PHẨM “BẤT THỐI CHUYỂN”
Phần sau quyển 448 đến phần đầu
quyển 449, Hội thứ II, ĐBN.
(Tương đương với phẩm “Bất Thối
Chuyển”, quyển 325 cho đến
hết quyển 327, Hội thứ I, ĐBN)
Gợi ý:
Tự tánh của sắc vô sở hữu; tự tánh
của thọ tưởng hành thức cũng vô sở hữu; tự tánh mười hai xứ, mười tám giới cũng
vô sở hữu. Như vậy, cho đến tự tánh tất cả pháp Phật cũng vô sở hữu. Bồ tát nào
tu hành Bát nhã Ba la mật, đối với tất cả pháp như thế chẳng ôm giữ, chẳng bám
chẳng trụ, thì không bị trói buộc, cũng không bị sa ngã, tâm sẽ được như như.
Do như này, tâm chẳng chuyển chẳng dời, nên gọi là Bồ tát bất thối chuyển hay
đối với ngũ dục, lục trần và bát phong mà tâm dao động, nghiêng ngả, thay dạ
đổi lòng thì gọi là thối chuyển? Hãy xem kinh trả lời như thế nào?
Tóm lược:
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại thưa
Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Chúng con phải do hành
động tướng trạng nào mà biết là Bồ tát Bất thối chuyển?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Nếu Bồ tát có khả năng
như thật biết các bậc dị sanh(phàm phu), các bậc Thanh văn, Độc giác, Bồ
tát, Như Lai. Các bậc như thế tuy nói có khác, mà đối trong các pháp chơn như
không biến khác, không phân biệt, đều không hai không hai phần. Bồ tát này tuy
thật ngộ vào các pháp chơn như, mà đối chơn như không sở phân biệt, vì đem vô
sở đắc làm phương tiện vậy. Bồ tát này đã thật ngộ vào các pháp chơn như, tuy
nghe chơn như cùng tất cả pháp không hai không riêng mà không trệ ngại. Vì sao?
Vì chơn như cùng các pháp chẳng thể nói một, chẳng thể nói khác, chẳng thể
nói đồng hay chẳng đồng vậy. Pháp giới cho đến bất tư nghì giới cũng lại
như thế. Bồ tát này trọn chẳng vội vã mà thốt ra lời, những lời nói ra đều dẫn
nghĩa lợi, nếu không nghĩa lợi trọn chẳng phát lời. Bồ tát này trọn chẳng xem
tốt xấu hay dở của kẻ khác, bình đẳng thương xót mà vì thuyết pháp. Bồ tát này
chẳng xem chủng tánh tốt xấu của Pháp sư, chỉ cầu pháp sở thuyết nhiệm mầu mà
thôi.
Thiện Hiện! Đại Bồ tát Bất thối
chuyển đủ các hành động tướng trạng như thế v.v… Do các hành động tướng trạng
như thế nên biết là đại Bồ tát Bất thối chuyển.
Bấy giờ, Thiện Hiện lại thưa Phật
rằng:
- Những gì gọi là các hành động
tướng trạng?
Phật nói:
- Thiện Hiện! Các pháp không
hành, không trạng, không tướng; phải biết đấy là hành động tướng trạng.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật
rằng:
- Nếu tất cả pháp không hành, không
tướng, không trạng, đại Bồ tát này đối pháp nào chuyển nên gọi Bất thối
chuyển?
Phật nói :
- Thiện Hiện! Đại Bồ tát này đối sắc
chuyển nên gọi Bất thối chuyển, đối thọ tưởng hành thức chuyển nên gọi Bất
thối chuyển(1). Đối mười hai xứ cho đến mười tám giới chuyển nên gọi Bất thối
chuyển. Đối nhãn xúc chuyển nên gọi Bất thối chuyển, đối nhĩ tỷ thiệt thân ý
xúc chuyển nên gọi Bất thối chuyển. Đối nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ
chuyển nên gọi Bất thối chuyển, đối nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra
các thọ chuyển nên gọi Bất thối chuyển. Đối bố thí Ba la mật chuyển nên gọi Bất
thối chuyển; đối tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật
chuyển nên gọi Bất thối chuyển. Đối nội không chuyển nên gọi Bất thối chuyển
nên gọi Bất thối chuyển, đối ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không chuyển
nên gọi Bất thối chuyển. Đối chơn như chuyển nên gọi Bất thối chuyển, đối pháp
giới cho đến bất tư nghì giới chuyển nên gọi Bất thối chuyển. Đối với Tứ đế cho
đến Vô Thượng Chánh đảng Chánh giác hay nói rộng ra, đối với tất cả pháp Phật
chuyển nên gọi là bất thối chuyển. Vì sao?
Thiện Hiện ! Vì tự tánh sắc vô sở
hữu, tự tánh thọ tưởng hành thức vô sở hữu. Như vậy, cho đến tự tánh chư Phật
Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề vô sở hữu. Đại Bồ tát này đối trong chẳng trụ,
nên gọi là chẳng chuyển. Do chẳng chuyển nên gọi danh Bồ tát Bất thối chuyển. Nếu
đại Bồ tát có khả năng biết như thế, đấy gọi Bồ tát Bất thối chuyển.
Thiện Hiện! Tất cả đại Bồ tát Bất
thối chuyển quyết không ưa xem hình tướng, nói năng của ngoại đạo, Sa môn, Bà
la môn... Vì các Sa môn, Bà la môn… đối với chỗ biết pháp thật tri, thật kiến,
hoặc kiến lập pháp môn chánh kiến... điều đó không thể có được.
Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả đại Bồ
tát Bất thối chuyển đối với Luật tạng đức Phật đã tuyên thuyết không sanh nghi
hoặc. Đối với việc thế gian không theo giới cấm thủ(2), không đọa ác kiến,
không chấp nhận các việc cát tường(3) của thế tục, chẳng thờ phụng, tế lễ, cúng
dường các thiên thần và các ngoại đạo.
Thiện Hiện! Bồ tát nào thành tựu các
hành động tướng trạng như thế nên biết là đại Bồ tát Bất thối chuyển.
Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả đại Bồ
tát Bất thối chuyển không đọa địa ngục, bàng sanh, quỷ giới, A tu la. Cũng
không sanh vào dòng họ ti tiện như hàng thịt, gánh thây chết... Cũng không thọ
thân không đủ năm căn, biến đổi căn, không hình, hai hình hay nữ nhân. Cũng lại
không thọ thân mù điếc, câm ngọng, cùi cụt, hủi lác, v.v...
Thiện Hiện! Bồ tát nào thành tựu các
hành động tướng trạng như thế nên biết đó là đại Bồ tát Bất thối chuyển.
Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả đại Bồ
tát Bất thối chuyển thường ưa thích thọ trì mười thiện nghiệp đạo: Tự xa lìa sự
giết hại, cũng khuyên người xa lìa sự giết hại, luôn ngợi khen pháp xa lìa giết
hại, vui mừng ngợi khen người lìa giết hại. Cho đến tự lìa tà kiến, cũng khuyên
người lìa tà kiến, luôn ngợi khen pháp xa lìa tà kiến, vui mừng ngợi khen người
xa lìa tà kiến. Đại Bồ tát này, cho đến trong mộng cũng không phát khởi mười ác
nghiệp, huống chi lúc thức.
Thiện Hiện! Bồ tát nào thành tựu các
hành động tướng trạng như thế, nên biết đó là đại Bồ tát Bất thối chuyển.
Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả đại Bồ
tát Bất thối chuyển khắp vì lợi ích tất cả hữu tình, lấy vô sở đắc làm phương
tiện, luôn tu bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật thường không gián đoạn.
Thiện Hiện! Bồ tát nào thành tựu các
hành động tướng trạng như thế, nên biết đó là đại Bồ tát Bất thối chuyển.
Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả đại Bồ
tát Bất thối chuyển, đã thọ trì tư duy, đọc tụng: Khế Kinh, Ứng tụng, Ký biệt,
Phúng tụng, Tự thuyết, Duyên khởi, Bổn sanh, Bổn sự, Phương quảng, Hy pháp(vị
Tằng hữu), Thí dụ, Luận nghị, tất cả đều rốt ráo thông thạo, thường ưa bố
thí pháp như thế cho tất cả hữu tình và luôn luôn suy nghĩ: Làm sao cho các
loài hữu tình nguyện cầu Chánh pháp đều được toại nguyện, lấy vô sở đắc mà làm
phương tiện; lại đem thiện căn pháp thí như thế cùng các hữu tình bình đẳng đều
có, hồi hướng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Thiện Hiện! Bồ tát nào thành tựu các
hành động tướng trạng như thế, nên biết đó là đại Bồ tát Bất thối chuyển.
Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả đại Bồ
tát Bất thối chuyển đối với pháp môn sâu xa của Phật đã thuyết, hoàn toàn không
sanh nghi hoặc, do dự. Vì sao? Thiện Hiện! Vì đại Bồ tát này không thấy có pháp
hoặc sắc, hoặc thọ, tưởng, hành, thức có thể nghi hoặc, do dự. Như vậy, cho đến
không thấy có pháp, hoặc Bồ tát hạnh, hoặc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề có
thể nghi hoặc, do dự ở trong đó.
Thiện Hiện! Bồ tát nào thành tựu các
hành động tướng trạng như thế, nên biết đó là đại Bồ tát Bất thối chuyển.
Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả đại Bồ
tát Bất thối chuyển thành tựu thân, ngữ, ý nghiệp nhu hòa, đối với các hữu tình
tâm không ngăn ngại. Luôn luôn thành tựu từ, bi, hỷ, xả tương ưng thân, ngữ, ý
nghiệp. Quyết định không dung chứa năm thứ phiền não che lấp, đó là tham dục,
giận dữ, hôn trầm mê ngủ, dao động ác tác, nghi hoặc. Tất cả phiền não đều đã
đè bẹp. Tất cả gốc rễ phiền não trói buộc vĩnh viễn không phát sanh. Ra vào qua
lại tâm không mê lầm, luôn luôn an trụ chánh niệm chánh tri. Oai nghi tiến
dừng, đi đứng, ngồi nằm, cất bước dừng chân cũng như thế. Những chỗ bước đi đều
nhìn xuống đất, nhẹ nhàng chánh niệm, hướng thẳng mà đi, vận động nói năng từng
không thô bạo.
Thiện Hiện! Bồ tát nào thành tựu các
hành động tướng trạng như thế, nên biết đó là đại Bồ tát Bất thối chuyển.
Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả đại Bồ
tát Bất thối chuyển đối với các vật thọ dụng như đồ nằm, y phục đều thường thơm
sạch, không có các mùi hôi, cũng không có chí rận dơ bẩn. Thân không tật bệnh,
tâm ưa thanh tịnh.
Thiện Hiện! Bồ tát nào thành tựu các
hành động tướng trạng như thế, nên biết đó là đại Bồ tát Bất thối chuyển.
Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả đại Bồ
tát Bất thối chuyển thân tâm thanh tịnh, không phải như thân thường nhân luôn
bị tám vạn hộ trùng xâm hại. Vì sao? Vì các đại Bồ tát này thiện căn tăng
thượng vượt khỏi thế gian, thọ thân hình trong ngoài thanh tịnh, nên không bị
các loại trùng xâm phạm. Thiện căn như thế lần lần tăng trưởng. Như vậy, thân
tâm càng thanh tịnh. Do đó thân tâm các Bồ tát này trở nên kiên cố như kim
cương, không bị nghịch duyên xâm hại. Đó là các thứ nóng lạnh, đói khát, muỗi
mòng, gió nắng, trùng độc, dao gậy và các trói buộc không thể xâm hại được.
Thiện Hiện! Bồ tát nào thành tựu các
hành động tướng trạng như thế, nên biết là đại Bồ tát Bất thối chuyển.
Cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ tát Bất thối
chuyển như thế làm sao thanh tịnh được thân, ngữ, ý?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Đại Bồ tát này thiện
căn như thế lần lần tăng trưởng. Như vậy, thanh tịnh thân, ngữ, ý. Do năng lực
thiện căn phát sanh nên đời vị lai tam ác nghiệp hoàn toàn được đoạn trừ. Vì
vậy, thường được thanh tịnh thân, ngữ, ý.
Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ tát
này hiện tại có diệu hạnh về ba việc của thân, bốn việc của ngữ, ba việc của ý,
nên luôn luôn thanh tịnh thân, ngữ, ý. Do sự thanh tịnh này nên vượt khỏi
bậc Thanh văn và Độc giác vào Bồ tát Chánh tánh ly sanh, không chứng thật tế,
thường muốn thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật. Do đó, thường được thanh
tịnh thân, ngữ, ý, trụ vào ngôi Bồ tát kiên cố bất động.
Thiện Hiện! Bồ tát nào thành tựu các
hành động tướng trạng như thế, nên biết đó là đại Bồ tát Bất thối chuyển.
Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả đại Bồ
tát Bất thối chuyển không trọng danh lợi. Đối với các thứ ăn uống, y
phục, đồ nằm, phòng nhà, của cải đều không tham đắm. Tuy thọ mười hai công đức
Đỗ đa (hạnh Đầu đà) nhưng không kiêu mạn, trong đó hoàn toàn không sanh
tâm tương ưng với xan tham, phá giới, giận dữ, lười nhác, tán loạn, ngu si và
các thứ phiền não ràng buộc khác.
Thiện Hiện! Bồ tát nào thành tựu các
hành tướng động trạng như thế, nên biết đó là đại Bồ tát Bất thối chuyển.
Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả đại
Bồ tát Bất thối chuyển có trí tuệ minh mẫn, giác ngộ sâu xa, lắng nghe Chánh
pháp, cung kính tin thọ, chánh niệm tư duy, nghĩa lý rốt ráo. Pháp thế gian và
xuất thế gian đã được nghe đều có phương tiện hội nhập nghĩa lý Bát nhã Ba la
mật sâu xa; tạo sự nghiệp thế gian cũng nương Bát nhã Ba la mật hội nhập pháp
tánh, không thấy một việc nào ra ngoài pháp tánh.
Thiện Hiện! Bồ tát nào thành tựu các
hành động tướng trạng như thế, nên biết đó là đại Bồ tát Bất thối chuyển.
Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả đại Bồ
tát Bất thối chuyển, dù có bị ác ma khuyến dụ hay dọa dẫm, tâm không động, cũng
không lo sợ nghi hoặc, chỉ suy nghĩ: Không có việc đại Bồ tát được thọ ký Bất
thối chuyển mà bị đọa địa ngục, bàng sanh, cõi quỷ, A tu la. Vì sao? Vì ngôi Bồ
tát Bất thối chuyển quyết định không có nghiệp thiện cũng không có nghiệp bất
thiện khiến rước lấy quả vui khổ. Chư Phật quyết định không nói lời dối gạt.
Như Lai nói ra điều gì đều mang lợi ích an vui cho tất cả hữu tình do tâm đại
từ bi lưu xuất.
Thiện Hiện! Bồ tát nào thành tựu các
hành động tướng trạng như thế, nên biết đó là đại Bồ tát Bất thối chuyển.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu có ác ma
giả dạng Sa môn đến chỗ Bồ tát nói như vầy: “Trước kia ông đã nghe: Nên tu bố
thí Ba la mật sẽ mau viên mãn; nên tu tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát
nhã Ba la mật sẽ mau viên mãn. Như vậy, cho đến nên chứng quả vị Vô Thượng
Chánh Đẳng Bồ đề. Đã nghe như thế đều là tà thuyết, nên mau bỏ, chớ bảo là chơn
thật. Lại nữa, trước kia ông đã nghe: Nên đối với tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng
Giác và các đệ tử ở quá khứ, vị lai, hiện tại từ sơ phát tâm cho đến pháp trụ,
trong đó có công đức thiện căn, đều sanh tùy hỷ nhóm hợp tất cả, ban cho hữu
tình một cách bình đẳng cùng nhau hồi hướng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Đã nghe như thế cũng là tà thuyết nên mau từ bỏ, đừng cho là chơn thật. Ta sẽ
dạy ông Phật pháp chơn thật mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Những
gì đã nghe trước kia chẳng phải lời chơn thật của Phật. Đó là văn tụng của
người soạn tập để dối gạt. Lời ta nói ra là lời chơn thật của Phật, làm cho ông
mau chứng sự mong cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề”.
Thiện Hiện! Đại Bồ tát nghe lời như
thế tâm động, nghi sợ, nên biết Bồ tát đó chưa được thọ ký Bất thối chuyển. Đối
với quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề còn do dự, chưa quyết định, chưa được gọi
là đại Bồ tát Bất thối chuyển.
Thiện Hiện! Đại Bồ tát nào nghe lời
như thế tâm không động, cũng không nghi sợ, chỉ theo pháp tánh vô tác, vô
tướng, vô sanh mà trụ. Đại Bồ tát này có làm việc gì đều không tin, không nghe
theo người khác mà tu bố thí Ba la mật; không tin, không nghe theo người khác
mà tu tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật. Cho đến không
tin, không nghe theo người khác mà hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Nên biết đại Bồ tát như thế đối với quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề sẽ được
Bất thối chuyển.
Thiện Hiện! Như bậc lậu tận A la hán
có làm việc gì đều không tin, không nghe lời người, chứng đắc pháp tánh không
lầm, không nghi, tất cả ác ma không khuynh đảo được. Như vậy, tất cả Thanh văn,
Độc giác, ngoại đạo, ác ma v.v... không thể phá hoại, đè dẹp tâm Bất thối
chuyển, khiến họ thối thất đạo Bồ đề.
Thiện Hiện! Đại Bồ tát này quyết
chắc đã trụ bậc Bất thối chuyển, sở hữu sự nghiệp đều tự suy nghĩ, không phải
tin người mà làm ngay. Cho đến lời dạy của Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác còn
không tín thọ, phụng hành ngay, huống nữa tin lời Thanh văn, Độc giác, ngoại
đạo, ác ma v.v... Không có việc các Bồ tát làm việc gì cũng tin người mà làm
theo. Vì sao? Thiện Hiện! Vì đại Bồ tát này không thấy có pháp có thể tin mà
hành. Vì sao? Thiện Hiện! Vì các Bồ tát này không thấy có sắc có thể tin mà
hành; không thấy có thọ, tưởng, hành, thức có thể tin mà hành. Cũng không thấy
có sắc như có thể tin mà hành; không thấy thọ, tưởng, hành, thức như có thể tin
mà hành. Như vậy, cho đến không thấy quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề có thể
tin mà hành, cũng không thấy quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề như có thể tin
mà hành.
Thiện Hiện! Bồ tát nào thành tựu các
hành động tướng trạng như thế, nên biết đó là đại Bồ tát Bất thối chuyển.
Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả đại Bồ
tát Bất thối chuyển, nếu có ác ma giả dạng Bí sô đến chỗ Bồ tát nói lời như
vầy: “Việc làm của các ông là pháp sanh tử, không phải việc làm của Bồ tát, do
đây sẽ không được Nhất thiết trí trí. Nay các ông nên tu đạo hết khổ, mau hết
khổ, chứng Niết bàn. Khi ấy ác ma thuyết pháp tương tự đạo sanh tử. Đó là quán
tưởng về chín giai đoạn tan rã của thây chết (cửu tưởng quán); hoặc bốn
tịnh lự, hoặc bốn vô lượng, hoặc bốn định vô sắc”. Ác ma lại bảo Bồ tát: “Đây
là chơn đạo, chơn hạnh. Ông dùng đạo này, hạnh này sẽ được quả Dự lưu cho đến
sẽ được quả Độc giác Bồ đề. Ông nhờ đạo này, hạnh này, nên mau dứt được sanh,
lão, bệnh, tử. Cần gì phải chịu khổ sanh tử lâu dài. Hãy tự nghĩ kỹ và bỏ những
gì đã tin trước kia”.
Thiện Hiện! Đại Bồ tát này khi nghe
lời ác ma nói tâm không động, cũng không kinh sợ, nghi hoặc, mà suy nghĩ như
vầy: Nay Bí sô này đem lợi ích cho ta, vì ta mà thuyết đạo pháp tương tự, làm
ta hiểu biết đạo này không chứng quả Dự lưu cho đến không chứng Độc giác Bồ đề
được, huống chi chứng được quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Đại Bồ tát này
suy nghĩ vậy rồi, rất vui mừng, lại suy nghĩ tiếp: Nay Bí sô này đem lợi ích cho
ta không ít, phương tiện vì ta thuyết pháp chướng đạo, làm ta hiểu biết pháp
chướng đạo nên đối với Tam thừa tự tại tu học.
Thiện Hiện! Khi ác ma kia lại nói
tiếp: “Khốn thay nam tử! Nay ông muốn thấy các đại Bồ tát hành việc vô ích
chăng? Đó là các chúng đại Bồ tát trải qua hằng hà sa số đại kiếp, lại đem vô
lượng thứ thượng diệu, y phục, thức ăn nước uống, đồ nằm, thuốc thang, của cải,
hoa hương, cúng dường cung kính, tôn trọng, ngợi khen hằng hà sa số chư Phật
Thế Tôn. Lại ở chỗ hằng hà sa số chư Phật, tu sáu pháp Ba la mật cho đến Nhất
thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Chúng đại Bồ tát này cũng thân
cận phụng sự hằng hà sa số chư Phật, ở chỗ chư Phật thỉnh hỏi đạo Vô thượng
Chánh đẳng giác, hỏi: Thế nào là đại Bồ tát an trụ đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ
đề? Thế nào là đại Bồ tát tu hành bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. An trụ pháp
nội không cho đến pháp vô tánh tự tánh không. An trụ chơn như cho đến cảnh giới
bất tư nghì. An trụ tất cả pháp Phật. Như lời chư Phật dạy bảo an trụ tu học
trải qua vô lượng kiếp, dõng mãnh tinh tấn, còn không chứng được sự mong cầu
quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, huống chi nay việc tu, việc học của các ông
mà chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề được ư”?
Thiện Hiện! Đại Bồ tát này dù nghe
lời ma kia nhưng tâm không đổi, không kinh, không sợ, không nghi, không lầm,
vui mừng gấp bội và nghĩ: Nay Bí sô này làm nhiều lợi ích cho ta, dùng phương
tiện vì ta thuyết pháp chướng đạo, làm ta biết pháp chướng đạo này quyết chắc
không chứng được quả Dự lưu cho đến không chứng được quả Độc giác Bồ đề, huống
chi chứng được sự mong cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Thiện Hiện! Khi ác ma kia biết tâm
Bồ tát này không thối lui, không lầm, không nghi, ngay đó giả dạng vô lượng Bí
sô bảo Bồ tát: “Các Bí sô chúng tôi ở quá khứ đều cần cầu quả vị Vô Thượng
Chánh Đẳng Bồ đề, trải qua vô lượng kiếp tu hành nhiều hạnh khó hành mà không
chứng được sự mong cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, nay đều lui chứng quả
A la hán, các lậu đã hết không còn khổ nữa, các ông làm sao chứng được quả vị
Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề”.
Thiện Hiện! Đại Bồ tát này thấy nghe
như vậy rồi, liền suy nghĩ: Quyết chắc là ác ma giả dạng những Bí sô này đến
nhiễu loạn tâm ta, thuyết đạo pháp chướng ngại tương tự; chắc chắn không có đại
Bồ tát nào tu hành Bát nhã Ba la mật đến ngôi viên mãn, mà không chứng quả vị
Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, lại rơi vào bậc Thanh văn hoặc Độc giác.
Bấy giờ, Bồ tát lại suy nghĩ tiếp:
Chắc chắn không có việc đại Bồ tát tu hành sáu pháp Ba la mật, đến ngôi viên
mãn mà không chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Cho đến chắc chắn không
có việc tu hành Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí đến ngôi
viên mãn mà không chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Thiện Hiện! Bồ tát nào thành tựu các
hành động tướng trạng như thế, nên biết đó là đại Bồ tát Bất thối chuyển.
Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả đại Bồ
tát Bất thối chuyển luôn suy nghĩ như vầy: Đại Bồ tát nào như lời chư Phật dạy,
tinh tấn tu học, thường chẳng xa lìa tác ý tương ưng sở nhiếp diệu hạnh bố thí,
tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật; thường chẳng xa lìa
tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí; thường đem phương tiện khuyên dẫn các hữu
tình tinh siêng tu học bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã
Ba la mật. Đại Bồ tát này quyết định chẳng lui sáu Ba la mật, cho đến quyết
định chẳng lui Nhất thiết tướng trí, tất chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề”.
Thiện Hiện! Bồ tát nào thành tựu các
hành động tướng trạng như thế, nên biết đó là đại Bồ tát Bất thối chuyển.
Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả đại Bồ
tát Bất thối chuyển luôn suy nghĩ như vầy: Bồ tát nào hiểu biết ma sự, không
theo ma sự; hiểu biết bạn ác, không theo lời bạn ác; hiểu biết cảnh giới, không
theo cảnh giới chuyển. Bồ tát này quyết định không thối lui sáu pháp Ba la mật.
Cho đến quyết định không thối lui Nhất thiết tướng trí, chắc chắn chứng quả vị
Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Thiện Hiện! Bồ tát nào thành tựu các
hành động tướng trạng như thế, nên biết đó là đại Bồ tát Bất thối chuyển.
Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả đại Bồ
tát Bất thối chuyển nghe Phật Thế Tôn thuyết pháp yếu, sanh tâm vui mừng, cung
kính, tin thọ, hiểu biết ý nghĩa rốt ráo, tâm kiên cố hơn kim cương, không thể
lay chuyển, không thể tước đoạt. Thường tinh tấn tu học sáu pháp Ba la mật, tâm
không nhàm chán, cũng khuyên người khác học sáu pháp Ba la mật, tâm không mệt
mỏi.
Thiện Hiện! Bồ tát nào thành tựu các
hành động tướng trạng như thế, nên biết đó là đại Bồ tát Bất thối chuyển. (Q.448, ĐBN)
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa
Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ tát Bất thối
chuyển này chỉ gọi là bất thối chuyển hay cũng gọi là thối chuyển?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Đại Bồ tát Bất thối
chuyển này, gọi là bất thối chuyển, cũng được gọi là thối chuyển.
Cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ tát Bất thối
chuyển này, vì sao được gọi là bất thối chuyển, vì sao cũng được gọi là thối
chuyển?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Đại Bồ tát Bất thối
chuyển này, chắc chắn không lui lại bậc Thanh văn, Độc giác v.v... quyết chứng
được quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Do nhân duyên này gọi là bất thối
chuyển. Nhưng đối với các pháp có tưởng thối chuyển, nên cũng được gọi
là thối chuyển.
Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ tát này đối
với pháp nào có tưởng thối chuyển mà cũng gọi là thối chuyển?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Đại Bồ tát này đối
với sắc có tưởng thối chuyển nên cũng gọi là thối chuyển; đối với thọ,
tưởng, hành, thức có tưởng thối chuyển nên cũng gọi là thối chuyển. Đối với
mười hai xứ mười tám giới có tưởng thối chuyển nên cũng gọi là thối chuyển. Đối
với sáu xúc có tưởng thối chuyển nên cũng gọi là thối chuyển. Đối với các thọ
do sáu xúc làm duyên sanh ra có tưởng thối chuyển nên cũng gọi là thối chuyển.
Đối với tham, sân, si có tưởng thối chuyển nên cũng gọi là thối chuyển. Đối với
các kiến thú có tưởng thối chuyển nên cũng gọi là thối chuyển. Đối với sáu pháp
Ba la mật có tưởng thối chuyển nên cũng gọi là thối chuyển. Đối với mười tám
pháp không có tưởng thối chuyển nên cũng gọi là thối chuyển. Đối với chơn như
có tưởng thối chuyển nên cũng gọi là thối chuyển. Nói rộng ra, cho đến đối với
tất cả pháp Phật có tưởng thối chuyển nên cũng gọi là thối chuyển. Đối với các
dị sanh (phàm phu), Thanh văn, Độc giác, Bồ tát và Phật có tưởng thối
chuyển nên cũng gọi là thối chuyển. (Q.449,
ĐBN)
Nếu, Đại Bồ tát Bất thối chuyển này
dùng tự tướng không để quán tất cả pháp. Đã vào ngôi Chánh tánh ly sanh của Bồ
tát, cho đến chẳng thấy chút pháp nào có thể đắc. Vì bất khả đắc nên không tạo
tác. Vì không tạo tác nên rốt ráo chẳng sanh. Vì rốt ráo không sanh nên gọi là
vô sanh pháp nhẫn. Do chứng được vô sanh pháp nhẫn này nên gọi là Đại Bồ tát
Bất thối chuyển. (Q.449, ĐBN)
Thiện Hiện! Bồ tát nào thành tựu các
hành tướng trạng như thế, nên biết đó là đại Bồ tát Bất thối chuyển.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có những ác ma
đến chỗ đại Bồ tát này muốn làm cho Bồ tát nhàm chán bỏ quả vị Vô Thượng Chánh
Đẳng Bồ đề, nói với Bồ tát: Nhất thiết trí trí ngang bằng với hư không, tự
tướng vốn không, lấy vô tánh làm tánh. Các pháp cũng vậy, tự tướng vốn không,
lấy vô tánh làm tánh, ngang bằng với hư không, như vậy tất cả ngang cùng hư
không. Trong tánh tướng không ấy, không có pháp nào được gọi là năng chứng,
cũng không pháp nào có thể gọi là sở chứng, chỗ chứng, thời chứng và do đây mà
chứng, tất cả đều bất khả đắc. Biết tánh tướng tất cả pháp đều không và ngang
bằng với hư không rồi, vì sao các ông luống chịu khổ cực cần cầu quả vị Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Trước đây, các ông đã nghe các chúng Bồ tát cần cầu
quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, đều là lời ma nói, chẳng phải lời Phật. Các
ông nên bỏ đại nguyện Bồ đề, đừng vì lợi lạc của tất cả hữu tình mà tự chịu khổ
cực lâu dài. Dù hành các thứ khổ hạnh khó hành mong cầu Bồ đề nhưng rốt cuộc
không thể đắc, vì sao các ông luống chịu nhọc nhằn?
Thiện Hiện! Khi nghe những lời quở
trách này rồi, các đại Bồ tát này luôn quán sát suy nghĩ kỹ lời nói của ác ma
này: Họ muốn phá hoại và làm thối lui tâm Bồ đề của ta. Ta nay chẳng nên tin
nhận lời họ nói. Mặc dù tất cả pháp ngang đồng với hư không, tánh tướng đều
không. Nhưng các hữu tình chẳng biết, chẳng thấy chịu nhiều kiếp sanh tử, do
điên đảo buông lung nên chịu nhiều khổ não. Ta phải mang giáp mũ công đức: Tánh
tướng đều không như hư không, mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, vì
các hữu tình thuyết pháp tương ưng khiến họ giải thoát khổ lớn sanh tử, chứng
được quả Dự lưu, hoặc quả Nhất lai, hoặc quả Bất hoàn, hoặc quả A la hán, hoặc
Độc giác Bồ đề, hoặc chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Thiện Hiện! Bồ tát này từ sơ phát
tâm đã nghe pháp đây, nơi tâm kiên cố chẳng lay chẳng chuyển. Nương vào tâm kiên
cố chẳng lay chuyển này luôn tu hành đúng bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn,
tịnh lự, Bát nhã Ba la mật. Do sáu Ba la mật này, vị ấy viên mãn theo từng
phần. Nhập vào ngôi Bồ tát Chánh tánh ly sanh, lại chính tu hành bố thí, tịnh
giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật. Do đây được trụ bậc Bất
thối chuyển. Vậy nên, các ác ma dù làm các phương tiện để thối hoại mà chẳng
thể thối Bồ đề tâm mà Bồ tát phát nguyện.
Thiện Hiện! Đại Bồ tát này vượt các
bậc Thanh văn, Độc giác v.v… tất cả ma sự chẳng thể thối chuyển sở cầu Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, nên gọi tên Bất thối chuyển. Xa lìa tất cả sở chấp hư
vọng phân biệt các pháp bậc Nhị thừa đây, nên cũng gọi tên Thối chuyển. Nên Bồ
tát đây được hai thứ tên, chẳng phải như các ngôi khác chỉ có tên thối chuyển.
Thiện Hiện! Bồ tát nào thành tựu các
hành động tướng trạng như thế, nên biết đó là đại Bồ tát Bất thối chuyển.
Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả đại Bồ
tát Bất thối chuyển muốn nhập vào sơ tịnh lự cho đến đệ tứ tịnh lự liền tùy ý
vào ngay. Muốn nhập vào Từ vô lượng cho đến Xả vô lượng liền tùy ý vào ngay.
Muốn nhập vào định Không vô biên xứ cho đến định Phi tưởng phi phi tưởng xứ
liền tùy ý vào ngay. Muốn nhập vào ba mươi bảy pháp trợ đạo liền vào ngay. Muốn
nhập vào sơ giải thoát cho đến diệt tưởng thọ giải thoát liền tùy ý vào ngay.
Muốn nhập vào sơ thắng xứ cho đến thắng xứ thứ tám liền tùy ý vào ngay. Muốn
nhập vào định sơ tịnh lự cho đến định diệt thọ tưởng liền tùy ý vào được ngay.
Muốn nhập vào sơ biến xứ cho đến biến xứ thứ mười liền tùy ý vào ngay. Muốn
nhập vào ba pháp môn giải thoát liền tùy ý vào ngay. Muốn phát khởi năm thần
thông liền tùy ý phát khởi.
Thiện Hiện! Đại Bồ tát này tuy nhập
vào bốn tịnh lự cho đến phát khởi năm thần thông nhưng chẳng thọ quả ấy. Do
nhân duyên này nên chẳng theo tịnh lự, vô lượng mà sanh, cho đến thế lực của
diệt định và các công đức khác mà sanh. Cũng chẳng chứng quả Dự lưu, hoặc quả
Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, hoặc Độc giác Bồ đề. Vì muốn lợi lạc các hữu tình
nên tùy theo ý muốn thọ thân ở nơi nào thì sở nguyện ấy đều được như ý.
Thiện Hiện! Bồ tát nào thành tựu các
hành động tướng trạng như thế, nên biết đó là đại Bồ tát Bất thối chuyển.
Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả đại Bồ
tát Bất thối chuyển thành tựu tác ý Vô thượng Bồ đề, luôn không xa lìa tâm Bồ
đề. Chẳng ưa chuộng sắc, chẳng ưa chuộng thọ, tưởng, hành, thức. Chẳng quý
trọng mười hai xứ cho đến mười tám giới. Chẳng quý trọng nhãn xúc cho đến ý
xúc. Chẳng quý trọng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cho đến các thọ do ý
xúc làm duyên sanh ra. Chẳng quý trọng các tướng, chẳng quý trọng chỗ nương
tựa, chẳng quý trọng bạn giúp đỡ. Chẳng quý trọng bố thí cho đến Bát nhã Ba la
mật. Chẳng quý trọng mười tám không. Chẳng quý trọng chơn như cho đến bất tư
nghì giới. Chẳng quý trọng bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định. Chẳng
quý trọng bốn niệm trụ cho đến tám Thánh đạo chi. Chẳng quý trọng tám giải
thoát, tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ. Chẳng quý trọng không, vô
tướng, vô nguyện giải thoát môn. Chẳng quý trọng bốn Thánh đế. Chẳng quý trọng
thập địa. Chẳng quý trọng năm nhãn, sáu thần thông. Chẳng quý trọng Phật mười
lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Chẳng quý trọng pháp vô vong thất,
tánh hằng trụ xả. Chẳng quý trọng Đà la ni, Tam ma địa môn. Chẳng quý trọng
Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Chẳng quý trọng Thanh văn
địa, Độc giác địa, Bồ tát địa, Như Lai địa. Chẳng quý trọng thành thục hữu
tình, nghiêm tịnh cõi Phật. Chẳng quý trọng tất cả Bồ tát hạnh, chư Phật Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Chẳng quý trọng thấy nhiều chư Phật. Chẳng quý trọng
sự gieo trồng các căn lành. Vì sao? Thiện Hiện! Vì đại Bồ tát này hiểu rõ
tất cả pháp: Tánh tướng đều không, ngang bằng với hư không và hoàn toàn bất khả
đắc. Chẳng thấy có pháp nào để sanh quý trọng. Năng sanh, sở sanh, thời sanh, chỗ
sanh hay do đây mà sanh đều chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tất
cả pháp này ngang bằng với hư không, tự tướng vốn không, lấy vô tánh làm tánh.
Thiện Hiện! Đại Bồ tát này thành tựu
tác ý Vô thượng Bồ đề, thường chẳng xa lìa tâm Bồ đề. Bốn oai nghi của thân, ra
vào qua lại, đưa chân cất bước, tâm không tán loạn, oai nghi đi đứng ngồi nằm
tiến dừng thao tác, làm việc đều trụ trong chánh niệm.
Thiện Hiện! Bồ tát nào thành tựu các
hành động tướng trạng như thế, nên biết đó là đại Bồ tát Bất thối chuyển.
Lại nữa, Thiện Hiện! Vì muốn làm lợi
ích cho các hữu tình, nên phương tiện thiện xảo thị hiện sống tại gia như người
thường, dù hưởng thụ năm thứ dục lạc nhưng trong ấy chẳng sanh đắm nhiễm, đều
vì giúp ích cho các hữu tình. Nghĩa là vì các hữu tình cần ăn cho ăn, cần uống
cho uống, cần y cho y, cần xe cho xe. Cho đến tất cả vật chất cần dùng đều cung
cấp đầy đủ để họ được như ý.
Thiện Hiện! Đại Bồ tát này tự hành
bố thí Ba la mật, cũng khuyên người hành bố thí Ba la mật, thường khen ngợi
pháp hành bố thí Ba la mật, hoan hỷ tán thán người hành bố thí Ba la mật. Cho
đến tự hành Bát nhã Ba la mật, cũng khuyên người hành Bát nhã Ba la mật, thường
khen ngợi pháp hành Ba la mật, hoan hỷ tán thán người hành Bát nhã Ba la mật.
Thiện Hiện! Đại Bồ tát này thị hiện
sống tại gia, dùng sức thần thông, hoặc năng lực đại nguyện nắm giữ các thứ của
cải bảy báu đầy cả châu Thiệm bộ, cho đến đầy thế giới Tam thiên đại thiên,
dùng để cúng dường Phật, Pháp, Tăng bảo và bố thí cho các hữu tình nghèo khổ.
Thiện Hiện! Đại Bồ tát này thị hiện
ở tại gia, nhưng thường tu phạm hạnh, quyết không thọ dụng các cảnh dục lạc.
Tuy đang hưởng thụ các thứ quí báu, nhưng trong ấy chẳng sanh đắm nhiễm. Vả lại
với khi nhiếp thọ các đồ dục lạc và của báu, trọn chẳng bức bách các loại hữu
tình khiến sanh sầu khổ.
Thiện Hiện! Bồ tát nào thành tựu các
hành động tướng trạng như thế, nên biết đó là đại Bồ tát Bất thối chuyển.
Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả đại Bồ
tát Bất thối chuyển được thần Dược xoa cầm chày kim cang thường âm thầm theo
hai bên gia hộ, nghĩ: Đại Bồ tát này chẳng bao lâu sẽ chứng quả vị Vô Thượng
Chánh Đẳng Bồ đề. Ta nguyện luôn âm thầm theo hộ vệ, cho đến khi vị ấy chứng
quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, thường có năm bộ thần cầm chày kim cang theo
sát bảo vệ không lúc nào rời bỏ. Loài phi nhơn v.v… không thể hại được, các
trời Ma Phạm và các thế gian cũng không ai có thể dùng phép phá hoại tâm Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Do nhân duyên này, cho đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng
Bồ đề thân tâm an ổn thường không rối loạn. Năm căn thế gian của đại Bồ tát này
thường không khuyết giảm, đó là mắt, tai, mũi, lưỡi và thân. Năm căn xuất thế
gian gồm lòng tín, tinh tấn, niệm, định, tuệ cũng không khuyết giảm. Thân thể
của đại Bồ tát này viên mãn, tướng hảo trang nghiêm. Các công đức của tâm niệm
tăng tiến cho đến chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Thiện Hiện! Bồ tát nào thành tựu các
hành động tướng trạng như thế, nên biết đó là đại Bồ tát Bất thối chuyển.
Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả đại
Bồ tát Bất thối chuyển thường làm thượng sĩ, chẳng làm hạ sĩ.
Cụ thọ Thiện Hiện thưa:
- Bạch Thế Tôn! Vì sao nói đại Bồ
tát này thường làm thượng sĩ, chẳng làm hạ sĩ?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Tất cả phiền não của
đại Bồ tát này không còn hiện tiền, công đức tăng tiến trong từng sát na cho
đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Bất cứ lúc nào tâm cũng không tán loạn.
Thế nên, ta nói thường làm thượng sĩ, chẳng làm hạ sĩ.
Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ tát này
thành tựu tác ý Vô thượng Bồ đề, thường không xa lìa tâm Bồ đề. Luôn tu thanh
tịnh thân mạng, không hành chú thuật, y dược, xem bói và các việc tà mạng.
Chẳng dùng chú thuật của các quỷ thần nhập vào nam nữ hỏi điềm tốt xấu; cũng
chẳng dùng chú cấm cho nam nữ lớn nhỏ, bàng sanh, quỷ thảy hiện ra việc hiếm
có. Cũng chẳng xem tướng, tuổi thọ dài ngắn, tiền tài, địa vị và các việc thiện
ác. Cũng chẳng đoán trước lạnh nóng, được mùa mất mùa, lành dữ tốt xấu làm não
loạn mê hoặc hữu tình. Cũng chẳng dùng chú cấm hòa hợp thuốc thang, trị bệnh tà
đạo, kết hảo với quý nhân. Cũng không vì người làm sứ mạng thông giao, hiện
tướng thân hữu, theo lợi cầu danh. Chẳng nhiễm tâm nhìn ngắm nam nữ, nói cười
đùa giỡn, huống có những việc khác. Cũng chẳng cung kính cúng dường quỷ thần.
Thế nên ta nói thường làm thượng sĩ, chẳng làm hạ sĩ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì
đại Bồ tát này biết tất cả pháp tánh tướng đều không, trong tánh tướng không
ấy, không thấy có tướng. Vì không thấy tướng nên xa lìa các tội tà mạng,
chú thuật, y dược, xem tướng; chỉ cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, thường
làm lợi ích cho các hữu tình mà thôi.
Thiện Hiện! Bồ tát nào thành tựu các
hành động tướng trạng như thế, nên biết đó là đại Bồ tát Bất thối chuyển.
Lại nữa, Thiện Hiện! đối với các văn
chương, kỹ nghệ thế gian, tất cả đại Bồ tát Bất thối chuyển tuy rất thiện xảo
nhưng chẳng ưa đắm. Vì sao? Thiện Hiện! Vì đại Bồ tát này thấu rõ tánh tướng
tất cả pháp đều không. Trong tánh tướng không này, thế gian có được bao thứ văn
chương kỹ nghệ đều chẳng nắm bắt được. Vả lại văn chương, kỹ nghệ thế gian đều
là thứ tạp uế, thuộc về tà mạng. Thế nên Bồ tát biết mà chẳng làm.
Thiện Hiện! Đại Bồ tát này tuy biết
rất giỏi thơ luận thế tục, ngoại đạo, nhưng chẳng đắm trước. Vì sao? Thiện
Hiện! Vì đại Bồ tát này thấu rõ tất cả pháp đều rốt ráo không. Trong rốt ráo
không ấy, tất cả thơ luận đều chẳng nắm bắt được. Vả lại, phần nhiều sự lý đã
nói trong các thơ luận của thế tục và ngoại đạo có thêm bớt, không phù hợp Bồ
tát đạo, đều thuộc vào những lời hý luận tạp uế, nên các Bồ tát biết mà chẳng
ưa.
Thiện Hiện! Bồ tát nào thành tựu các
hành động tướng trạng như thế, nên biết đó là đại Bồ tát Bất thối chuyển.
Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả đại Bồ
tát Bất thối chuyển còn có những hành động tướng trạng khác nữa để nhận biết.
Ta sẽ phân biệt giải nói. Ông hãy lắng nghe, suy nghĩ cho kỹ.
Thiện Hiện thỉnh:
- Cúi xin Đức Thế Tôn nói cho. Đại
chúng, chúng con dốc lòng muốn nghe!
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Tất cả đại Bồ tát Bất
thối chuyển tu hành Bát nhã Ba la mật hiểu rõ các pháp đều vô sở hữu, nhưng
không xa lìa tác ý Bồ đề. Chẳng ưa xem xét luận nói về các uẩn, xứ, giới.
Vì sao? Vì đại Bồ tát đối với lý uẩn, xứ, giới, tánh tướng đều không, đã suy
nghĩ rốt ráo và thông suốt hoàn toàn. Đại Bồ tát này chẳng ưa xem xét luận
nói về việc quần chúng. Vì sao? Vì đối với tất cả quần chúng, tánh tướng
đều không, Đại Bồ tát này đã suy nghĩ rốt ráo và thông suốt rốt ráo. Đại Bồ tát
này chẳng ưa xem xét luận nói về việc vua. Vì sao? Vì đại Bồ tát
này trụ bản tánh không, chẳng thấy có chút pháp nào có tướng hơn thua sang hèn.
Đại Bồ tát này chẳng muốn xem xét luận nói về việc giặc. Vì sao?
Vì đại Bồ tát này trụ tự tướng không, chẳng thấy chút pháp có tướng được mất,
ban cho hay cướp đoạt. Đại Bồ tát này chẳng muốn xem xét luận nói về việc
quân. Vì sao? Vì đại Bồ tát này trụ bản tánh không, không thấy tướng các
pháp có nhiều có ít nhóm tan vậy. Đại Bồ tát này chẳng muốn xem xét luận nói
về việc chiến tranh. Vì sao? Vì đại Bồ tát này an trụ hoàn toàn vào chơn
như tất cả pháp không, chẳng thấy chút pháp tướng có mạnh yếu thương giận. Đại
Bồ tát này chẳng muốn xem xét luận nói về việc thành ấp. Vì sao? Vì đại
Bồ tát này trụ vào không của hư không giới, chẳng thấy chút pháp tướng có thuộc
chẳng thuộc, tốt hay xấu. Đại Bồ tát này chẳng muốn xem xét luận nói về
chuyện xóm làng. Vì sao? Vì đại Bồ tát này trụ tất cả pháp không, chẳng
thấy có chút pháp tướng có thêm có bớt hợp lìa vậy. Đại Bồ tát này chẳng
muốn xem xét luận nói về việc quốc độ. Vì sao? Vì đại Bồ tát này an trụ
thật tế, chẳng thấy tướng các pháp có nhiếp thuộc chẳng nhiếp thuộc đây kia
vậy.
Thiện Hiện! Đại Bồ tát này chẳng
muốn xem xét luận nói về việc của ta, hữu tình cho đến người biết, người thấy.
Vì sao? Vì đại Bồ tát này trụ rốt ráo không, hoàn toàn không thấy tướng sai
khác của ta cho đến người thấy hoặc có, hoặc không.
Thiện Hiện! Đại Bồ tát này chẳng
muốn xem xét luận nói về việc tướng hảo. Vì sao? Vì đại Bồ tát này hoàn
toàn an trụ vô tướng, không thấy các pháp có tướng đẹp, tướng xấu khác nhau.
Thiện Hiện! Đại Bồ tát này chẳng
muốn xem xét luận nói về việc thế gian như vậy v.v... chỉ ưa xem xét luận nói
về Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Vì Bát Nhã thâm sâu, xa lìa các tướng, chứng được
quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. (Q.
449. ĐBN)
Thiện Hiện! Bồ tát này thường không
xa lìa tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí, tu hành bố thí Ba la mật, lìa xan
tham. Tu hành tịnh giới Ba la mật, lìa phá giới. Tu hành an nhẫn Ba la mật, lìa
giận dữ. Tu hành tinh tấn Ba la mật, lìa biếng nhác. Tu hành tịnh lự Ba la mật,
lìa tán loạn, dao động. Tu hành Bát nhã Ba la mật, lìa ác tuệ.
Thiện Hiện! Đại Bồ tát này tuy hành
tất cả pháp là không nhưng ưa muốn Chánh pháp, chẳng ưa phi pháp, hằng nguyện
làm lợi ích cho tất cả hữu tình.
Thiện Hiện! Đại Bồ tát này tuy hành
bất khả đắc không, nhưng thường khen ngợi công đức Tam bảo, làm lợi ích an vui
cho tất cả hữu tình.
Thiện Hiện! Đại Bồ tát này tuy hành
tướng chơn như các pháp và pháp giới đồng một vị, nhưng thích khen ngợi các
loại công đức của chơn như, pháp giới.
Thiện Hiện! Đại Bồ tát này biết các
pháp rốt ráo đều không, nhưng lại mến bạn lành, chẳng mến bạn ác. Bạn lành là
chư Phật, Bồ tát, hoặc các Thanh văn, Độc giác thừa v.v... có thể giáo hóa và
an lập hữu tình một cách hoàn hảo, khiến họ hướng tới quả vị Vô Thượng Chánh
Đẳng Bồ đề nên cũng gọi là bạn lành.
Thiện Hiện! Đại Bồ tát này thường ưa
gần gũi tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, nếu nghe Như Lai Ứng Chánh Đẳng
Giác ở thế giới khác liền dùng nguyện lực sanh qua thế giới ấy, cúng dường cung
kính, tôn trọng ngợi khen, lắng nghe và lãnh thọ chánh pháp.
Thiện Hiện! Đại Bồ tát này hoặc
ngày, hoặc đêm thường không xa lìa tác ý niệm Phật, thường không xa lìa tác ý
nghe pháp. Do nhân duyên này dù đức Phật Thế Tôn hiện đang thuyết chánh pháp ở
quốc độ nào, vị ấy liền nương vào nguyện lực sanh đến nước đó, hoặc dùng thần
thông đến đó nghe pháp. Do nhân duyên ấy mà các Bồ tát này đời đời kiếp kiếp dù
sanh đến chỗ nào cũng chẳng xa Phật, thường được nghe chánh pháp không gián
đoạn.
Thiện Hiện! Đại Bồ tát này luôn vì
lợi lạc các hữu tình, nên dù thường hiện khởi sơ tịnh lự cho đến định Phi tưởng
phi phi tưởng xứ nhưng vẫn phương tiện thiện xảo khởi sanh tâm về cõi Dục, để
dạy mười thiện nghiệp đạo cho các hữu tình, cũng tùy theo nguyện lực sanh vào
quốc độ hiện có đức Phật thuộc cõi Dục để cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi
khen chư Phật Thế Tôn và lắng nghe chánh pháp, tu các hạnh thù thắng.
Thiện Hiện! Bồ tát nào thành tựu các
hành động tướng trạng như thế, nên biết đó là đại Bồ tát Bất thối chuyển.
Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả đại Bồ
tát Bất thối chuyển thường tu bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Thường hành
pháp nội không cho đến pháp vô tính tự tính không. Thường hành chơn như cho đến
cảnh giới bất tư nghì. Thường hành Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo. Thường tu bốn
niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo. Thường tu bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn
định vô sắc. Thường tu tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến
xứ. Thường tu pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Thường tu năm
loại mắt, sáu phép thần thông. Thường tu tất cả pháp môn Đà la ni, Tam ma địa.
Thường tu Phật mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Thường tu pháp
không quên mất, tánh luôn luôn xả. Thường tu Nhất thiết trí, Đạo tướng trí,
Nhất thiết tướng trí. Thường tu Bồ tát hạnh. Thường tu quả vị Vô Thượng Chánh
Đẳng Bồ đề.
Thiện Hiện! Đại Bồ tát này thường
đối với tự địa(4) mình tu không khởi nghi: Ta là bậc Bất thối chuyển, ta không
phải bậc Bất thối chuyển. Vì sao? Vì đại Bồ tát này chẳng thấy có chút pháp nào
để nói là có thối chuyển, hoặc không thối chuyển đối với quả vị Vô Thượng Chánh
Đẳng Bồ đề.
Thiện Hiện! Đại Bồ tát này đối pháp
tự địa không lầm không nghi. Vì sao? Vì đại Bồ tát này đối với pháp tự địa đã
hiểu một cách rốt ráo, đã thông suốt hoàn toàn.
Thiện Hiện! Như bậc Dự lưu trụ quả
Dự lưu không nghi hoặc đối với pháp của chính quả ấy; bậc Nhất lai, Bất hoàn, A
la hán, Độc giác, Bồ tát và các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều trụ quả của
riêng mình và cũng không nghi hoặc đối với pháp của chính quả ấy. Đại Bồ tát
này cũng như vậy, đối với các pháp thuộc địa vị Bất thối chuyển mà chính vị ấy
đang trụ thì biết rõ, thấy rõ, không còn mê hoặc nghi ngờ.
Thiện Hiện! Đại Bồ tát trụ trong địa
vị này để thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, tu các công đức. Nếu có
việc ma khởi lên liền được giác tri nhưng không theo thế lực của việc ma mà
chuyển đổi. Có thể đánh dẹp hoàn toàn các việc ma làm cho công đức tu hành
không bị chướng ngại.
Thiện Hiện! Như có người tạo nghiệp
vô gián, tâm vô gián kia luôn đeo đuổi vị ấy cho đến lúc mạng chung cũng chẳng
rời bỏ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì nó hay phát sanh để tạo nghiệp vô gián, do thế
lực tăng thêm, nên chuyển biến cho đến khi qua đời cũng không thể chế phục nổi.
Giá như có tâm tốt khác cũng không thể ngăn chặn được. Đại Bồ tát này cũng như
thế, khi an trụ địa vị tự chứng, tâm chẳng dao động và không có sự phân biệt,
nên không bị trời, người, A tu la v.v... trong thế gian xoay chuyển được. Vì sao?
Thiện Hiện! Vì tâm đại Bồ tát này vững vàng, vượt qua trời, người, Ma vương,
Phạm thiên vương, A tu la v.v... trong thế gian, đã nhập vào ngôi Chánh tánh ly
sanh của Bồ tát, trụ bậc Bất thối, đã được thần thông thù thắng của Bồ tát để
thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật. Từ cõi Phật này đến cõi Phật khác,
cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen chư Phật Thế Tôn và các đệ tử Phật,
lắng nghe chánh pháp, ở chỗ chư Phật gieo trồng căn lành, thỉnh hỏi pháp nghĩa
mà Bồ tát đã học.
Thiện Hiện! Đại Bồ tát này an trụ
địa vị tự chứng tu hành Bát nhã Ba la mật và các pháp lành. Nếu có việc ma hiện
ra liền biết, quyết không chuyển đổi, dùng phương tiện thiện xảo diệt trừ, còn
đối với pháp tự chứng cũng không mê hoặc, nghi ngờ. Vì sao? Vì đại Bồ tát này
biết tất cả pháp đều vào thật tế, thông suốt thật tế chẳng phải một, chẳng phải
nhiều. Ở trong thật tế không có sự phân biệt, vì không còn mê hoặc, nghi ngờ
đối với thật tế, đối với pháp tự chứng cũng không còn do dự.
Thiện Hiện! Nếu có chuyển thân thọ
sanh thì đại Bồ tát này cũng chẳng thối lui đối với thật tế, quyết không phát
khởi tâm hướng tới Thanh văn, Độc giác. Vì sao? Vì đại Bồ tát này biết tự tướng
tất cả pháp đều không. Trong cái không này, chẳng thấy có pháp nào hoặc sanh,
hoặc diệt, hoặc nhiễm, hoặc tịnh.
Thiện Hiện! Cho đến khi chuyển thân
đại Bồ tát này cũng chẳng nghi ngờ: Ta sẽ được quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ
đề hay không được. Vì sao? Vì đại Bồ tát này thông suốt tự tướng tất cả pháp
đều không, tức là quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Thiện Hiện! Đại Bồ tát này an trụ
địa vị tự chứng chẳng theo duyên bên ngoài. Đối với pháp tự chứng không ai có
thể phá hoại được. Vì sao? Vì đại Bồ tát này thành tựu trí không dao động, trí
không thối chuyển, tất cả ác duyên không thể khuynh đảo được.
Thiện Hiện! Nếu có ác ma giả hình
tướng Phật đi đến chỗ Bồ tát này mà nói: “Nay ông nên cầu quả A la hán, chấm
dứt các lậu, chứng nhập Niết bàn. Ông chưa được thọ ký đại Bồ đề, cũng chưa
chứng được vô sanh pháp nhẫn. Nay ông chưa thành tựu đủ các bậc Bất thối chuyển,
Như Lai không thể thọ ký Vô thượng Bồ đề cho ông. Ông phải thành tựu đủ các bậc
Bất thối chuyển mới có thể mong chư Phật thọ ký Vô thượng Bồ đề”.
Thiện Hiện! Đại Bồ tát này nghe
những lời này rồi, tâm không thay đổi, không thối lui, không sửng sốt, không sợ
hãi. Đại Bồ tát này phải tự chứng biết: Chắc chắn ta đã được chư Phật Thế Tôn
trong quá khứ thọ ký. Vì sao? Vì Bồ tát đã thành tựu các thắng pháp như vậy thì
nhất định chư Phật Thế Tôn sẽ thọ ký đại Bồ đề.
Thiện Hiện! Đối với đại Bồ tát này,
nếu có ác ma hoặc sứ giả ma giả làm Phật đến chỗ Bồ tát này và thọ ký bậc Thanh
văn cho Bồ tát, hoặc thọ ký bậc Độc giác cho Bồ tát, bảo Bồ tát: Thiện nam tử!
Ông cần gì quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề mà chịu khổ lớn lâu dài, luân hồi
sanh tử, hãy mau chứng vô dư Niết bàn, hãy chấm dứt sanh tử, an vui rốt ráo.
Đại Bồ tát nghe lời ấy rồi, bèn nghĩ: Chắc chắn đây là ác ma hoặc sứ giả của ma
giả làm Phật để quấy nhiễu tâm ta, thọ ký cho ta bậc Thanh văn và Độc giác,
khiến ta thối lui quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì sao? Vì nhất định không
có chư Phật nào dạy các Bồ tát hướng tới Thanh văn hoặc bậc Độc giác mà lìa bỏ
quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Thiện Hiện! Đối với đại Bồ tát này,
nếu có ác ma hoặc sứ giả của ma giả hình tướng Phật nói với Bồ tát: “Kinh điển
Đại thừa mà ông đã thọ trì chẳng phải Phật thuyết, cũng chẳng phải đệ tử Phật
thuyết. Đó là các ác ma, hoặc các ngoại đạo vì dối gạt ông nên nói như thế. Ông
không nên thọ trì, đọc tụng”. Đại Bồ tát này nghe lời ấy rồi, bèn nghĩ: Chắc
chắn đây là ác ma hay quyến thuộc của ma khiến ta chán bỏ quả vị Vô Thượng
Chánh Đẳng Bồ đề đã cầu, nên nói Kinh điển Đại thừa sâu xa kia chẳng phải Phật
thuyết, cũng không phải đệ tử Như Lai đã thuyết. Vì sao? Vì lìa Kinh điển này
mà có thể chứng được quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thì chắc chắn không có
lẽ đó.
Thiện Hiện nên biết: Đại Bồ tát này
đã an trụ bậc Bất thối chuyển, được chư Phật quá khứ thọ ký đại Bồ đề lâu rồi.
Vì sao? Vì đại Bồ tát này thành tựu đầy đủ các hành động tướng trạng của bậc
Bất thối chuyển.
Thiện Hiện! Bồ tát nào thành tựu các
hành động tướng trạng như thế, nên biết đó là đại Bồ tát Bất thối chuyển.
Lại nữa, Thiện Hiện! Khi hành Bát
Nhã thâm sâu, tất cả đại Bồ tát Bất thối chuyển nhiếp thọ chánh pháp, hộ trì
chánh pháp chẳng tiếc thân mạng, huống gì của cải bà con. Đại Bồ tát này thường
nghĩ: Ta thà lìa bỏ bà con, bạn bè, của cải và thân mạng mình, quyết không lìa
bỏ chánh pháp của chư Phật. Vì sao? Vì bà con, bạn bè, của cải và thân mạng
mình đời đời thường có, rất là dễ được. Còn chánh pháp của chư Phật trăm ngàn
muôn ức kiếp mới được gặp một lần. Gặp được chánh pháp đã lâu, được lợi lạc lớn
nên ta nhất định phải siêng năng hộ trì.
Thiện Hiện! Khi hộ trì chánh pháp
đại Bồ tát này phải nghĩ: Ta không những hộ trì chánh pháp của một hay hai đức
Phật cho đến trăm ngàn đức Phật, mà còn hộ trì chánh pháp của tất cả chư Phật
khắp mười phương ba đời làm cho chánh pháp không bao giờ bị tổn giảm.
Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật:
- Bạch Thế Tôn! Những gì là chánh
pháp chư Phật? Tại sao đại Bồ tát này hộ trì chẳng tiếc thân mạng?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng
Chánh Đẳng Giác, giác ngộ đã nói tất cả pháp không. Như vậy gọi là
chánh pháp của chư Phật. Có hạng ngu si chê bai hủy báng: Đây chẳng phải
pháp, chẳng phải Tỳ nại da, chẳng phải Thánh giáo mà đấng Thiên Nhân Sư đã nói.
Tu hành pháp này chẳng chứng quả vị Vô thượng Bồ đề, chẳng chứng Niết bàn rốt
ráo an vui.
Thiện Hiện! Đại Bồ tát này hộ trì
pháp này chẳng tiếc thân mạng, thường nghĩ: Chư Phật đã nói: Tất cả pháp không
là chỗ quay về nương tựa của các hữu tình. Bồ tát tu học pháp này mau chứng quả
vị Vô thượng Bồ đề, cứu các hữu tình khỏi sanh, lão, bệnh, tử, giúp họ đạt được
Niết bàn an vui rốt ráo. Nên phải hộ trì chẳng tiếc thân mạng. (Q.449, ĐBN)
Lại suy nghĩ: Ta cũng ở trong số các
đức Phật tương lai. Đức Phật đã thọ ký đại Bồ đề cho ta. Do nhân duyên này,
chánh pháp của chư Phật tức là chánh pháp của ta, ta phải hộ trì, chẳng tiếc
thân mạng. Ở đời vị lai khi thành Phật ta cũng sẽ vì hữu tình thuyết các pháp
Không như vậy.
Thiện Hiện! Đại Bồ tát này thấy được
lợi ích và ý nghĩa việc hộ trì chánh pháp mà Như Lai đã thuyết nên chẳng tiếc
thân mạng, cho đến quả vị Vô thượng Bồ đề thường không lười bỏ.
Thiện Hiện! Bồ tát nào thành tựu các
hành động tướng trạng như thế, nên biết đó là đại Bồ tát Bất thối chuyển.
Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả đại Bồ
tát Bất thối chuyển nghe chánh pháp mà các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đã
thuyết không có mê hoặc, nghi ngờ. Nghe rồi thọ trì, thường không quên mất, cho
đến khi chứng được quả vị Vô thượng Bồ đề. Vì sao? Vì đại Bồ tát này đã chứng
được Đà la ni một cách rốt ráo.
Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ tát này đã
chứng được những Đà la ni nào mà nghe chánh pháp của các Như Lai Ứng Chánh Đẳng
Giác đã thuyết không có mê hoặc, nghi ngờ, nghe rồi thọ trì không quên mất?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Đại Bồ tát này đã được
Vô tận tạng Đà la ni, Hải ấn Đà la ni, Liên hoa chúng tạng Đà la ni v.v... nên
nghe các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thuyết chánh pháp không có mê hoặc, nghi
ngờ, nghe rồi thọ trì thường chẳng quên mất.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật:
- Đại Bồ tát này chỉ nghe chánh pháp
của Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thuyết không có mê hoặc, nghi ngờ, nghe rồi thọ
trì thường chẳng quên mất; hay còn nghe chánh pháp Bồ tát, Độc giác, Thanh văn,
trời, rồng, Dạ xoa, A tu la v.v... thuyết cũng không mê hoặc, nghi ngờ, nghe
rồi thọ trì thường chẳng quên mất?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Đại Bồ tát này nghe
tất cả âm thanh, ngôn ngữ, văn tự, nghĩa lý của tất cả hữu tình và hiểu rõ được
hết, không có mê hoặc, nghi ngờ, đến tận cùng đời vị lai cũng chẳng quên mất.
Vì sao? Vì đại Bồ tát này đã được Vô tận tạng Đà la ni v.v... giữ gìn điều đã
thuyết làm cho không quên mất.
Thiện Hiện! Bồ tát nào thành tựu các
hành động tướng trạng như thế, nên biết đó là đại Bồ tát Bất thối chuyển.
Thích nghĩa:
(1). Đoạn Kinh ghi đậm nét
này được HT. Thích Trí Nghiêm dịch trong tuvienquangduc.com, như sau:
“Bấy giờ, Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Những gì gọi là các hành trạng
tướng?
Phật nói:
Thiện Hiện! Các pháp không hành, không
trạng, không tướng; phải biết đấy là hành trạng tướng.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật
rằng:
Nếu tất cả pháp không hành trạng
tướng, Bồ tát Ma ha tát này đối pháp nào chuyển nên gọi Bất thối chuyển ?
Phật nói :
Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này đối
sắc chuyển nên gọi Bất thối chuyển, đối thọ tưởng hành thức chuyển nên gọi
Bất thối chuyển”.
- Nguyên văn đoạn Kinh trên bằng chữ
Hán trong hoavouu.com, như sau:
“ 爾nhĩ
時thời
。 善thiện
現hiện
復phục
白bạch
佛Phật
言ngôn
。
何hà
等đẳng
名danh
為vi
諸chư
行hành
。 狀trạng
。 相tương/tướng
。
佛Phật
言ngôn
。
善thiện
現hiện
。 諸chư
法pháp
無vô
行hành
。 無vô
狀trạng
。 無vô
相tướng
。 當đương
知tri
是thị
為vi
諸chư
行hành
。 狀trạng
。 相tương/tướng
。
具cụ
壽thọ
善thiện
現hiện
。 復phục
白bạch
佛Phật
言ngôn
。
若nhược
一nhất
切thiết
法pháp
無vô
行hành
。 狀trạng
。 相tương/tướng
。 是thị
菩Bồ
薩Tát
摩Ma
訶Ha
薩Tát
。 於ư
何hà
轉chuyển
故cố
名danh
不bất
退thối
轉chuyển
。
佛Phật
言ngôn.
善thiện
現hiện
。 是thị
菩Bồ
薩Tát
摩Ma
訶Ha
薩Tát
。 於ư
色sắc
轉chuyển
故cố
名danh
不bất
退thối
轉chuyển
。 於ư
受thọ
。 想tưởng
。 行hành
。 識thức
轉chuyển
故cố
名danh
不bất
退thối
轉chuyển”。
- Bản dịch đã nhuận văn trong
thuvienhoasen.org và quangduc.com, cũng dịch như trên.
Cả ba bản dịch trên
(tuvienquangduc.com, thuvienhoasen.org và quangduc.com) không có gì sai
khác. Chỗ làm thắc mắc là câu trả lời của Phật: “Đại Bồ tát
này đối với sắc chuyển nên gọi Bất thối chuyển; đối với thọ, tưởng, hành, thức
chuyển nên gọi Bất thối chuyển”.
Thông thường nói đối với sắc bị lôi
cuốn, sa ngã thì gọi là thối chuyển. Nhưng nếu dịch “đối với sắc
chuyển nên gọi là bất thối chuyển” trở thành khó hiểu. Đó là điểm làm chúng
ta thắc mắc. Động từ “chuyển” ở đây tùy theo điều kiện hay tình trạng tốt hay
xấu mà trở thành thối chuyển hay bất thối chuyển! Hội thứ I cũng dịch như vậy,
Hội này và các Hội kế tiếp cũng dịch như vậy, nên chúng tôi cũng ghi lại như vậy.
Nhưng cuối đoạn Kinh này, Phật bảo: “Vì tự tánh
sắc vô sở hữu, tự tánh thọ tưởng hành thức vô sở hữu. Như vậy, cho đến tự tánh
chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề vô sở hữu. Đại Bồ tát này đối trong
chẳng trụ, nên gọi là chẳng chuyển. Do chẳng chuyển nên gọi danh Bồ tát Bất
thối chuyển. Nếu đại Bồ tát có khả năng biết như thế, đấy gọi Bồ tát Bất
thối chuyển”. Đối với tất cả pháp mà chẳng trụ, nên gọi là chẳng chuyển. Vì
chẳng chuyển nên gọi là Bất thối chuyển. Câu trả lời của Phật cũng như vậy: “Đại
Bồ tát này đối trong chẳng trụ, nên gọi là chẳng chuyển. Do chẳng chuyển nên
gọi danh Bồ tát Bất thối chuyển”. Kinh thuyết như vậy, chúng tôi lặp lại
như vậy, không dám sửa đổi kinh văn!
Đoạn Kinh này đã được thích nghĩa
rồi trong phẩm “Bất Thối Chuyển”, phần sau
quyển 325 đến hết quyển 327, Hội thứ I, ĐBN. Ở đây, được lặp lại một lần nữa để
tránh thắc mắc!
Vả lại, quyển
448, phẩm “Bất Thối Chuyển”, Thiện Hiện bạch Phật:
- “Bạch Thế Tôn! Đại Bồ tát Bất thối
chuyển này chỉ gọi là bất thối chuyển hay cũng gọi là thối chuyển?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Đại Bồ tát Bất thối
chuyển này, gọi là bất thối chuyển, cũng được gọi là thối chuyển”.
Câu trả lời của Phật cho biết tùy
theo điều kiện mà chuyển hoặc thành bất thối chuyển hoặc thối chuyển. Vậy, muốn
hiểu đúng thì phải xét đến tình trạng.
Những thắc mắc này có vẻ “lẩm cẩm”.
Tuy nhiên, được nêu ra đây để nói lên lối thuyết giảng hay lập luận của người
xưa khác với nhận thức của người hôm nay?
(2). Giới cấm thủ: Ôm cứng những
giới luật và cho là đúng mặc dầu được người khác chỉ dẫn là sai lầm nhưng không
nghe, không theo.
(3). Cát tường: Điềm lành. Trong bói
toán, đoán mộng, xem sao, gieo quẻ v.v… nói về điềm lành dữ.
(4). Tự địa: Tu trị địa nghiệp mà
mình đang tu. Bồ tát thập địa, ở mỗi địa Bồ tát phải tu tất cả pháp của địa vị
ấy, như Bồ tát trụ đệ ngũ Cực nan thắng địa (Phạm: Sudurjayàbhùmi), ở
địa nghiệp này, nên xa lìa mười pháp: Xa lìa gia cư, nên xa lìa nữ tu sĩ, xa
lìa nhà tham lam ganh ghét, nên xa lìa chỗ hội đàm gây gổ giận hờn, xa lìa khen
mình chê người, xa lìa mười đạo bất thiện nghiệp, xa lìa tăng thượng mạn, xa
lìa điên đảo, xa lìa do dự, xa lìa tham sân si. Đó là tu tự địa mà mình đang tu
(Xem lại phẩm “Biện Đại Thừa”, cuối quyển 53 cho đến đầu quyển 55, tập 03, Hội
thứ nhất, Kinh ĐBN).
Sơ giải:
Toàn phẩm “Bất Thối Chuyển” của Hội
thứ II, ai đọc cũng có thể hiểu, vì nó tương tự với phẩm cùng tên là “Bất Thối
Chuyển” mà chúng ta đã tụng qua từ quyển 325 cho đến hết quyển 327, Hội thứ I,
ĐBN. Hai phẩm như nhau không khác. Nên không cần trùng tuyên nữa.
Ưu điểm của phẩm này là nói về 18
pháp không rất vi diệu:
- “Nếu, Đại Bồ tát Bất thối chuyển
này dùng tự tướng không để quán tất cả pháp. Đã vào ngôi Chánh tánh ly sanh của
Bồ tát, cho đến chẳng thấy chút pháp nào có thể đắc. Vì bất khả đắc nên không
tạo tác. Vì không tạo tác nên rốt ráo chẳng sanh. Vì rốt ráo không sanh nên gọi
là vô sanh pháp nhẫn. Do chứng được vô sanh pháp nhẫn này nên gọi là Đại Bồ tát
Bất thối chuyển”. (Q.449, ĐBN)
- “Vì đại Bồ tát này hiểu rõ tất cả
pháp: Tánh tướng đều không, ngang bằng với hư không và hoàn toàn bất khả đắc.
Chẳng thấy có pháp nào để sanh quý trọng. Năng sanh, sở sanh, thời sanh, chỗ
sanh hay do đây mà sanh đều chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tất
cả pháp này ngang bằng với hư không, tự tướng vốn không, lấy vô tánh làm tánh”.
- “Vì đại Bồ tát này biết tất cả
pháp tánh tướng đều không, trong tánh tướng không ấy, không thấy có tướng”. Vì
không thấy tướng nên không bị tướng chuyển. Vì vậy, ngồi trong đạo tràng mà có
thể chuyển tất cả pháp trong khắp mười phương thế giới.
- “Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng
Giác, giác ngộ đã nói tất cả pháp không. Như vậy gọi là chánh pháp của chư
Phật”.
---o0o---