cho đến
tuy thường thị hiện làm sự nghiệp nhưng không chấp đắm Nhất thiết trí trí. Tuy
thường thị hiện việc làm của Thanh văn Độc giác, mà đối việc đó cũng không chấp
đắm.
Thiện Hiện! Bát Nhã thẳm sâu dù thường hay dẫn dắt tất cả chúng Bồ tát
tới Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, xa lìa Thanh văn Độc giác mà đối với các pháp
vô sanh vô diệt, vì lấy tánh pháp trụ làm định lượng vậy.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Nếu Bát Nhã thẳm sâu đối tất cả pháp vô sanh vô diệt, Bồ
tát làm sao khi hành Bát Nhã thẳm sâu vì các hữu tình hành bố thí, trì tịnh
giới, khởi an nhẫn, siêng tinh tấn, trụ tĩnh lự, tu Bát Nhã được?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Các Bồ tát khi tu hành Bát Nhã duyên Nhất thiết trí trí vì
các hữu tình hành bố thí được, trì tịnh giới, khởi an nhẫn, siêng tinh tấn, trụ
tĩnh lự, tu Bát Nhã được.
Thiện Hiện! Bồ tát đó đem căn lành này ban cho các hữu tình rồi cùng
nhau hồi hướng Nhất thiết trí trí. Hồi hướng Nhất thiết trí trí như vậy chính
là tu sáu pháp Ba la mật mau được viên mãn, cũng là tu từ, bi, hỷ, xả mau được
viên mãn. Cho đến khi an tọa tòa Bồ đề vi diệu, vị ấy thường không xa lìa sáu
pháp Ba la mật này. Ai không xa lìa sáu pháp Ba la mật này thì không xa lìa
Nhất thiết trí trí.
Vì vậy, này Thiện Hiện! Bồ tát nào muốn mau chứng đắc Nhất thiết trí
trí, thì phải tinh tấn tu học sáu pháp Ba la mật. Bồ tát nào siêng năng tu học
hành trì sáu pháp Ba la mật này, thì tất cả căn lành mau được viên mãn và có
thể mau chứng đắc Nhất thiết trí trí. Vì vậy, này Thiện Hiện! Các Bồ tát phải
thường tương ưng với sáu pháp Ba la mật, chớ có lìa bỏ nhau.
(Bồ tát làm sao cùng sáu Ba la mật thường tương ưng
chớ lìa bỏ nhau?)
Cụ thọ Thiện Hiện thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn! Bồ tát làm sao cùng sáu thứ Ba la mật thường chung
tương ưng chớ bỏ lìa nhau?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Nếu Bồ tát như thật quán sắc chẳng tương ưng, chẳng
phải chẳng tương ưng. Như thật quán thọ tưởng hành thức chẳng tương ưng,
chẳng phải chẳng tương ưng. Cho đến như thật quán Nhất thiết trí trí
chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng. Bồ tát này năng cùng sáu thứ Ba la
mật thường chung tương ưng, chẳng bỏ lìa nhau.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát hằng khởi nghĩ này: Ta chẳng nên trụ
sắc, cũng chẳng nên trụ phi sắc. Ta chẳng nên trụ thọ tưởng hành thức,
chẳng nên trụ phi thọ tưởng hành thức; cũng chẳng nên trụ Nhất thiết trí trí,
cũng chẳng nên trụ phi Nhất thiết trí trí. Vì sao? Vì sắc chẳng năng trụ chẳng
sở trụ, thọ tưởng hành thức cũng chẳng năng trụ chẳng sở trụ. Như vậy, cho đến
Nhất thiết trí trí chẳng năng trụ chẳng sở trụ vậy. Thiện Hiện! Bồ tát này hành
như vậy tức cùng sáu thứ Ba la mật thường chung tương ưng, chẳng bỏ lìa nhau.
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát năng dùng phương tiện vô trụ như thế tu hành sáu thứ Ba
la mật, Bồ tát này chóng chứng Nhất thiết trí trí.
Thiện Hiện! Ví như có người muốn ăn quả xoài hay mãng cầu, trước lấy hột
của nó, gieo chỗ đất mầu mỡ, tùy thời tưới bón, chăm sóc gìn giữ. Cây lần lữa
sanh trưởng nhánh lá, hòa hợp thời tiết bèn có hoa quả. Quả chín rồi, lấy đó mà
ăn.
Như vậy, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát muốn được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề,
trước học sáu thứ Ba la mật. Lại đối hữu tình dùng bố thí, hoặc ái ngữ, hoặc
lợi hành, hoặc đồng sự mà nhiếp thọ. Đã nhiếp thọ rồi, dạy chúng an trụ bố thí,
tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật. Đã an trụ rồi giải
thoát tất cả sanh lão bệnh tử, chứng được an vui rốt ráo. Bồ Tát như vậy sẽ
được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, quay xe diệu pháp độ vô lượng chúng sanh.
Vậy nên, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát muốn đối các pháp chẳng nhờ duyên người
mà mình tự liễu ngộ, muốn thành thục tất cả hữu tình, muốn khéo trang nghiêm
cõi Phật, muốn mau ngồi tòa Bồ đề vi diệu, muốn uốn dẹp tất cả ma quân, muốn
chóng chứng Nhất thiết trí trí, muốn quay xe pháp cứu thoát chúng hữu tình an
vui rốt ráo. Cần học sáu thứ Ba la mật, dùng bốn nhiếp sự phương tiện nhiếp
dẫn chúng hữu tình. Đã nhiếp dẫn rồi nên khiến an trụ bố thí, tịnh giới, an
nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật. Bồ Tát như thế nên đối Bát nhã Ba
la mật thường nên siêng tu học. (Q.461.
ĐBN)
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Phật nói Bồ tát nên đối Bát nhã Ba la mật thường
siêng tu học chăng?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Như vậy, như vậy! Ta nói Bồ tát nên đối Bát nhã Ba la mật
thường siêng tu học.
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát muốn đối các pháp được đại tự tại, nên học Bát
nhã Ba la mật. Vì sao? Vì Bát Nhã thẳm sâu đủ đại thế lực, khiến các Bồ tát đối
tất cả pháp được tự tại vậy.
Thiện Hiện! Phải biết Bát nhã Ba la mật là diệu môn các pháp lành hướng
tới, ví như cửa biển là chỗ của tất cả nước đổ vào. Vậy nên, Thiện Hiện! Nếu
chúng Thanh văn thừa, hoặc Độc giác thừa, hoặc Bồ Tát thừa, đều đối Bát Nhã
thẳm sâu đây thường nên siêng tu học.
Thiện Hiện! Các Bồ tát đối Bát nhã Ba la mật đây khi siêng tu học, nên
đối nội không cho đến vô tánh tự tánh không cũng thường an trụ. Nên đối chơn
như cho đến bất khả tư nghì giới cũng thường an trụ. Nên đối tứ Thánh đế cho
đến ba mươi bảy pháp trợ đạo cũng thường tu học. Nên đối bốn tĩnh lự, bốn vô
lượng, bốn định vô sắc cũng thường tu học. Nên đối tám giải thoát cho đến mười
biến xứ cũng thường tu học. Nên đối không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn
cũng thường tu học. Nên đối Bồ tát thập địa cũng thường tu học. Nên đối tất cả
Đà la ni, Tam ma địa môn cũng thường tu học. Nên đối năm nhãn, sáu thần thông
cũng thường tu học. Nên đối Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất
cộng cũng thường tu học. Nên đối pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả cũng
thường tu học. Nên đối Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí cũng
thường tu học. Nên đối tất cả Bồ tát hạnh cho đến đối chư Phật Vô Thượng Chánh
Đẳng Bồ đề cũng thường tu học. Nên đối Nhất thiết trí trí cũng thường tu học.
Thiện Hiện! Ví như người bắn giỏi, áo mũ kiên cố, cung tên như ý, chẳng
sợ oán địch. Các Bồ tát cũng lại như thế, nhiếp thọ Bát nhã Ba la mật phương
tiện khéo léo, đủ các công đức, tất cả dị luận của ma quân ngoại đạo chẳng
khuất phục được. Vậy nên, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát muốn mau chứng được Nhất
thiết trí trí, nên siêng tu học Bát Nhã thẳm sâu.
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát đối Bát nhã Ba la mật thường siêng tu học, bèn
được chư Phật Thế Tôn mười phương vô lượng vô số vô biên thế giới thường cùng
hộ niệm.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn! Sao là đại Bồ tát thường siêng tu học Bát Nhã thẳm sâu,
bèn được chư Phật Thế Tôn mười phương vô lượng vô số vô biên thế giới cùng hộ
niệm?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Nếu Bồ tát đối với Bát nhã Ba la mật thường siêng tu học,
tức thường tu hành bố thí Ba la mật cho đến tu hành Nhất thiết trí trí. Do đây
được chư Phật Thế Tôn mười phương vô lượng vô số vô biên thế giới thường cùng
hộ niệm.
(Bồ tát tuy có nhiều thứ để học mà không sở học?)
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:
- Tại sao các Bồ tát này tu hành bố thí Ba la mật cho đến tu hành Nhất
thiết trí trí, bèn được chư Phật Thế Tôn mười phương vô lượng vô số vô biên thế
giới thường cùng hộ niệm?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Bồ tát này khi tu hành bố thí Ba la mật, quán bố thí
bất khả đắc. Cho đến khi tu hành Nhất thiết trí trí, quán Nhất thiết trí
trí bất khả đắc, nên được chư Phật Thế Tôn mười phương vô lượng vô số vô biên
thế giới thường cùng hộ niệm.
Lại nữa, Thiện Hiện! Như vậy, chư Phật Thế Tôn mười phương vô lượng vô
số vô biên thấy sắc bất khả đắc, nên thường cùng hộ niệm đại Bồ tát này. Thấy
thọ tưởng hành thức bất khả đắc, nên thường cùng hộ niệm Bồ tát này. Cho đến
thấy Nhất thiết trí trí bất khả đắc, nên thường hộ niệm Bồ tát này.
Lại nữa, Thiện Hiện! Như vậy, chư Phật Thế Tôn mười phương vô lượng vô
số vô biên thế giới chẳng vì sắc, nên thường cùng hộ niệm Bồ tát này.
Chẳng vì thọ tưởng hành thức, nên thường cùng hộ niệm Bồ tát này. Cho đến chẳng
vì Nhất thiết trí trí, nên thường cùng hộ niệm Bồ tát này.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Các Bồ tát tuy có nhiều thứ để học mà không sở học
chăng?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Như vậy! Các Bồ tát tuy có nhiều thứ để học mà không sở
học. Vì sao? Vì thật không có pháp để Bồ tát tu học.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Vì các Bồ tát hoặc nghe giảng lược hoặc thuyết rộng các
pháp tương ưng sáu pháp Ba la mật, nếu Bồ tát muốn mau chứng Nhất thiết trí
trí, đối pháp tương ưng sáu pháp Ba la mật, hoặc giảng lược hoặc thuyết rộng,
đều nên lắng nghe thọ trì đọc tụng, thông suốt rốt ráo. Đã thông suốt rồi, như
lý suy nghĩ. Đã suy nghĩ rồi, nên quán sát kỹ. Đã quán sát kỹ, phải làm cho tâm
và tâm sở không bị lay động bởi cảnh mà nó duyên theo?
Phật bảo:
- Đúng vậy! Đúng như ngươi đã nói! Lại nữa, Thiện Hiện! Lúc các
Bồ tát siêng năng tu tập giáo pháp tương ưng với sáu pháp Ba la mật mà chư Phật
Thế Tôn đã giảng nói hoặc lược tóm, hoặc thuyết rộng thì phải biết rõ như thật
tướng rộng, hẹp của các pháp.
(Bồ tát đối tất cả pháp như thật biết rõ tướng rộng
hẹp?)
Cụ thọ Thiện Hiện thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn! Sao là Bồ tát đối tất cả pháp như thật biết rõ tướng
rộng hẹp?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Nếu Bồ tát như thật rõ biết sắc như, thọ tưởng hành
thức như. Như thật biết rõ mười hai xứ như cho đến mười tám giới như. Như thật
biết rõ tướng nhãn xúc như cho đến tướng ý xúc như. Như thật
biết rõ tướng nhãn xúc như làm duyên sanh ra các thọ như cho đến
tướng ý xúc như làm duyên sanh ra các thọ như. Như thật biết rõ tướng
địa giới như cho đến tướng thức giới như. Như thật biết rõ tướng bố thí như cho
đến tướng Bát nhã Ba la mật như. Như thật biết rõ tướng nội không như cho đến
tướng vô tánh tự tánh không như. Như thật biết rõ tướng tứ Thánh đế như cho đến
tướng ba mươi bảy trợ đạo như. Nói rộng ra, như thật biết rõ tướng Nhất thiết
trí như cho đến tướng Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí như. Như thật biết rõ
tướng quả Dự lưu, cho đến tướng Độc giác Bồ đề như. Như thật biết rõ tướng Bồ
tát hạnh cho đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề như. Như thật biết rõ tướng
Nhất thiết trí trí như. Bồ tát này đối tất cả pháp như thật biết rõ tướng rộng
hẹp.
Cụ thọ Thiện Hiện thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn! Sao là tướng sắc như (tướng chơn như của sắc),
tướng thọ tưởng hành thức như? Cho đến sao là tướng Nhất thiết trí trí như, các
Bồ tát như thật biết rõ, nên đối với tất cả pháp như thật biết rõ tướng rộng
hẹp?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Sắc như không sanh không diệt, cũng không trụ khác mà
khá thi thiết, đấy gọi tướng sắc như. Thọ tưởng hành thức như không sanh
không diệt, cũng không trụ khác mà khá thi thiết, đấy gọi tướng thọ tưởng hành
thức như. Cho đến Nhất thiết trí trí như không sanh không diệt, cũng không trụ
khác mà khá thi thiết, đấy gọi tướng Nhất thiết trí trí như. Các Bồ tát biết rõ
như thật và học trong đó thì có thể biết rõ như thật tướng rộng hẹp của các
pháp.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát như thật rõ biết tướng sắc thật tế (biên
tế cuối cùng của sắc), tướng thọ tưởng hành thức thật tế; cho đến như thật
biết rõ tướng Nhất thiết trí trí thật tế. Bồ tát này đối tất cả pháp như thật
biết rõ tướng rộng hẹp.
Cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Sao là tướng sắc thật tế, sao là tướng thọ tưởng hành
thức thật tế. Cho đến sao là tướng Nhất thiết trí trí thật tế, các Bồ tát như
thật biết rõ mà đối tất cả pháp như thật biết rõ tướng rộng hẹp?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Sắc không ngằn mé, đấy gọi tướng sắc thật tế. Thọ
tưởng hành thức không ngằn mé, đấy gọi tướng thọ tưởng hành thức thật tế. Cho
đến Nhất thiết trí trí không ngằn mé, đấy gọi tướng Nhất thiết trí trí thật tế,
các Bồ tát biết rõ như thật và học trong đó thì có thể biết rõ như thật tướng
rộng hẹp của các pháp.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát như thật rõ tướng sắc pháp giới,
tướng thọ tưởng hành thức pháp giới. Cho đến như thật biết rõ tướng Nhất thiết
trí trí pháp giới, Bồ tát này đối tất cả pháp như thật biết rõ tướng rộng hẹp.
Cụ thọ Thiện Hiện thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn! Sao là tướng sắc pháp giới, tướng thọ tưởng hành thức
pháp giới. Cho đến sao là tướng Nhất thiết trí trí pháp giới, các Bồ tát như
thật biết rõ mà đối tất cả pháp như thật biết rõ tướng rộng hẹp?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Sắc như hư không không chướng không ngại, không sanh
không diệt, không đứt không nối mà khá thi thiết, đấy gọi tướng sắc pháp giới.
Thọ tưởng hành thức như hư không, không chướng không ngại, không sanh không
diệt, không dứt không nối mà khá thi thiết, đấy gọi tướng thọ tưởng hành thức
pháp giới. Cho đến Nhất thiết trí trí như hư không, không chướng không ngại,
không sanh không diệt, không dứt không nối mà khá thi thiết, đấy gọi tướng Nhất
thiết trí trí pháp giới. Các Bồ tát như thật biết rõ như thật và học trong đó
thì có thể biết rõ như thật tướng rộng hẹp của các pháp.
Cụ thọ Thiện Hiện thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn! Các Bồ tát phải làm sao biết tướng rộng hẹp tất cả pháp?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Nếu Bồ tát như thật biết rõ tất cả pháp chẳng hợp chẳng
tan. Bồ tát này biết tướng rộng hẹp tất cả pháp như thế.
(Tất cả pháp nào chẳng hợp chẳng tan?)
Cụ thọ Thiện Hiện thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn! Tất cả pháp nào chẳng hợp chẳng tan?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Sắc chẳng hợp chẳng tan, thọ tưởng hành thức chẳng
hợp chẳng tan. Mười hai xứ cho đến mười tám giới chẳng hợp chẳng tan. Nhãn xúc
cho đến ý xúc chẳng hợp chẳng tan. Nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý
xúc làm duyên sanh ra các thọ chẳng hợp chẳng tan. Địa giới cho đến thức giới
chẳng hợp chẳng tan. Nhân duyên cho đến tăng thượng duyên chẳng hợp chẳng tan.
Vô minh cho đến lão tử chẳng hợp chẳng tan. Tham, sân, si chẳng hợp chẳng tan.
Cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc chẳng hợp chẳng tan. Bố thí cho đến Bát nhã Ba la
mật chẳng hợp chẳng tan. Nội Không cho đến vô tánh tự tánh Không chẳng hợp
chẳng tan. Chơn như cho đến bất tư nghì giới chẳng hợp chẳng tan. Tứ đế cho đến
ba mươi bảy pháp trợ đạo chẳng hợp chẳng tan. Như Lai mười lực cho đến mười tám
pháp bất cộng chẳng hợp chẳng tan. Ba mươi hai tướng Đại sĩ, tám mươi tùy hảo
chẳng hợp chẳng tan. Pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả chẳng hợp chẳng tan.
Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí chẳng hợp chẳng tan. Quả Dự
lưu cho đến Độc giác Bồ đề chẳng hợp chẳng tan. Bồ tát hạnh cho đến chư Phật Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề chẳng hợp chẳng tan. Nhất thiết trí trí chẳng hợp chẳng
tan. Hữu vi giới chẳng hợp chẳng tan. Vô vi giới chẳng hợp chẳng tan. Vì sao? Các
pháp như thế đều không tự tánh. Nếu không tự tánh thời vô sở hữu. Nếu vô sở hữu
thời chẳng thể nói có hợp có tan. Các Bồ tát đối tất cả pháp biết rõ như thế,
thời biết rõ được tướng rộng hẹp.
Cụ thọ Thiện Hiện thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn! Như vậy gọi là tóm lược tất cả Ba la mật. Nếu các Bồ tát
học ở trong đó thì có thể làm được nhiều việc.
Bạch Thế Tôn! Như vậy tóm nhiếp Ba la mật, Bồ tát sơ phát tâm cho đến Bồ
tát thập địa đối trong nên thường tu học. Nếu Bồ tát học tóm nhiếp Ba la mật
đây đối tất cả pháp như thật biết được tướng rộng hẹp.
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Đúng vậy, đúng như ngươi đã nói! Thiện Hiện! Phải biết
pháp môn tóm nhiếp Ba la mật như thế, các Bồ tát lợi căn vào được, kẻ độn căn
chẳng vào được. Người siêng năng tinh tấn mới vào được, người lười biếng không
vào được. Người đầy đủ chánh niệm mới vào được, người không đầy đủ chánh niệm
chẳng vào được. Người đầy đủ trí tuệ vi diệu mới vào được, người không có trí
tuệ chẳng vào được.
Thiện Hiện! Bồ tát nào muốn trụ ở địa vị Bất thối chuyển thì phải siêng
năng tìm cách thâm nhập pháp môn này, Bồ tát trụ địa thứ mười (Pháp Vân địa)
cũng phải siêng năng tìm cách thâm nhập pháp môn này. Cho đến Bồ tát muốn đạt
được Nhất thiết trí trí cũng phải tìm cách thâm nhập pháp môn này.
Thiện Hiện! Bồ tát nào học theo y chỉ (sự nương vào) của Bát nhã
Ba la mật này thì Bồ tát đó liền có thể theo học bố thí cho đến Bát nhã Ba la
mật. Cũng có thể học nội không cho đến vô tánh tự tánh không. Cũng có thể học
chơn như cho đến bất tư nghì giới. Cũng có thể học khổ tập diệt đạo Thánh đế.
Cũng có thể học bốn niệm trụ cho đến tám Thánh đạo chi. Cũng có thể học bốn
tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Cũng có thể học tám giải thoát cho đến
mười biến xứ. Cũng có thể học không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn. Cũng
có thể học Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Cũng có thể
học pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả. Cũng có thể học Nhất thiết trí, Đạo
tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Cũng có thể học tất cả Bồ tát hạnh. Cũng có
thể học chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Cũng có thể học Nhất thiết trí
trí.
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát đúng như Bát Nhã thẳm sâu đã nói mà nương dựa tu
học, Bồ tát này như vậy càng gần sở cầu Nhất thiết trí trí.
Bồ tát nào học theo y chỉ của Bát nhã Ba la mật này thì tất cả nghiệp
chướng và ma sự của Bồ tát ấy vừa phát sanh liền bị tiêu diệt. Vì vậy, Thiện
Hiện! Bồ tát nào muốn mau diệt trừ tất cả nghiệp chướng và các ma sự, muốn đúng
đắn nhiếp thọ sức phương tiện thiện xảo thì nên học Bát nhã Ba la mật.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu khi Bồ tát hành Bát Nhã đây, tu Bát Nhã đây,
tập Bát Nhã đây, khi ấy Bồ tát bèn được chư Phật Thế Tôn mười phương vô lượng
vô số vô biên thế giới hiện đang thuyết pháp, thường chung hộ niệm. Vì sao?
Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại đều từ Bát Nhã thẳm sâu mà xuất
hiện vậy.
Vậy nên, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát năng hành Bát Nhã, phải khởi nghĩ này:
Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại đã chứng được Pháp, ta cũng sẽ chứng được.
Như vậy, Thiện Hiện! Các Bồ tát nên siêng tu học Bát Nhã thẳm sâu. Nếu siêng tu
học Bát Nhã thẳm sâu, chóng chứng Nhất thiết trí trí.
Vậy nên, các Bồ tát chẳng nên bỏ tác ý tương ưng Bát Nhã thẳm sâu.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát đối Bát nhã Ba la mật đây như thật tu
hành chỉ trong khoảnh gảy móng tay, chỗ được nhóm phước đức ấy rất nhiều. Giả
sử có người giáo hóa tất cả hữu tình ở tam thiên đại thiên thế giới đều khiến
an trụ bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, hoặc khiến an trụ
giải thoát và giải thoát tri kiến, hoặc khiến an trụ quả Dự lưu cho đến Độc
giác Bồ đề. Người này dù được nhóm phước vô lượng mà cũng chẳng bì kịp như
thật tu hành Bát Nhã thẳm sâu trong khoảnh gảy móng tay chỗ được nhóm phước
nhiều hơn kẻ trước. Vì sao? Thiện Hiện! Vì Bát nhã Ba la mật như thế thường
sanh tất cả bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự; năng sanh tất cả
giải thoát và giải thoát tri kiến; năng sanh tất cả quả Dự lưu cho đến Độc giác
Bồ đề. Chư Phật Thế Tôn hiện tại mười phương vô lượng vô số vô biên thế giới
đều do Bát Nhã thẳm sâu mà được xuất sanh. Chư Phật quá khứ vị lai cũng vậy.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát chẳng xa lìa tác ý tương ưng Bát Nhã
thẳm sâu, tu hành Bát Nhã chỉ trong giây lát, hoặc nửa ngày, hoặc một ngày,
hoặc nửa tháng, hoặc một tháng, hoặc một năm, hoặc trăm năm, hoặc hơn thế nữa,
Bồ tát này chỗ được nhóm phước đức rất nhiều hơn giáo hóa tất cả hữu tình mười
phương thế giới đều ngang như cát Căng già, đều khiến an trụ bố thí, tịnh giới,
an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự; hoặc khiến an trụ giải thoát trí kiến, hoặc khiến
an trụ quả Dự lưu cho đến Độc giác Bồ đề. Vì sao? Vì do Bát nhã Ba la mật đây
mà chư Phật Thế Tôn quá khứ, vị lai, hiện tại xuất sanh vì các hữu tình như
thật thi thiết bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la
mật; thi thiết giải thoát và giải thoát trí kiến; như thật thi thiết quả Dự lưu
cho đến Độc giác Bồ đề; như thật thi thiết chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Nên nhóm phước này hơn hẳn phước đức kia.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát y chỉ đúng như Bát Nhã đã nói mà trụ,
phải biết Bồ tát này chẳng quay lui nữa, thường được chư Phật hộ niệm, trọn nên
phương tiện khéo léo hơn cả. Đã từng gần gũi cúng dường vô lượng trăm ngàn trăm
ức muôn ức Phật, ở chỗ chư Phật đã trồng vô lượng căn lành vi diệu. Đã được vô
lượng chơn thiện tri thức nhiếp thọ. Đã lâu tu tập bố thí cho đến Bát nhã Ba la
mật. Đã lâu an trụ nội không cho đến vô tánh tự tánh không. Đã lâu an trụ chơn
như cho đến bất tư nghì giới. Đã lâu an trụ khổ tập diệt đạo Thánh đế. Đã lâu
tu tập bốn niệm trụ cho đến tám Thánh đạo chi. Đã lâu tu tập bốn tĩnh lự, bốn
vô lượng, bốn định vô sắc. Nói rộng ra, đã lâu tu tập Nhất thiết trí trí.
Phải biết Bồ tát này trụ bậc đồng chơn, tất cả sở nguyện đều được đầy đủ,
thường thấy chư Phật, đối các căn lành hằng chẳng xa lìa, thường thành thục
được sở hóa của hữu tình, thường nghiêm tịnh được cõi Phật. Từ một nước Phật
tới một nước Phật, cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen chư Phật Thế Tôn,
lóng nghe lãnh thọ tu hành pháp Vô thượng thừa.
Phải biết Bồ tát này đã được biện tài vô tận. Đã được pháp Đà la ni vi
diệu, trọn nên sắc thân tối thượng diệu. Đã được chư Phật trao ký viên mãn, vì
độ hữu tình như chỗ mong muốn nên được thọ các thứ thân tự tại.
Phải biết Bồ tát này khéo nhập sở duyên, khéo nhập hành tướng. Khéo nhập
pháp có chữ, khéo nhập pháp phi chữ. Khéo nhập lời nói, khéo nhập không lời
nói. Khéo nhập một ngôn ngữ, khéo nhập hai ngôn ngữ, khéo nhập nhiều ngôn ngữ.
Khéo nhập ngôn ngữ nữ, khéo nhập ngôn ngữ nam, khéo nhập ngôn ngữ chẳng nữ
chẳng nam. Khéo nhập ngôn ngữ thời quá khứ, khéo nhập ngôn ngữ thời vị lai,
khéo nhập ngôn ngữ thời hiện tại. Khéo nhập các nghĩa, khéo nhập tưởng, khéo
nhập hành, khéo nhập thức. Khéo nhập uẩn, khéo nhập xứ, khéo nhập giới. Khéo
nhập duyên khởi, khéo nhập chi duyên khởi. Khéo nhập thế gian, khéo nhập Niết
bàn. Khéo nhập pháp tướng, khéo nhập tướng hữu vi, khéo nhập tướng vô vi, khéo
nhập tướng hữu vi vô vi. Khéo nhập hành tướng, khéo nhập phi hành tướng. Khéo
nhập tướng tướng, khéo nhập tướng phi tướng. Khéo nhập hữu tánh, khéo nhập phi
hữu tánh. Khéo nhập tánh mình, khéo nhập tánh người. Khéo nhập hợp, khéo nhập
ly, khéo nhập hợp ly. Khéo nhập tương ưng, khéo nhập chẳng tương ưng, khéo nhập
tương ưng chẳng tương ưng. Khéo nhập chơn như, khéo nhập tánh không hư vọng,
khéo nhập tánh không biến đổi, khéo nhập pháp tánh, khéo nhập pháp giới, khéo
nhập pháp định, khéo nhập pháp trụ. Khéo nhập duyên tánh, khéo nhập phi duyên
tánh. Khéo nhập các Thánh đế. Khéo nhập bốn tịnh lự, khéo nhập bốn vô lượng,
khéo nhập bốn định vô sắc. Khéo nhập sáu Ba la mật. Khéo nhập bốn niệm trụ cho
đến tám chi Thánh đạo. Khéo nhập tám giải thoát cho đến mười biến xứ. Khéo nhập
pháp môn Đà la ni, khéo nhập pháp môn Tam ma địa. Khéo nhập ba pháp môn giải
thoát, khéo nhập tất cả tánh không. Khéo nhập năm loại mắt, khéo nhập sáu phép
thần thông. Khéo nhập mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.
Khéo nhập pháp không quên mất, khéo nhập tánh luôn luôn xả. Khéo nhập Nhất
thiết trí, khéo nhập Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Khéo nhập cảnh giới
hữu vi, khéo nhập cảnh giới vô vi.
Khéo nhập giới, khéo nhập phi giới. Khéo nhập tác ý của sắc cho đến tác
ý của thức. Khéo nhập tác ý của nhãn xứ cho đến tác ý của ý xứ. Khéo nhập tác ý
của sắc xứ cho đến tác ý của pháp xứ. Khéo nhập tác ý của nhãn giới cho đến tác
ý của ý giới. Khéo nhập tác ý của sắc giới cho đến tác ý của pháp giới. Khéo
nhập tác ý của nhãn thức giới cho đến tác ý của ý thức giới. Khéo nhập tác ý
của nhãn xúc cho đến tác ý của ý xúc. Khéo nhập tác ý của các thọ do nhãn xúc
làm duyên sanh ra cho đến tác ý của các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra. Khéo
nhập tác ý của địa giới cho đến tác ý của thức giới. Khéo nhập tác ý của nhân
duyên cho đến tác ý của tăng thượng duyên. Khéo nhập tác ý về vô minh cho đến
tác ý về lão tử. Khéo nhập tác ý về bố thí cho đến tác ý về Bát nhã Ba la mật.
Khéo nhập tác ý về pháp nội không cho đến tác ý về pháp vô tánh tự tánh không.
Khéo nhập tác ý về chơn như cho đến tác ý về cảnh giới bất tư nghì. Nói rộng
ra, khéo nhập tác ý về tất cả pháp Phật.
Khéo nhập tác ý về sắc và tướng không của sắc. Khéo nhập
tác ý về thọ, tưởng, hành, thức và tướng không của thọ, tưởng, hành, thức. Như
vậy, cho đến khéo nhập vào Nhất thiết trí trí và tướng không của Nhất thiết trí
trí. Khéo nhập đạo khinh an, khéo nhập đạo chẳng khinh an. Khéo nhập sanh, khéo
nhập diệt, khéo nhập trụ và biến đổi. Khéo nhập chánh kiến, khéo nhập tà kiến.
Khéo nhập kiến, khéo nhập phi kiến. Khéo nhập tham, sân, si, khéo nhập không
tham, không sân, không si. Khéo nhập tất cả kiết sử trói buộc như kiến chấp
triền cái, tùy miên, khéo nhập sự dứt trừ tất cả kiến sử trói buộc như kiến
chấp, triền cái, tùy miên. Khéo nhập danh, khéo nhập sắc, khéo nhập danh sắc.
Khéo nhập sở duyên duyên, khéo nhập tăng thượng duyên. Khéo nhập nhân duyên,
khéo nhập đẳng vô gián duyên. Khéo nhập hành, khéo nhập tướng. Khéo nhập nhân,
khéo nhập quả. Khéo nhập khổ, tập, diệt, đạo. Khéo nhập địa ngục và đường dẫn
đến địa ngục. Khéo nhập bàng sanh và đường dẫn đến bàng sanh. Khéo nhập cõi quỷ
và đường dẫn đến cõi quỷ. Khéo nhập cõi người và đường dẫn đến cõi người, khéo
nhập cõi trời và đường dẫn đến cõi trời. Khéo nhập Dự lưu, quả Dự lưu, và đường
dẫn đến quả Dự lưu. Khéo nhập Nhất lai, quả Nhất lai, và đường dẫn đến quả Nhất
lai. Khéo nhập Bất hoàn, quả Bất hoàn, và đường dẫn đến quả Bất hoàn. Khéo nhập
A la hán, quả A la hán, và đường dẫn đến quả A la hán. Khéo nhập Độc giác, Độc
giác Bồ đề, và đường dẫn đến Độc giác Bồ đề. Khéo nhập tất cả Bồ tát và Bồ tát
hạnh. Khéo nhập tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và quả vị Vô Thượng Chánh
Đẳng Bồ đề. Khéo nhập tất cả Nhất thiết trí và đường dẫn đến Nhất thiết trí,
khéo nhập Đạo tướng trí và đường dẫn đến Đạo tướng trí, khéo nhập Nhất thiết
tướng trí và đường dẫn đến Nhất thiết tướng trí.
Khéo nhập căn, khéo nhập căn viên mãn, khéo nhập căn thắng liệt. Khéo
nhập huệ, khéo nhập tập huệ, khéo nhập lợi (bén nhạy) huệ, khéo nhập tốc
(nhanh) huệ, khéo nhập lực (mạnh) huệ, khéo nhập đạt (thắng
lợi) huệ, khéo nhập quảng (rộng lớn) huệ, khéo nhập thâm (sâu)
huệ, khéo nhập đại (to lớn) huệ, khéo nhập vô đẳng (không gì bằng)
huệ, khéo nhập chơn thật huệ, khéo nhập trân bảo huệ. Khéo nhập đời quá khứ,
khéo nhập đời vị lai, đời hiện tại. Khéo nhập phương tiện, khéo nhập nguyện của
hữu tình. Khéo nhập ý muốn, khéo nhập tăng thượng ý muốn. Khéo nhập tướng văn
nghĩa, khéo nhập các Thánh pháp. Khéo nhập phương tiện an lập ba thừa.
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát hành Bát Nhã thậm thâm, dẫn phát Bát Nhã thậm
thâm, tu Bát Nhã thẳm sâu thì được các loại lợi ích thù thắng như vậy. (Q.461, ĐBN)
(Đoạn Kinh sau đây nói về tam huệ: HÀNH, DẪN và TU BÁT
NHÃ)
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Các Bồ tát làm sao hành Bát Nhã thẳm sâu. Làm
sao dẫn Bát Nhã thẳm sâu. Làm sao tu Bát Nhã thẳm sâu?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Các Bồ tát nên quán sắc cho đến thức là điêu tàn, là hư
hoại, là ly tán, chẳng tự tại, chẳng bền chắc, tánh hư ngụy, để hành Bát Nhã
thẳm sâu.
Thiện Hiện! Còn điều ngươi hỏi là các Bồ tát làm sao để dẫn phát Bát
Nhã thẳm sâu thì câu trả lời là các Bồ tát nên dẫn phát Bát Nhã thẳm sâu như
dẫn phát cái không của hư không.
Thiện Hiện! Còn về việc ngươi hỏi là các Bồ tát làm sao để tu Bát
Nhã thẳm sâu thì câu trả lời là các Bồ tát nên tu trừ khiển các pháp để tu Bát
Nhã thẳm sâu.
Cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Các Bồ tát phải trải bao thời gian bao lâu để hành Bát
Nhã, để dẫn Bát Nhã, để tu Bát Nhã thẳm sâu?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Các Bồ tát nên từ sơ phát tâm cho đến ngồi yên tòa diệu Bồ
đề, nên hành, nên dẫn, nên tu Bát Nhã thẳm sâu.
Cụ thọ Thiện Hiện thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn! Các Bồ tát nên trụ những tâm vô gián nào để hành, để
dẫn, để tu Bát Nhã thẳm sâu?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Các Bồ tát nên từ sơ phát tâm cho đến ngồi yên tòa Bồ đề,
không nên khởi tác ý khác, chỉ thường an trụ tác ý tương ưng Nhất thiết trí
trí, để hành, để dẫn, để tu Bát Nhã thẳm sâu. Bồ tát này làm thế nào để Tâm
và tâm sở đối cảnh chẳng chuyển mới được coi là hành, là dẫn, là tu Bát Nhã
thẳm sâu.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa:
- Bạch Thế Tôn! Các Bồ tát hành Bát Nhã, dẫn Bát Nhã, tu Bát Nhã thẳm
sâu sẽ được Nhất thiết trí trí chăng?
- Thiện Hiện! Chẳng được.
- Bạch Thế Tôn! Các Bồ tát chẳng hành Bát Nhã, chẳng dẫn Bát Nhã, chẳng
tu Bát Nhã đa thẳm sâu sẽ được Nhất thiết trí trí chăng?
- Thiện Hiện! Chẳng được!
- Bạch Thế Tôn! Các Bồ tát đối Bát Nhã thẳm sâu cũng hành cũng chẳng
hành, cũng dẫn cũng chẳng dẫn, cũng tu cũng chẳng tu sẽ được Nhất thiết trí trí
chăng?
- Thiện Hiện! Chẳng được.
- Bạch Thế Tôn! Các Bồ tát đối Bát Nhã thẳm sâu chẳng hành chẳng phải
chẳng hành, chẳng dẫn chẳng phải chẳng dẫn, chẳng tu chẳng phải chẳng tu sẽ
được Nhất thiết trí trí chăng?
- Thiện Hiện! Chẳng được.
- Bạch Thế Tôn! Nếu vậy các Bồ tát làm sao sẽ được Nhất thiết trí trí?
- Thiện Hiện! Các Bồ tát như chơn như sẽ được Nhất thiết trí trí.
- Bạch Thế Tôn! Thế nào là chơn như?
- Thiện Hiện! Như thật tế.
- Bạch Thế Tôn! Thế nào là thật tế?
- Thiện Hiện! Như pháp giới.
- Bạch Thế Tôn! Thế nào là pháp giới?
- Thiện Hiện! Như cảnh giới của ngã, cảnh giới của hữu tình, của mạng
giả, sanh giả, dưỡng giả, sĩ phu, bổ đặc già la.
- Bạch Thế Tôn! Thế nào là cảnh giới của ngã cho đến cảnh giới của bổ
đặc già la?
- Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Hoặc ngã, hoặc hữu tình, hoặc mạng giả,
hoặc sanh giả, hoặc dưỡng giả, hoặc sĩ phu, hoặc bổ đặc già la là khá được
chăng?
- Bạch Thế Tôn! Chẳng được!
- Thiện Hiện! Nếu ngã cho đến bổ đặc già la đã chẳng khá đắc, thì Ta làm
sao khá thi thiết được đây là cảnh giới của ngã cho đến đây là cảnh giới của bổ
đặc già la? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát chẳng thi thiết Nhất thiết trí trí, cũng
chẳng thi thiết tất cả pháp, Bồ tát này nhất định sẽ chứng được Nhất thiết trí
trí.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Chỉ Bát nhã Ba la mật chẳng thể thi thiết hay tĩnh lự
cho đến bố thí cũng chẳng thể thi thiết?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Chẳng những Bát nhã Ba la mật chẳng thể chẳng thi thiết,
tĩnh lự cho đến bố thí cũng chẳng thể chẳng thi thiết. Cả đến hoặc pháp Thanh
văn, hoặc pháp Độc giác, hoặc pháp Bồ Tát, hoặc pháp Như Lai cũng chẳng thể thi
thiết.
Thiện Hiện! Tóm lại mà nói, tất cả pháp hoặc hữu vi, hoặc vô vi đều
chẳng thể thi thiết(giả lập).
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:
- Nếu tất cả pháp đều chẳng thể thi thiết, làm sao khá thi thiết đây địa
ngục, đây bàng sanh, đây quỷ giới, đây người, đây trời, đây Dự lưu, Nhất lai,
Bất hoàn, A la hán, đây Độc giác, đây Bồ Tát, đây Như Lai, đây tất cả pháp?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Thi thiết hữu tình và thi thiết pháp
thật khá được chăng?
- Bạch Thế Tôn! Chẳng được.
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Nếu thi thiết hữu tình và thi thiết pháp thật chẳng khá
được, thì Ta làm sao khá thi thiết đây địa ngục, đây bàng sanh, đây quỷ giới,
đây người, đây trời, đây Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, đây Độc giác,
đây Bồ Tát, đây Như Lai, đây tất cả pháp. Thiện Hiện! Các Bồ tát khi hành Bát
Nhã thẳm sâu, nên học tất cả pháp đều chẳng thể thi thiết thì có thể tới Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Cụ thọ Thiện Hiện thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn! Lúc hành Bát Nhã thẳm sâu, lẽ nào Bồ tát không nên học
sắc, không nên học thọ, tưởng, hành, thức. Như vậy, cho đến không nên học Nhất
thiết trí trí?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Các Bồ tát khi hành Bát Nhã thẳm sâu, nên học sắc chẳng
tăng chẳng giảm, nên học thọ tưởng hành thức học chẳng tăng chẳng giảm. Như
vậy, cho đến nên học Nhất thiết trí trí chẳng tăng chẳng giảm.
Cụ thọ Thiện Hiện thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn! Các Bồ tát khi hành Bát Nhã thẳm sâu, làm sao học sắc
chẳng tăng chẳng giảm. Làm sao học thọ tưởng hành thức chẳng tăng chẳng giảm.
Như vậy, cho đến làm sao học Nhất thiết trí trí chẳng tăng chẳng giảm?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Các Bồ tát khi hành Bát Nhã thẳm sâu nên dùng bất sanh
bất diệt đối sắc mà học. Nên dùng bất sanh bất diệt đối thọ tưởng hành thức
mà học. Như vậy, nên dùng bất sanh bất diệt cho đến đối Nhất thiết trí trí mà
học.
Cụ thọ Thiện Hiện thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn! Các Bồ tát khi hành Bát Nhã thẳm sâu phải làm sao dùng
bất sanh bất diệt đối sắc mà học, làm sao dùng bất sanh bất diệt đối với thọ
tưởng hành thức mà học. Phải làm sao dùng bất sanh bất diệt đối Nhất thiết trí
trí mà học?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Các Bồ tát khi hành Bát Nhã thẳm sâu nên đối sắc chẳng
khởi chẳng tác các hành hoặc tu hoặc khiển mà học. Nên đối thọ tưởng
hành thức chẳng khởi chẳng tác các hành hoặc tu hoặc khiển mà học. Như vậy, cho
đến nên đối Nhất thiết trí trí chẳng khởi chẳng tác các hành hoặc tu hoặc khiển
mà học. Như vậy, cho đến phải làm sao đối Nhất thiết trí trí chẳng khởi chẳng
tác các hành hoặc tu hoặc khiển mà học. Các Bồ tát khi hành Bát Nhã thẳm sâu
nên quán tất cả pháp tự tướng đều không, đối sắc chẳng khởi chẳng tác
các hành, hoặc tu hoặc khiển mà học. Nên quán tất cả pháp tự tướng đều không,
đối thọ tưởng hành thức chẳng khởi chẳng tác các hành, hoặc tu hoặc khiển mà
học. Như vậy, cho đến nên quán tất cả pháp tự tướng đều không, đối Nhất thiết
trí trí hoặc chẳng khởi chẳng tác các hành, hoặc tu hoặc khiển mà học. (Q.462, ĐBN)
(Bồ tát hành Bát Nhã quán tự tướng của tất cả pháp đều
không?)
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Khi các đại Bồ tát hành Bát Nhã quán tự tướng của tất
cả pháp đều không như thế nào?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát khi hành Bát Nhã sâu thẳm nên quán
sắc, do quán tướng sắc không; quán thọ tưởng hành thức, do tướng thọ tưởng
hành thức không. Nói rộng, cho đến nên quán chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ
đề, do tướng chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề không. Nên quán Nhất thiết trí
trí, do tướng Nhất thiết trí trí không.
Này Thiện Hiện! Như vậy là các đại Bồ tát hành Bát Nhã nên quán tự tướng
của các pháp đều không.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Nếu sắc do tướng sắc không; thọ tưởng hành thức, do tướng thọ tưởng
hành thức không. Nói rộng, cho đến chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, do
tướng chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề không. Nhất thiết trí trí, do tướng
Nhất thiết trí trí không, đại Bồ tát làm sao hành Bát Nhã sâu xa?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Nếu các đại Bồ tát hoàn toàn không có sở
hành thì đó là hành Bát nhã Ba la mật. (Q.462,
ĐBN)
(Hành vô sở đắc và hữu sở đắc).
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Vì sao mà đại Bồ tát hoàn toàn không có sở hành là hành Bát
Nhã?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Do Bát Nhã sâu xa bất khả đắc, các đại Bồ tát cũng
bất khả đắc, sở hành cũng bất khả đắc, người hành, do đây mà hành, thời hành,
chỗ hành đều bất khả đắc. Cho nên, này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát
hoàn toàn không có sở hành là hành Bát Nhã sâu xa, vì trong đó tất cả hý luận
đều bất khả đắc.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Nếu đại Bồ tát hoàn toàn không có sở hành là hành Bát Nhã, thì tân học
Bồ tát làm sao hành Bát Nhã?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Tân học Bồ tát, từ lúc mới phát tâm, đối với tất cả
pháp luôn luôn học không có sở đắc. Học như vậy xong, dùng vô sở đắc để làm
phương tiện nên tu bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Nói rộng, cho đến dùng vô
sở đắc làm phương tiện để tu Nhất thiết trí trí.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Sao gọi là hữu sở đắc? Sao gọi là vô sở đắc?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Có hai thì gọi là hữu sở đắc, không có hai thì
gọi là vô sở đắc.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Vì sao có hai thì gọi là hữu sở đắc? Vì sao không hai thì gọi là vô sở
đắc?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Nhãn và sắc là hai, cho đến ý và pháp là hai, nói rộng
cho đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật và chư Phật là hai. Tất
cả có hý luận như vậy đều gọi là hai, mà hễ có hai thì đều có sở đắc. Phi nhãn
và phi sắc là không hai, nói rộng cho đến phi ý, phi pháp là không hai. Nói
rộng, cho đến phi quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, phi Phật là không hai. Tất
cả lìa hý luận như vậy đều gọi là không hai, mà hễ không hai thì đều vô sở
đắc.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Do hữu sở đắc nên vô sở đắc, hay do vô sở đắc nên vô sở
đắc?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Chẳng phải do hữu sở đắc nên vô sở đắc, cũng chẳng
phải do vô sở đắc nên vô sở đắc. Nhưng hữu sở đắc và vô sở đắc tánh bình đẳng,
nên gọi là vô sở đắc.
Này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát nên siêng năng tu học trong tánh bình
đẳng của hữu sở đắc và vô sở đắc như vậy.
Thiện Hiện nên biết! Khi các đại Bồ tát học như vậy gọi là học nghĩa vô
sở đắc Bát Nhã, thì xa lìa được các lỗi lầm. (Q.462, ĐBN)
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Khi các đại Bồ tát hành Bát Nhã, không chấp trước hữu sở
đắc, không chấp trước vô sở đắc thì đại Bồ tát ấy làm sao tu hành Bát Nhã, để
có thể từ địa vị này tiến lên địa vị khác, lần lượt được viên mãn, nhờ đây
chứng đắc Nhất thiết trí trí?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Khi các đại Bồ tát hành Bát Nhã, chẳng trụ vào hữu
sở đắc, chẳng trụ vào vô sở đắc để hành Bát Nhã thì có thể từ địa này tiến lên
địa khác, từ từ được viên mãn cho đến chứng đắc Nhất thiết trí trí. Vì sao? Vì Bát
Nhã vô sở đắc, Nhất thiết trí trí cũng vô sở đắc, người hành Bát Nhã, chỗ hành,
thời hành cũng vô sở đắc. Vô sở đắc này cũng vô sở đắc nốt.
Thiện Hiện nên biết! Các đại Bồ tát nên hành Bát nhã Ba la mật sâu xa
như vậy.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu Bát Nhã sâu xa bất khả đắc, Nhất thiết trí trí cũng
bất khả đắc, người hành Bát Nhã sâu xa, chốn hành, thời hành cũng bất khả đắc.
Bất khả đắc này cũng bất khả đắc, vậy thì khi hành Bát Nhã sâu xa, vì sao các
đại Bồ tát thường hay chọn lựa(giảng trạch) các pháp: Nói
đây là sắc; đây là thọ, tưởng, hành, thức. Nói rộng, cho đến đây là quả vị Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, đây là Nhất thiết trí trí?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Khi các đại Bồ tát hành Bát Nhã sâu xa, mặc dù thường
hay chọn lựa các pháp nhưng không đắc sắc, không đắc thọ, tưởng, hành, thức,
cho đến không đắc Nhất thiết trí trí.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Khi các đại Bồ tát hành Bát Nhã sâu xa, nếu không đắc
sắc, không đắc thọ, tưởng, hành, thức, cho đến không đắc Nhất thiết trí trí thì
làm sao có thể viên mãn sáu pháp Ba la mật? Nếu không viên mãn sáu pháp Ba la
mật, thì làm sao có thể nhập vào địa vị Bồ tát Chánh tánh ly sanh. Nếu không
nhập địa vị Bồ tát Chánh tánh ly sanh thì làm sao có thể trang nghiêm cõi Phật,
thành thục hữu tình? Nếu không thể trang nghiêm cõi Phật, thành thục hữu tình
thì làm sao đắc Nhất thiết trí trí. Nếu không đắc Nhất thiết trí trí, thì làm
sao có thể chuyển bánh xe diệu pháp, làm các Phật sự? Nếu không thể chuyển bánh
xe diệu pháp, làm các Phật sự, thì làm sao giải thoát hữu tình khỏi các khổ
sanh tử, để họ được Niết bàn rốt ráo an vui?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Khi các đại Bồ tát hành Bát Nhã sâu xa, không vì sắc
mà hành Bát Nhã, không vì thọ, tưởng, hành, thức mà hành Bát Nhã. Nói rộng, cho
đến không vì quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề mà hành Bát Nhã. Không vì Nhất
thiết trí trí mà hành Bát Nhã.
(Vì việc gì mà Bồ tát phải hành Bát nhã Ba la mật sâu
xa?)
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ tát vì việc gì mà hành Bát nhã Ba la mật
sâu xa?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát không vì việc gì(vô sở vi) mà
hành Bát nhã Ba la mật sâu xa(2). Vì sao? Vì tất cả pháp đều hoàn toàn vô tạo,
hoàn toàn vô tác. Bát Nhã sâu xa cũng không tạo không tác. Quả vị Vô Thượng
Chánh Đẳng Bồ đề cũng không tạo không tác. Các đại Bồ tát cũng không tạo không
tác. Như vậy, này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát lấy không tạo không tác làm phương
tiện hành Bát Nhã sâu xa.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp đều không tạo không tác thì không nên
tạo lập khác nhau giữa ba thừa là Thanh văn thừa, Độc giác thừa và Vô thượng
thừa?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Nếu pháp không tạo không tác thì làm sao tạo lập được,
cần phải có pháp có tạo có tác mới tạo lập được. Vì sao? Vì các phàm phu ngu si
thiếu trí chấp trước các sắc, thọ, tưởng, hành, thức; nói rộng cho đến Nhất
thiết trí trí. Bởi chấp trước nhớ nghĩ sắc thì (cho là) đắc sắc, nhớ
nghĩ thọ, tưởng, hành, thức thì đắc thọ, tưởng, hành, thức. Nói rộng, cho đến
nhớ nghĩ Nhất thiết trí trí thì đắc Nhất thiết trí trí. Do nhớ nghĩ như thế nên
nói: Ta nhất định sẽ đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, độ thoát các hữu
tình ra khỏi khổ lớn sanh tử để đắc Niết bàn rốt ráo an lạc.
Thiện Hiện nên biết! Kẻ phàm phu ngu si thiếu trí ấy do điên đảo nên suy
nghĩ như vậy, đó là phỉ báng Phật. Vì sao? Vì Phật dùng năm loại mắt tầm cầu
sắc bất khả đắc, tầm cầu thọ, tưởng, hành, thức bất khả đắc. Cho đến tầm cầu quả
vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề cũng bất khả đắc, tầm cầu hữu tình cũng bất khả
đắc. Các phàm phu ngu si thiếu trí ấy mờ mịt không có mắt tuệ nên chấp trước
vào các pháp. Nếu sẽ chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, độ thoát các
hữu tình ra khỏi khổ lớn sanh tử, được Niết bàn thường lạc rốt ráo, thì chắc
chắn không có điều đó.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều dùng năm loại
mắt tầm cầu sắc chẳng thể được, tầm cầu thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng thể
được, cho đến tầm cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề cũng chẳng thể được,
tầm cầu các hữu tình cũng chẳng thể được, thì đúng ra sẽ không ai có thể chứng
quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, độ thoát các hữu tình ra khỏi khổ lớn sanh
tử, để đắc Niết bàn thường lạc rốt ráo. Nếu vậy, thì làm sao Thế Tôn chứng đắc
quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, an lập hữu tình thành ba nhóm khác nhau, đó
là nhóm chánh tánh định, nhóm tà tánh định và nhóm bất định?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Ta dùng năm loại mắt quán sát như thật, quyết định: Ta
thật không chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, an lập hữu tình thành
ba nhóm khác nhau. Nhưng các hữu tình vì ngu si điên đảo nên đối với pháp chẳng
thật mà tưởng pháp thật; đối với hữu tình chẳng thật mà tưởng thật hữu tình. Để
diệt trừ kiến chấp hư vọng đó, Ta căn cứ vào thế tục mà nói chứ không căn cứ
vào thắng nghĩa.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Không lẽ Như Lai không an trụ vào thắng nghĩa để chứng
đại Bồ đề hay sao?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Không!
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Không lẽ Như Lai không an trụ vào vọng tưởng điên đảo để
chứng đại Bồ đề hay sao?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Không!
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu Như Lai không an trụ vào thắng nghĩa chứng đại Bồ
đề, cũng không an trụ vào vọng tưởng điên đảo để chứng đại Bồ đề, thì lẽ ra Như
Lai cũng không chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Không phải vậy! Mặc dù Ta chứng đắc quả vị Vô Thượng
Chánh Đẳng Bồ đề nhưng không có chỗ trụ. Nghĩa là không trụ vào cảnh giới
hữu vi, cũng không trụ vào cảnh giới vô vi.
Thiện Hiện nên biết! Ví như những người do chư Phật biến hóa, tuy không
trụ vào cảnh giới hữu vi, cũng không trụ vào cảnh giới vô vi, nhưng có đi,
đứng, nằm, ngồi. Người do chư Phật biến hóa, hoặc hành bố thí cho đến Bát nhã
Ba la mật. Hoặc trụ vào pháp nội không cho đến pháp vô tánh tự tánh không; trụ
vào chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì; trụ vào Thánh đế khổ, tập, diệt,
đạo; tu bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo; tu bốn tịnh lự, bốn vô lượng,
bốn định vô sắc; tu pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện; tu tám giải
thoát cho đến mười biến xứ; tu Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa; tu tất cả pháp
môn Đà la ni, pháp môn Tam ma địa; tu năm loại mắt, sáu phép thần thông; tu Như
Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng; tu đại từ, đại bi, đại hỷ,
đại xả; tu pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; tu Nhất thiết trí, Đạo tướng
trí, Nhất thiết tướng trí; tu Bồ tát hạnh. Hoặc chứng quả vị Vô Thượng Chánh
Đẳng Bồ đề, chuyển bánh xe diệu pháp, làm các Phật sự. Người được biến hóa lại
chuyển hóa làm vô lượng hữu tình, trong đó an lập thành ba nhóm khác nhau. Ý
ngươi nghĩ sao? Người do chư Phật biến hóa đó thật có đi, đứng, nằm, ngồi cho
đến thật có an lập hữu tình thành ba nhóm khác nhau không?
Thiện Hiện thưa:
- Bạch Thế Tôn! Không!
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Chư Phật Thế Tôn biết tất cả pháp đều như
biến hóa, nói tất cả pháp cũng như biến hóa, tuy có việc phải làm mà không chơn
thật. Tuy độ hữu tình mà không sở độ, như kẻ như hóa, độ hóa hữu tình.
Như vậy, này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát hành Bát Nhã sâu xa giống như
người do Phật biến hóa, mặc dù có sở tác nhưng không chấp trước.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp đều như sự biến hóa thì chư Phật cũng
vậy. Chư Phật và người được biến hóa có gì khác nhau?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Phật và người được biến hóa cùng tất cả pháp thật sự
không khác nhau. Vì sao? Vì tất cả sự nghiệp chư Phật đã làm ra thì người do
Phật biến hóa cũng đều có thể làm. Sự nghiệp mà người do Phật biến hóa đã làm
thì chư Phật Thế Tôn cũng có thể làm ra. Cho nên, chư Phật và người được biến
hóa cùng tất cả pháp thật sự không khác nhau.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu không có người do chư Phật biến hóa thì riêng Phật
có thể làm ra sự nghiệp được không? Còn nếu không có chư Phật thì người được
hóa kia có thể riêng mình làm các việc được không?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Họ cũng có thể làm được.
Thiện Hiện thưa:
- Bạch Thế Tôn! Việc ấy như thế nào?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Như có Như Lai hiệu là Thiện Tịch Huệ, đã độ xong
những người đáng được độ. Khi ấy, không có Bồ tát nào được Phật thọ ký, Ngài
liền hóa một vị Phật để trụ thế gian, rồi tự nhập vào Vô dư y đại Niết bàn. Hóa
Phật đó làm các Phật sự trong nửa kiếp, hay hơn nửa kiếp rồi, thọ ký cho một Bồ
tát rồi nhập Niết bàn. Khi đó chư thiên, người, A tu la v.v… đều cho rằng Phật
ấy nay nhập Niết bàn, nhưng thân của hóa Phật ấy thật không sanh diệt.
Như vậy, này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát hành Bát Nhã sâu xa nên tin các
pháp đều như biến hóa.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu thân chư Phật như thân biến hóa thì làm sao có thể
làm ruộng phước chơn tịnh? Nếu các hữu tình vì giải thoát nên cung kính, cúng
dường chư Phật, cho đến khi Niết bàn thì phước đức ấy vô tận. Đối với hóa Phật
mà cung kính, cúng dường thì phước đức ấy cũng phải rốt ráo vô tận?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Như thân chư Phật do pháp tánh nên có thể cùng thí chủ làm
tịnh phước điền. Thân Phật hóa ra cũng lại như thế, đều khiến thí chủ cung kính
cúng dường hết ngằn sanh tử phước ấy vô tận.
Thiện Hiện nên biết! Hãy gác phước đức thu được do cung kính, cúng dường
chư Phật và hóa thân Phật qua một bên. Nếu thiện nam, thiện nữ v.v... đối với
chư Phật có lòng từ, cung kính, suy nghĩ, nhớ đến công đức chơn tịnh thì thiện
nam, thiện nữ v.v... ấy đến khi dứt sanh tử căn lành vẫn vô tận.
Thiện Hiện nên biết! Lại gác phước đức đạt được do có lòng từ cung kính,
tâm suy nghĩ nhớ các công đức chơn tịnh qua một bên. Nếu thiện nam, thiện nữ
v.v... vì cúng dường Phật thậm chí rải một cánh hoa trong hư không thì các
thiện nam, thiện nữ v.v... ấy đến tận lúc chấm dứt sanh tử được căn lành vô
lượng.
Thiện Hiện nên biết! Lại gác phước đức đạt được vì muốn cúng dường Phật,
thậm chí rải một cánh hoa trong hư không qua một bên. Nếu thiện nam, thiện nữ
v.v... thậm chí xưng “Nam mô Phật đà đại từ đại bi”, thì các thiện nam, thiện
nữ v.v... ấy đến lúc chấm dứt sanh tử căn lành vẫn vô tận, luôn được hưởng thọ
phước lạc trong cõi trời, cho đến cuối cùng đắc Niết bàn.
Như vậy, này Thiện Hiện! Cung kính, cúng dường chư Phật và hóa thân Phật
đạt được những lợi ích rộng lớn như vậy. Cho nên, này Thiện Hiện! Chư Phật và
hóa thân Phật đều là ruộng phước chơn tịnh không khác nhau của thí chủ, vì lấy
pháp tánh các pháp làm định lượng.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ tát lấy pháp tánh các pháp ấy để làm
định lượng, làm phương tiện thiện xảo hành Bát Nhã sâu xa. Sau khi nhập vào
pháp tánh các pháp rồi, nhưng đối với các pháp không làm hư hoại pháp tánh.
Nghĩa là không phân biệt đây là Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật. Đây là pháp
tánh Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật. Nói rộng, cho đến đây là Nhất thiết trí
trí, đây là pháp tánh Nhất thiết trí trí. Thiện Hiện nên biết! Khi các đại Bồ
tát hành Bát Nhã sâu xa, không nên phân biệt sự sai khác pháp tánh các pháp mà
làm hư hoại pháp tánh.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu các đại Bồ tát hành Bát Nhã sâu xa, không nên phân
biệt pháp tánh các pháp mà làm hư hoại pháp tánh thì vì sao Thế Tôn tự nói pháp
tánh các pháp sai khác mà chẳng hoại pháp tánh? Nghĩa là Phật thường nói: Đây
là sắc cho đến thức. Đây là nhãn xứ cho đến ý xứ. Đây là sắc xứ cho đến pháp
xứ. Đây là nhãn giới cho đến ý giới. Đây là sắc giới cho đến pháp giới. Đây là
nhãn thức giới cho đến ý thức giới. Đây là sáu xúc, đây là sáu thọ, đây là sáu
giới. Đây là nhân duyên. Đây là vô minh cho đến lão tử. Đây là nội pháp, đây là
ngoại pháp. Đây là pháp lành, đây là pháp ác. Đây là pháp hữu lậu, đây là pháp
vô lậu. Đây là pháp thế gian, đây là pháp xuất thế gian. Đây là pháp cộng, đây
là pháp bất cộng. Đây là pháp hữu vi, đây là pháp vô vi v.v… Phật đã thường nói
những pháp sai khác như vậy chẳng lẽ Thế Tôn tự hoại pháp tánh?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Ta không tự hoại pháp tánh các pháp, chỉ dùng danh
tướng làm phương tiện giả nói, để các hữu tình ngộ vào pháp tánh bình đẳng
của các pháp, thoát khỏi sanh tử, chứng đắc Niết bàn.
Cho nên, này Thiện Hiện! Mặc dù Như Lai nói các pháp khác nhau nhưng
chẳng hoại pháp tánh các pháp.
Cụ thọ Tiện Hiện lại thưa Phật rằng:
- Nếu Phật chỉ đem danh tướng giả nói pháp tánh các pháp khiến các hữu
tình phương tiện ngộ vào pháp tánh bình đẳng, vì sao Phật đối pháp không danh
tướng đem danh tướng ra nói, mà bảo chẳng hoại?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Ta theo thế tục, đối với các pháp giả lập ra danh
tướng, vì các hữu tình mà dùng phương tiện để giảng nói, vì không chấp trước
nên chẳng hoại.
Thiện Hiện nên biết! Giống như những kẻ ngu si nghe nói các khổ liền
chấp trước danh tướng mà không hiểu rõ đó là giả nói. Chẳng phải chư Như Lai và
đệ tử Phật nghe nói các khổ rồi chấp trước danh tướng. Nhưng như thật biết tùy
thế tục nói danh tướng các pháp không có chơn thật.
Thiện Hiện nên biết! Nếu các bậc Thánh đối với danh mà chấp trước danh,
đối với tướng mà chấp trước tướng, thì đối với không cũng chấp trước không, đối
với vô tướng chấp trước vô tướng, đối với vô nguyện chấp trước vô nguyện, đối
với chơn như chấp trước chơn như, đối với thật tế chấp trước thật tế, đối với
pháp giới chấp trước pháp giới, đối với vô vi chấp trước vô vi.
Thiện Hiện nên biết! Tất cả pháp ấy chỉ có giả danh, chỉ có giả tướng,
không chơn thật. Trong đó, bậc Thánh cũng không chấp trước chỉ mượn danh tướng.
Như vậy, này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát trụ vào tất cả pháp nhưng chỉ
mượn danh tướng, hành Bát Nhã sâu xa nhưng trong đó không chấp trước. (Q.462. ĐBN)
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Nếu các pháp chỉ có danh tướng thì các đại Bồ tát vì việc gì mà phát
tâm Bồ đề chịu các khổ cực để hành Bồ tát hạnh. Nghĩa là tự mình chịu khổ cực
để tu hành bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Nói rộng, cho đến khổ cực tu hành
Nhất thiết trí trí cho được viên mãn?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Tất cả pháp chỉ có danh và tướng. Danh tướng ấy chỉ là
giả tạo, tánh của danh tướng là không. Các loài hữu tình vì điên đảo vọng chấp
nên bị luân hồi sanh tử, chịu các khổ não, không thể giải thoát. Cho nên, Bồ
tát vì làm lợi ích cho họ mà phát tâm Bồ đề, chịu các khổ cực hành Bồ tát hạnh,
lần lượt chứng đắc Nhất thiết trí trí, chuyển bánh xe diệu pháp, lấy pháp ba
thừa làm phương tiện để cứu giúp họ ra khỏi sanh tử, mà trụ vào cảnh giới Niết
bàn. Nhưng các danh tướng không sanh không diệt cũng không trụ khác, khá thi
thiết được.
(Tam Trí).
Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Phật nói Nhất thiết trí trí vì Nhất thiết trí trí ư?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Ta nói Nhất thiết trí trí vì Nhất thiết trí trí.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Thế Tôn thường nói Nhất thiết trí trí tóm lược có ba, đó
là Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Ba loại trí này tướng
của nó có khác nhau không?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Nhất thiết trí nghĩa là trí chung của Thanh văn và Độc
giác. Đạo tướng trí là trí chung của đại Bồ tát. Nhất thiết tướng trí là diệu
trí riêng của chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng giác.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Vì sao Nhất thiết trí là trí chung của Thanh văn và
Độc giác?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Nhất thiết trí là pháp môn sai biệt của pháp nội,
ngoại. Thanh văn, Độc giác cũng có thể biết rõ pháp môn sai biệt của pháp nội,
ngoại nhưng không thể biết tướng của Nhất thiết trí và tất cả loại tướng của
tất cả pháp. Nên Nhất thiết trí là trí chung của Thanh văn và Độc giác.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Vì sao Đạo tướng trí là trí chung của đại Bồ tát?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Các đại Bồ tát nên học biết khắp tướng của tất cả đạo.
Nghĩa là tướng của đạo Thanh văn, tướng của đạo Độc giác, tướng của đạo Bồ tát,
tướng của đạo Như Lai. Đối với các đạo này, các đại Bồ tát luôn tu học để được
viên mãn, mặc dù làm cho các đạo này làm việc cần phải làm nhưng không thể làm
cho họ chứng thật tế, nên Đạo tướng trí là trí chung của đại Bồ tát.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ tát tu đạo của Như Lai, sau khi được viên
mãn, lẽ nào chẳng chứng thật tế hay sao?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát thành thục hữu tình, trang nghiêm cõi
Phật, nếu tu các đại nguyện chưa viên mãn thì vẫn chưa chứng thật tế. Nếu đã
viên mãn thì mới có thể chứng thật tế.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ tát trụ vào đạo mà chứng thật tế phải không?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Không!
Thiện Hiện thưa:
- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ tát trụ vào phi đạo mà chứng thật tế phải
không?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Không!
Thiện Hiện thưa:
- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ tát trụ vào đạo và phi đạo mà chứng thật tế
phải không?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Không!
Thiện Hiện thưa:
- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ tát vì trụ vào phi đạo và chẳng phải phi đạo
mà chứng thật tế phải không?
Phật dạy:
Thiện Hiện! Không!
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu như vậy thì các đại Bồ tát trụ vào đâu để chứng thật
tế?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Ý ngươi thế nào? Nhờ trụ vào đạo mà ngươi dứt sạch lậu
hoặc, tâm giải thoát phải không?
Thiện Hiện thưa:
- Bạch Thế Tôn! Không!
- Này Thiện Hiện! Nhờ trụ vào phi đạo mà ngươi dứt sạch lậu hoặc, tâm
giải thoát phải không?
Thiện Hiện thưa:
- Bạch Thế Tôn! Không!
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Ngươi trụ vào đạo, phi đạo mà dứt sạch lậu hoặc, tâm
giải thoát phải không?
Thiện Hiện thưa:
- Bạch Thế Tôn! Không!
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Ngươi trụ vào phi đạo, chẳng phải phi đạo mà dứt sạch
lậu hoặc, tâm giải thoát phải không?
Thiện Hiện thưa:
- Bạch Thế Tôn! Không!
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Vậy ngươi trụ vào đâu để dứt sạch lậu hoặc, tâm hoàn
toàn giải thoát?
Thiện Hiện thưa:
- Con chẳng trụ để dứt sạch lậu hoặc, tâm hoàn toàn giải thoát. Con
dứt sạch lậu hoặc, tâm được hoàn toàn giải thoát, hoàn toàn không có chỗ trụ.
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát cũng vậy, hành Bát Nhã sâu xa hoàn
toàn không có chỗ trụ mà chứng thật tế.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Vì sao Nhất thiết tướng trí gọi Nhất thiết tướng trí?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Vì biết tất cả pháp đồng một tướng, đó là tướng tịch
diệt(2), cho nên gọi là Nhất thiết tướng trí.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Các hành động tướng trạng có thể tiêu biểu các
pháp. Như Lai như thật năng khắp giác biết được, vậy nên gọi là Nhất thiết
tướng trí.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Hoặc Nhất thiết trí, hoặc Đạo tướng trí, hoặc Nhất thiết
tướng trí, ba trí này các phiền não được đoạn trừ có khác nhau không? Có hữu dư
đoạn, vô dư đoạn không?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Chẳng phải các phiền não đoạn có khác nhau. Nhưng chư
Như Lai đã đoạn hẳn tất cả phiền não tập khí tương tục. Còn Thanh văn, Độc giác
thì chưa đoạn hẳn tập khí tương tục.
Thiện Hiện thưa:
- Bạch Thế Tôn! Các phiền não đã đoạn trừ có đắc vô vi không?
Phật nói:
- Có.
Thiện Hiện thưa:
- Bạch Thế Tôn! Thanh văn, Độc giác không được vô vi có dứt hết phiền
não không?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Không!
Thiện Hiện thưa:
- Bạch Thế Tôn! Trong pháp vô vi có sự khác nhau không?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Không!
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Tập khí tương tục thật ra chẳng phải phiền não, nhưng các Thanh văn và
các Độc giác đã dứt phiền não chỉ còn một phần nhỏ tương tự như tham, sân, si
phát động nơi thân ngữ, nên nói đó là tập khí nối nhau. Tập khí nối nhau này ở
phàm phu ngu si thì có thể phát sanh việc vô nghĩa, còn ở Thanh văn, Độc giác
thì nó không phát sanh việc vô nghĩa. Tất cả tập khí tương tục như vậy chư Phật
Thế Tôn hoàn toàn không có.
Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đạo và Niết bàn đều không có tự tánh. Vậy tại sao Phật
nói đây là Dự lưu cho đến Độc giác, đây là Bồ tát, đây là Như Lai.
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Hoặc là vị Dự lưu cho đến Độc giác, hoặc là Bồ tát,
hoặc là Như Lai, tất cả đều là sự hiển bày của vô vi.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Trong pháp vô vi, thật sự có khác nhau giữa Dự lưu cho
đến Như Lai không?
Phật dạy:
- Không.
Thiện Hiện thưa:
- Bạch Thế Tôn! Nếu vậy thì tại sao Phật nói Dự lưu cho đến Như Lai tất
cả đều là sự hiển bày của vô vi?
Phật dạy:
Phật bảo:
- Thiện Hiện: Ta nương thế tục chỉ rõ có Dự lưu v.v… hiển ra sai khác,
chẳng nương thắng nghĩa, chẳng phải trong thắng nghĩa có sự hiển bày. Vì sao?
Chẳng phải trong thắng nghĩa có đạo ngôn ngữ hoặc huệ phân biệt, hoặc lại hai
thứ. Nhưng bởi vì lời thế tục nói đoạn diệt các pháp, nên giả lập lời thế tục
mà nói hậu tế các pháp vậy.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu tự tướng của tất cả pháp đều không, tiền tế còn
không thì làm sao có hậu tế? Vậy tại sao đưa ra có hậu tế?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Tự tướng của tất cả pháp đều không, tiền tế
còn không có thì làm sao có hậu tế. Nếu hậu tế thật có thì điều đó chắc chắn
không xảy ra. Nhưng các hữu tình không hiểu rõ tự tướng của tất cả các pháp đều
không. Vì làm lợi ích cho họ nên dùng phương tiện giả nói đây là tiền tế, đây
là hậu tế. Nhưng trong tự tướng không của tất cả pháp thì tiền tế, hậu tế đều
bất khả đắc.
Như vậy, này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát đã thông đạt tự tướng của tất cả
pháp là không để tu hành Bát Nhã sâu xa.
Thiện Hiện nên biết! Các đại Bồ tát thông đạt tự tướng của tất cả pháp
đều không, nên hành Bát Nhã sâu xa mà không chấp trước vào các pháp. Nghĩa là
không chấp trước nội hay ngoại, thiện hay bất thiện, thế gian hay xuất thế
gian, hữu lậu hay vô lậu, hữu vi hay vô vi, pháp Thanh văn hay pháp Độc giác,
pháp Bồ tát hay pháp chư Phật, chỉ căn cứ vào thế tục mà thi thiết là có, không
căn cứ vào thắng nghĩa nên không chấp trước. (Q.462. ĐBN)
(Tại sao gọi là Bát Nhã thậm thâm?)
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Như Lai thường tuyên nói Bát nhã Ba la mật thẳm sâu.
Vậy, nhân duyên nào nên nói là Bát Nhã thẳm sâu? (Q.463. ĐBN)
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Do Bát Nhã thẳm sâu mà tất cả pháp đến bờ rốt ráo, nên gọi
Bát nhã Ba la mật.
Lại nữa, Thiện Hiện! Do Bát Nhã thẳm sâu, Thanh văn, Độc giác, Bồ Tát,
Như Lai cũng đến được bờ kia, nên gọi Bát nhã Ba la mật.
Lại nữa, Thiện Hiện! Bát Nhã thẳm sâu phân tích các pháp thật chi li
cũng không thấy có pháp nào dù nhỏ nhiệm có chút thật khá nắm bắt được, nên gọi
Bát nhã Ba la mật.
Lại nữa, Thiện Hiện! Bát Nhã thẳm sâu đây bao hàm chơn như, pháp giới,
pháp tánh, nói rộng cho đến bất tư nghì giới, nên gọi Bát nhã Ba la mật.
Lại nữa, Thiện Hiện! Đối Bát Nhã thẳm sâu, không có chút pháp hoặc hợp
hoặc tan, hoặc có sắc hoặc không sắc, hoặc có thấy hoặc không thấy, hoặc có đối
hoặc không đối, nên gọi là Bát nhã Ba la mật.
Lại nữa, Thiện Hiện! Bát Nhã thẳm sâu năng sanh tất cả các thiện pháp
mầu nhiệm, năng phát sanh tất cả biện tài trí tuệ, năng dẫn phát tất
cả lợi vui thế gian xuất thế gian, năng thông đạt nghĩa lý sâu xa của tất
cả các pháp, cho nên gọi là Bát nhã Ba la mật.
Lại nữa, Thiện Hiện! Bát Nhã thẳm sâu lý thú bền chắc không thể động
hoại. Nếu Bồ tát hành Bát Nhã thẳm sâu, tất cả ác ma và bè lũ ma, Thanh văn,
Độc giác, ngoại đạo phạm chí, bạn ác oán thù đều chẳng hoại được. Vì sao? Bát
Nhã thẳm sâu thuyết tất cả pháp tự tướng đều không, các ác ma thảy đều bất khả
đắc, nên gọi Bát nhã Ba la mật.
Thiện Hiện! Các Bồ tát thực hành Bát Nhã nghĩa thú thẳm sâu coi tất cả
pháp tự tướng đều không, thì tất cả các duyên không thể động hoại được.
Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ tát nào muốn thực hành nghĩa lý thẳm sâu của
Bát Nhã, thì phải thực hành nghĩa vô thường, khổ, không, vô ngã, nghĩa tịch
tịnh, nghĩa viễn ly. Phải thực hành nghĩa trí của khổ, tập, diệt, đạo(2). Phải
thực hành nghĩa Pháp trí(3), Loại trí(4), Tha tâm trí(5). Phải thực hành nghĩa
Thế tục trí(6), Thắng nghĩa trí(7). Phải thực hành Nghĩa tận trí(8), Vô sanh
trí(9). Phải thực hành nghĩa Tận sở hữu như sở hữu trí.
Thiện Hiện! Các Bồ tát vì hành Bát Nhã nghĩa thú thẳm sâu, nên hành Bát
Nhã như vậy.
Cụ thọ Thiện Hiện thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn! Ở trong nghĩa lý sâu xa vi diệu của Bát nhã Ba la mật
này, nghĩa và phi nghĩa đều bất khả đắc. Vì sao để thực hành nghĩa lý thẳm sâu
mà các đại Bồ tát phải hành Bát nhã Ba la mật?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Các Bồ tát vì hành Bát Nhã nghĩa thú thẳm sâu nên khởi
nghĩ này: Ta chẳng nên hành tham nghĩa phi nghĩa, ta chẳng nên hành sân nghĩa
phi nghĩa, ta chẳng nên hành si nghĩa phi nghĩa, ta chẳng nên hành tà kiến
nghĩa phi nghĩa, cho đến ta chẳng nên hành tất cả kiến thú nghĩa phi nghĩa. Vì
sao? Tham dục, sân nhuế, ngu si, tà kiến, cho đến tất cả kiến thú chơn như,
thật tế chẳng cùng các pháp cấu thành nghĩa phi nghĩa.
Lại nữa Thiện Hiện! Các Bồ tát vì hành Bát Nhã nghĩa thú thẳm sâu nên
khởi nghĩ này: Ta chẳng nên hành sắc nghĩa phi nghĩa, ta chẳng nên hành thọ
tưởng hành thức nghĩa phi nghĩa. Ta chẳng nên hành mười hai xứ cho đến mười tám
giới nghĩa phi nghĩa. Ta chẳng nên hành nhãn xúc cho đến ý xúc nghĩa phi nghĩa.
Ta chẳng nên hành nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên
sanh ra các thọ nghĩa phi nghĩa. Nói rộng ra, ta chẳng nên hành tất cả pháp
Phật nghĩa phi nghĩa. Vì sao? Thiện Hiện! Khi Như Lai được Vô Thượng Chánh
Đẳng Bồ đề thấy tất cả pháp nghĩa cùng phi nghĩa đều bất khả đắc.
Thiện Hiện phải biết, Như Lai ra đời hoặc chẳng ra đời, các pháp: pháp
tánh, pháp trụ, pháp định..., các pháp như vậy thường trú, không có pháp đối
pháp làm nghĩa phi định.
Thiện Hiện! Các Bồ tát nên lìa tất cả chấp trước nghĩa phi nghĩa khi
hành Bát Nhã nghĩa thú thẳm sâu.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Cớ sao Bát nhã Ba la mật chẳng cùng các pháp làm nghĩa
phi nghĩa?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Bát Nhã thẳm sâu vì muốn chứng pháp vô vi, nên
chẳng cùng các pháp làm nghĩa phi nghĩa.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Tất cả Hiền Thánh lẽ đâu chẳng lấy vô vi làm thắng nghĩa
ư?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Như vậy, như ngươi đã nói! Tất cả Hiền Thánh đều lấy vô vi
mà làm thắng nghĩa, nhưng pháp vô vi chẳng cùng các pháp làm ích làm tổn.
Thiện Hiện! Ví như hư không, chơn như, pháp giới chẳng cùng các pháp làm
ích làm tổn. Các Bồ tát Bát nhã Ba la mật thẳm sâu cũng lại như thế, chẳng cùng
các pháp làm ích làm tổn. Vậy, nên Bát nhã Ba la mật chẳng cùng các pháp làm
nghĩa phi nghĩa.
(Bát nhã Ba la mật lấy bất nhị làm phương tiện).
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Các Bồ tát lẽ đâu chẳng cần học vô vi Bát nhã Ba la mật
mới năng chứng được Nhất thiết trí trí?
Phật bảo: Thiện Hiện! Như vậy, như ngươi đã nói! Các Bồ tát cần học vô
vi thẳm sâu Bát nhã Ba la mật mới chứng được Nhất thiết trí trí, đem pháp
chẳng hai mà làm phương tiện.
Thiện Hiện lại hỏi:
- Bạch Thế Tôn! Dùng pháp hai có thể được pháp chẳng hai ư?
- Thiện Hiện! Chẳng được!
- Bạch Thế Tôn! Nếu không dùng pháp hai, chẳng đem pháp hai, chẳng được
pháp hai, các Bồ tát làm sao được Nhất thiết trí trí?
Phật nói:
- Thiện Hiện! Pháp hai, pháp chẳng hai (nhị pháp
hay bất nhị pháp) đều bất khả đắc. Cho nên không thể dùng pháp hai hoặc
pháp chẳng hai để chứng đắc Nhất thiết trí trí. Nhưng pháp vô sở đắc có thể
chứng vô sở đắc. Vì sao? Bát Nhã thẳm sâu và Nhất thiết trí trí đều bất khả đắc
vậy. (Q. 463. ĐBN)
Thích nghĩa:
(1). Tịch diệt: (寂滅) Phạm:
Vyupazama. Pàli:Vùpasama. Gọi tắt: Diệt. Vượt thoát sinh tử, tiến vào cảnh giới
vắng lặng, vô vi. Cảnh giới này xa lìa cõi mê hoặc, được an vui, nên gọi là
Tịch diệt vi lạc. Kinh Tăng nhất a hàm quyển 23 (Đại 2, 672 trung) nói: Tất cả
hành vô thường. Có sinh ắt có diệt. Chẳng sinh thì chẳng diệt. Tịch diệt là an
vui. [X. Kinh Tạp a hàm Q.22; Kinh Niết bàn Q.10 (bản Bắc); luận Du già sư địa
Q.50; luận Đại trí độ Q.94]. (xt. Niết Bàn) Phỏng theo Phật Quang từ điển.
(2). Các đại Bồ tát “không có việc gì” mà hành Bát nhã Ba la mật sâu xa.
Nguyên văn chữ Hán trong quyển thứ 462 là “諸 chư 菩 Bồ 薩 Tát 摩 Ma 訶 Ha 薩 Tát . 行 hành 深 thâm 般 Bát 若 Nhã 波 Ba 羅 La 蜜 Mật 多 Đa 時 thời . 無 vô 所 sở 為 vi 故 cố 行 hành 深 thâm . 般 Bát 若 Nhã 波 Ba 羅 La 蜜 Mật 多 Đa”. Cụm từ “vô sở vi” dịch là “không có việc gì”.
Dịch như vậy thật khó hiểu, trong một bản dịch khác của Thuvienhoasen.Org. dịch
là không có tạo. Chúng tôi dịch là Chư Bồ tát “không có gì tạo ra” mà hành thâm
Bát nhã Ba la mật, không biết dịch như vậy có chỉnh với câu chữ Hán trên hay
không?
(3). Khổ, tập, diệt, đạo trí: Từ điển Phật Quang giải thích như sau:
1- Khổ trí (苦智, Phạm: Du#kha-jĩàna) Trí vô lậu chứng được sau khi
dứt trừ mê hoặc nhờ quán xét 4 hành tướng khổ, không, vô thường, vô ngã. Một
trong 10 trí. Luận Phẩm loại túc quyển 1 (Đại 26, 694 thượng) ghi: Nếu suy tư
quán xét 5 thủ uẩn là phi thường, khổ, không, phi ngã thì sẽ phát sinh trí vô
lậu. Luận Đại tỳ bà sa quyển 106 (Đại 27, 548 trung), nói: Duyên theo Khổ Thánh
đế, 4 hành tướng chuyển nên gọi là khổ trí. Cũng tức là hành giả khi vào giai
vị Kiến đạo, dùng trí thế tục duyên theo cảnh Khổ đế, đến sát na thứ 2 thì trí
cùng sinh với pháp trí, gọi là Khổ trí. [X. luận Câu xá Q.26; luận Hiển dương
Thánh giáo Q.2].
2- Tập trí: (集智), Phạm: Samudaya-jĩàna, chỉ cho trí vô lậu do quán
xét và thể ngộ lý Tập đế mà đạt được, là 1 trong 10 trí, 1 trong 11 trí. Luận A
tì đạt ma phẩm loại túc quyển 1 (Đại 26, 694 thượng) nói: Tập trí là gì? Là trí
vô lậu do tư duy về Nhân, Tập, Sinh, Duyên của nhân hữu lậu mà phát khởi. Trong
quá trình tu chứng Phật đạo, khi tiến vào giai vị Kiến đạo, thành tựu Khổ loại
trí rồi thì duyên theo Tập đế của cõi Dục mà quán xét, tư duy về 4 hành tướng
Nhân, Tập, Sinh, Duyên, sinh ra Pháp trí nhẫn vô lậu, gọi là Tập pháp trí nhẫn.
Sau khi sinh khởi Tập pháp trí nhẫn, lại phát sinh Pháp trí vô lậu, gọi là Tập
pháp trí. Đây là bước đầu thành tựu Tập trí. [X. luận Đại tì bà sa Q.106; luận
Tạp a tì đàm tâm Q.6; luận Thành thực Q.16]. (xt. Thập Lục Tâm, Thập Trí).
3- Diệt trí: (滅智), Phạm: Nirodha-jĩàna, một trong 10 trí, hoặc một
trong 11 trí. Là trí biết rõ Diệt đế, tức là trí vô lậu do đoạn diệt Kiến hoặc,
Tư hoặc mà có được. (xt. Thập Trí).
4- Đạo trí: (道智), Phạm:
Màrga-jĩàna, Pàli: Maggaĩàịa, trí vô lậu duyên với Đạo đế, tạo ra 4 hành tướng:
Đạo, Như, Hành, Xuất để đoạn trừ mê hoặc. Là 1 trong 10 trí. Khi vào giai vị
Kiến đạo, thành tựu Diệt loại trí của đạo Vô gián, duyên với Đạo đế tạo ra 4 hành
tướng nói ở trên, sinh khởi Pháp trí nhẫn vô lậu, gọi là Đạo pháp trí nhẫn. Còn
Pháp trí vô lậu do đạo Vô gián phát sinh thì gọi là Đạo pháp trí, đây là giai
đoạn mới thành tựu của Đạo trí. [X. luận Câu xá Q.26; luận Đại tì bà sa Q.106;
luận Tạp a tỳ đàm tâm Q.6].
(3). Pháp trí: (法智) I/. Pháp Trí. Phạm: Dharma-jĩàna. Chỉ cho trí vô
lậu duyên theo lý của 4 đế (khổ, tập, diệt, đạo) ở cõi Dục, mà đoạn trừ phiền
não ở cõi này, là 1 trong 10 trí được liệt kê trong luận Câu xá quyển 26. (xt.
Thập Trí). II/. Pháp Trí (960-1028). Cao tăng Trung quốc, thuộc tông Thiên
thai, sống vào thời Bắc Tống, người Tứ minh (huyện Ngân, tỉnh Chiết giang) họ
Kim, hiệu Tri lễ. Sư trọn đời chuyên tâm vào việc trước tác, giảng huật, hoằng
truyền Kinh Pháp hoa, Kinh Kim quang minh... chủ trương Vọng tâm quán. Sư cùng
với Ngài Từ vân Tuân thức đều là những nhân vật đại biểu của phái Sơn gia tông
Thiên thai đời Tống, được người đời sau tôn làm Tổ thứ 17 của tông Thiên thai.
Năm Thiên hi thứ 4 (1020), Sư được vua Chân Tông ban hiệu Pháp Trí Đại Sư, vì
thế, người đời sau còn gọi Sư là Tứ minh Pháp trí. [X. Phật tổ thống kỷ Q.50].
(xt. Tri Lễ).
(4). Loại trí: (類智) Phạm: Anvaya-jĩàna. Cũng gọi Vị tri trí, Vô sinh
trí. Trí vô lậu quán xét Tứ đế ở cõi Sắc và cõi Vô sắc, là 1 trong 10 trí, 1 trong
11 trí. Trí này đồng loại với Pháp trí, là trí quán xét Tứ đế ở cõi Dục. [X.
luận Tập dị môn Q.7; luận Câu xá Q.23]. (xt. Thập Trí).
(5). Tha tâm trí: (他心智) Phạm:Para-citta-jĩàna. Cũng gọi Tri tha nhân tâm
trí, Tâm sai biệt trí. Trí biết những ý nghĩ trong tâm người khác, 1 trong 10
trí. Những người đã xa lìa dục hoặc và chứng nhập thiền định căn bản của cõi
Sắc trở lên thì phát được trí này. Trong 6 thần thông, trí này được gọi là Tha
tâm thông. Luận Đại tì bà sa quyển 99 cho rằng Tha tâm trí lấy tu tuệ làm tự
tính, lấy 4 tĩnh lự căn bản làm chỗ nương, biết rõ được Dục giới hệ, Sắc giới
hệ và tướng tâm vô lậu của người khác; nhờ gia hành mà chứng được trí này. Đại
thừa nghĩa chương quyển 15 (Đại 44, 757 thượng) nói: Tha tâm trí, sự suy nghĩ
chẳng phải của mình gọi là Tha tâm, hiểu suốt sự suy nghĩ ấy, gọi là Tha tâm
trí. Trí này do pháp trí, loại trí, đạo trí và thế tục trí cấu tạo thành, chung
cho cả hữu lậu, vô lậu và đều lấy pháp đồng loại làm Sở duyên, nhưng không biết
được tâm của bậc ở giai vị thù thắng và tâm quá khứ, vị lai. Chỉ dùng 1 niệm
hiện tại duyên theo 1 việc có thật mà nắm giữ lấy tự tướng, chứ không thể nắm
giữ tâm năng duyên và hành tướng sở duyên của người khác. Lại vì chỉ có Tứ
thiền, cho nên chỉ biết Dục giới hệ, Sắc giới hệ và pháp vô lậu, chứ không
duyên với Vô sắc giới hệ. [X. luận Câu xá Q.26; Kinh Đại Bát Nhã Q.489; luận
Tập dị môn túc Q.7; luận Đại tỳ bà sa Q.109]. (xt. Thập Trí).
(6). Thế gian trí (世俗智; C:
shìsúzhì; J: sezokuchi): Tri
thức của người chưa giác ngộ, tương đương với “nhiễm ô trí” hoặc Hữu lậu trí (有漏智). Một
trong 10 loại trí (Thập trí 十智).
(7). Thắng nghĩa trí: Ngược lại với thế gian trí, trí của
người giác ngộ hay là Vô lậu trí, trí này không nhiễm cũng không tịnh, không
nhơ không sạch… ngoài nhị nguyên đối đãi.
(8). Tận trí (盡智) Phạm: Kwaya-jĩàna. Pàli:Khaya-ĩàịa, chỉ cho trí
vô lậu đã đoạn trừ tất cả phiền não mà đạt được, là trí tuệ của bậc Thánh Vô
học, 1 trong 2 trí, 1 trong 10 trí. Cứ theo luận Tập dị môn túc quyển 3, nếu
chứng ngộ Tứ đế thì trí, kiến, minh, giác, giải, tuệ, quang, quán... được phát
sinh đều là Tận trí; nếu như thực biết đã trừ hết dục lậu, hữu lậu, vô minh
lậu... thì gọi là Tận trí, nếu như thực biết đã trừ hết tất cả kết phược, tùy
miên, tùy phiền não, triền... thì gọi là Tận trí. Trong đó, trí, kiến, minh,
giác... đều là tên khác của trí tuệ. Câu xá luận quang ký quyển 26 (Đại 41, 386
thượng) nói: Trí là quyết đoán, kiến là suy tìm, minh là chiếu sáng, giác là
giác ngộ, giải là hiểu thấu, tuệ là lực chọn, quang là ánh sáng trí tuệ, quán là
quán xét... tất cả đều là tên khác của tuệ. [X. luận Đại tỳ bà sa Q.102; luận
Tạp a tỳ đàm tâm Q.6; luận Câu xá Q.26; luận Thuận chính lý Q.73, 74; luận A tỳ
đạt ma tạng hiển tông Q.35; Pháp giới thứ đệ sơ môn Q.trung, hạ]. (xt. Nhị Trí,
Thập Trí). - Từ điển Phật Quang.
(9). Vô sanh trí (Phạn ngữ là anutpdajđna): Chỉ trí tuệ cao trổi nhất
của vị A la hán, thấy biết thật tánh của tất cả các pháp không có sự sanh ra.
(Rộng Mở Tâm Hồn). Xem lại thích nghĩa ở phẩm “Đa Vấn Bất
Nhị”, quyển 351 trở đi, Hội thứ I.
Tất cả trí đều được thích nghĩa trước đây rồi. Nay lặp lại và giải rộng.
Sơ giải:
Phẩm “Xảo Tiện hay Phương Tiện Thiện Xảo”của Hội thứ II tương đương với
phẩm “Đa Vấn Bất Nhị”thuyết rất nhiều giáo lý khác nhau, như:
- Phương tiện thiện xảo của Bồ tát là gì?
- Bát Nhã đối với các thiện pháp có thủ xả chăng?
- Vì sao Bát Nhã không tư duy tất cả pháp?
- Bát Nhã thẳm sâu trụ chỗ nào?
- Bát Nhã đối với tất cả pháp xa lìa hay chẳng xa lìa?
- Thế nào là Đạo, thế nào chẳng phải Đạo của Bồ tát?
- Bồ tát làm sao cùng sáu Ba la mật thường tương ưng chớ lìa bỏ nhau?
- Bồ tát tuy có nhiều thứ để học mà không sở học?
- Bồ tát đối tất cả pháp như thật biết rõ tướng rộng hẹp?
- Tất cả pháp nào chẳng hợp chẳng tan?
- Bồ tát hành Bát Nhã quán tự tướng của tất cả pháp đều không?
- Hành vô sở đắc và hữu sở đắc.
- Vì việc gì mà Bồ tát phải hành Bát nhã Ba la mật sâu xa?
- Tam Trí.
- Tại sao gọi là Bát Nhã thậm thâm?
- Bát nhã Ba la mật lấy bất nhị làm phương tiện.
Tất cả tiết mục này, một phần được các phẩm trước đây đã lược giải rồi,
một phần phẩm “Xảo Tiện hay Phương Tiện Thiện Xảo” này đã giải thích; đa số
được chiết giải ở phần đầu phẩm “Đa Văn Bất Nhị”, từ quyển 351 cho đến quyển
360, Hội thứ I, ĐBN. Quý vị có thể quay lại phẩm “Đa Vấn Bất Nhị” tham cứu,
nếu muốn!
Người nào chịu khó nghiền ngẫm các giáo pháp ở đây sẽ có một bước tiến
khá vững chắc trong việc trì tụng Bát nhã Ba la mật. Cứ theo các chỉ dẫn trên
tra cứu, sẽ có lợi ích. Chúng tôi không muốn trùng tuyên.
---o0o---