Thứ Ba, 15 tháng 6, 2021

Hội thứ II - 62. Phẩm "Không Phân Biệt"

 

PHẨM “KHÔNG PHÂN BIỆT”

 

Phần giữa quyển 456, Hội thứ II, ĐBN.

(Tương đương phần sau của phẩm “Nguyện Dụ”, Q.341 và 342, Hội thứ I, ĐBN)

 

Tóm lược:

 

(Công đức tùy hỷ hồi hướng và kết quả của nó)

 

Bấy giờ, Thiên Đế Thích thầm nghĩ: Nếu Bồ tát tu hành Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật; an trụ nội không cho đến vô tánh tự tánh không; an trụ chơn như cho đến bất tư nghì giới; an trụ khổ tập diệt đạo Thánh đế, tu hành bốn niệm trụ cho đến tám Thánh đạo chi; tu hành bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; tu hành tám giải thoát cho đến mười biến xứ; tu hành không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn; tu hành Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa.; tu hành tất cả Đà la ni, Tam ma địa môn; tu hành năm nhãn, sáu thần thông; tu hành Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng; tu hành pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả; tu hành Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí; tu hành Bồ tát hạnh, tu hành chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, còn vượt lên trên tất cả hữu tình huống gì là chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Nếu các hữu tình nghe nói tên của Nhất thiết trí trí liền tin hiểu còn được lợi ích trong loài người và được thọ mạng tên tuổi vượt hẳn thế gian, huống chi là phát tâm hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề hay thường lắng nghe Kinh điển Bát Nhã thẳm sâu này.

Khi ấy, Thiên Đế Thích khởi nghĩ này rồi, liền lấy hương hoa mầu nhiệm trên trời dâng rải lên Như Lai và các đại Bồ tát, liền phát nguyện: Nếu các thiện nam, thiện nữ Bồ tát thừa mong đạt đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thì xin đem công đức thiện căn mà tôi đã tích tụ được giúp họ sớm được viên mãn vô thượng Phật pháp là Nhất thiết trí trí mà họ mong cầu; xin đem công đức thiện căn mà tôi đã tích tụ giúp cho họ sớm được viên mãn pháp tự nhiên, pháp vô lậu chân chánh mà họ mong cầu; xin đem thiện căn công đức mà tôi đã tích tụ giúp cho họ sớm được viên mãn tất cả pháp mà họ muốn nghe; xin đem công đức thiện căn mà tôi đã tích tụ giúp cho người cầu Thanh văn, Độc giác thừa cũng mau chóng đạt được ước nguyện.

Sau khi nguyện rồi, Thiên Đế Thích liền thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Các thiện nam, thiện nữ Bồ Tát thừa đã phát tâm hướng đến Vô thượng Chánh đẳng giác, con trọn chẳng sanh một niệm khác, khiến các người kia thối lui đại tâm Bồ đề. Con cũng chẳng sanh một niệm khác, khiến họ nhàm lìa Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, lui trụ bậc Thanh văn, Độc giác.

Bạch Thế Tôn! Nếu Bồ tát đã đối Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề tâm sanh vui muốn, con nguyện tâm kia thêm lớn mạnh, mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Con nguyện chúng Bồ tát kia thấy các thứ khổ trong sanh tử rồi, vì muốn lợi vui thế gian trời, người, A tu la… phát khởi nhiều thứ đại nguyện kiên cố: “Ta đã tự qua biển cả sanh tử, cũng phải tinh siêng đưa kẻ khác qua. Ta đã tự cởi bỏ các ràng buộc sanh tử, cũng phải tinh siêng cởi bỏ cho kẻ khác. Ta đối các thứ sợ hãi sanh tử đã tự yên ổn, cũng phải tinh siêng giúp kẻ chưa yên. Ta đã tự chứng Niết Bàn rốt ráo, cũng phải tinh siêng khiến kẻ khác đều được đồng chứng”.

 

Bạch Thế Tôn! Nếu các thiện nam, thiện nữ đối công đức căn lành Bồ tát sơ phát tâm, khởi tâm tùy hỷ được bao nhiêu phước? Đối công đức căn lành Bồ tát từ lâu phát tâm, khởi tâm tùy hỷ được bao nhiêu phước? Đối công đức căn lành Bồ tát Bất thối chuyển, khởi tâm tùy hỷ được bao nhiêu phước? Đối công đức căn lành Bồ tát còn một đời thành Phật, khởi tâm tùy hỷ được bao nhiêu phước?

- Này Kiều Thi Ca! Giới hạn của bốn đại châu thiên hạ còn có thể biết được nhưng phước đức do tâm tùy hỷ của thiện nam, thiện nữ này tạo ra thì không thể lường được. Kiều Thi Ca! Cho đến giới hạn của Tam thiên đại thiên thế giới cũng có thể biết được nhưng phước đức do tâm tùy hỷ của thiện nam, thiện nữ này tạo ra thì không thể lường biết được.

Kiều Thi Ca! Giả sử Tam thiên đại thiên thế giới là một biển lớn, có người lấy một sợi lông tước ra thành một trăm sợi nhỏ rồi đem đầu của một sợi nhỏ chấm vào nước biển lớn kia và lấy đó làm một đơn vị còn có thể biết được số giọt nước trong biển tính theo đơn vị ấy, nhưng phước đức do tâm tùy hỷ của thiện nam, thiện nữ này tạo ra thì không thể đo lường được.

Khi ấy, Thiên Đế Thích lại thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Nếu các hữu tình đối công đức căn lành của Bồ tát mà chẳng tùy hỷ, phải biết đều là bị ma ám. Nếu các hữu tình đối công đức căn lành Bồ tát mà chẳng tùy hỷ, phải biết đều là bè lũ bọn ma. Nếu các hữu tình đối công đức căn lành Bồ tát mà chẳng tùy hỷ, phải biết các người này từ trong cõi ma chết sanh đến đây. Vì sao? Vì Bồ tát cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, tu Bồ tát hạnh, nếu các hữu tình đối công đức căn lành chúng Bồ tát kia tùy hỷ hồi hướng, tức là hủy diệt tất cả ma quân cung điện quyến thuộc của chúng

Bạch Thế Tôn! Nếu các hữu tình thân tâm kính mến Phật Pháp Tăng bảo, tùy sanh chỗ nào thường muốn thấy Phật, thường muốn nghe pháp, thường muốn gặp Tăng, đối công đức căn lành các Bồ tát nên sanh tùy hỷ. Đã tùy hỷ rồi, hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề mà chẳng khởi tưởng sai khác. Nếu được như thế mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, lợi vui hữu tình, hủy diệt chúng ma quân.

Bấy giờ, Phật bảo Thiên Đế Thích rằng:

- Như vậy, như ngươi đã nói. Kiều Thi Ca! Nếu các hữu tình đối công đức căn lành Bồ tát thân tâm tùy hỷ hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, các hữu tình này chóng năng viên mãn Bồ Tát hạnh, mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Nếu các hữu tình đối công đức căn lành Bồ tát, thân tâm tùy hỷ, hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, các hữu tình này đủ đại oai lực, thường năng phụng sự tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và thiện tri thức, hằng nghe Kinh điển Bát Nhã thẳm sâu, khéo biết nghĩa thú.

Kiều Thi Ca! Các hữu tình này trọn nên công đức căn lành tùy hỷ hồi hướng, tùy sanh chỗ nào thường được tất cả thế gian, trời, người, A tu la… cúng dường cung kính tôn trọng ngợi khen. Chẳng thấy sắc xấu, chẳng nghe tiếng xấu, chẳng ngửi mùi xấu, chẳng nếm vị xấu, chẳng giác xúc xấu, chẳng nghĩ pháp xấu. Thường chẳng xa lìa chư Phật Thế Tôn, từ một nước Phật tới một nước Phật, gần gũi chư Phật, trồng các căn lành, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật.

Do nhân duyên đây, các hữu tình này căn lành tăng tiến, mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Đã chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, năng tận vị lai như thật lợi vui vô lượng vô số vô biên hữu tình, khiến trụ cõi Vô dư y bát Niết Bàn.

Khi sanh tùy hỷ và hồi hướng, chẳng nên chấp trước tức tâm, hay lìa tâm tùy hỷ hồi hướng, chẳng nên chấp trước tức tâm tu hành, hay lìa tâm tu hành. Nếu năng được không chỗ chấp trước như thế tùy hỷ hồi hướng, tu Bồ tát hạnh mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, tận vị lai lợi ích an vui các chúng hữu tình, đều khiến an trụ Niết Bàn rốt ráo.

 

(Tâm như huyễn làm sao chứng Vô Thượng Bồ đề?)

 

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Như Phật đã nói, các pháp như huyễn cho đến các pháp như hóa, làm sao Bồ tát đem tâm như huyễn năng chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Ngươi thấy Bồ tát có tâm như huyễn chăng?

Thiện Hiện thưa rằng:

- Bạch Thế Tôn! Chẳng thấy! Con chẳng thấy huyễn, cũng chẳng thấy có tâm như huyễn.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Nếu chỗ không huyễn, không tâm như huyễn, ngươi thấy có tâm năng chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề chăng?

Thiện Hiện thưa rằng:

- Bạch Thế Tôn! Chẳng thấy. Con đều chẳng thấy có chỗ không huyễn, không tâm như huyễn, lại có tâm nào năng chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề!

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Nếu chỗ lìa huyễn, lìa tâm như huyễn, ngươi thấy có pháp năng chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề chăng?

Thiện Hiện thưa rằng:

- Bạch Thế Tôn! Chẳng thấy. Con đều chẳng thấy có chỗ lìa huyễn, lìa tâm như huyễn, lại có pháp nào năng chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Bạch Thế Tôn! Con không thấy hoặc nơi tâm, hoặc ngoài tâm, có thể nói có pháp nào là hữu hay vô bởi vì tất cả pháp đều là tất cánh viễn ly(2). Nếu tất cả các pháp tất cánh viễn ly, thì chẳng thể thi thiết pháp này là hữu, pháp kia là vô. Nếu pháp chẳng thể thi thiết là hữu là vô thì không thể nói là có thể chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, bởi vì chẳng phải pháp vô sở hữu có thể chứng Bồ đề. Vì sao? Vì tất cả các pháp đều vô sở hữu và không thể nắm bắt, không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì Bát Nhã, cho đến bố thí Ba la mật là tất cánh viễn ly; pháp nội không, cho đến pháp vô tính tự tính không là tất cánh viễn ly; chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì là tất cánh viễn ly; tứ Thánh đế cho đến ba mươi bảy pháp trợ đạo là tất cánh viễn ly; bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc là tất cánh viễn ly; tám giải thoát cho đến mười biến xứ tất cánh viễn ly; pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện là tất cánh viễn ly; Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng là tất cánh viễn ly; pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả là tất cánh viễn ly; Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí là tất cánh viễn ly; tất cả Bồ tát hạnh là tất cánh viễn ly, quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật là tất cánh viễn ly. Bạch Thế Tôn! Nếu là pháp tất cánh viễn ly thì không nên tu cũng không nên khiển, cũng không thể dẫn phát. Bát Nhã thẳm sâu cũng tất cánh viễn ly vì vậy cũng không thể dẫn phát.

Bạch Thế Tôn! Bát Nhã thẳm sâu đã tất cánh viễn ly thì vì sao lại nói: Các vị đại Bồ tát dựa vào Bát Nhã thẳm sâu để chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề? Quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật cũng tất cánh viễn ly, thì vì sao pháp viễn ly lại có thể chứng đắc pháp viễn ly? Vì vậy, đúng ra không nên nói Bát nhã Ba la mật chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề? (Q.456, ĐBN)

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Hay thay, hay thay! Như vậy, như ngươi đã nói! Vì sao? Thiện Hiện! Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật là tất cánh viễn ly. Như vậy, cho đến tất cả Bồ tát hạnh là tất cánh viễn ly, chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề là tất cánh viễn ly, Nhất thiết trí trí cũng tất cánh viễn ly.

Thiện Hiện! Do Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật tất cánh viễn ly, cho nên có thể nói sự chứng đắc của Bồ tát là tất cánh viễn ly. Như vậy, cho đến Nhất thiết trí trí tất cánh viễn ly nên có thể nói sự chứng đắc của Bồ tát tất cánh viễn ly đối với quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Thiện Hiện! Nếu Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật rốt ráo chẳng viễn ly, thì chẳng phải Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật. Như vậy, cho đến nếu Nhất thiết trí trí rốt ráo chẳng viễn ly, thì chẳng phải Nhất thiết trí trí.

Thiện Hiện! Vì Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật tất cánh viễn ly, mới được danh Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật. Như vậy, cho đến vì Nhất thiết trí trí tất cánh viễn ly, nên được danh Nhất thiết trí trí. Vậy nên, Thiện Hiện! Các Bồ tát chẳng thể nương Bát Nhã thẳm sâu, chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Thiện Hiện! Mặc dù chẳng phải pháp viễn ly năng chứng pháp viễn ly mà có thể chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, nhưng nếu không thể nương Bát Nhã thẳm sâu thì không thể chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vậy nên, chúng Bồ tát muốn được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, thường nên tinh siêng tu học Bát Nhã thẳm sâu như thế.

Cụ thọ Thiện Hiện thưa rằng:

- Bạch Thế Tôn! Pháp mà đại Bồ tát thực hành đều có ý nghĩa thậm thâm chăng?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Như vậy, như vậy! Pháp mà các Bồ tát thực hành đều là thậm thâm, khó thấy khó giác, không chỗ nghĩ tầm, vượt cảnh nghĩ tầm, vi mật tự chứng, chẳng thể tuyên nói.

Thiện Hiện! Phải biết các Bồ tát năng làm việc khó làm, mặc dù hành pháp nghĩa thậm thâm như thế, mà đối pháp Thanh văn, bậc Độc giác thường không tác chứng.

Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa rằng:

- Theo con hiểu nghĩa Phật nói thì việc làm của các vị đại Bồ tát không khó, nên không thể nói Bồ tát làm việc khó làm. Vì sao? Vì ý nghĩa của pháp mà các Bồ tát chứng được đều bất khả đắc, việc chứng đắc Bát Nhã thẳm sâu cũng bất khả đắc, pháp được chứng, người chứng, chỗ chứng và thời chứng cũng bất khả đắc. Bạch Thế Tôn! Các vị Bồ tát quán tất cả pháp là bất khả đắc, thì có pháp nào có thể chứng, có Bát nhã Ba la mật nào có thể năng chứng và có pháp nào có thể chứng được, người chứng, chỗ chứng, thời chứng, đã vậy thì làm sao có thể nắm bắt được do đâu mà chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Quả vị Thanh văn, Độc giác còn không thể chứng được huống chi là chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Bạch Thế Tôn! Nếu thực hành như vậy thì gọi hạnh vô sở đắc của Bồ tát, Bồ tát nào có thể thực hành hạnh vô sở đắc này thì không chướng ngại đối với tất cả pháp. Bạch Thế Tôn! Khi nghe nói pháp này, đại Bồ tát nào tâm chẳng kinh chẳng e chẳng sợ, chẳng buồn chẳng hối, chẳng thối chẳng chìm, là hành Bát nhã Ba la mật.

Bạch Thế Tôn! Bồ tát này khi hành như thế chẳng thấy các tướng, chẳng thấy hành, chẳng thấy chẳng hành, chẳng thấy Bát nhã Ba la mật là sở hành, chẳng thấy Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề là sở chứng, cũng lại chẳng thấy chỗ chứng, thời chứng vậy.

 

(Thế nào là phân biệt?)

 

Bạch Thế Tôn! Bồ tát này hành Bát Nhã thẳm sâu chẳng khởi nghĩ đây: Ta xa Thanh văn và bậc Độc giác, ta gần Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Bạch Thế Tôn! Ví như hư không chẳng khởi nghĩ này: Ta cách pháp kia hoặc xa hoặc gần. Vì sao? Hư không vô động, cũng không sai khác, không phân biệt vậy. Các Bồ tát cũng lại như thế. Hành Bát Nhã thẳm sâu chẳng khởi nghĩ này: Ta xa Thanh văn và bậc Độc giác, ta gần Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì sao? Vì Bát Nhã thẳm sâu đối tất cả pháp không phân biệt vậy.

Bạch Thế Tôn! Giống như người huyễn do huyễn sư biến hoá không nghĩ: Vật huyễn, và khán giả cách mình gần hay xa. Vì sao? Vì người huyễn không thể phân biệt vậy. Các Bồ tát cũng lại như thế, hành Bát Nhã thẳm sâu chẳng khởi nghĩ này: Ta xa Thanh văn và bậc Độc giác, ta gần Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì sao? Vì Bát Nhã thẳm sâu đối tất cả pháp không phân biệt vậy.

Bạch Thế Tôn! Như bóng hiện trong gương chẳng khởi nghĩ này: Ta cách gương gần, cách các vật khác xa. Vì sao? Vì bóng sở hiện không phân biệt vậy. Các Bồ tát cũng lại như thế, hành Bát Nhã thẳm sâu chẳng khởi nghĩ này: Ta xa Thanh văn và bậc Độc giác, ta gần Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì sao? Vì Bát Nhã thẳm sâu đối tất cả pháp không phân biệt vậy.

Bạch Thế Tôn! Hành Bát Nhã thẳm sâu các Bồ tát không yêu không ghét. Vì sự yêu ghét và tự tánh cảnh của Bát nhã Ba la mật thẳm sâu đều không thể nắm bắt. Bạch Thế Tôn! Như các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đối tất cả pháp không yêu không ghét. Hành Bát Nhã thẳm sâu, các Bồ tát cũng lại như thế, đối tất cả pháp không yêu không ghét. Vì sao? Vì chư Phật, Bồ Tát, thực hành Bát Nhã thẳm sâu dứt trừ yêu ghét vậy.

Bạch Thế Tôn! Như các vị Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đã đoạn trừ hoàn toàn tất cả phân biệt, các loại phân biệt và xa lìa sự phân biệt trùm khắp, cũng vậy, đại Bồ tát thực hành Bát Nhã thẳm sâu cũng hoàn toàn xa lìa tất cả phân biệt, các loại phân biệt và xa lìa sự phân biệt trùm khắp. Vì sao? Vì chư Phật và các vị Bồ tát thực hành Bát Nhã thẳm sâu không có phân biệt đối với tất cả pháp.

Bạch Thế Tôn! Như chư Phật không có nghĩ: Ta xa lìa địa vị Thanh văn, Độc giác, ta ở gần quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Cũng vậy, các vị đại Bồ tát thực hành Bát Nhã thẳm sâu không nghĩ: Ta xa lìa địa vị Thanh văn, Độc giác, ta ở gần quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì sao? Vì chư Phật và các vị Bồ tát thực hành Bát Nhã thẳm sâu không có phân biệt đối với tất cả pháp.

Bạch Thế Tôn! Như hóa nhân được các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác biến hóa ra không nghĩ: Ta xa lìa địa vị Thanh văn, Độc giác, ta ở gần quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì sao? Vì tất cả các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và những người do các Ngài biến hóa ra đều không có tâm phân biệt, cũng vậy, đại Bồ tát thực hành Bát Nhã thẳm sâu không nghĩ: Ta xa lìa địa vị Thanh văn, Độc giác, ta ở gần quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì sao? Vì Bát Nhã thẳm sâu không có phân biệt đối với tất cả các pháp.

Bạch Thế Tôn! Giống như vì muốn làm việc gì, chư Phật biến hóa tạo hóa nhân để khiến làm việc ấy, người được hóa ra đó không nghĩ: Ta có thể làm được việc như vậy. Vì sao? Vì những người được biến hóa ra không có phân biệt, Bát Nhã thẳm sâu cũng như vậy, do có việc cần làm nên siêng năng tu tập, sau khi đã tu tập, tuy có thể thành tựu nhưng không có phân biệt. Vì sao? Vì Bát Nhã thẳm sâu vốn không phân biệt.

Bạch Thế Tôn! Giống như người thợ khéo và các học trò của huyễn sư, vì có công việc phải làm nên họ tạo ra các vật như người nữ hoặc nam, hoặc voi, hoặc ngựa... Tuy các vật này được làm ra nhưng chúng không có sự phân biệt. Vì sao? Vì pháp ấy là máy móc vốn không phân biệt. Bát nhã Ba la mật cũng như vậy, do có việc phải làm nên mới được thành lập, tuy đã hoàn thành nhưng hoàn toàn không phân biệt việc làm và lời nói. Vì sao? Vì Bát Nhã thẳm sâu vốn là pháp không phân biệt.

Lúc ấy, Xá lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Thưa Đại đức! Chỉ có Bát nhã Ba la mật không có phân biệt hay tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới và bố thí cũng không phân biệt.

Thiện Hiện đáp:

- Chẳng phải chỉ có Bát nhã Ba la mật không phân biệt mà tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí cũng không phân biệt.

Xá lợi Tử nói:

- Chỉ có sáu Ba la mật là không có phân biệt hay sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng không phân biệt; mười hai xứ cho đến mười tám giới cũng không phân biệt; nhãn xúc cho đến ý xúc cũng không phân biệt, các cảm thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cho đến các cảm thọ do ý xúc làm duyên sanh ra cũng không phân biệt; địa giới cho đến thức giới cũng không phân biệt; pháp nội không cho đến pháp vô tính tự tính không cũng không phân biệt; chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì cũng không phân biệt; nói rộng ra cho đến tất cả pháp Phật cũng không phân biệt; cảnh giới hữu vi cũng không phân biệt, cảnh giới vô vi cũng không phân biệt?

Thiện Hiện đáp:

- Chẳng phải chỉ có sáu Ba la mật không có phân biệt mà sắc cũng không có phân biệt, thọ, tưởng, hành, thức cũng không có phân biệt cho đến thế giới hữu vi cũng không phân biệt, cảnh giới vô vi cũng không phân biệt.

Xá lợi Tử nói:

- Nếu tất cả các pháp đều không phân biệt thì vì sao có sự phân chia năm đường khác nhau là địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ, người và trời. Vì sao lại có phân biệt giữa các bậc Thánh khác nhau là Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác, Bồ tát, Như Lai?

Thiện Hiện đáp:

- Do nhân duyên điên đảo, phiền não nên hữu tình phát sanh ra các loại nghiệp nơi thân, khẩu, ý và do đó đưa đến quả báo. Mặt khác dục vọng là nghiệp căn bản của quả dị thục và dựa vào đó mà phát sanh năm đường khác nhau là địa ngục, súc sanh, ngạ quỉ, trời, người được tạo ra.

Còn vì sao có sự phân biệt giữa các bậc Thánh khác nhau thì này Xá lợi Tử! Đó là do không phân biệt nên thi thiết có Dự lưu và quả Dự lưu, do không phân biệt nên thi thiết có Nhất lai và quả Nhất lai, do không phân biệt nên thi thiết có Bất hoàn và quả Bất hoàn, do không phân biệt nên thi thiết có A la hán và quả A la hán, do không phân biệt nên thi thiết có Độc giác và Độc giác Bồ đề, do không phân biệt nên thi thiết có đại Bồ tát và Bồ tát hạnh, do không phân biệt nên Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Xá lợi Tử! Do không phân biệt và đoạn trừ phân biệt nên Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trong quá khứ mới có thể thi thiết có các thứ sai khác. Cũng do không phân biệt, do đoạn trừ phân biệt nên các vị Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đời vị lai có thể thi thiết có các thứ sai khác. Do không phân biệt, đoạn trừ phân biệt nên tất cả các bậc Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác cùng chư Phật mười phương thế giới ở đời hiện tại thị hiện thuyết pháp, mới có thể thi thiết có các thứ sai biệt khác nhau.

Này Xá lợi Tử! Vì lý do đó nên biết các pháp đều không phân biệt. Do không phân biệt nên chơn như, pháp giới nói rộng cho đến cảnh giới bất tư nghì đều là định lượng(3).

Xá lợi Tử! Các vị đại Bồ tát nên thực hành Bát Nhã thẳm sâu không có sự phân biệt như vậy. Đại Bồ tát nào có thể thực hành Bát Nhã thẳm sâu không có sự phân biệt thì liền chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề vi diệu không có sự phân biệt, giác ngộ tánh không phân biệt của tất cả pháp và làm lợi ích cho hữu tình đến tận đời vị lai.

 

Thích nghĩa:

(1). Đoạn Kinh ở quyển 456, tập 19, Hội thứ II này, cùng một ý với đoạn Kinh trong Thiền luận III của Thiền sư D.T. Suzuki đã trích dẫn (Triết học và Tôn giáo trong Bát nhã Ba la mật-đa, tiểu mục 11, nói về Vô sở đắc và Vô thủ trước) do Tuệ Sĩ dịch. Nội dung của nó không khác với đoạn Kinh trong phẩm “Tùy Hỷ”, thuộc quyển thứ 21, Kinh MHBNBLMĐ hay phẩm “Nguyện Dụ”, quyển 342, Hội thứ II hoặc phẩm “Thấy Bất Động”, quyển 521, Hội thứ III hoặc phẩm “Gốc Chồi” quyển 564, Hội thứ V, ĐBN. Nhưng văn từ gãy gọn, lưu loát, nên chúng tôi trích dẫn ra đây để quý vị độc giả thưởng thức:

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

“Rồi Tu Bồ Đề hỏi: Tâm như huyễn làm sao có thể chứng đắc Vô thượng Giác ngộ?

“Phật nói: Tu Bồ Đề! Theo ý ông, ông thấy có tâm như huyễn chăng?

“Tu Bồ Đề thưa: Bạch, không thấy có.

“Phật nói: Ông thấy có huyễn chăng?

“Tu Bồ Đề: Không thấy có.

“Phật: Khi ông không thấy có huyễn, không thấy có tâm như huyễn, theo ý ông, có pháp nào ngoài huyễn tâm và huyễn tướng mà chứng đắc Vô Thượng Giác ngộ chăng?

“Tu Bồ Đề: Thưa không. Không thấy có pháp nào như vậy. Nếu có pháp nào ngoài tâm như huyễn, pháp ấy cũng không thể nói là hữu hay là vô. Tất cả là tất cánh viễn ly (atantavivikta), và trong tất cánh viễn ly đó không có pháp nào có thể nói là hữu hay là vô; không có pháp nào gọi là phải tu, không có pháp nào gọi là phải chứng. Vì lý do đó, Bát nhã Ba la mật là tất cánh viễn ly. Vô thượng giác ngộ cũng vậy. Giữa hai tất cánh viễn ly không thể có liên hệ nào; chúng ta không thể nói cái này như là phương tiện để chứng đắc cái kia; cũng không phải cái kia như là cái sở đắc. Bồ tát mà chứng đắc Vô Thượng Giác ngộ là do bởi Bát nhã Ba la mật. Nhưng Bồ tát cũng là pháp (dharma) tất cánh viễn ly, và chúng ta không thể dựng lên một khẳng định nào cho sự chứng đắc đó, ngay cả giác ngộ.

“Phật: Hay thay, Tu Bồ Đề! Đúng như lời ông nói! Tất cánh viễn ly là hết thảy các pháp (dharma) - Bồ tát, Bát nhã Ba la mật và Vô Thượng Giác ngộ. Nhưng Bồ tát ở trong pháp tất cánh viễn ly đó mà như thật biết rõ Bát nhã Ba la mật và đạt tới tri kiến rằng Bát nhã Ba la mật là tất cánh viễn ly, cho nên Bát nhã Ba la mật tức phi Bát nhã Ba la mật. Quả thực Bồ tát do Bát nhã Ba la mật mà chứng đắc Vô thượng giác ngộ nhưng ở trong đó không pháp nào là khả thủ, là khả đắc; do không thủ, không đắc, nên Bồ tát tuy chứng đắc Vô Thượng Giác ngộ mà không phải là do viễn ly chứng đắc viễn ly”.

(2). Tất cánh viễn ly (atantavivikta) Tất cánh có nghĩa là rốt ráo. Viễn ly là xa lìa. Rốt ráo xa lìa có không là tuyệt đối xa lìa nhị biên đối đãi. Có xa lìa thì không bị nó trói buộc, không bị nó chi phối. HT Thích Trí Nghiêm dịch là “hoàn toàn viễn ly”. Tất cánh viễn ly, hoàn toàn viễn ly, rốt ráo xa lìa đều cùng một nghĩa như nhau.TB.

(3). Định lượng: Số lượng đã định, không thể thay đổi như cân lường (trọng lượng) người Anh dùng pound, người Pháp dùng kilogram.

 

Sơ giải:

 

Bất tùy phân biệt” là pháp môn tối cao trong Phật học. Tất cả rối rắm của cuộc đời thường là phân biệt, do phân biệt sanh ra chấp trước, do chấp trước sanh ra tạo tác thi vị. Đời sở dĩ đầy bất công vì phân biệt chấp trước mà ra. Ý thức của con người là như vậy hay so đo phân biệt. Phân biệt sang hèn, trọng khinh, xấu tốt… Vì vậy, mới có buông bỏ nắm bắt: Giàu sang thì tôn trọng muốn gần gũi thân cận, nghèo hèn thì bị khinh khi xa lánh. Đó là cái mất mát của cuộc đời, vì vậy mà phải bị trầm luân muôn kiếp. Nên muốn giải thoát những hệ lụy đó thì phải biết buông bỏ. Đó là đứng về phương diện thế tục mà có cái thấy biết như thế.

Nên, Thiện Hiện đại diện cho Thánh nghĩa đế mới bảo rằng:

- “Chẳng phải chỉ có sáu Ba la mật không có phân biệt mà sắc cũng không có phân biệt, thọ, tưởng, hành, thức cũng không có phân biệt cho đến thế giới hữu vi cũng không phân biệt, cảnh giới vô vi cũng không phân biệt”.

Vì tất cả pháp đều không, vô sở hữu, bất khả đắc. Thánh giả vì vậy, không còn muốn nắm giữ cất dấu bất cứ thứ gì nên mới được vô thức, vô niệm, vô tâm.

Trong phẩm này câu cần nhớ do Phật bảo là: “Tất cánh viễn ly là (bản chất của) hết thảy các pháp (dharma): Bồ tát, Bát nhã Ba la mật và Vô Thượng Giác ngộ. Nhưng Bồ tát ở trong pháp tất cánh viễn ly đó mà như thật biết rõ Bát nhã Ba la mật và đạt tới tri kiến rằng Bát nhã Ba la mật là tất cánh viễn ly, cho nên Bát nhã Ba la mật tức phi Bát nhã Ba la mật. Quả thực Bồ tát do Bát nhã Ba la mật mà chứng đắc Vô thượng giác ngộ nhưng ở trong đó không pháp nào là khả thủ, là khả đắc; do không thủ, không đắc, nên Bồ tát tuy chứng đắc Vô Thượng Giác ngộ mà không phải là do viễn ly chứng đắc viễn ly”.

Muốn thấu rõ chi tiết của phẩm “Không Phân Biệt” của Hội thứ II này, xin xem lại phần sau của phẩm “Nguyện Dụ”, quyển 341 và 342, Hội thứ I, ĐBN.

 

---o0o---