XX. PHẨM
“CĂNG GIÀ THIÊN”(1)
Phần giữa quyển 550, Hội thứ IV, TBBN.
Tóm lược:
Bấy giờ, trong hội chúng có một
Thiên nữ tên Căng già thiên, từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ dưới chân Phật, kéo
phủ vai trái, chân phải quỳ sát đất, chấp tay hướng về Phật thưa:
- Bạch Thế Tôn! Con ở những chỗ đó
cũng không sợ hãi, đối với các pháp cũng không nghi ngờ. Vào đời tương lai, con
cũng vì các hữu tình nói pháp không sợ hãi, không nghi ngờ!
Khi ấy, đức Thế Tôn liền mỉm cười,
từ miệng Ngài phóng ra ánh sáng màu vàng chiếu khắp mười phương vô biên thế
giới, rồi chiếu trở lại cõi Phạm Thế, hiện đại thần thông, trở về nhiễu quanh
bên phải Phật ba vòng xong, nhập vào trong đảnh(2) Phật.
Khi ấy, Căng già thiên thấy sự việc
này, rất hoan hỷ phấn chấn, lấy hoa bằng vàng xinh đẹp chí thành cung kính rải
lên đức Như Lai. Nhờ thần lực của Phật, làm cho hoa vàng này phóng lên và bay
phất phới trong không trung.
Tôn giả A nan đà thấy nghe như vậy,
liền đứng dậy đảnh lễ dưới chân Phật, y phủ vai trái, gối phải quỳ sát đất,
chấp tay cung kính thưa:
- Bạch Thế Tôn! Nguyên nhân nào mà
Ngài hiện tướng mỉm cười? Vì Phật mỉm cười chẳng phải không có nguyên do?
Thế Tôn bảo Khánh Hỷ:
- Thiên nữ này vào đời vị lai sẽ
thành Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, kiếp tên Tinh Tú, Phật hiệu Kim Hoa.
Khánh Hỷ nên biết: Đây là lần thọ
thân cuối cùng của Thiên nữ. Sau khi xả bỏ thân này liền thọ thân nam, tận đời
tương lai không làm thân nữ trở lại. Từ đây qua đời sanh về thế giới Bất Động
Như Lai ở phương Đông. Nơi cõi Phật đó, Thiên nữ siêng năng tu phạm hạnh, có
tên là Kim Hoa. Từ thế giới Bất Động qua đời rồi sanh phương khác, nơi thế giới
có Phật. Từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, thường không xa lìa chư Phật Thế
Tôn. Như vua Chuyển luân, từ cung điện này đến cung điện khác, hưởng lạc vui
chơi cho đến qua đời, chân chưa hề chạm đất. Bồ tát Kim Hoa cũng như vậy, từ
cõi Phật này đến cõi Phật khác, cho đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, sanh
ra nơi nào thường không rời Phật.
Tôn giả A nan đà thầm nghĩ: Lúc đó,
Bồ tát Kim Hoa được làm Phật, chắc cũng thuyết giảng Bát nhã sâu xa. Không biết
chúng Bồ tát trong hội đó có bao nhiêu? Có giống như chúng Bồ tát trong hội
Phật hôm nay hay không?
Phật biết tâm niệm của Tôn giả A nan
đà nên bảo:
- Khánh Hỷ! Đúng vậy! Như ông đã
nghĩ! Bồ tát Kim Hoa lúc được làm Phật cũng vì hội chúng thuyết giảng Bát nhã
sâu xa này. Chúng đại Bồ tát trong hội đó số lượng cũng như chúng Bồ tát trong
hội Phật hôm nay.
Khánh Hỷ nên biết: Bồ tát Kim Hoa
lúc được làm Phật, số đệ tử Thanh văn đạt Niết bàn rất nhiều không thể tính kể,
nghĩa là không thể đếm hết, hoặc trăm, hoặc ngàn, hoặc trăm ức v.v… chỉ nói
tổng số là vô lượng, vô biên.
Khánh Hỷ nên biết: Bồ tát Kim Hoa
lúc được làm Phật, nơi cõi Phật đó không có thú dữ, quỷ ác, cũng không có nạn
oán tặc, thiếu nước, đói kém, tật dịch v.v...
Khánh Hỷ nên biết: Lúc Bồ tát Kim
Hoa chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, hữu tình nơi cõi Phật đó không
có những sợ hãi và không có các thứ tai ương, tội lỗi.
Khánh Hỷ lại bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Thiên nữ này trước
đây bắt đầu phát tâm quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, trồng các căn lành,
phát nguyện hồi hướng với đức Phật nào?
Phật dạy:
- Này Khánh Hỷ! Thiên nữ này trước
đây ở nơi đức Phật Nhiên Đăng thời quá khứ bắt đầu phát tâm quả vị Vô Thượng
Chánh Đẳng Bồ đề, trồng các căn lành, phát nguyện hồi hướng. Lúc ấy, Thiên nữ
cũng đem hoa vàng tung lên đức Phật, cầu chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ
đề.
Khánh Hỷ nên biết: Ta ở chỗ Phật
Nhiên Đăng quá khứ, đem năm cành hoa dâng rải lên đức Phật đó và phát nguyện
hồi hướng. Khi ấy, Ta liền chứng đắc Vô sanh pháp nhẫn. Đức Như Lai Nhiên Đăng
Ứng Chánh Đẳng Giác biết Ta căn tánh thành thục, nên thọ ký: Ông ở đời sau sẽ
được làm Phật hiệu Năng Tịch, cõi nước tên Kham Nhẫn, kiếp tên Hiền. Bấy giờ,
Thiên nữ nghe Phật thọ ký cho Ta được giác ngộ lớn, nàng vui mừng phấn chấn,
liền đem hoa vàng dâng rải lên đức Phật, phát tâm quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng
Bồ đề, trồng các căn lành phát nguyện hồi hướng: Đời sau, khi Bồ tát này (chỉ Phật Thích Ca) được làm Phật, cũng
như đức Phật hiện tại, khiến cho con được thọ ký đại Bồ đề. Thế nên hôm nay Ta
thọ ký cho Thiên nữ này.
Khánh Hỷ nghe đức Phật dạy, hoan hỷ
phấn chấn, bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Thiên nữ này từ lâu
đã phát tâm hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, trồng các căn lành và
phát nguyện hồi hướng, nay được thành thục. Cho nên đức Như Lai thọ ký cho
Thiên nữ.
Phật dạy:
- Này Khánh Hỷ! Đúng vậy! Đúng như
lời ngươi nói. Thiên nữ ấy nhờ căn lành được thành thục, nên Ta thọ ký đại Bồ
đề.
Thích nghĩa:
(1). Căng già thiên, Kinh MHBNBLMĐ gọi là Hằng Già Đề
Bà và Kinh Phật Mẫu Bát nhã gọi là Ngang Nga Nĩ Phược. Tuy có ba tên nhưng cùng
chỉ một nhân vật.
(2). Đảnh hay đỉnh: Tức đỉnh đầu. Phẩm “Các Tướng Công
Đức” quyển 380, Hội thứ I, ĐBN ghi: “Trên đỉnh Thế Tôn có cục thịt nổi cao tròn trịa giống
như lọng trời, đó là tướng tốt thứ ba mươi hai”.
Lược giải:
Kinh Tiểu Bản Bát nhã hay
Phật Mẫu Bát Nhã hay Ma Ha Bát nhã Ba La Mật đưa ra một nhân vật, tên là Căng Già thiên hay Hằng
Già Đề Bà hay Ngang Nga Nĩ Phược được Phật thọ ký thành Như Lai Chánh Đẳng
giác. Sự kiện nầy có lẽ làm độc giả ngạc nhiên.
Nhân vật này không phải là
những đại Bồ tát như đức đại từ đại bi Quán Thế Âm, đức Từ Thị Di Lặc, đại trí
như Văn Thù Sư lợi, đại hạnh như Phổ Hiền Bồ tát… Nhân vật này cũng không phải
là đại đệ tử trí tuệ của Phật như Xá Lợi Phất, thần thông biến hóa như Mục kiền
Liên, Biện tài vô ngại như Phú Lâu Na v.v… thường xuất hiện trong nhiều Kinh
điển Phật học. Nhân vật này chỉ là một người bình thường như những chúng sanh
bình thường khác.
Tuy nhiên, thiên nữ này có
chứa nhóm thiện căn, tích tụ công đức, lại phát nguyện rộng lớn tu hành sáu
phép Ba la mật liền được Phật thọ ký Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Điều đó chứng tỏ bất cứ ai tu Bát nhã Ba la mật chứa
nhóm công đức thiện căn, thờ phụng Thiện hữu tri thức, cúng dường nhiều đời
Phật, nhất là phát Bồ đề tâm(1) rộng lớn đều có cơ hội được thọ ký như trường
hợp của thiên nữ này.
Nếu bất cứ chúng sanh nào tu
tập, thọ trì sáu pháp Bát nhã Ba la mật, tu tất cả các pháp mầu Phật đạo, lại
thệ nguyện rộng lớn như Thiên nữ này, đều có cơ hội để trở thành Phật, trở
thành Như Lai, trở thành Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Đây chỉ là một thí dụ đặc
trưng cho những ai phát Bồ đề tâm thượng cầu Chánh Đẳng Chánh giác và hạ hóa
chúng sanh! Thí dụ này cho thấy rằng bất cứ chúng sanh nào cũng có phần, nếu tu
hành như Thiên nữ này!
Quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng
Bồ đề không phải độc quyền của Phật mà nó là phần thưởng của Phật dành sẵn cho
bất cứ ai kể từ khi Phật chứng ngộ.
Thích nghĩa cho phần chú giải:
(1). Phát Bồ đề tâm: Phát tâm Bồ
đề hay Bồ đề tâm: Phạm: bodhi-citta. Gọi đủ: A nậu đa la tam miệu tam bồ đề
tâm. Cũng gọi là Vô thượng đạo tâm, Vô thượng đạo ý, Vô thượng tâm, Đạo tâm,
Đạo ý, Đạo niệm, Giác ý. Tức là tâm cầu Bồ đề vô thượng (cầu thành Phật). Tâm
Bồ đề là hạt giống sinh ra hết thẩy chư Phật, là ruộng tốt nuôi lớn các pháp
trong sạch. Nếu phát khởi tâm nầy mà tu hành tinh tiến, thì sẽ mau chóng được
Bồ đề vô thượng. Cho nên biết tâm Bồ đề là chỗ bắt đầu của tất cả thệ nguyện
chân chính, là gốc của Bồ đề, là chỗ dựa của đại bi và Bồ tát hạnh. Bồ tát Đại
thừa trước hết cần phải phát tâm rộng lớn, gọi là phát tâm Bồ đề, phát tâm,
phát ý; mới bắt đầu phát tâm, gọi là sơ phát tâm, tâm phát ý. Người cầu sanh về
Tịnh độ, cũng phải phát tâm Bồ đề. Kinh Vô lượng thọ quyển hạ nói, ba bậc người
cầu vãng sanh đều phải phát tâm Vô thượng Bồ đề. Về thể tính của tâm Bồ đề,
Kinh Đại nhật quyển 1 phẩm Trụ tâm nói, biết tâm mình một cách như thực, đó là
Bồ đề. Tức tâm tự tính trong sạch sẵn có
là tâm Bồ đề. Tâm Bồ đề nhờ vào nhiều duyên mà phát khởi. Theo Kinh Bồ tát
Địa trì quyển 1, thì có bốn thứ: 1- Thấy nghe thần thông biến hóa không thể
nghĩ bàn của chư Phật và Bồ tát mà phát tâm. 2- Tuy chưa thấy thần biến, nhưng
được nghe nói về Bồ đề và Bồ tát tạng mà phát tâm. 3- Tuy chưa nghe pháp, nhưng
tự thấy tướng pháp diệt, vì muốn giữ gìn pháp mà phát tâm. 4- Tuy không thấy
tướng pháp diệt, nhưng thấy chúng sinh đời ô trọc bị phiền não quấy phá khó phá
được nên mình phát tâm. Lại Phát Bồ đề Tâm Kinh luận quyển thượng phẩm Phát tâm
cũng nói có bốn duyên: 1- Tư duy về chư Phật. 2- Quán xét lỗi lầm của thân. 3-
Thương xót chúng sinh. 4- Cầu quả tối thắng. Vô Lượng Thọ Kinh tông yếu lấy bốn
thệ nguyện rộng lớn làm tâm Bồ đề và chia làm hai loại là Tùy sự phát tâm (do
những việc cụ thể mà phát) và Thuận lý phát tâm (do chân lý phổ thông mà phát).
Đại thừa Nghĩa chương quyển 9 thì lập ba loại phát tâm: 1- Tướng phát tâm, thấy
tướng sinh tử và Niết bàn, nhàm chán sinh tử mà phát tâm cầu Niết bàn. 2- Tức
tướng phát tâm, biết bản tính của sinh tử vắng lặng không khác gì Niết bàn; lìa
tướng sai biệt mới khởi tâm bình đẳng. 3- Chân phát tâm, biết bản tính Bồ đề là
tự tâm mình, Bồ đề tức là tâm, tâm tức là Bồ đề, mà quay về tâm gốc của chính
mình. Ma Ha Chỉ Quán quyển 1 thượng nói, các Bồ tát Tạng giáo, Thông giáo, Biệt
giáo, cho đến Viên giáo đều do suy lường về cái lý của Sinh diệt Tứ đế, Vô sinh
Tứ đế, Vô lượng Tứ đế, Vô tác Tứ đế mà phát tâm, cho nên gọi là suy lý phát
tâm. Luận Đại thừa Khởi tín thì nói ba loại phát tâm: Tín thành tựu phát tâm,
Giải hành phát tâm, và Chứng phát tâm. Trong tín thành tựu phát tâm mà sinh
khởi Trực tâm, Thâm tâm, Đại bi tâm thì cũng gọi là ba loại phát tâm. Mật giáo
chủ trương phát tâm là một trong năm lần chuyển biến của chữ A, và dựa vào ba
thứ tâm Bồ đề: Hạnh nguyện, Thắng nghĩa, Tam ma địa trong luận
Bồ đề tâm mà lập bốn loại phát tâm: 1- Tín tâm, chỉ cho tâm đối với việc cầu Vô
thượng Bồ đề không một mảy may ngờ vực. Vì tâm này là nền tảng của muôn hạnh
nên cũng gọi là Bạch tịnh tín tâm (lòng tin trắng sạch). 2- Đại bi tâm, sau khi
phát Bạch tịnh tín tâm, lại lập bốn thệ nguyện rộng lớn, tâm này cũng gọi là
Hạnh nguyện tâm, Hạnh nguyện Bồ đề tâm. 3- Thắng nghĩa tâm, trong các giáo
pháp, chọn lựa giáo pháp chân thực. Tâm này cũng gọi là Thâm Bát nhã tâm, Thắng
nghĩa Bồ đề tâm. 4- Đại Bồ đề tâm, ngay lúc quyết định bỏ phần kém, chọn phần
hơn, thì chư Phật mười phương liền hiện ở trước mặt để chứng minh, các ma thấy
thế sợ mà rút lui. Đại Bồ đề tâm này cũng gọi Tam ma địa Bồ đề tâm. Tuy chia ra
bốn tâm như trên, nhưng vốn là một thể, cho đến lúc thành quả Phật cũng không
giây phút nào rời nhau. Được như thế là nhờ tự hành hóa tha, thế gian xuất thế
gian tu tam mật của chư tôn mà ra, nên gọi là Hữu tướng Bồ đề tâm. Nhưng vì xưa
nay vốn có tướng tức không tướng, cũng như hư không lìa tất cả tướng, nên khế
hợp với Vô tướng Bồ đề tâm. Trong tông Tịnh độ Nhật bản, Ngài Nguyên không có
soạn Tuyển trạch bản nguyện niệm Phật tập, cho Bồ đề tâm là tạp hành, nên loại
bỏ. Căn cứ vào lý này, phái Trấn Tây thuộc tông Tịnh độ mới chia tâm Bồ đề
thành Bồ đề tâm Thánh đạo môn và Bồ đề tâm Tịnh độ môn, và cho rằng Bồ đề tâm
là Tổng an tâm, Tam tâm (Chí thành tâm, Thâm tâm, Hồi hướng phát nguyện tâm) là
Biệt an tâm, vì thế chủ trương cần phải phát tâm Bồ đề. Lại nữa, phái Tây sơn
thuộc tông Tịnh độ chia Bồ đề tâm làm Bồ đề tâm hành môn và Bồ đề tâm quán môn,
chủ trương không cần Bồ đề tâm hành môn là vì trong Bồ đề tâm quán môn đã đầy
đủ tam tâm rồi. Còn Tịnh độ chân tông thì chia Bồ đề tâm thành Tự lực Bồ đề tâm
và Tha lực Bồ đề tâm. Trong hai tâm này, Phật dùng thệ nguyện gốc cho chúng
sinh tâm tin ưa, tức là tín tâm chân thực vì tâm nguyện làm Phật (tâm tự lợi
nguyện thành Phật), tâm độ chúng sinh (tâm lợi tha cứu độ hết thảy chúng sinh),
cho nên gọi là Tha lực Bồ đề tâm, Tịnh độ đại Bồ đề tâm. [X. Kinh Đại phẩm Bát
nhã Q.9; Kinh Hoa nghiêm (bản dịch cũ) Q.9; Kinh Ưu bà tắc giới Q.1; Kim cương
đính liên hoa bộ tâm niệm tụng nghi quỹ; Đại nhật Kinh sớ Q.1, Q.14; Ma ha chỉ
quán Q.1 hạ]. - Từ điển Phật Quang.
Lưu ý: Muốn hiểu về ý nghĩa Bồ đề tâm, một tiêu đề vĩ đại trong mạch sống Đại
thừa, xin xem Luận Bốn: “Gandavỳuha và mong cầu giác ngộ” của Thiền sư D.T.
Suzuki trong Thiền luận III, trang 163 trở đi hay trên mạng do Ngài Tuệ Sĩ
trích dịch từ Thiền luận của thiền sư D.T. Suzuki như đã nói trên.
---o0o---