PHẨM
“THỌ DỤ” HAY “DỤ CÂY”
Phần
sau quyển 463, Hội thứ II, ĐBN.
(Tương
đương phẩm “Nói Thật”, phần cuối Q.363
cho
đến đầu Q.366, Hội thứ I, ĐBN)
Tóm lược:
Bấy
giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng:
-
Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật như thế rất là thẳm sâu. Các đại Bồ tát thường làm việc khó làm. Nghĩa là chẳng đắc các hữu tình, cũng chẳng đắc
thi thiết hữu tình, mà vì hữu
tình mong cầu mau chứng Nhất thiết trí trí.
Bạch
Thế Tôn! Ví như có người muốn trồng cây trong hư không là nơi không sắc, không
thấy, không đối, không chỗ nương dựa, việc ấy rất khó. Các đại Bồ tát cũng lại
như thế, chẳng đắc hữu tình mà thi thiết hữu tình, vì hữu tình mong
cầu mau chứng Nhất thiết trí trí là việc rất khó?
Phật
nói:
-
Thiện Hiện! Như vậy, như ngươi đã nói! Bát nhã Ba la mật như thế rất là thẳm
sâu. Các đại Bồ tát năng làm việc khó làm là tuy biết chẳng đắc hữu tình mà vẫn
mong cầu mau chứng được Nhất thiết trí trí.
Thiện
Hiện! Phải biết các đại Bồ tát tuy chẳng thật thấy hữu tình, cũng chẳng thấy
thi thiết hữu tình, mà các hữu tình ngu si điên đảo chấp là thật có, chìm đắm
sanh tử chịu khổ vô cùng. Vì cứu vớt họ nên mong cầu mau chứng Nhất thiết trí
trí, dùng phương tiện thiện xảo mà cứu độ. Ví như có người trồng cây thuốc
tuy chẳng biết có được thọ dụng gốc cọng, nhánh lá, hoa quả về sau hay không mà
vẫn tùy thời tưới bón, gia công chăm bón. Cây này về sau lớn lên, gốc cọng
nhánh lá hoa quả thịnh tốt, nhiều người thọ dụng lành bệnh được yên vui.
Các
đại Bồ tát cũng lại như vậy, tuy chẳng thấy có phước báo(1), mà vì hữu
tình mong cầu mau chứng Nhất thiết trí trí, lần hồi tu hành bố thí, tịnh giới,
an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật và vô lượng các Bồ đề phần pháp
khác. Đã viên mãn rồi, bèn năng chứng được Nhất thiết trí trí, khiến các hữu
tình thọ dụng phước báo nhánh lá, hoa quả đều được lợi ích.
Thiện
Hiện phải biết: Lợi ích nhánh lá là các hữu tình nương Bồ Tát đây giải
thoát các thú; lợi ích nơi hoa là các hữu tình nương Bồ Tát đây hoặc
sanh đại tộc Sát đế lợi, hoặc sanh đại tộc Bà la môn, hoặc sanh đại tộc
Trưởng giả, Cư sĩ, hoặc sanh trời Bốn đại vương chúng cho đến trời Phi tưởng
phi phi tưởng xứ; lợi ích nơi quả là Bồ Tát đây tự chứng Vô Thượng Chánh
Đẳng Bồ đề, khiến các hữu tình hoặc trụ quả Dự lưu, hoặc trụ quả Nhất lai,
Bất hoàn, A la hán, hoặc trụ Độc giác Bồ đề, hoặc trụ Vô Thượng Chánh Đẳng
Bồ đề. Các hữu tình này siêng tu thiện pháp, nương đạo Tam thừa lần hồi chứng
được Tam thừa Niết bàn. Như vậy, gọi là phước báo nhiêu ích(2).
Thiện
Hiện! Tuy làm việc lợi ích lớn như vậy nhưng các Đại Bồ tát hoàn toàn không
thấy thật có hữu tình nào đạt được Niết bàn, chỉ thấy vọng tưởng và các khổ
lặng dứt.
Như
vậy, Thiện Hiện! Các đại Bồ tát hành Bát Nhã thẳm sâu, chẳng đắc hữu tình và
thi thiết hữu tình. Vì diệt trừ ngã chấp điên đảo kia, mong cầu mau chứng Nhất
thiết trí trí. Do nhân duyên đây, là việc rất khó!
Cụ
thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng:
-
Bạch Thế Tôn! Phải biết các đại Bồ tát như Phật. Vì sao? Vì nương tựa vào Bồ
tát bèn dứt được 3 cõi địa ngục, bàng sanh, quỷ giới, cũng dứt được nghèo túng
thấp hèn trong 3 cõi?
Phật
bảo:
-
Thiện Hiện! Như vậy, như ngươi đã nói! Các Bồ tát nên biết như Phật. Thế gian
nếu không có Bồ tát sẽ không có Như Lai ba đời, cũng không có Độc giác và chúng
Thanh văn. Cũng không dứt được địa ngục, bàng sanh, quỷ giới và các nghèo túng
thấp hèn cùng các khổ khác.
Vậy
nên, Thiện Hiện! Ngươi nói chúng đại Bồ tát y như Đức Phật, thật chính xác.
Lại
nữa, Thiện Hiện nên biết: Các đại Bồ tát tức là Như Lai. Vì sao? Thiện Hiện! Vì
do như đây thi thiết Như Lai, tức do như đây thi thiết Độc giác, cũng do như
đây thi thiết Thanh văn, cũng do như đây thi thiết sắc thọ tưởng hành thức.
Cũng do như đây thi thiết tất cả Hiền Thánh. Cũng do như đây thi thiết
nhãn xứ cho đến ý xứ. Cũng do như đây thi thiết nhãn giới cho đến ý giới v.v...
Cũng do như đây thi thiết nhãn xúc cho đến ý xúc. Cũng do như đây thi thiết
nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ.
Cũng do như đây thi thiết địa giới cho đến thức giới. Cũng do như đây thi thiết
nhân duyên cho đến tăng thượng duyên. Cũng do như đây thi thiết vô minh cho đến
lão tử. Cũng do như đây thi thiết bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Cũng do như
đây thi thiết nội Không cho đến vô tánh tự tánh Không. Nói rộng ra, cũng do
như đây thi thiết tất cả pháp Phật. Cũng do như đây thi thiết hữu vi giới
cho đến vô vi giới. Cũng do như đây thi thiết tất cả pháp. Cũng do như đây thi
thiết tất cả hữu tình. Cũng do như đây thi thiết tất cả đại Bồ tát.
Như
vậy, Thiện Hiện! Hoặc Như Lai như, hoặc Độc giác như, hoặc Thanh văn như, hoặc
tất cả Hiền Thánh như, hoặc sắc cùng tất cả pháp như, hoặc tất cả hữu tình như,
hoặc tất cả Bồ tát như, các như như thế đều không khác. Do vì không khác nên
gọi là như(3). Các đại Bồ tát tu học viên mãn như này liền có thể chứng đắc
Nhất thiết trí trí. Do đã chứng đắc Nhất thiết trí trí nên được gọi là Như Lai.
Do đó, nên biết các đại Bồ tát tức là Như Lai. Vì tất cả các pháp, tất cả hữu
tình đều lấy như làm định lượng.
Thiện
Hiện! Như vậy, các đại Bồ tát nên học Bát Nhã thẳm sâu. Nếu học Bát Nhã thẳm
sâu thời học được tất cả pháp như. Nếu tất cả pháp như, thời đối tất cả pháp tự
tại, thời biết được tất cả căn thắng liệt của hữu tình. Nếu biết được tất cả
căn thắng liệt của hữu tình, thời năng biết đủ tất cả thắng giải sai khác của
hữu tình. Nếu năng biết đủ tất cả thắng giải sai khác của hữu tình, thời biết
tất cả hữu tình tự nghiệp thọ quả. Nếu biết tất cả hữu tình tự nghiệp thọ quả,
thời nguyện trí viên mãn. Nếu nguyện trí viên mãn, thời năng tịnh tu diệu trí
ba đời. Nếu năng tịnh tu diệu trí ba đời, thời năng viên mãn Nhất thiết trí
trí.
Nếu
năng viên mãn Nhất thiết trí trí, thời năng hành Bồ Tát hạnh không trái.
Nếu năng hành Bồ Tát hạnh không trái thời năng thường đem tài thí, pháp thí
nhiêu ích hữu tình. Nếu năng thường đem tài thí, pháp thí nhiêu ích hữu tình,
thời năng như thật thành thục hữu tình. Nếu năng như thật thành thục hữu tình,
thời năng như thật nghiêm tịnh cõi Phật. Nếu năng như thật nghiêm tịnh cõi
Phật, thời năng chứng được Nhất thiết trí trí.
Nếu
năng chứng được Nhất thiết trí trí, thời năng như thật quay xe diệu pháp, thời
năng an lập hữu tình nơi đạo Tam thừa. Nếu năng an lập hữu tình nơi đạo Tam
thừa, thời năng khiến hữu tình vào cõi Vô dư y Niết bàn.
Như
vậy, Thiện Hiện! Các đại Bồ tát thấy tất cả công đức tự lợi lợi tha vô lượng
như thế, muốn khiến tâm đại Bồ đề đã phát bền vững chẳng thối chuyển nên siêng
tinh tấn tu hành Bát Nhã phương tiện thiện xảo.
(Đây
không phải qui diễn theo qui thức luận thường tục, mà đây là một diễn trình tu
hành và kết quả hay nhất do Phật diễn giảng)
Khi
ấy, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng:
- Bạch
Thế Tôn! Nếu đại Bồ tát năng phát tâm Vô thượng Chánh đẳng giác, như thuyết tu
hành Bát Nhã thẳm sâu, thế gian trời người A tu la… đều nên kính lễ chăng?
Phật
nói:
-
Thiện Hiện! Như vậy, như ngươi đã nói! Nếu đại Bồ tát thường phát tâm Vô thượng
Chánh đẳng giác, như thuyết tu hành Bát Nhã thẳm sâu, thế gian trời người A tu
la… đều nên kính lễ.
Cụ
thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
-
Nếu vì làm lợi ích cho tất cả hữu tình, các đại Bồ tát vừa phát tâm quả vị Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thì được bao nhiêu phước đức?
Phật
bảo Thiện Hiện:
-
Giả sử có người làm cho tất cả hữu tình đầy khắp Tiểu thiên thế giới đều đạt
địa vị Thanh văn, Độc giác, thì theo ý ngươi, phước đức của người này có nhiều không?
Thiện
Hiện đáp:
-
Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Phước đức mà người này đạt được nhiều vô lượng, vô
biên.
Phật
bảo Thiện Hiện:
-
Phước mà người này đạt được so với phước của một đại Bồ tát đạt được nhờ mới
phát tâm quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề để làm lợi ích tất cả hữu tình mà
ông vừa hỏi, thời không bằng
một phần trăm, không bằng một phần ngàn, như vậy cho đến không bằng một phần
trăm ức muôn ức. Vì sao? Vì Thanh văn, Độc giác đều nương vào đại Bồ tát mà có.
Không phải đại Bồ tát nào nương vào các Thanh văn, Độc giác mà có.
Thiện
Hiện! Thôi không nói Tiểu thiên thế giới, nếu có người làm cho tất cả hữu tình
đầy cả Trung thiên hay Tam thiên đại thiên thế giới đều đạt quả Thanh văn hoặc
Độc giác, hoặc đều được trụ Tịnh quán địa, hoặc đều trụ Chủng tánh địa, hoặc Đệ
bát địa, hoặc Cụ kiến địa, hoặc Bạc địa, hoặc Ly dục địa, hoặc Dĩ biện địa, thì
theo ý ngươi, phước đức của
người này có nhiều không?
Thiện
Hiện đáp rằng:
-
Bạch Thế Tôn! Rất nhiều! Phước đức người này đạt được nhiều vô lượng, vô biên.
Phật
bảo Thiện Hiện:
-
Phước mà người này đạt được so với phước của một đại Bồ tát thu được nhờ mới
phát tâm quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề để làm lợi ích tất cả hữu tình mà
ông đã hỏi thì không bằng một phần trăm, một phần ngàn, như vậy cho đến
không bằng một phần trăm ngàn, một phần trăm ức muôn ức. Vì sao? Vì Thanh văn,
Độc giác hoặc bậc trụ Tịnh quán địa, hoặc bậc trụ Chủng tánh địa, hoặc bậc Đệ
bát địa v.v… đều nương vào đại Bồ tát mà có. Không phải đại Bồ tát nương vào
các bậc trên mà có.
Lại
nữa, Thiện Hiện! Giả sử có người làm cho tất cả hữu tình đầy khắp tam thiên đại
thiên thế giới đều nhập vào Bồ tát Chánh tánh ly sanh, lượng phước của người
này đạt được so với phước mà một đại Bồ tát hành Bồ đề hướng đạt được thì không
bằng một phần trăm, một phần ngàn, như vậy cho đến không bằng một phần trăm
ngàn, trăm ức muôn ức.
Lại
nữa, Thiện Hiện! Giả sử có người làm cho tất cả hữu tình đầy khắp tam thiên đại
thiên thế giới đều hành Bồ đề hướng, lượng phước mà người này đạt được so với
phước của một vị Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác có được thì không bằng một phần
trăm, một phần ngàn, như vậy cho đến không bằng một phần trăm ngàn, trăm ức
muôn ức.
Khi
ấy, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng:
-
Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ tát sơ phát tâm Vô thượng Chánh đẳng giác tư duy
những gì?
Phật
nói:
-
Thiện Hiện! Đại Bồ tát này hằng chính tư duy Nhất thiết trí trí.
Cụ
thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:
-
Bạch Thế Tôn! Nhất thiết trí trí lấy gì làm tánh? Lấy gì làm sở duyên? Lấy gì
làm tăng thượng? Lấy gì làm hành tướng? Lấy gì làm tướng?
Phật
bảo:
-
Thiện Hiện! Nhất thiết trí trí lấy vô tánh làm tánh, lấy vô tướng làm nhân,
không chỗ cảnh giác, không sinh, không hiện. Nhất thiết trí trí lấy vô tánh
làm sở duyên, lấy chánh niệm làm tăng thượng, lấy tịch tịnh làm hành tướng, lấy
vô tướng làm tướng.
Cụ
thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:
-
Chỉ Nhất thiết trí trí lấy vô tánh làm tánh, hay sắc thọ tưởng hành thức
cũng lấy vô tánh làm tánh? Hay mười hai xứ cho đến mười tám giới lấy vô tánh
làm tánh? Hay nhãn xúc cho đến ý xúc cũng lấy vô tánh làm tánh? Hay nhãn xúc
làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ cũng lấy vô
tánh làm tánh? Hay địa giới cho đến thức giới cũng lấy vô tánh làm tánh? Hay
nhân duyên cho đến tăng thượng duyên cũng lấy vô tánh làm tánh? Hay vô minh cho
đến lão tử cũng lấy vô tánh làm tánh? Hay bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật cũng
lấy vô tánh làm tánh? Hay nội không cho đến vô tánh tự tánh không cũng lấy vô
tánh làm tánh? Hay chơn như cho đến bất tư nghì giới cũng lấy vô tánh làm tánh?
Hay nói rộng cho đến tất cả pháp Phật cũng lấy vô tánh làm tự tánh.?
Phật
bảo:
-
Thiện Hiện! Chẳng những Nhất thiết trí trí lấy vô tánh làm tánh. Sắc thọ tưởng
hành thức cũng lấy vô tánh làm tánh. Như vậy, cho đến tất cả pháp Phật cũng
lấy vô tánh làm tánh.
Cụ
thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:
-
Bạch Thế Tôn! Duyên nào mà nói Nhất thiết trí trí lấy vô tánh làm tánh? Sắc thọ
tưởng hành thức cũng lấy vô tánh làm tánh? Như vậy, cho đến tất cả pháp Phật
cũng lấy vô tánh làm tánh?
Phật
bảo:
-
Thiện Hiện! Nhất thiết trí trí tự tánh không vậy. Nếu pháp tự tánh
không, pháp này lấy vô tánh làm tánh. Sắc thọ tưởng hành thức cũng tự tánh
không. Nếu pháp tự tánh không, pháp này lấy vô tánh làm tánh. Như vậy, cho đến
tất cả pháp Phật cũng tự tánh không. Nếu pháp tự tánh không, pháp này lấy vô
tánh làm tánh.
Cụ
thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:
-
Duyên nào Nhất thiết trí trí tự tánh không? Sắc thọ tưởng hành thức cũng
tự tánh không? Như vậy, cho đến tất cả pháp Phật cũng tự tánh không?
Phật
bảo:
-
Thiện Hiện! Nhất thiết trí trí tự tánh không hòa hợp. Nếu pháp nào tự
tánh không hòa hợp, thời pháp ấy lấy vô tánh làm tánh. Sắc thọ tưởng hành
thức cũng tự tánh không hòa hợp. Nếu pháp tự tánh không hòa hợp, thời pháp ấy
lấy vô tánh làm tánh. Như vậy, cho đến tất cả pháp Phật cũng tự tánh không hòa
hợp. Nếu pháp tự tánh không hòa hợp, thời pháp ấy lấy vô tánh làm tánh.
Thiện
Hiện! Do nhân duyên này các đại Bồ tát nên biết tất cả pháp đều lấy vô tánh làm
tánh.
Lại
nữa, Thiện Hiện! Tất cả pháp đều lấy không làm tự tánh, lấy vô tướng
làm tự tánh, lấy vô nguyện làm tự tánh. Thiện Hiện! Do nhân duyên này các
đại Bồ tát nên biết tất cả pháp đều lấy vô tánh làm tánh.
Lại
nữa, Thiện Hiện! Tất cả pháp đều lấy chơn như làm tự tánh, thật tế làm tự
tánh, pháp giới làm tự tánh.
Thiện
Hiện! Do nhân duyên này các đại Bồ tát nên biết tất cả pháp đều lấy vô tánh làm
tánh.
Cụ
thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:
-
Nếu tất cả pháp đều lấy vô tánh làm tánh, các đại Bồ tát sơ phát tâm Vô thượng
Chánh đẳng giác, thành tựu những phương tiện thiện xảo nào năng hành bố thí cho
đến Bát nhã Ba la mật thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật? Thành tựu
những phương tiện thiện xảo nào năng trụ nội Không cho đến vô tánh tự tánh
Không, thành thục hữu tình nghiêm tịnh cõi Phật. Thành tựu những phương tiện
thiện xảo nào năng trụ chơn như cho đến bất tư nghì giới, thành thục hữu tình nghiêm
tịnh cõi Phật. Thành tựu những phương tiện thiện xảo nào năng trụ tất cả pháp
Phật để thành thục hữu tình nghiêm tịnh cõi Phật?
Phật
bảo:
-
Thiện Hiện! Đại Bồ tát này thành tựu phương tiện thiện xảo tối thắng.
Tuy biết tất cả pháp đều lấy vô tánh làm tánh, mà thường tinh siêng thành thục
hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật. Tuy thường tinh siêng thành thục hữu tình,
nghiêm tịnh cõi Phật, mà hằng thông đạt tất cả hữu tình và các cõi Phật đều lấy
vô tánh làm tánh.
Thiện
Hiện! Đại Bồ tát này tuy hành bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật học đạo Bồ đề,
mà biết bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật và đạo Bồ đề đều lấy vô tánh làm tánh.
Như vậy, cho đến tuy hành Nhất thiết trí trí học đạo Bồ đề mà Nhất thiết trí
trí và đạo Bồ đề đều lấy vô tánh làm tánh.
Thiện
Hiện! Đại Bồ tát này như vậy tu hành bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật học đạo
Bồ đề, nói rộng cho đến như vậy tu hành Nhất thiết trí trí học đạo Bồ đề, nếu
chưa thành tựu Như Lai mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại
bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, pháp vô vong thất, tánh hằng
trụ xả. Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí và vô lượng vô biên
các Phật pháp khác, đều gọi học đạo Bồ đề chưa được viên mãn.
Nếu
học đạo đây đã được viên mãn, chỉ trong một sát na tương ưng Bát Nhã, liền
chứng Nhất thiết trí trí. Bấy giờ tất cả tập khí phiền não nhỏ nhiệm nối nhau
đều hẳn chẳng sanh, gọi vô dư y đoạn đắc, thì thành Phật. Lại đem mắt
Phật vô chướng thanh tịnh khắp xem mười phương ba đời hết thảy các pháp, hãy
chẳng đắc không huống sẽ đắc có. Như vậy, Thiện Hiện! Các đại Bồ tát nên hành Bát
nhã Ba la mật, tin hiểu tất cả pháp đều lấy vô tánh làm tánh.
Thiện
Hiện! Đấy gọi đại Bồ tát thành tựu tối thắng phương tiện thiện xảo, nghĩa là
hành Bát nhã Ba la mật quán tất cả các pháp hãy chẳng đắc không, huống sẽ đắc
có.
Thiện
Hiện! Đại Bồ tát này khi tu hành bố thí Ba la mật, đối bố thí đây kẻ thí kẻ
thọ, vật thí, quả thí và tâm Bồ đề hãy chẳng thấy không, huống sẽ thấy có. Như
vậy, cho đến khi chứng được Nhất thiết trí trí, đối Nhất thiết trí trí hoặc kẻ
năng chứng, hoặc sở chứng, hoặc do đây chứng, hoặc thời hoặc xứ chứng, hãy
chẳng thấy không, huống sẽ thấy có. Vì sao? Vì đại Bồ tát này thường khởi nghĩ
đây: Các pháp đều lấy vô tánh làm tánh. Vô tánh như thế, chẳng Phật làm ra,
chẳng Bồ Tát làm, chẳng Độc giác làm, chẳng Thanh văn làm, cũng chẳng ai làm.
Vì tất cả pháp đều không tác giả, viễn ly tác giả.
Cụ
thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:
-
Như vậy, há chẳng phải pháp tánh của tất cả pháp là viễn ly sao?
Phật
bảo:
-
Thiện Hiện! Đúng vậy! Pháp tánh của tất cả pháp là viễn ly.
Thiện
Hiện lại hỏi:
-
Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp viễn ly pháp tánh thì vì sao pháp viễn ly có thể
biết pháp viễn ly là có hoặc không? Pháp có chẳng lẽ năng biết pháp không, pháp
không chẳng lẽ năng biết pháp có. Pháp có chẳng lẽ năng biết pháp có, pháp
không chẳng lẽ năng biết pháp không?
Bạch
Thế Tôn! Như vậy tất cả pháp đều lấy vô tri làm tánh. Làm sao đại Bồ tát
hành Bát Nhã thẳm sâu đối trong các pháp chỉ rõ các thứ? Nghĩa là sắc thọ tưởng
hành thức hoặc có hoặc không. Mười hai xứ cho đến mười tám giới hoặc có hoặc
không. Nhãn xúc cho đến ý xúc hoặc có hoặc không. Nhãn xúc làm duyên sanh ra
các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc có hoặc không. Địa giới
cho đến thức giới hoặc có hoặc không. Nhân duyên cho đến tăng thượng duyên hoặc
có hoặc không. Vô minh cho đến lão tử hoặc có hoặc không. Bố thí cho đến Bát
nhã Ba la mật hoặc có hoặc không. Nội không cho đến vô tánh tự tánh không hoặc
có hoặc không. Chơn như cho đến bất tư nghì giới hoặc có hoặc không. Tứ đế cho
đến ba mươi bảy pháp trợ đạo hoặc có hoặc không. Tám giải thoát cho đến mười
biến xứ hoặc có hoặc không. Không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn hoặc có
hoặc không. Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa(Tam thừa cộng thập vị)
hoặc có hoặc không. Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa (Bồ tát Thập địa)
hoặc có hoặc không. Tất cả Đà la ni môn, Tam ma địa môn hoặc có hoặc không. Năm
nhãn, sáu thần thông hoặc có hoặc không. Như lai mười lực cho đến mười tám pháp
Phật bất cộng hoặc có hoặc không. Ba mươi hai tướng Đại sĩ, tám mươi tùy hảo
hoặc có hoặc không. Pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả hoặc có hoặc không.
Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí hoặc có hoặc không. Quả Dự
lưu cho đến Độc giác Bồ đề hoặc có hoặc không. Tất cả Bồ tát hạnh hoặc có hoặc
không. Chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề hoặc có hoặc không. Nhất thiết trí
trí hoặc có hoặc không. Hữu vi giới, vô vi giới hoặc có hoặc không?
Phật
bảo:
-
Thiện Hiện! Các đại Bồ tát hành Bát Nhã, theo thế tục nên chỉ rõ các pháp hoặc
có hoặc không, chẳng theo thắng nghĩa.
Thiện
Hiện lại hỏi:
-
Bạch Thế Tôn! Thế tục, thắng nghĩa có khác nhau không?
Phật
bảo:
-
Thiện Hiện! Chẳng phải ngoài thế tục riêng có thắng nghĩa. Vì sao? Thế tục
như tức là thắng nghĩa. Các loại hữu tình điên đảo vọng chấp đối với “như”
đây chẳng biết chẳng thấy. Các đại Bồ tát vì nhiêu ích hữu tình, nên theo tướng
thế tục hiển bày các pháp hoặc có hoặc không, chẳng theo thắng nghĩa.
Lại
nữa, Thiện Hiện! Đối với các pháp như uẩn xứ giới... vô số hữu tình phát sanh ý tưởng thật có hoặc thật không,
không biết rõ các pháp chẳng có, chẳng không. Để nhiêu ích hữu tình, các đại Bồ tát hiển bày uẩn xứ giới… hoặc có, hoặc không, giúp
cho các hữu tình nhờ đó thấu rõ các pháp như uẩn xứ giới... chẳng có chẳng không, chứ chẳng
phải muốn làm cho họ chấp tướng thật có, thật không.
Thiện
Hiện! Các đại Bồ tát nên siêng tinh tấn lìa chấp có không, mới có khả năng hành
Bát Nhã thẳm sâu.
Thích
nghĩa:
(1).
Phước báo: Dịch giả dịch là quả báo, nhưng từ “quả báo”có tính cách tiêu cực,
có thể bị hiểu lầm là quả xấu, nên chúng tôi dùng từ phước báo, như phước báo
tưởng thưởng là kết quả do tu thiện mà được hưởng cảnh giàu sang, phú quý người
trời v.v…
(2).
Nhiêu ích (饒益): I- Nhiêu
ích: Hàm ý ban pháp đem lại lợi ích cho người.
(3).
Người thấy các pháp như (chơn như của các pháp) như thế, không khứ không lai,
nên được gọi là Như Lai.
Sơ giải:
Phẩm
“Thọ Dụ” hay “Dụ Cây” này nêu ba vấn đề đáng chú ý:
1.
Nói về các pháp như (hay chơn như của tất cả pháp). Các pháp như vậy là
như vậy, bất hư vọng, chẳng lúc nào chẳng như và người thấy như vậy được gọi là
Như Lai. Quý vị có thể quay lại tụng phẩm “Chơn Như” của Hội thứ I hay II vừa
tụng qua.
2.
Các pháp đều không có tự tánh, nên lấy vô tánh làm tự tánh. Vì tất pháp đều do
duyên hợp, không có tự thể, không tự sanh nên nói là không có tự tánh. Bởi lý
do đó nên Phật thuyết rằng: Bất cứ pháp nào không có tự tánh thì lấy vô tánh
làm tự tánh. Không có tự tánh, không có chủ thể riêng nên cũng nói là không.
Quý vị có thể quay lại tụng phẩm “Vô tánh Tự Tánh” của Hội thứ I;
3.
Từ cái thấy không có tự tánh, không có tự thể riêng của tất cả pháp, nên nói là
không. Vì vậy, Phật khuyên chúng sanh, “hành Bát nhã Ba la mật
quán tất cả các pháp hãy chẳng đắc không, huống sẽ đắc có”.
Các
giáo lý này xiển dương xuyên suốt trong toàn thể hệ Bát Nhã mà chúng ta sẽ có
dịp nói nhiều trong phần thứ III Tổng luận. Tạm thời quý vị có thể quay lại
tụng trong phẩm tương đương có tên là “Nói Thật”, phần cuối quyển 363 cho đến
đầu quyển 366, Hội thứ I, ĐBN.
---o0o---