Tôn Tượng Đức Phật tại Khổ Hạnh lâm
ĐẠI BÁT NHÃ
BA LA MẬT
TỔNG LUẬN
Cư sĩ Thiện Bửu
Chân dung Trưởng lão HT Thích Trí Nghiêm, dịch giả cuốn Đại Bát Nhã Ba La Mật.
Người
đã đơn thân độc mã, sống một cuộc đời khổ hạnh, ròng rã 8 năm trời, miệt mài
dịch Đại Bát Nhã từ Hán sang Việt. Thật đáng nghiêng mình kính lễ, nêu gương
sáng cho những ai muốn xiển dương Phật pháp.
Thị giả của HT Thích Trí Nghiêm: TT Thích Nguyên Tạng
(Chủ biên Quangduc.com)
Nối chí sư phụ, TT Nguyên Tạng in kinh ĐBN
thành sách, đồng thời tải lên mạng Tu viện Quangduc.com với phát âm CD-MP3, phổ
biến trên toàn thế giới. Chí nguyện Thầy trò được hoàn thành. Nhờ đó tất cả thế
hệ mai hậu có kinh để học, để giải, để hành. Quý thay!
Nguồn: https://quangduc.com/
“ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT TỔNG LUẬN”
(Do lão cư sĩ Thiện Bửu biên soạn)
TT Thích Nguyên Tạng giới thiệu trên Trang nhà Quảng
Đức:
(Tác
giả và Tác phẩm)
Kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển, hơn 5
triệu chữ, là bộ kinh khổng lồ trong tàng kinh các của Phật Giáo Đại Thừa do
Đức Thế Tôn thuyết giảng trong 22 năm. Bài Bát Nhã Tâm Kinh mà chúng ta thường
thọ trì hằng ngày tại Việt Nam là do Pháp Sư Huyền Trang dịch từ Phạn sang Hán,
vốn là cốt tủy rút ra từ Bộ Đại Bát Nhã 600 quyển trên. Bộ Kinh đã truyền đến
quê hương Việt Nam vào năm 1958 và được Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm
(1911-2003) phát tâm dịch sang tiếng Việt. Đức Đại Lão Hòa Thượng Thích Trí
Nghiêm đã phiên dịch bộ kinh này ròng rã suốt 8 năm, từ 1972 đến 1980 mới hoàn
tất. Và theo lời Hòa Thượng Thích Đỗng Minh, Hòa Thượng Trí Nghiêm đã dịch theo
bản Biệt Hành, gồm 24 tập, mỗi tập gần 1000 trang với 25 quyển nhỏ, và cũng
đóng thành 24 tập như nguyên bản chữ Hán.
Người viết có duyên làm thị giả cho
Hòa Thượng Trí Nghiêm và Hòa Thượng Thiện Siêu trong 3 mùa An Cư Kiết Hạ tại
Chùa Hải Đức, Nha Trang từ 1981 đến 1983. Đầu năm 1998 người viết được bào
huynh là Thượng Tọa Thích Tâm Phương bảo lãnh sang Úc định cư, khi nghe Ôn Trí
Nghiêm đau nặng, đã về thăm Ôn đang nằm bệnh tại Chùa Tỉnh Hội Long Sơn sau mùa
An Cư năm 2002. Đứng bên giường bệnh của Ngài, người viết đã phát nguyện sẽ đưa
toàn bộ bản dịch của Ngài vào mạng lưới điện toán toàn cầu, qua trang nhà
quangduc.com, để cúng dường mười phương Phật tử gần xa, đồng thời cũng để hồi
hướng công đức cho Ôn. Sau khi về lại Úc, chúng tôi đã viết một thông báo ngắn
cần gấp 24 người phát tâm đánh máy 24 tập Kinh Bát Nhã (bản in năm 1998), ngay
lập tức có 24 Phật tử khắp nơi trên thế giới từ Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam,
Hoa Kỳ, Âu Châu và Úc Châu phát tâm nhận mỗi người một tập để đánh máy, và đây
là bản kinh Đại Bát Nhã tiếng Việt đầu tiên, đã online trước lễ Tiểu Tường của
Ôn Trí Nghiêm vào ngày 13-01-2004.
10 năm sau khi online vào trang nhà
Quảng Đức, Bộ Kinh Đại Bát Nhã này đã được Cư Sĩ Chánh Trí Khưu Văn Nghĩa, vốn
là một phi công tác chiến trước năm 1975, định cư tại Melbourne, Úc Châu từ năm
1982, đã phát tâm diễn đọc trọn bộ kinh này ròng rã 2 năm và 600 files mp3 cũng
đã online đầy đủ vào trang nhà Quảng Đức để cống hiến độc giả gần xa.
Trong lúc đang lo lắng và bối rối
đối phó với cơn đại dịch Vũ Hán Corona Virus, thì đầu tháng 4 năm 2020 này, một
niềm vui bất ngờ đã đến với Ban Biên Tập trang nhà Quảng Đức, chúng tôi đã nhận
được e-book, sách điện tử “Tổng Luận Kinh Đại Bát Nhã” gồm 4000 trang, do chính
tác giả là Lão Cư Sĩ Thiện Bửu Tô Hoàn Mai gởi tặng từ San Jose, miền Bắc
California, Hoa Kỳ.
Phải thú thật rằng bản thân chúng
tôi rất hoan hỷ, vui mừng xen lẫn niềm kính phục vô biên đối với tác giả Cư Sĩ
Thiện Bửu, vì bác đã bỏ ra 10 năm trời ròng rã để đọc và viết luận bản này, có
thể nói đây là bản sớ giải đồ sộ thứ hai về Kinh Đại Bát Nhã, theo sau Đại Trí
Độ Luận, bản sớ giải Kinh Đại Bát Nhã của Bồ Tát Long Thọ, ở Việt Nam hiện có 2
bản dịch tiếng Việt, một của Hòa Thượng Thiện Siêu và một của Sư Bà Diệu Không,
cả hai phiên bản này đều có lưu trữ trên trang Quảng Đức.
Cư Sĩ Thiện Bửu, thế danh: Tô Hoàn Mai, sanh ngày 24/02/1940 (Canh Thìn) tại làng Bình Trước, quận Châu Thành, tỉnh Biên Hòa, trong gia đình có 6 anh chị xem, Thân phụ là cụ ông Tô Văn Trận (chết trong cuộc chiến chống Pháp), Thân mẫu là cụ bà Huỳnh Thị Giác, pháp danh Ngọc Giác (mãn phần năm 1977).
Cư Sĩ Thiện Bửu mồ côi Cha lúc 10
tuổi, ông sống với Mẹ cùng chị, một em gái và ba em trai, hết sức nghèo khổ,
cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc. Trong thời gian từ 8 tuổi đến 13 tuổi ông
sống lang thang, nay đây mai đó. Mẹ nuôi không nổi phải gởi cho người cậu sống
ở miền Trung vài năm. Sau đó lại gởi cho chú thứ Bảy tại Phú Nhuận, Gia định,
Sài Gòn hơn 1 năm, có khi phải gởi cho chú thứ Sáu hay Cô thứ Năm tại Biên Hòa
vài ba tháng. Cuộc đời hết sức lẻ loi. Đến khi mẹ làm ăn vững chãi đôi chút mới
gom về sống chung trong một xóm ga (xe lửa) nghèo nàn tại Biên Hòa. Năm 13
tuổi, ông có duyên lành quy y Tam Bảo với Ngài Minh Đăng Quang, Tổ Sư của phái
Khất Sĩ Việt Nam và được Tổ sư ban cho pháp danh là Thiện Bửu.
Cư Sĩ Thiện Bửu từng theo học trường
Trung Học Pétrus-Ký Sài gòn, rồi Đại học Luật khoa Sài gòn. Sau khi tốt nghiệp
luật khoa xong thì xin tập sự luật sư. Đến năm 1968 thì bị động viên. Ra trường
sĩ quan trừ bị Thủ đức, vì có văn hóa cao, nên được đưa về Đại học Chiến Tranh
Chính Trị Đà lạt. Ở đó ông được bổ nhiệm làm Giảng viên môn Quân pháp kiêm
Trưởng khoa Luật học và Kinh tế của Đại học này.
Ông có duyên kết hôn với bà Nguyễn
Thị Gia Hiển, pháp danh: Phương Nhật, lúc đó đã ngoài 30 tuổi. Vợ ông lại là
con của một gia đình danh giá, cha vợ là Tổng lãnh sự Việt Nam tại Miến Điện,
sau làm Sứ thần Việt Nam tại Nam Hàn.
Chức vụ cuối cùng của ông năm 1975
là Giám đốc Nha Huấn nghệ Bộ Lao động, sau đó ông bị đưa ra Bắc Thái, Thái
nguyên, miền Bắc, tù cải tạo 3 năm thì được tha về sớm thay vì phải cải tạo 10
năm như những người giữ chức vụ tương đương, vì có người thân giúp.
Khi được thả tự do, ông liền cùng vợ
và đứa con trai vượt biển sang Mã Lai. Ở đó hơn 5 tháng thì được bảo lãnh sang
Hoa kỳ vào tháng 5/1979. Để lập lại cuộc đời, ông phải cấp tốc học
nghề điện tử tại Silicon Valey, rồi làm Research về hardwares cho hãng Racal
Vadic và Racal Milgo của UK được 13 năm, hãng này dời qua Florida, ông chuyển
sang làm việc 13 năm nữa cho hãng Lucent của Hoa kỳ, tổng cộng 26 năm, đến năm
2004 thì về hưu.
Từ ngày về hưu đến nay, ông không
rời kinh Phật, mỗi ngày học Phật từ 4 đến 6 tiếng không hề lơi lỏng. Tự học, tự
nghiên cứu nhưng nhờ có chút kiến thức và cũng có duyên với cửa Phật nên đi
đúng đường. Ông đã thỉnh được Bộ Phật học Phổ Thông của Hòa Thượng Thích Thiện
Hoa, làm tóm tắt toàn bộ, học trọn 1 năm, nắm vững các điểm căn bản của giáo
lý. Ông lập bàn thờ đặt bộ Phật Học Phổ Thông cùng bộ tóm tắt của mình với hoa
quả cúng dường Hòa Thượng Thích Thiện Hoa, để tạ ơn hóa độ cho bản thân ông.
Trong bộ Phật Học Phổ Thông, có Kinh
Bát nhã Ba la mật, ông đã đọc tới đâu thông suốt tới đó. Bỗng nhiên, ông nhớ
đến câu nói của Hòa Thượng Thiện Hoa là trong Phật đạo có nhiều tông phái, có
các hệ khác nhau, nếu căn cơ của mình hợp với pháp môn nào thì nên tu tập pháp
môn đó thì dễ tiến hơn.
Ông tự nghĩ mình thiên về Thiền và
Hệ tư tưởng Bát Nhã. Rồi từ đó đến nay đọc nhiều sách thiền và 41 bộ kinh trong
Hệ Bát Nhã. May mắn là ông đã sưu tập gần như hầu hết sự nghiệp văn chương Phật
học của Thiền sư người Nhật Bản là D.T. Suzuki. Những quyển khảo luận của Ngài
là những quyển sách gối đầu của Lão Cư Sĩ Thiện Bửu.
Ông tâm sự rằng, chính nhờ những vốn
liếng giáo lý này mà khi viết thiên Tổng Luận Đại Bát nhã Ba la mật, những tư
tưởng trong ấy nhiều khi không biết là của Thiền sư Suzuki hay của chính ông.
Dường như những món ăn tinh thần ấy đã trở thành máu mủ trong tự thể của chính
ông, nhập tâm vào tư tưởng ông tự lúc nào chính ông không hề biết.
Lão Cư Sĩ Thiện Bửu đã dành 10 năm
lao nhọc, vừa học vừa viết kinh này để xiển dương tư tưởng Bát Nhã theo tinh
thần truyền bá và lưu thông. Ông đã khiêm tốn tự nhủ rằng không biết những gì
mình viết có phù hợp với tinh thần của bộ Đại Bát nhã Ba la mật hay không,
nhưng chúng tôi cho rằng việc làm của Lão Cư Sĩ là việc cần làm và thiết thực
hữu ích, ông đã giúp tóm tắt ý nghĩa và lược giải những chỗ chính yếu của Kinh.
Xin tán thán công đức của lão cư sĩ đã đặt viên đá đầu tiên, để khuyến khích
cho những hành giả khác cùng phát tâm xây dựng nền móng và lâu đài Bát nhã Ba
la mật trong hành trình giác ngộ và giải thoát, mà Đức Thế Tôn đã vạch ra từ 26
thế kỷ về trước.
Được biết
Lão Cư Sĩ Thiện Bửu khởi sự viết thiên khảo luận Đại Bát nhã Ba la mật lúc 70
tuổi và hoàn tất lúc 80 tuổi ngay lúc mùa đại dịch Vũ Hán tấn công nước Mỹ,
khiến cho trên 32.228.141 người nhiễm
bệnh và hơn 574.313 người Mỹ tử vong, tính đến Ngày 28/4/
2021.
Ông đã nhanh chóng gởi tặng phiên
bản điện tử này cho Trang Nhà Quảng Đức phổ biến trước khi ông về cõi Phật, vì
ông lo sợ khi vô thường đến mà công trình này còn nằm yên trong computer thì
quả thật là “Dã tràng xe cát biển đông”.
Để cho luận bản hoàn chỉnh hơn và
nhanh chóng được phổ biến, chúng tôi đã nhờ Đạo hữu Thanh Phi đọc và sửa lỗi
chính tả, chương nào xong thì gởi qua email cho Đạo Hữu Tâm Từ online ngay vào Trang
nhà để vừa cống hiến cho bạn đọc và cũng để tạo niềm vui tuổi già của tác giả,
và công việc tiếp theo, Đạo hữu Quảng Tịnh và Hoàng Lan sẽ phát tâm diễn đọc
trọn bộ sách này vào audio-mp3 để cống hiến cho quý thính giả gần xa.
Xin thành tâm tán thán công đức Lão Cư Sĩ Thiện Bửu cùng người bạn đời của bác là Cư Sĩ Phương Nhật Nguyễn Thị Gia Hiển đã hộ trì cho tác giả hơn 10 năm qua để ông hoàn thành sứ mạng khó khăn này. Xin cảm tạ quý Đạo hữu Thanh Phi, Tâm Từ, Quảng Tịnh và Hoàng Lan đã đóng góp công sức và thời gian, mỗi người mỗi việc khác nhau, để giúp phổ biến tác phẩm giá trị này đến với độc giả và thính giả gần xa.
Nam Mô Bát Nhã Hội Thượng Phật Bồ Tát.
Viết tại Tu Viện
Quảng Đức, Melbourne, Úc Châu ngày 01/07/2020
Chủ Biên Trang Nhà Quảng Đức:
TT Thích Nguyên Tạng.
Mục lục:
I.
(Các
pháp mầu Phật đạo)
II.
(Giáo lý Bát Nhã)
A. Bố cục Đại Bát Nhã
B. Sơ lược Đại Bát Nhã
- Hội thứ I: Từ quyển 01 đến quyển 400 (400 quyển)
- Hội thứ II: Từ quyển 401 đến quyển 478 (78 quyển)
- Hội thứ III: Từ quyển 479 đến quyển 537 (58 quyển)
- Hội thứ IV: Từ quyển 538 đến quyển 555 (18 quyển),
còn gọi “Tiểu Bản Bát Nhã”
- Hội thứ V: Từ quyển 556 đến quyển 565 (10 quyển)
- Hội thứ VI: Từ quyển 566 đến quyển 573 (8 quyển), tương
đương với kinh “Thắng Thiên
Vương Bát Nhã”
- Hội thứ VII: Từ quyển
574 đến quyển 575 (2 quyển),
có tên là: Phần “Mạn Thù
Thất Lợi”
- Hội thứ VIII: Chỉ có
1 quyển (Q. 576), có tên là:
phần “Na Già Thất Lợi”
- Hội thứ IX: Chỉ một
quyển (Q. 577) có tên là:
“Kim Cương Năng Đoạn”
- Hội thứ X: Chỉ có 1
quyển (Q. 578), nói về:
Phần “Lý Thú Bát Nhã”
- Hội thứ XI: Từ quyển
579 đến quyển 583 (5 quyển),
nói về “Bố thí Ba la mật”
- Hội thứ XII: Từ quyển
584 đến quyển 588 (5 quyển),
nói về “Tịnh giới Ba la
mật”
- Hội thứ XIII: Một
quyển (Q.589),
nói về “An nhẫn Ba la mật”
- Hội thứ XIV: Một quyển
(Q. 590),
nói về “Tinh tấn Ba la
mật”
- Hội thứ XV: Từ quyển
591 đến quyển 592 (2 quyển),
nói về “Thiền định Ba
la mật”
- Hội thứ XVI: Từ quyển
593 đến quyển 600 (8 quyển),
nói về “Bát nhã Ba la mật”
III. Phần thứ III Tổng luận:
(Tánh Không với
những nguyên lý chỉ đạo của nó)
LUẬN #1. VĂN TỰ, NGÔN THUYẾT TRONG BÁT NHÃ
1- Danh tự Bát Nhã
2- Ngôn thuyết Bát Nhã
LUẬN #2. BÁT NHÃ VỚI NHỮNG
BIỂU THỊ hay
NHỮNG PHÁP NGHĨA HIỂN
HIỆN CỦA NÓ
1- Vũ trụ quan và Nhân
sinh quan
1/.
Vũ trụ quan
1).- Vũ trụ và thế giới
2).- Phương hướng
3).- Thời gian
4).- Số lượng
2/.
Nhân sanh quan
1).- Thân căn và Khí thế gian
a/.- Uẩn Xứ Giới
b/.- Các đại chủng
c/.- Các pháp
2).- Tưởng và Tình
a/.- Cảnh giới
b/.- Cõi:
(1b).- 25 thành phần hiện hữu
(2b).- 10 dạng Tiên
(3b).- Cõi Âm
2- Tâm & Tâm sở và
Ngã & Ngã sở
1/.
Tâm & Tâm sở
2/.
Ngã & Ngã sở
3- Phân biệt và vô
phân biệt
1/.
Phân biệt
2/.
Vô phân biệt
3/.
Đoạn phân biệt
4- Chấp, chẳng chấp
1/.
Trước, chẳng trước tướng
2/.
Bát Nhã lấy “vô trước” làm tướng
3/.
Đoạn chấp
5- Pháp môn bất nhị
1/.
Nhị pháp (pháp phân hai)
2/.
Bất nhị pháp (pháp không hai)
3/
Nhị, Bất nhị đều bỏ nốt.
LUẬN# 3. CÁI THẤY TỪ BỜ KIA
1- Tất cả pháp không
thật, hư ngụy… (nói về thực thể)
2- Thi thiết: Danh giả,
pháp giả và thọ giả (nói về danh tướng).
3- Như huyễn như mộng
1/.
Thế nào là như huyễn trong kinh điển thuộc hệ Bát Nhã
2/.
Giáo lý về như huyễn
4- Các pháp vốn trì độn,
vô tri
5- Tánh không và 18
pháp không
1/.
Một trào lưu mới trong việc hóa đạo
2/.
Mười tám pháp không
3/.
Vài thí dụ về 18 pháp không.
4/.Giáo
lý Tánh không trong Bát Nhã.
5/.
Tánh không: Tương đối hay tuyệt đối
6- Như tướng (Chân
như)
1/.
Các pháp như thật trong Chân như thật tướng
2/.
Như Lai tùy sanh
3/
Chân như quan Bát Nhã
7- Bình đẳng
8- Thanh tịnh
LUẬN #4. TỤC ĐẾ, THÁNH ĐẾ VÀ TRUNG ĐẠO ĐẾ
1- Tục đế (tương đối)
2- Thánh đế (tuyệt đối)
3- Trung đạo đế (hay
con đường giữa)
1/.
Nhân duyên
2/.
Bát bất
3/.
Kết cấu của Trung đạo
4/. Vai trò của Trung đạo trong việc giải thích Tánh Không
4- Trung đạo, phương
tiện tạm thời?
5- Làm sao đưa cảnh giới
chúng sanh đến gần cảnh giới Phật?
LUẬN #5. THẾ NÀO GỌI LÀ BÁT NHÃ BA LA MẬT
1- Khái lược về Bát
nhã Ba la mật:
1/.
Sao gọi là Bát Nhã?
2/.
Sao gọi là Ba La Mật?
3/.
Sao gọi là Bát nhã Ba la mật?
4/.
Sao gọi là Bát Nhã thậm thâm?
2- Phải nắm bắt Bát Nhã
như thế nào?
3- Muốn nắm bắt đúng Bát
Nhã thì phải tư duy quán tưởng như thế nào?
4- Bát Nhã Trí siêu xuất
làm sao nắm bắt được?
LUẬN #6. NHỮNG ĐIỀU KIỆN ĐỂ
THÀNH TỰU GIÁC NGỘ
(hay THÀNH ĐẠT BÁT NHÃ)
1- Phương tiện thiện xảo
2- Các giáo pháp hỗ trợ
cho sự thành tựu Bát Nhã hay Giác ngộ
1/.
Vô sở hữu, bất khả đắc và những dẫn xuất của chúng
1).- Giáo nghĩa Vô sở hữu & Vô sở đắc
2).- Giáo nghĩa Vô sở hữu trong kinh ĐBN
3).- Giáo nghĩa Vô sở hữu, Bất khả đắc
2/.
Vô tướng
1).- Vô tướng
2).- Tướng & Vô tướng
3).- Tướng, Vô tướng đều ly
3/.
Vô tánh
4/. Tự tánh & Vô tự tánh
5/.
Vô tánh không, Tự tánh không & Vô tánh tự tánh không
6/.
Vô trụ
LUẬN #7. MỤC TIÊU CỦA VIỆC
TU HÀNH BÁT NHÃ
1- Ba mục tiêu của việc
tu hành Bát Nhã
1/.
Bác Nhã và Giác ngộ
2/.
Bát Nhã và Chánh giác
3/.
Bát Nhã và Nhất thiết trí trí
2- Phải cầu, phảỉ tín
thọ phụng hành Bát Nhã như thế nào?
1/.
Cầu Bát Nhã:
1). Cầu Bát Nhã ở đâu?
a/.- Chẳng cầu ở sở hành.
b/.- Sở hành Bát Nhã phải cầu ở trong sở
thuyết của Thiện Hiện.
2). Tín thọ phụng hành.
2/.
Học hành Bát Nhã là: Học “Không”, hành “Vô Tướng”, “Vô tác”, “Vô nguyện”.
LUẬN #8. THẾ NÀO LÀ THÔNG ĐẠT BÁT NHÃ?
1- Thế nào là thông đạt
Bát Nhã hay thông đạt tuệ?
2- Thông đạt Bát Nhã là
thông đạt thật tánh tất cả pháp.
LUẬN #9. CHỨNG HAY ĐẮC?
LUẬN #10. CÔNG hay TỘI TRONG VIỆC THỌ TRÌ BÁT NHÃ
1- Công đức do việc thọ
trì Bát Nhã
1/.
Thế lực, oai thần Bát Nhã
2/.
Công năng Bát Nhã
3/.
Bát Nhã là tối thắng, là tôn quý, cao siêu, vi diệu... không gì bằng
4/.
Bát Nhã là kho báu lớn
5/.
Bát Nhã là vua của tất cả chú
6/.
Bát Nhã cảnh giới nhiệm mầu của chư Phật
7/.
Bát Nhã với sức mạnh “huyền bí” của nó.
8/.
Công đức thọ trì Bát Nhã
2- Tội lỗi do việc thọ
trì Bát Nhã khiếm khuyết gây ra.
3- Tích tụ công đức
thiện căn thì phải phát Bồ đề tâm.
LUẬN #11. BÁT NHÃ VÔ BIÊN
1- Bát Nhã sâu xa
2- Bát Nhã không ngằn mé
3- Bát Nhã vô biên
LUẬN #12. BÁT NHÃ KỲ CÙNG CÓ
PHẢI LÀ
PHÁP
TỐI CAO KHÔNG?
1- Tu hành Bát Nhã chớ
quán các pháp có chút khá trụ, khá vượt
2- Bát Nhã không phải
là thực tại cứu cánh
LUẬN #13. CÁC PHÁP DỄ HIỂU, DỄ
HỌC,
NHƯNG
KHÓ TU KHÓ CHỨNG
1- Quyển 598, Phật bảo gì?
1/.
Hành không
2/.
Không chấp tâm và tâm sở
3/.
Vì các pháp không có tự tánh, lấy vô tánh làm tự tánh,
nên không tu cũng không nên khiển
4/.
Tất cả pháp không thủ, không chấp, không trụ, không trước
5/.
Rốt ráo Bồ tát không phải học
2-
Quyển 599, Phật bảo gì?
1/. Không sở duyên lìa
ái thì không trụ
2/. Không phân biệt
thì không phân biệt khác
1).-
Chẳng khởi phân biệt thì không phân biệt khác
2).-
Thành quả của không phân biệt
3/.
Tất cả pháp không hợp không lìa
4/.
Không năng hành, sở hành là hành Bát Nhã
3- Quyển 600, Phật bảo
gì?
1/.
Không thấy không biết
2/.
Học và an trụ Bát Nhã mau viên mãn sở cầu Vô Thượng Bồ đề
3/.
Không dính mắc, không trói buộc thì không cần tháo gỡ
4/.
Không sở duyên, không sở trụ thì không sở hành
TOÁT YẾU
TỔNG KẾT TOÀN BỘ
ĐẠO VÀ ĐỜI
Nhìn chung, Tổng luận
này quá dài, giáo lý lại khó. Nhưng khó khăn này có thể khắc phục được, chỉ cần
có ý chí và nghị lực dũng mãnh là đủ. Cái khó khăn nhất đối với chúng tôi có lẽ
ở lối diễn đạt văn cú và cách chuyển ngữ trong các bản dịch từ Hán sang Việt được
trích dẫn ở đây. Đó chính là cái khó khăn, quan ngại lớn nhất của chúng tôi khi
bắt đầu chiết giải thiên Tổng luận này, e rằng quý vị sẽ bỏ cuộc nữa chừng!
Nhưng “vạn sự khởi đầu nan”. Một khi đọc hiểu rồi thì càng đọc càng thích! Kiên
nhẫn tinh tấn lắm mới được. Đó là một trong sáu đặc tánh mầu nhiệm của Lục Ba
la mật. Vì vậy, trước khi nhập Niết bàn Phật bảo các đệ tử:
“Hỡi các người thân
yêu của ta, hãy tinh tấn lên, tinh tấn lên để giải thoát!”
Nguồn: https://quangduc.com/
TỰA
Nói về quá
trình thành lập và triển khai của kinh điển thuộc hệ Bát Nhã(1), thì Đạo Hành
Kinh 10 quyển của Chi Lâu Ca Sấm (Lokaraksha) có lẽ là bộ Kinh Bát Nhã cổ nhất,
dịch vào thời Hậu Hán, xuất hiện vào năm 172(2). Tiểu Phẩm Bát Nhã Kinh, 10
quyển, gồm 29 phẩm, do Ngài Cưu Ma La Thập (Kumaràjiva) dịch vào đời Hậu Tần
cũng xuất hiện sớm: Nội dung thuyết minh về các giáo pháp Bát nhã Ba la mật
(các bản dịch khác của kinh nầy gồm: Kinh Đại Minh Độ Vô Cực 6 quyển, do Ngài
Chi Khiêm dịch vào đời Ngô, thời Tam Quốc; Kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa Sao
5 quyển, do các Ngài Đàm Ma Tì và Trúc Phật Niệm cùng dịch vào đời Tiền Tần).
Kế tiếp là Kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa 27 quyển (hoặc 30 hoặc 40 quyển),
gọi là Đại phẩm Bát Nhã, cũng do Cưu Ma La Thập dịch vào thời Hậu Tần: Nội dung
cũng thuyết minh về các giáo pháp Bát nhã Ba la mật. Đây là bộ kinh căn bản nói
về Bát Nhã Không Quán ở thời kỳ đầu của Phật giáo Đại thừa (các bản dịch khác
của kinh này là Kinh Quang Tán Bát Nhã, 10 quyển, thiếu nửa sau, do Ngài Trúc
Pháp Hộ dịch vào đời Tây Tấn và Kinh Phóng Quang Bát Nhã, 20 quyển, do Ngài Vô
Xoa La dịch vào đời Tây Tấn). Sau hết là Kinh Đại Bát Nhã của Ngài Huyền Trang
dịch và các bộ Bát Nhã khác như Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật xuất hiện tiếp theo.
Trước Ngài
Huyền Trang đã có một số Kinh Bát Nhã được dịch ra Hán văn như đã kể trên, nhưng vì chưa được đầy đủ nên Ngài Huyền Trang mới tổ chức dịch
lại. Ngài Huyền Trang bắt đầu phiên dịch Đại Bát Nhã tại chùa Ngọc Hoa cung
vào tháng Giêng năm Hiển Khánh thứ 5 (660) đời Vua Cao Tông nhà Đường đến tháng
10 năm Long Sóc thứ 3 (663) thì hoàn tất. Năm sau, Ngài thị tịch tại chùa Ngọc
Hoa cung. Đó là một bản
dịch đồ sộ gồm 24 tập, 600 quyển chia làm 16 hội, thuyết giảng tại bốn địa điểm là: 1.
Núi Thứu Phong thuộc thành Vương Xá; 2. Lâm Kỳ Viên Cấp Cô Độc; 3. Cung trời
Tha hóa tự tại và 4. Gần ao Cò trắng trong Tịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá. Đó một đại tùng thư gồm hầu hết
kinh điển thuộc hệ Bát Nhã.
Phải công
nhận Đại Bát Nhã Ba La Mật (Mahaprajna-paramita-Sutra) (3), một bộ
kinh vĩ đại, do Ngài Huyền Trang dịch, một công trình dịch thuật to lớn, nhưng
lại trùng tụng(4) quá nhiều. Có những đoạn kinh
cùng một ý tưởng hay cùng một giáo lý như nhau nhưng lặp đi lặp lại cả chục lần,
có khi cả trăm lần như các pháp mầu Phật đạo... Do đó, việc luận giải sẽ gặp
quá nhiều khó khăn.
Bản Việt
dịch do Cố Trưởng lão HT. Thích Trí Nghiêm thực hiện 600 quyển, dài hơn 7.000
trang đánh máy khổ lớn, không thể chép lại đúng nguyên văn trong khi luận giải
được. Nếu để nguyên (không tóm lược), bản Tổng luận trở nên quá dài, không ai
có can đảm đọc tụng cả! Để tiện việc nghiên cứu, tu học, chúng tôi
bắt buộc phải tóm lược. Đó cũng chính là công việc của Ngài Cưu Ma La Thập khi
soạn dịch Kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa. Nhưng Ngài La Thập chỉ soạn dịch Hội
thứ II mà thôi, còn chúng tôi phải tóm lược tổng cộng 16 Hội. Kinh văn quá dài,
chắc chắn phải cắt xén, nhưng tự hứa sẽ
cố trình bày đầy đủ những gì mà Bát Nhã muốn truyền đạt.
Cũng xin quý
vị độc giả đừng quá lo ngại về việc cắt xén này. Phần cắt xén nhiều nhất là Hội thứ I (400 quyển đầu), từ Hội thứ II
trở đi giảm dần cho đến Hội thứ V. Từ
Hội thứ VI cho đến hết Hội thứ XVI tức chấm dứt toàn thể pháp hội ĐBN, gần
như giữ nguyên. Quý vị có thể lấy bất cứ phẩm nào của Hội thứ I do chúng tôi
tóm lược so chiếu với phẩm tương đương chưa tóm lược, quý vị sẽ thấy không khí
gần như khác hẳn. Khác hẳn không có nghĩa là khác về nội dung mà là giảm bớt sự
trùng tuyên làm cho chương cú của Kinh trở nên quá “loãng” hay quá nặng nề đối
với lối tiếp thu của độc giả hiện đại. Chúng tôi chịu trách nhiệm về lời nói
này.
Trong phần
tựa Đại Bát Nhã, có thuật lại kinh nghiệm dịch thuật của Ngài Huyền Trang như
sau: “Văn đã rộng lớn, người học thỉnh cầu Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang giản
lược bớt; Pháp Sư hầu như muốn thuận theo ý của mọi người, giống như Ngài La
Thập đã làm, cắt bỏ bớt những đoạn văn phiền phức trùng điệp. Khởi nghĩ như vậy
rồi, đêm đến nằm mộng thấy có những cảnh tượng ghê sợ răn đe như thấy bay lên
cao quá nguy hiểm, đi đến những chỗ hiểm hóc, hoặc thấy thú dữ bắt người v.v…
run sợ toát mồ hôi mới thoát được. Khi tỉnh giấc, thuật lại các việc ấy cho
những người yêu cầu biết, rồi sau đó y như kinh phiên dịch nguyên văn, không
cắt xén thêm bớt gì cả. Đêm đến bèn thấy chư Phật Bồ Tát phóng hào
quang nơi chặng giữa mày soi xúc thân mình, tâm ý vui thích. Pháp Sư lại thấy
mình tay cầm đèn hoa cúng dường chư Phật, thấy bay lên tòa cao thuyết pháp, có
nhiều người xoay quanh ngợi khen cung kính, lại thấy có kẻ đem hoa quả thượng diệu dâng biếu
cho mình. Khi tỉnh giấc vui mừng chẳng dám cắt bỏ, nhất nhất đúng như bản chữ
Phạn mà dịch”(5).
Câu chuyện
của người xưa nhắc nhở hậu bối phải cẩn thận khi tóm lược kinh. Như thợ mộc
giỏi, phải đo đạt trước rồi mới xẻ gỗ, cưa cắt, bào đục sau. Nhưng phải cưa cắt
như thế nào để sản phẩm nhìn vừa đẹp vừa khéo? Muốn vậy phải đo đạt, cưa cắt thật
khít khao. Mỗi khi xẻ gỗ, cưa cắt không đúng ni tất, thì phải bỏ. Chúng tôi chỉ
là thợ vụng, nên đo đạt nhiều lần trước khi cắt. Đã cắt rồi thì không thể ráp nối
lại nguyên vẹn như trước nữa!
Chiết giải
kinh cũng thế. Trước hết là trình bày chính văn, nếu chính văn quá dài, thì
phải tóm lược. Tóm lược, mà cắt xén quá nhiều thì còn gì là kinh văn. Vậy, phải
cắt xén hay giản lược vừa khéo. Nhưng chỉ cắt xén, giản lược những gì gọi là dư
thừa, trùng lập, phần cốt tủy vẫn phải giữ nguyên. Đó chính là phương châm của
chúng tôi. Sai lệch một đường tơ đất trời nghiêng lệch, tội lỗi không thể nào
tưởng tượng nổi! Có lẽ ai cũng nhớ trong Truyền Đăng Lục có kể câu chuyện một
Pháp sư chỉ vì giảng nhầm câu “bất lạc nhân quả” với “bất muội nhân quả” mà bị
đọa làm kiếp chồn 500 đời.
Thích nghĩa:
(1). Hệ Bát
Nhã trong Đại Tạng Kinh Việt Nam tổng cộng có 41 bộ kinh chia làm 777 quyển,
trong đó hết 600 quyển thuộc ĐBN rồi, số còn lại chúng tôi ghi lại theo Tuệ
Quang Wisdom Light Foundation, gồm:
1. Đại Bát Nhã Ba La Mật Kinh, mang thẻ số 0220, 600 quyển, (Đường Huyền Trang dịch)
2. Phóng Quang Bát Nhã Kinh, mang thẻ số 0221,20 quyển,
(Tây Tấn Vô La Xoa dịch)
3. Quang Tán Kinh, mang thẻ số 0222, 10 quyển, (Tây Tấn Trúc Pháp Hộ dịch)
4. Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa
Kinh, mang thẻ số 0223, 27 quyển,
(Hậu Tần Cưu Ma La Thập dịch)
5. Đạo Hành Bát Nhã Kinh, mang thẻ số 0224,10 quyển,
(Hậu Hán Chi Lâu Ca Sấm dịch)
6. Đại Minh Độ Kinh, mang thẻ số 0225, 6 quyển,
(Ngô Chi Khiêm dịch)
7. Ma Ha Bát Nhã Sao Kinh, mang thẻ số 0226, 5 quyển,
(Tiền Tần Đàm Ma Tỳ cộng Trúc Phật Niệm dịch)
8. Tiểu Phẩm Bát Nhã Ba La Mật
Đa Kinh, mang thẻ số 0227, 10 quyển,
(Hậu Tần Cưu Ma La Thập dịch)
9. Phật Thuyết Phật Mẫu Xuất Sinh Tam Pháp Tạng Bát Nhã Ba La Mật Đa Kinh,
mang thẻ số 0228, 25 quyển,
(Tống Thí Hộ dịch)
10.
Phật Thuyết Phật Mẫu Bảo Đức
Tạng Bát Nhã Ba La Mật Kinh,
mang thẻ số 0229, 3 quyển,
(Tống Pháp Hiền dịch)
11. Thánh Bát Thiên Tụng Bát Nhã Ba La Mật Đa Nhất Bách Bát Danh Chân Thật
Viên Nghĩa Đà La Ni Kinh, mang thẻ số 0230, 1 quyển,
(Tống Thí Hộ đẳng dịch)
12. Thắng Thiên Vương Bát Nhã Ba La Mật Kinh, mang thẻ số 0231, 7 quyển,
(Trần Nguyệt Bà Thủ Na dịch)
13. Văn Thù Sư Lợi Sở Thuyết Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Kinh, mang thẻ số 0232, 2 quyển, (Lương Mạn Đà La Tiên dịch)
14. Văn Thù Sư Lợi Sở Thuyết Bát Nhã Ba La Mật Kinh, mang thẻ số 0233, 1 quyển,
(Lương, Tăng Ca Bà La dịch)
15. Phật Thuyết Nhu Thủ Bồ Tát Vô Thượng Thanh Tịnh Phân Vệ Kinh, mang
thẻ số 0234, 2 quyển,
(Tống Tường Công dịch)
16. Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật
Kinh, mang thẻ số 0235, 1 quyển,
(Hậu Tần Cưu Ma La Thập dịch)
17. Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật
Kinh, mang thẻ số 0236a, 1 quyển,
(Nguyên Ngụy Bồ Đề Lưu Chi dịch)
18. Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật
Kinh, mang thẻ số 0236b, 1 quyển, (Nguyên Ngụy Bồ Đề Lưu Chi dịch)
19. Kim Cương Bát Nhã Kinh, mang thẻ số 0237, 1 quyển,
(Trần Chân Đế dịch)
20. Kim Cương Năng Đoạn Bát Nhã Ba La Mật Kinh, mang thẻ số 0238, 1 quyển, (Tùy Cấp Đa dịch)
21. Phật Thuyết Năng Đoạn Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa Kinh, mang
thẻ số 0239, 1 quyển, (Đường
Nghĩa Tịnh dịch)
22. Thật Tướng Bát Nhã Ba La Mật Kinh, mang thẻ số 0240, 1 quyển, (Đường Bồ Đề Lưu Chí dịch)
23. Kim Cương Đảnh Du Già Lý Thú Bát Nhã Kinh, mang thẻ số 0241, 1 quyển, (Đường Kim Cương Trí dịch)
24. Phật Thuyết Biến Chiếu Bát Nhã Ba La Mật Kinh, mang thẻ số 0242, 1 quyển, (Tốn, Thí Hộ dịch)
25. Đại Nhạc Kim Cương Bất Không Chân Thật Tam Ma Da Kinh, mang thẻ số
0243, 1 quyển,
(Đường Bất Không dịch)
26.
Phật Thuyết Tối Thượng Căn Bổn
Đại Nhạc Kim Cương Bất Không Tam Muội Đại Giáo Vương Kinh, mang thẻ số 0244,7 quyển, (Tống Pháp Hiền dịch)
27. Phật Thuyết Nhân Vương Bát Nhã Ba La Mật Kinh, mang thẻ số 0245, 2 quyển, (Hậu Tần Cưu Ma La Thập dịch)
28. Nhân Vương Hộ Quốc Bát Nhã Ba La Mật Đa Kinh, mang thẻ số 0246, 2 quyển, (Đường Bất Không dịch)
29. Phật Thuyết Liễu Nghĩa Bát Nhã Ba La Mật Đa Kinh, mang thẻ số 0247, 1 quyển, (Tống Thí Hộ dịch)
30. Phật Thuyết Ngũ Thập Tụng Thánh Bát Nhã Ba La Mật Kinh, mang thẻ
số 0248, 1 quyển,
(Tống Thí Hộ dịch)
31. Phật Thuyết Đế Thích Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh, mang thẻ số 0249, 1 quyển, (Tống Thí Hộ dịch)
32. Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đại Minh Chú Kinh, mang thẻ số 0250, 1 quyển, (Diêu Tần Cưu Ma La Thập dịch)
33. Bát Nhã Ba La Mật Tâm Kinh, mang thẻ số 0251, 1 quyển, (Đường Huyền Trang dịch)
34. Phổ Biến Trí Tạng Bát Kinh, mang thẻ số 0252, 1 quyển, (Đường Pháp Nguyệt Trọng dịch)
35. Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh, mang thẻ số 0253, 1 quyển, (Đường Bát Nhã cộng Lợi Ngôn đẳng dịch)
36. Bát Nhã Ba La Mật Tâm Kinh, mang thẻ số 0254, 1 quyển, (Đường Trí Tuệ Luân dịch)
37. Bát Nhã Ba La Mật Tâm Kinh, mang thẻ số 0255, 1 quyển, (Đường Pháp Thành dịch)
38. Đường Phạm Phiên Đối Tự Âm Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh, mang thẻ
số 0256, 1 quyển,
(Hán văn: Tây kinh, trích từ bản sao chép trên vách tường đá của chùa
Đại Hưng Thiện. Từ Ân Hòa thượng phụng chiếu thuật lời TỰA)
39. Phật Thuyết Thánh Phật Mẫu Bát Nhã Ba La Mật Đa Kinh, mang thẻ số 0257, 1 quyển, (Tống Thí Hộ dịch)
40. Phật Thuyết Thánh Phật Mẫu Tiểu Tự Bát Nhã Ba La Mật Đa Kinh, mang
thẻ số 0258,1 quyển,
(Tống Thiên Tức Tai dịch)
41. Phật Thuyết Quán Tưởng Phật Mẫu Bát Nhã Ba La Mật Đa Bồ Tát Kinh,
mang thẻ số 0259, 1 quyển,
(Tống Thiên Tức Tai dịch)
42. Phật Thuyết Khai Giác Tự Tánh Bát Nhã Ba La Mật Đa Kinh, mang thẻ
số 0260, 4 quyển,
(Tống Duy Tịnh đẳng dịch)
43. Đại Thừa Lý Thú Lục Ba La Mật Đa Kinh, mang thẻ số 0261, 10 quyển,
(Đường Bát Nhã dịch).
Lưu ý: Theo Tuệ
Quang Wisdom Light Foundation, tính theo thứ tự số thẻ thì có 43 bộ kinh thuộc
hệ Bát Nhã. Nhưng không biết tại sao các nhà khảo cứu lại tính có 41 bộ mà
thôi? Trong đây có nhiều bộ kinh có phẩm tựa và giáo nghĩa trùng hợp như kinh “Kim
Cương Bát Nhã Ba La Mật” hay “Tâm
Kinh”, do nhiều tác giả khác nhau dịch. Cứ theo sự hiểu biết của chúng tôi, nếu
muốn lấy các bộ kinh làm tài liệu Phật học và xếp loại để tiện việc tra cứu,
thì cứ mỗi bộ kinh do một tác giả dịch, có đánh số thẻ, đã lưu trữ trong Đại
tạng kinh thì nên xem là một bộ, như kinh “Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật” do Bồ đề Lưu Chi dịch có hai bản, có số thẻ là
0236a và 0236b. Đúng ra phải xem là hai bộ, mặc dầu cả hai bản dịch có tựa đề
và nội dung giống nhau và cùng một dịch giả? Không biết các nhà khảo cứu xếp
loại như thế nào về trường hợp này, nên mới xảy ra thắc mắc như trên? Nhiều Đại
Tạng kinh khác lại tính là 44 bộ. Chúng ta sẽ không bị lẫn lộn về con số này,
nếu chỉ cần biết số thẻ và tên kinh để tra cứu là đủ. Chúng tôi cũng lưu ý độc
giả cố gắng nhớ tên kinh và danh tánh dịch giả. Vì sao? Vì trong số 41 bộ liệt
kê trên, có một số các kinh được xem là tương đương với các Hội của kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật mà quý vị cần phải
tra cứu hay tham khảo nếu cần. Đọc tới quý vị sẽ rõ.
(2). Đạo
Hành Bát Nhã do Chi Lâu Ca Sấm dịch tương đương với Bát Nhã Bát thiên tụng, hay Tiểu Phẩm Bát Nhã do Cưu ma La thập hay
Phật Mẫu Bát Nhã do Thí Hộ và
kinh rút ra từ quyển 538 đến
quyển 555 của Đại Bát Nhã do Ngài Huyền Trang dịch
(không có đặt tên, để tránh lẫn
lộn với các kinh ngắn tương đương trên, chúng tôi tạm gọi kinh nầy là Tiểu Bản Bát Nhã (TBBN), được Phật
thuyết ở Hội thứ IV. Xin quý vị độc giả ghi nhớ cho, vì chúng ta có rất nhiều
cơ hội để thảo luận về bộ kinh nầy). Nếu xét trên phương diện
triết học và tôn giáo tất cả những quan điểm cốt yếu (giáo lý hạnh quả, kỹ thuật
tu trì, quán tưởng…) của Bát Nhã
đều nằm trong đó. Nếu xét
theo niên kỷ, Kinh Đại Bát Nhã xuất hiện sau các tiểu phẩm, nên một số học giả
Phật học cho rằng Đại Bát Nhã triển khai các giáo lý và triết học Tánh Không từ
các tiểu phẩm kể trên.
(3). Đại Bát
Nhã do Ngài Huyền Trang dịch từ Phạn sang Hán, tổng cộng có tới 600 quyển,
khoảng 167.300 bài tụng (sloka) tính theo Pháp Uyển Châu Lâm quyển 100 và Khai
Nguyên Thích Giáo Lục quyển 11. Nếu diễn dịch ra chữ thì tổng cộng hơn 5 triệu
chữ. (Mỗi bài tụng gọi là sloka gồm 4 hàng, mỗi hàng gồm 8 chữ. Vậy, 1 sloka có
32 chữ; 32 chữ nhân cho 167.300 sloka bằng 5.353.600 chữ).
(4). Sự
trùng tụng cốt ý là gội sạch cảm quan và ý thức dễ dãi của những người đang
hành trì Bát Nhã để tâm chứng bằng trực giác mà không qua trung gian của ý thức
hay lý luận nhị nguyên. Thiền sư D.T. Suzuki giải thích sự trùng tụng của Bát Nhã
như sau: “Một trong những lý do tại sao các kinh này thường lặp lại quá nhiều,
trùng tuyên quá nhiều, làm mệt óc các độc giả tân tiến như chúng ta, đấy là do
sự kiện rằng tất cả các kinh điển Đại thừa, nhất là Bát nhã Ba la mật, không
cốt ý gợi lên những sự dễ dãi của suy luận, tức sự lãnh hội bằng trí óc; nó gợi
lên một lối lãnh hội khác, mà chúng ta có thể gọi là bằng trực giác. Khi Bát
nhã Ba la mật được đọc bằng tiếng Sanskrit, tiếng Trung Hoa hay tiếng Tây Tạng,
không cố gắng lượm nhặt ý nghĩa luận lý của nó, chỉ một mực thành tâm và quyết
định đi ngang qua những khối trùng lặp, con mắt Bát Nhã - Tunhan - dần dần mở
rộng và càng lúc càng nhìn thấu suốt hơn. Cuối cùng, rồi sẽ thấy, bất kể những
mâu thuẫn, những tối tăm, những trừu tượng, huyễn hoặc, sẽ thấy sự thể trong
suốt lạ lùng vén mở “mặt kia cùng với mặt này”. Đây là sự phát khởi của Bát Nhã
và sự học tập Bát nhã Ba la mật sâu xa. Nơi đó là chỗ bí mật của sự tụng đọc
kinh Bát Nhã”.
Tuy biết như
vậy, nhưng cũng tùy chỗ, tùy thời thôi! Phần trùng tụng nhiều nhất là các pháp
mầu Phật đạo. Hầu như bất cứ phẩm nào, Hội nào cũng lặp đi lặp lại các pháp
này. Chúng tôi chỉ giản lược thay vì liệt kê toàn thể “các pháp mầu Phật đạo
hay còn gọi là 81 khoa danh tướng Bát Nhã” hàng trăm, hàng ngàn lần trong toàn
đại phẩm.
(5). Trích lời trần thuật của Ngài Huyền Trang nơi đầu quyển Kinh Đại Bát
Nhã.
---o0o---
TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU:
Đại Bát nhã
Ba la mật Tổng Luận mà chúng tôi sắp trình bày sau đây là kết quả tóm tắt và
lược giải trên căn bản của hai kinh:
1- Kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật (viết tắt MHBNBLMĐ) do Ngài Cưu Ma La Thập
dịch từ Phạn sang Hán và HT. Thích Trí Tịnh dịch từ Hán sang Việt(1), và
2- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật (viết tắt ĐBN hay ĐBNBLM) do Ngài Huyền Trang
dịch từ Phạn sang Hán và cố Trưởng lão HT Thích Trí Nghiêm dịch từ Hán sang
Việt(2). Chúng tôi lấy ba bản: Hai bản Việt dịch và một bản chữ Hán, để tóm
lược:
1/. Một là bản gốc đăng trong
tuvienquangduc.com (văn từ rất cổ kính, đó là bản gốc do cố Trưởng lão HT Thích
Trí Nghiêm dịch, xuất bản năm 1997),
2/. Hai là bản đã nhuận văn xong,
đăng trong thuvienhoasen.org và quangduc.com (do một nhóm Tỳ kheo và cư sĩ thực
hiện, xuất bản năm 2003) và
3/. Ba là bản chữ Hán, đăng trong
hoavouu.com.
Ngoài ba bản kinh chính trên, chúng
tôi còn tham cứu thêm một số Kinh thuộc hệ Bát Nhã tương đương với các Hội của
Kinh ĐBN như Kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La
Mật, Kinh Phật Mẫu Bát Nhã, Tiểu Phẩm Bát Nhã Ba La Mật, Kinh Văn Thù Sở Thuyết, Đạo Hành kinh, Kinh Kim
Cương Bát Nhã Ba La Mật, v.v...
đã đăng trong Đại tạng kinh Việt Nam và các Kinh khác trong số 41 bộ Kinh thuộc
hệ Bát Nhã nói trên. Vì vấn đề chuyển ngữ hay tư tưởng có nhiều điểm rắc rối,
khó hiểu nên phải tham cứu nhiều. Đọc tới, quý vị sẽ rõ!
Thích nghĩa:
(1). Viện
Phật Học Phổ Hiền xuất bản P.L. 2530 DL. 1986 (trọn bộ 3 tập), Thành Hội Phật
Giáo TP. Hồ Chí Minh ấn hành P.L. 2539 DL. 1995.
(2). Kinh Đại
Bát Nhã 24 tập, 600 quyển. Hán dịch: Huyền Trang, Việt dịch: Cố Trưởng lão HT.
Thích trí Nghiêm. Khởi dịch từ năm 1973 đến năm 1980 mới hoàn tất. Ấn hành năm
2003, Toàn tập dạng Words. PL. 2547, do Ban Bảo Trợ Phiên Dịch Pháp Tạng Phật
Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ, đăng tải trong tuvienquangduc.com.
---o0o---
BỐ CỤC TOÀN BỘ TỔNG LUẬN:
Xin xác định rõ chúng tôi không thay
đổi cấu trúc hay bố cục của Đại Bát Nhã (phần nói về bố cục và nguồn gốc ĐBN
được ghi làm một phần riêng gọi là Phần thứ II, Tổng luận) mà ở đây chúng tôi
trình bày bố cục thiên Tổng luận này theo quan điểm của chúng tôi, cốt làm nổi
bậc các giáo lý chính của ĐBN để độc giả dễ nắm toàn thể quan điểm của Đại Bát
Nhã. Vì vậy, toàn bộ Tổng luận này được chia làm ba phần chính:
I. Phần
thứ I nói về các pháp mầu Phật đạo:
Liệt kê và thích nghĩa tất cả các
pháp Phật còn gọi là các pháp mầu Phật đạo, tư lương Bồ đề hay Bồ tát đạo mà Đại
Bát Nhã đã thuyết. Kinh ĐBN thuyết rải rác trong toàn bộ ĐBN, không riêng một
phẩm nào hay phần nào. Tất cả các pháp tu này được ĐBN thuyết hàng trăm, hàng
ngàn lần trong suốt Đại phẩm. Phải nói là quá trùng tụng. Vì vậy, chúng tôi
phải tách ra và viết thành một phần riêng, một trong ba phần của Tổng luận. Khi
đọc tới Quý vị sẽ thấy ý này. Điểm cần lưu ý là các pháp mầu Phật đạo được
trình bày trong toàn bộ ĐBN được chúng tôi cắt xén, giản lược nhiều nhất (như
Kinh MHBNBLMĐ mà Ngài La Thập đã làm) để phần chính văn bớt nặng nề. Phải nói
rằng cách sắp xếp các pháp mầu Phật đạo thành một phần riêng, nói lên được tầm
quan trọng của nó. Không có các pháp mầu Phật đạo thì không có đạo Phật, không
có Phật, Bồ tát, không có Đại thừa. Vì có hiểu có học, có thọ trì mới mang lại
ích lợi cho mình, cho người.
Còn chỉ đọc cho biết, thì chẳng khác nào “cưỡi ngựa xem hoa” thôi.
II. Phần thứ
II nói về giáo lý Bát Nhã:
Trình bày về bố cục, nguồn gốc hay
xuất xứ của Kinh ĐBN; tóm lược từng Hội, từng Phẩm hay từng Phần của chính văn,
đồng thời thích nghĩa và lược giải các giáo lý Đại Bát Nhã trọn bộ 600 quyển,
thuộc 16 Hội. Đây là phần lược giải chính văn ĐBN. Phần chính văn này chiếm hầu
hết 4.000 trang của thiên Tổng luận này. Đó là chất liệu chính của Đại Bát Nhã.
Hai phần này tạo thành chánh văn của
ĐBNBLM, chánh văn của ĐBNBLM được xem như là bộ Bách khoa Toàn thư của kinh
điển Đại thừa. Vì nó là tổng hợp nhiều giáo lý của nhiều hệ Phật học khác nhau.
Nên những luận giải ở phần thứ I và phần thứ II này có thể gọi là Thích luận.
III. Phần
thứ III nói về Tánh Không Bát Nhã:
Rút ra các nguyên lý chỉ đạo của Bát
nhã Ba la mật mà các nhà khảo cứu Phật học, các nhà bình giải hay tu trì...
thường gọi là “Tánh Không”. Đây là phần sáng tác với mục đích nêu lên cốt tủy
của ĐBNBLM. Phần này là phần đào xới các biểu thị hay pháp nghĩa hiển hiện của
ĐBNBLM. Nếu hiểu và chứng được phần này tức là thông đạt hay thành tựu Bát Nhã.
Đây là phần kết thúc, thành công hay không quyết định ở phần này.
Vì phần thứ III chuyên luận về Tánh Không, là phần sáng tác riêng về chủ đề này. Nên luận giải ở phần này có thể gọi là Tôn luận. Tuy nhiên, dầu là Tôn luận hay Thích luận cũng phát xuất từ một nguồn kinh gọi là ĐBN. Nên phân biệt Tôn hay Thích ở đây cũng chỉ có trên danh nghĩa mà thôi chẳng có gì khác.
---o0o---
Thành kính cám ơn:
Đệ tử Thiện Bửu xin cảm ơn công đức dưỡng dục sanh thành của bố mẹ, đã cho con một đời đáng sống này. Kế đến người viết xin cảm ơn người bạn đường, chịu nhiều khổ cực giúp soạn giả hoàn thành thiên Tổng luận Đại Bát Nhã Ba La Mật ròng rã trong 10 năm qua.
Sau nữa, xin chân thành cảm ơn những vị sau đây đã đem lại nhiều ảnh hưởng sâu đậm trong cuộc sống tâm linh của chúng con:
1/ Tổ Sư Minh Đăng Quang, khai sáng Hệ
Phái Khất Sĩ Việt Nam, Ngài cũng là Sư phụ truyền Tam Quy Ngũ Giới và ban pháp
danh Thiện Bửu cho đệ tử vào năm 13 tuổi.
2/ Đệ tử xin cảm ơn Hòa Thượng Thích Thiện
Hoa, người đã hóa đạo cho soạn giả qua bộ sách Phật Học Phổ Thông.
3/ Sau cùng, soạn giả xin chân thành cảm
tạ Thiền sư Daisetsu Teitaro Suzuki, người được xem như là Bồ tát trong thời đại
mới, đã có công xiển dương đạo Phật tại các quốc gia Tây Âu và cũng là người đã
mở con mắt đạo cho soạn giả về Tánh không Bát Nhã.
Cuối cùng, xin cảm ơn những ai đã từng
khổ nhọc hy sinh công của góp phần xây dựng lâu đài Phật đạo Việt nam nói riêng
và thế giới nói chung, nhờ đó mà soạn giả có đầy đủ chất liệu để học, để tu, để
giải, để hành.
Chúng con xin hồi hướng công đức biên soạn
bộ sách này cho pháp giới chúng sanh, hữu tình và vô tình, đều trọn thành Phật
đạo.
Nam Mô Bát Nhã Hội Thượng Phật Bồ Tát.
San Jose, California, Ngày 24/02/2020.
Cư Sĩ Thiện Bửu cẩn
chí.
---o0o---
Chân
thành cảm ơn và tán thán công đức Lão Cư Sĩ Thiện Bửu đã dày công nghiên cứu,
viết
và gởi tặng Trang Nhà Quảng Đức phiên bản điện tử bộ sách giá trị này.
Nam
Mô A Di Đà Phật,
TM. Ban Biên Tập
Chủ biên: Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng
(Melbourne, mùa chống dịch Covid-19, 09/04/2020)
Phiên bản điện tử:
Kiểm tra chính tả: Thanh
Phi, Thanh Hạnh.
Bố trí và tải lên mạng: Tâm
Từ, Nguyên Thanh.
Diễn đọc
Audio - MP3: Kim Phương Quảng Tịnh; Hoàng
Lan Quảng Thiện Duyên.
Lồng nhạc: Quảng Phước; Quảng Thiện Hùng Jordan Le.