HỘI THỨ VIII
(Bố cục)
8. Hội thứ VIII: Phần “Na Già Thất Lợi”, 1 quyển. Nội dung tường thuật việc Bồ tát Diệu Cát Tường(1) thuyết giảng về các pháp thế gian như mộng huyễn chẳng phải thật có và về pháp vị vô thượng. Hội này là đồng bản với Kinh “Nhu Thủ Bồ Tát Vô Thượng Thanh Tịnh Phân Vệ”, 2 quyển, do Tường Công dịch vào đời Tống. Pháp Uyển Châu lâm và Khai Nguyên Thích Giáo lục nói bản tiếng Phạm của hội này có 400 kệ tụng.
--- o0o ---
PHẦN “NA GIÀ THẤT LỢI”
Dẫn nhập:
Phần này của Hội thứ VIII diễn tả
các pháp thế gian chẳng khác nào như mộng huyễn, bào ảnh, như sương như khói
chẳng khác bèo bọt... không thật có và pháp vị vô thượng vi diệu này rất khó
thâm nhập đối với trí năng thường tục của chúng ta. Tư tưởng trong phần này
cũng giống như Hội thứ VII, vì các pháp thoại ở đây phần lớn lại do Mạn Thù
Thất Lợi thuyết như Hội thứ VII ở trên. Hãy tập trung tinh thần nghe những pháp
thoại thần kỳ này để tự mở con mắt đạo.
---o0o---
Tóm Lược:
Quyển thứ 576
(Tất cả pháp là Không, tánh vắng lặng xa lìa, không thể
nhiếp thọ).
Tôi nghe như vầy:
Một thuở, đức Bạc Già Phạm ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng Thệ
đa, thành Thất la phiệt, vì các đại chúng mà tuyên dương chánh pháp.
Bấy giờ, trời vừa hừng sáng, đại Bồ tát Diệu Cát Tường (tức Mạn Thù Thất Lợi hay Văn Thù Sư Lợi)
đắp y mang bát, sắp vào thành Thất la phiệt, thì gặp Bồ tát Na Già Thất Lợi (hay còn gọi là Long Cát Tường) hỏi:
- Tôn giả đi đâu thế?
Diệu Cát Tường đáp:
- Tôi muốn vào thành Thất la phiệt để tuần hành khất thực,
vì muốn làm lợi ích an vui cho khắp chúng sanh, vì thương xót chúng sanh ở thế
gian, vì lợi ích an vui cho trời, người.
Na Già Thất Lợi hỏi:
- Vậy à! Nhưng Tôn giả với tưởng ăn vẫn chưa phá được sao?
Mạn Thù Thất Lợi đáp:
- Đối với tưởng ăn, tôi còn chẳng thấy có, thì biết phá cái
gì? Vì sao? Vì bản tánh các pháp đều Không, vắng lặng, giống như hư không,
không hoại không dứt, tôi phá sao được? Chư thiên, Ma vương, Phạm thiên, thế
gian, Sa môn, Bà la môn… cũng chẳng phá được. Vì sao? Vì tự tánh của các pháp đồng với hư không, rốt ráo Không, chẳng thể lay
động, không kẻ phá được.
Lại nữa, tất cả pháp như hư không, không có trời, Ma vương,
Phạm thiên, Sa môn… loài hữu tình nào năng nhiếp thọ được. Vì sao? Vì tất cả
pháp tánh xa lìa vậy, nên chẳng có chỗ nhiếp thọ.
Na Già Thất Lợi hỏi:
- Nếu đúng như lời Tôn giả nói, thì tại sao Bồ tát cùng ma
quân đấu tranh?
Mạn Thù Thất Lợi đáp:
- Bồ tát chưa từng đánh trống lớn giao chiến với ma quân.
Lúc ấy, Bồ tát cũng chẳng thấy có một chút pháp chơn thật khá nương vào định.
Vì sao? Vì Bồ tát thấy ma tuy đánh trống… nhưng không sợ hãi. Ví như nhà huyễn
thuật, huyễn tạo ra kẻ oán địch, dù làm chuyện rối loạn não hại, song chẳng ai
kinh sợ. Cũng vậy, Bồ tát biết tánh của các pháp là Không, đều như huyễn… nên
không sợ hãi.
Nếu Bồ tát nào có sợ hãi thì không có trời, người… cúng
dường. Nhưng các Bồ tát hiểu rõ Không, nên không có sợ hãi, chịu làm ruộng
phước chơn tịnh cho tất cả. (Q576, ĐBN)
(Làm sao chứng được Bồ đề?)
Na Già Thất Lợi hỏi:
- Có kẻ năng chứng Bồ đề chăng?
Mạn Thù Thất Lợi đáp:
- Cũng có.
Na Già Thất Lợi hỏi:
- Ai là người chứng được?
Mạn Thù Thất Lợi đáp:
- Người không chấp
danh tánh thi thiết ngôn ngữ thì có thể chứng được.
Na Già Thất Lợi hỏi:
- Vậy người đó chứng như thế nào?
Mạn Thù Thất Lợi đáp:
- Người mà tâm không sanh, chẳng niệm Bồ đề và tòa Bồ đề,
cũng chẳng thương nhớ tất cả hữu tình, dùng tâm vô biểu(2), tâm vô kiến thảy
năng chứng Vô thượng Bồ đề.
Na Già Thất Lợi hỏi:
- Nếu vậy, Tôn giả dùng những tâm nào để được Bồ đề?
Mạn Thù Thất Lợi đáp:
- Tôi không thấy mình hướng đến,
cũng chẳng thấy có chỗ hướng đến, đều không chỗ học; tôi cũng chẳng thấy đời
sau đến cội Bồ đề ngồi tòa Kim cương chứng đại Bồ đề, chuyển bánh xe diệu pháp
cứu vớt sanh tử. Vì sao? Vì các pháp không động, không thể phá hoại, không thể
thu nhiếp, rốt ráo Không, vắng lặng. Tôi đem những tâm chẳng hướng tới như thế
để được Bồ đề.
(Những điều mà Mạn Thù Thất Lợi
thuyết giảng trong Hội thứ VII cũng được lặp lại ở đây mà chúng ta “gọi là đảo
nghịch”: “Người
mà tâm không sanh, chẳng niệm Bồ đề và tòa Bồ đề, cũng chẳng thương nhớ tất cả
hữu tình, dùng tâm vô biểu(2), tâm vô kiến thảy năng chứng Vô thượng Bồ đề”. Tu để đạt Bồ đề mà chẳng nghĩ đến Bồ đề và
tòa Bồ đề, cũng chẳng thương nhớ tất cả hữu tình. Dùng tâm không, tâm vô kiến
thì có thể chứng Vô Thượng Bồ đề. Khi Bồ tát Mạn Thù Thất Lợi phát biểu như thế
thì Na Già Thất Lợi Bồ tát xác nhận: “Những điều Tôn giả đã nói đều nương vào thắng nghĩa, khiến cho
các hữu tình tin hiểu pháp này, giải thoát phiền não”. Cái mà chúng ta cho là nghịch đảo ở Hội Thứ VII, được lặp lại ở Hội
thứ VIII này đều là thuận theo đệ nhất
nghĩa đế như chúng ta đã hiểu. Chẳng có gì là nghịch lý đối với Thánh giả
trí tuệ có tầm vóc như Mạn Thù Thất Lợi, một vị cổ Phật mà Như Lai thú nhận là
thầy của chư Phật khi tuyên bố “…các pháp không động, không thể phá hoại, không thể thu
nhiếp, rốt ráo Không, vắng lặng. Tôi đem những tâm chẳng hướng tới như thế để
được Bồ đề”).
Na Già Thất Lợi nói:
- Những điều Tôn giả đã nói đều nương vào thắng nghĩa, khiến cho các hữu tình tin hiểu pháp
này, giải thoát phiền não. Nếu các hữu tình được giải thoát phiền não, thì phá
được hết thảy võng lưới ma.
Mạn Thù Thất Lợi nói:
- Võng lưới của ma chẳng thể phá hoại. Vì sao? Vì nghĩa ma
chẳng khác Bồ đề. Vì sao? Vì tánh của ma và ma quân đều chẳng có, đều bất khả
đắc. Cho nên, tôi nói nghĩa ma ấy chẳng khác Bồ đề.
Na Già Thất Lợi hỏi:
- Sao gọi là Bồ đề?
Mạn Thù Thất Lợi đáp:
- Bồ đề ấy biến khắp trong tất cả các pháp, thời, xứ. Ví như
hư không, không có gì ngăn ngại đối với pháp, thời, xứ, không có chỗ nào mà
không trụ. Bồ đề cũng thế, vì không ngăn ngại nên biến khắp ở trong tất cả
pháp, thời, xứ. Bồ đề như thế rất là Vô thượng. Nay Ngài muốn chứng Bồ đề bậc
nào?
Na Già Thất Lợi nói:
- Muốn chứng Vô thượng.
(Tất cả pháp như huyễn hóa)
Mạn Thù Thất Lợi nói:
- Pháp Vô thượng Bồ đề chẳng thể chứng. Ngài muốn chứng pháp
ấy tức là hành hý luận. Vì sao? Vì Vô
thượng Bồ đề lìa tướng, tịch diệt. Vậy Ngài muốn trở thành người giữ lấy hý
luận sao? Ví như có người nói như vầy: “Tôi khiến huyễn sĩ ngồi tòa Bồ đề,
chứng huyễn Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề”. Lời nói như thế quá ư hý luận. Vì các
huyễn sĩ còn bất khả đắc, huống nữa là khiến cho chứng được huyễn đại Bồ đề!
Huyễn đối với pháp huyễn chẳng hợp
chẳng tan, chẳng lấy chẳng bỏ, tự tánh đều Không. Chư Phật Thế Tôn nói tất cả
pháp chẳng thể phân biệt, đều như huyễn mộng. Nay Ngài muốn chứng Vô thượng Bồ
đề, há chẳng phải thành người phân biệt huyễn pháp! Nhưng tất cả pháp đều chẳng
thể lấy, cũng chẳng thể bỏ, không thành không hoại, chẳng phải pháp đối với
pháp có tạo tác và có diệt hoại. Không có pháp nào đối với pháp nào mà có hòa hiệp,
có chia lìa. Vì sao? Vì tất cả pháp chẳng hợp chẳng tan, tự tánh đều Không, lìa
ngã, ngã sở, đồng cõi hư không, không nói, không chỉ, không khen, không chê,
không cao, không thấp, không tổn, không ích, chẳng thể tưởng tượng, chẳng thể
hý luận, bản tánh hư tịch, đều rốt ráo Không, như huyễn như mộng, vô đối, vô tỉ(3), sao có thể khởi tâm phân biệt nó được. (Q.576, ĐBN)
Na Già Thất Lợi nói:
- Hay thay! Thưa Tôn giả! Nay do đây, nhất định tôi được Bồ
đề. Vì sao? Vì nhờ Ngài đã nói pháp sâu xa cho tôi.
Mạn Thù Thất Lợi nói:
- Nay tôi chưa từng vì Ngài mà tuyên nói pháp gì hoặc hiển,
hoặc mật, hoặc sâu, hoặc cạn, thì làm sao khiến Ngài được Bồ đề! Vì sao? Vì tự tánh các pháp đều chẳng thể nói.
Ngài bảo tôi nói pháp thậm thâm ấy tức là hành hý luận. Nhưng tôi thật chẳng
phải kẻ thường nói pháp, tự tánh các pháp cũng chẳng thể nói.
Như có người cho rằng, ta có khả năng biện thuyết về tướng
thức của huyễn sĩ; nghĩa là nói các
tướng thức của huyễn sĩ sai khác như thế như thế. Do nói như vậy, mà người ấy
hại lời nói chơn thật của mình. Vì sao? Vì huyễn sĩ ấy còn chẳng có thức, huống
nữa là có tướng thức! Nay Ngài cho rằng tôi nói pháp sâu xa, khiến cho Ngài
chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, cũng lại như thế. Vì tất cả pháp đều như huyễn, tánh rốt ráo Không, còn chẳng thể biết,
huống nữa là có tuyên thuyết.
(Tụng đọc tới đây chúng ta có thể
hiểu Mạn Thù Thất Lợi Bồ tát tức là Bát Nhã hay nói khác Bát Nhã là Văn Thù Sư
Lợi Bồ tát kể từ khi chúng ta thọ trì xong Hội thứ VII. Vì sao? Vì Văn Thù Sư
Lợi hiểu Vô thượng Bồ đề lìa tướng, tịch diệt. Bát nhã Ba la mật cũng lìa
tướng, tịch diệt. Bồ đề mà Mạn Thù Thất Lợi phát biểu ở đây đều lưu xuất từ Bát
Nhã. Nên chúng ta có thể nói khi thâm nhập được Bát Nhã rồi thì Bát Nhã là tự
thể, là máu mủ của chính các ông. Cái gì mà các ông tuyên nói, hành động đều là
do diệu dụng của Bát nhã Ba la mật mà ra).
Bấy giờ, đại Bồ tát Vô Năng Thắng đi đến chỗ ấy, nghe rồi
khen rằng:
- Hay thay! Hay thay! Chánh sĩ, Đại sĩ khéo cùng biện thuyết
pháp môn sâu xa.
Mạn Thù Thất Lợi gạn hỏi Vô Năng Thắng:
- Chánh sĩ, Đại sĩ nói pháp gì? Bởi vì Bồ tát chẳng nghĩ
rằng: Ta là Bồ tát Chánh sĩ, Đại sĩ, có thể vì hữu tình nói pháp sâu xa. Nếu kẻ
nào khởi nghĩ như thế tức là hành hý luận. (Q.576,
ĐBN)
(Tất cả pháp như tiếng vang)
Lại nữa, Vô Năng Thắng! Tự tánh của
tiếng vang trong hang núi thật có thể phát ra lời nói, làm cho người nghe nhận
biết, luận nói các pháp chăng?
Vô Năng Thắng đáp:
- Không!
Mạn Thù Thất Lợi nói:
- Đúng vậy, tất cả các pháp chẳng
thật, đều như tiếng vang, không danh, không tướng, không thể nắm giữ. Đối với
pháp đây mà chấp trước, tức là hành hý luận. Nếu hành hý luận thì trôi lăn
trong sanh tử. Đối với tất cả pháp như tiếng vang, chúng sanh chẳng như thật
biết, khởi lên các sự tranh đấu. Vì khởi sự tranh đấu, nên tâm bị dao động. Khi
tâm dao động, thì tạo ra nhiều mê lầm. Mê lầm tăng nên luân hồi càng lâu trong
các nẻo.
Do vậy, ngày đêm đức Thế Tôn đích
thân dạy bảo các Tỳ kheo rằng: “Này các Tỳ kheo! Các ông chớ hành hý luận. Đối
với pháp tịch diệt mà Ta đã dạy, các ông thường nên suy gẫm, quán sát, thẩm xét
cho đúng, tinh cần tu tập Vô đắc pháp nhẫn.
Như vậy, đức Năng Tịch Đại Thánh
Pháp Vương nói bản tánh Không của các pháp tịch tĩnh, không nhiễm, không đắc,
không chỗ nương trụ; ai khéo như thật biết thì giải thoát sanh tử, nhất định sẽ
chứng được Bồ đề, Niết bàn.
(Thế Tôn nhiều lần thuyết bản tánh
Không của các pháp, không nhiễm, không đắc, vắng lặng, xa lìa, không chỗ nương
chấp… Nếu ai khéo như thật biết thì giải thoát sanh tử, nhất định chứng Bồ đề,
Niết bàn. Nhưng không biết chúng sanh có chấp nhận hay vẫn hoài nghi. Những
đoạn kinh kế tiếp của phần này cũng thuyết về huyễn hóa cũng như thế. Nếu chúng
sanh nào khéo như thật biết thì giải thoát sanh tử).
Sau khi nghe lời ấy, Na Già Thất Lợi liền hỏi lại Mạn Thù
Thất Lợi:
- Tôn giả giải thoát từ sanh tử nào?
Mạn Thù Thất Lợi đáp:
- Ngài bảo Như Lai từ sanh tử nào mà được giải thoát? Đức
Thế Tôn Thập Lực thuờng nói, quá khứ, vị lai, hiện tại là pháp sanh tử.
Na Già Thất Lợi nói:
- Đức Thế Tôn há chẳng nói tất cả pháp đều như huyễn hóa sao? Như thế, lẽ nào có hữu
tình vốn đã chứng Vô thượng Bồ đề lại có sanh tử? Vì sao? Vì Tôn giả cũng nói
các pháp chẳng thật, đều như huyễn hoá.
Mạn Thù Thất Lợi nói:
- Từ xưa đến nay, tôi đối với tánh
tướng của pháp, chưa từng tuyên thuyết, cũng chẳng phân biệt, nắm giữ hay tạo
tác. Vì sao? Vì tánh tướng của các pháp chẳng thể nêu bày, chẳng thể phân biệt,
chẳng thể nắm giữ, chẳng thể tạo tác. Tất cả hữu tình nếu như thật thấu rõ các
pháp đều như huyễn hóa, thì lẽ ra đã chứng Vô thượng Bồ đề. Nhưng bởi hữu tình
chẳng thông suốt tất cả pháp đều như huyễn hóa, nên trôi lăn sanh tử trong các
cõi. Như nhà huyễn thuật, nương vào bất cứ vật nào cũng làm ra được các vật
huyễn hóa, đó là thế gian, trời, Ma vương, Phạm thiên, Đế thích, Sa môn, Bà la
môn, Phạm chí, các rồng, Dược xoa, A tu la… chúng người chẳng phải người. Các
loài ngu si, mê chấp cho là thật có. Huyễn sư, bậc trí đều biết không cho là có
thật tánh, chỉ có các thứ tướng hư dối biến hiện.
Các pháp như vậy, tuy như huyễn như
hóa, nhưng các loài hữu tình ngu si chẳng biết rõ, nên phi hữu cho là hữu, vô
thường chấp là thường; ở trong các pháp phân biệt đủ loại: Như phân biệt sắc,
hoặc phân biệt tâm, hữu vi vô vi, hữu lậu vô lậu v.v... Phân biệt đủ thứ như
vậy. Do sự phân biệt đây, nên đối với các pháp chẳng như thật biết đều như
huyễn hóa. Bởi chẳng biết nên luân hồi sanh tử.
Nếu các hữu tình đối với tất cả pháp
như thật biết rõ đều như huyễn hóa, thì đối với Phật pháp lại chẳng tăng
trưởng. Vì sao? Vì các loài hữu tình bản lai đều có diệu pháp của chư Phật, tất
cả đã có như vậy nên không thối lui Phật trí. Do đó, các hữu tình đều có thể an
lập nơi diệu pháp của Phật, tuệ giác không động, biết pháp tánh Không, không
danh, không tướng, không nương, không trụ, không lấy, không chấp, không ngăn
ngại, không dính mắc, giống như hư không, không tàng chứa, không nắm giữ, vô
thượng vắng lặng, cùng cực vắng lặng, không sanh không diệt, không nhiễm không
tịnh, không thành không hoại, chẳng có chẳng không. Do đó, ở trong thành nhẫn
sâu xa, thường chẳng xa lìa diệu pháp của chư Phật. Vì sao? Vì diệu pháp của
chư Phật lìa tánh, lìa tướng, không thể thi thiết, không thể tuyên thuyết,
không thể nêu bày, khắp các loài hữu tình đều như hư không. (Q. 576, ĐBN)
(“Tất cả hữu tình bản lai đều có
diệu pháp của chư Phật, tất cả đã có như vậy nên không thối lui Phật trí”. Đó
cũng là lối nói của thắng nghĩa đế, hay lối nói thuộc bản hữu).
Khi Na Già Thất Lợi nghe pháp sâu xa này vui mừng hớn hở,
khen Mạn Thù Sư Lợi:
- Hay thay, hay thay! Tôn giả đã nói pháp sâu xa mầu nhiệm
không thể nghĩ bàn. Nói các hữu tình thường chẳng xa lìa diệu pháp của chư
Phật, ai tin hiểu được?
Mạn Thù Thất Lợi đáp:
- Các đệ tử chơn thật của Phật đều tin hiểu được. Đó là
những vị tùy tín hành, hoặc tùy pháp hành, hoặc Đệ bát, hoặc Dự lưu, hoặc Nhất
lai, hoặc Bất hoàn, hoặc A la hán, hoặc các Độc giác, hoặc các Bồ tát đã được
Bất thối chuyển, không động, không chuyển đối với các bạch pháp, đã khéo an trụ pháp rốt ráo Không, pháp vô sở đắc.
Những người này có khả năng tin hiểu đuợc. Vì sao? Vì tòa Bồ đề vi diệu của các
Bồ tát này đã hiện ra trước mặt, có thể đối trước thế gian, Thiên, Ma vương,
Phạm thiên, Đế thích, Sa môn, Phạm chí, A tu la, người chẳng phải người
v.v… rống lớn tiếng sư tử: “Ta ngồi kiết già nơi toà này cho đến khi được
Vô thượng Bồ đề, nếu chưa chứng được thì quyết chẳng rời toà này”. Vì sao? Vì
các Bồ tát này đã khéo an trụ pháp rốt ráo Không, pháp vô sở đắc, không thể
động vậy. Ví như cái cọc được đóng rất vững chắc, các trâu chúa… bị buộc chẳng
lay động được. Cũng vậy, Bồ tát đã khéo
an trụ pháp rốt ráo Không, pháp vô sở đắc, tất cả hữu tình chẳng thể làm khuynh
động, chẳng thể làm xa lìa năng giác, sở giác và tòa Bồ đề.
(Như biến hóa)
Na Già Thất Lợi hỏi:
- Năng giác, sở giác, và tòa Bồ đề có chỗ nói được sao?
Mạn Thù Thất Lợi hỏi gạn lại rằng:
- Vì sao gọi là Như Lai biến hóa? Vì sao gọi chỗ Như Lai
biến hóa? Vì sao Như Lai biến hóa sở nương ? Vì sao Như lai biến hóa pháp
chứng? Do đây nói là Như Lai biến hóa thuyết pháp chỉ dẫn?
Na Già Thất Lợi đáp:
- Tôi hãy chẳng thấy có thật Như Lai, huống phải thấy có Như
Lai biến hóa và chỗ biến hóa, biến hóa, biến hóa sở nương, biến hóa pháp chứng,
do đây khá nói Như Lai biến hóa thuyết pháp chỉ dẫn.
Mạn Thù Thất Lợi bảo:
- Hay thay, hay thay! Chỗ Ngài nói, chỗ Ngài biết rất đúng
lý. Ngài đã chứng được tất cả pháp vô sở đắc nhẫn, nên mới có thể nói được như
thế. Năng giác, sở giác… nên biết cũng thế.
(Tất cả pháp là Không,)
Na Già Thất Lợi nói:
- Chẳng phải tất cả pháp vô sở đắc nhẫn có khởi có hoại. Vì
sao? Vì tất cả pháp là Không, không có tự tánh, tự tướng cũng Không. Các pháp như thế không tướng, không đối,
không sắc, không thấy, ngang cùng hư không, thì làm sao khởi được pháp vô sở
đắc nhẫn?
Nếu tất cả pháp vô sở đắc nhẫn có nghĩa khởi được, thì nhẫn
tiếng vang trong hang, hoặc nhẫn ánh sáng, hoặc nhẫn nhóm bọt, hoặc nhẫn bong
bóng nước, hoặc nhẫn quáng nắng, hoặc nhẫn cây chuối, hoặc nhẫn việc huyễn,
hoặc nhẫn cảnh mộng, hoặc nhẫn biến hóa, hoặc nhẫn ảnh trong gương, hoặc nhẫn
thành Tầm hương, hoặc nhẫn cõi hư không đều có nghĩa phải khởi. Vì sao? Vì nếu
nhẫn hư không v.v… có nghĩa khởi thì điều này nhất định không có.
Nếu đại Bồ tát nghe pháp như thế mà chẳng kinh, chẳng sợ,
không mê hoặc, không nghi ngờ, tâm chẳng mờ mịt, tức là Bồ tát Vô thượng pháp
nhẫn(4) .
Mạn Thù Thất Lợi hỏi:
- Vô đắc pháp nhẫn của Bồ tát chẳng lẽ không có sai khác?
Na Già Thất Lợi đáp:
- Nếu các Bồ tát đối với các pháp nhẫn sâu xa cho rằng ta
hiểu, ta biết rõ, ta có thể thành tựu
thì gọi là hành có sở đắc. Nếu các Bồ tát đối với các pháp cho rằng ta có
thể tín thọ, ta có thể hiểu rõ bản tánh các pháp, ta có thể thấu triệt thì gọi
là hành có sở đắc. Nếu các Bồ tát cho rằng ta có thể hành Bồ tát hạnh, ta có
thể nghiêm tịnh nhiều cõi Phật, ta có thể thành thục các loài hữu tình, ta nhất
định chuyển được bánh xe pháp Vô thượng, ta có thể cứu vớt các loài hữu tình,
thì gọi là hành có sở đắc. Nếu các Bồ tát nghĩ rằng ta có hành, ta có chứng,
thì gọi là hành có sở đắc. Nếu các Bồ tát nghĩ rằng ta có thể tu hành lục Ba la
mật, 37 Bồ đề phần pháp, vô lượng đẳng trì, đẳng chí môn Đà la ni, thì gọi là
hành có sở đắc. Nếu các Bồ tát nghĩ rằng ta có thể chứng đắc vô lượng, vô biên
diệu pháp của chư Phật, như Như Lai mười lực, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu
biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả và mười tám pháp Phật bất cộng
v.v... thì gọi là hành hữu sở đắc. Nếu Bồ tát không hành hữu sở đắc, thì Vô đắc
pháp nhẫn chẳng có sai khác.
Mạn Thù Thất Lợi hỏi:
- Nếu vậy, Bồ tát làm sao tu học hướng tới hạnh Bồ đề?
Na Già Thất Lợi đáp:
- Nếu chúng Bồ tát đối với các pháp, không nắm giữ thì đó là tu học hạnh hướng tới Bồ đề. Nếu chúng Bồ
tát đối với các pháp, không nương tựa
cậy nhờ thì đó là tu học hạnh hướng tới Bồ đề. Nếu chúng Bồ tát hiện quán
các pháp, nương gá các duyên Không,
không có tự tánh, lìa ngã, ngã sở, thì đó là tu học hạnh hướng tới Bồ đề.
Nếu chúng Bồ tát dù có sở hành nhưng
không tưởng hành, thì đó là tu học hạnh hướng tới Bồ đề”.
(Như mộng ảo)
Mạn Thù Thất Lợi nói:
- Đúng vậy, đúng vậy! Đúng như Ngài
đã nói. Như người trong mộng, tuy nói là đến đi, dừng nghỉ ở khắp nơi, nhưng
thật không có đi đứng ngồi nằm, cũng không thật có chỗ để đến đi. Bồ tát cũng
thế, tuy trong lúc tỉnh, có tu hành mà không tưởng hành. Quán hạnh sở hành bản
tánh đều Không. Đối với các pháp không có nắm giữ. Thông đạt tất cả pháp
đều không có tướng trạng, không tàng chứa, không thủ giữ, đồng với hư không
v.v… bản tánh Không, vắng lặng. Nếu các Bồ tát hành được như thế, không có nắm
giữ, lìa các hý luận, thì đó là ruộng phước chơn tịnh cho trời, người…, xứng
đáng nhận sự cúng dường, cung kính của thế gian.
(Quán không triệt để như thế thì
chứng Thánh. Đây là phần thuyết pháp hay nhất của Thế Tôn về quán không và quán
các pháp như huyễn như hóa, cần phải tụng đọc thọ trì thường xuyên mới có thể
thâm nhập được).
Đại Bồ tát Na Già Thất Lợi nghe vậy, vui mừng hớn hở nói:
- Kính thưa Tôn giả! Tôi nay muốn đến thành Thất la phiệt,
vì hữu tình mà tuần hành khất thực.
Mạn Thù Thất Lợi nói:
- Ngài đi tùy ý. Nhưng khi đi chớ được cất chân, chớ được hạ
chân, chớ co chớ duỗi, chớ khởi tâm ta, chớ dấy hý luận, chớ sanh tưởng đường
sá, chớ sanh tưởng thành ấp xóm làng, chớ sanh tưởng nam nữ lớn nhỏ, chớ sanh
tưởng đường lớn, ngõ hẻm, vườn rừng, nhà cửa v.v... Vì sao? Vì Bồ đề xa lìa các
tưởng sở hữu, không cao không thấp, không nắm không buông, tâm dứt dao động,
lời mất hý luận, không có số lượng. Đó là chỗ hướng tới Bồ đề của Bồ tát. Nếu
Ngài có thể đi được như thế, thì tùy ý đi mà hành khất thực.
Na Già Thất Lợi nương vào uy lực dạy bảo ấy, nhập định Hải dụ. Ví như biển cả, nước
rộng sâu, lặng yên, có nhiều ngọc báu, đầy đủ sinh mạng các loài thủy tộc. Định
đây cũng thế, uy lực rộng sâu, thần dụng khó nghĩ, ba nghiệp an tĩnh, đủ các
báu công đức, nhiếp dưỡng hàm thức (hữu
tình).
Bấy giờ, có Bồ tát tên là Thiện Tư, vì muốn làm cho Na Già
Thất Lợi mau ra khỏi định nên khởi lập đại gia hạnh, để gây xúc chạm dao động
thân Ngài. Thiện Tư làm các núi, đại địa trong Tam thiên đại thiên thế giới
biến động sáu cách, nhưng thân tâm Na Già Thất Lợi vẫn an tĩnh, vững chãi chẳng
động, như núi Diệu Cao. Vì sao? Vì do định ấy, nên thân ngữ ý của Ngài an trụ
không động. Sau khi xuất định, mưa xuống các hương hoa, Na Già Thất Lợi hướng
về rừng Thệ đa (5), cúi mình chắp tay, chí thành cung kính, nói như vầy:
- Kính lạy đức Như Lai! Ngài đã chứng, đã nói pháp tuyệt
diệu sâu thẳm, tự tánh đều Không, không nhiễm, không đắc, khiến cho người nghe
được thắng định này.
Bồ tát Thiện Tư bèn hỏi:
- Ngài ở trong định có cảm biết động đất chăng?
Na Già Thất Lợi đáp:
- Thiện Tư phải biết! Nếu những ai
thân tâm dao động thì thấy đại địa… cũng dao động. Chư Phật Thế Tôn, Bồ tát Bất
thối chuyển, đại Độc giác và đại A la hán thân tâm an tĩnh, xa lìa sự dao động;
ở trong các pháp không thấy, không biết có động, có chuyển, có nghiêng có lay.
Vì sao? Vì các Ngài thường an trụ pháp không động, không chuyển, không nghiêng,
không lay; nghĩa là chứng tướng Không, vô tướng, vô nguyện, vắng lặng, pháp xa
lìa, bản tánh Không. Do trụ pháp này nên thân tâm không động.
Mạn Thù Thất Lợi thấy nghe vậy, vui mừng khen ngợi Na Già
Thất Lợi:
- Lành thay, lành thay! Ngài thành tựu được việc này, nay
tùy ý vào thành khất thực.
Na Già Thất Lợi đáp:
- Tôi nay đã chứng pháp thực(6) vô thượng thắng định Hải dụ,
nên chẳng còn mong cầu các loại đoàn thực(7). Tôi nay chỉ cầu bố thí, tịnh
giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát Nhã, phương tiện thiện xảo, diệu nguyện,
lực, trí Ba la mật và vô biên hạnh thù thắng khác của Bồ tát, để mau chứng Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, chuyển bánh xe diệu pháp, cứu vớt các loài hữu tình
thoát khổ lớn sanh tử, khiến cho trụ Niết bàn thanh tịnh rốt ráo. Tôi nay chỉ
muốn xả bỏ các hành, chẳng muốn nuôi dưỡng thân tâm tạp uế. Nay nhờ Tôn giả,
người bạn lành chơn tịnh, thương xót trợ lực tôi chứng được định thù thắng, tôi
xin đảnh lễ: Thù Diệu Cát Tường, Vô Biên Cát Tường, Dũng Mãnh Cát Tường, Quảng
Đại Cát Tường, Diệu Pháp Cát Tường, Thắng Huệ Cát Tường, Nan Tư Cát Tường, là
bạn lành Đại tiên, bạn lành chơn tịnh.
Mạn Thù Thất Lợi nói:
- Lành thay, lành thay! Ngài đạt được thắng định Hải dụ như thế, thấy rõ các pháp như tiếng vang, như ảnh
tượng, như mộng, như huyễn, như quáng nắng, như ánh sáng, như việc biến hóa,
như thành Tầm hương. Nay Ngài nên cầu vô
lượng, vô biên các pháp thực vô thượng
là mười lực Như Lai, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ,
đại bi, đại hỷ, đại xả và mười tám pháp Phật bất cộng v.v… để tự nuôi Pháp thân
giải thoát. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng giác đều do pháp thực đây mà an trụ,
trải qua vô lượng, vô số, vô biên đại kiếp chẳng thể nghĩ bàn như số cát sông
Hằng. Vì sao? Vì pháp thực như thế vô lậu, không ràng buộc, giải thoát hẳn sự
chìm đắm, cũng làm cho dứt hẳn tất cả kiêu mạn, không tàng chứa, không cất giữ,
không hý luận, bản tánh Không, vắng lặng. Tất cả chúng đại Bồ tát đều mong cầu
pháp thực đây, Ngài cũng nên mong cầu, chớ cầu pháp thực thế gian thấp kém!
Na Già Thất Lợi nói:
- Nay nghe Ngài tán thán pháp thực vô thượng như vậy, tôi đã
tự thấy no đủ, huống nữa là thọ dụng! Nếu đời sau, tôi ăn được pháp thực đó thì
dùng vô thực mà làm phương tiện, khi mình no đủ rồi, cũng giúp cho tất cả hữu
tình được no đủ.
Mạn Thù Thất Lợi hỏi:
- Ngài làm cho cõi hư không no đủ được chăng?
Na Già Thất Lợi đáp:
- Chẳng được.
Mạn Thù Thất Lợi hỏi:
- Ngài làm cho tiếng vang, ảnh tượng, mộng, huyễn, quáng
nắng, ánh sáng, các việc biến hóa, thành Tầm hương no đủ được chăng?
Na Già Thất Lợi đáp:
- Chẳng được.
Mạn Thù Thất Lợi hỏi:
- Ngài có thể dẫn các dòng sông chảy về đầy các biển cả được
chăng?
Na Già Thất Lợi đáp:
- Chẳng được.
Mạn Thù Thất Lợi nói:
- Các pháp cũng vậy, Ngài muốn no đủ tất cả được sao? Ngài
muốn tất cả đều no đủ, tức là muốn no đủ cõi hư không, cũng muốn no đủ tiếng
vang, ảnh tượng, mộng…; cũng muốn no đủ tất cả biển lớn; cũng muốn no đủ tất cả
pháp Không, vô tướng, vô nguyện, vô tạo, vô tác, vô sanh, vô diệt; cũng muốn no
đủ tất cả sự xa lìa, vắng lặng, lìa nhiễm, Niết bàn, giải thoát rốt ráo; cũng
muốn no đủ vô sắc, vô kiến, vô đối, nhất tướng đồng với hư không, chẳng thể thủ
chấp Như như pháp giới.
Na Già Thất Lợi nói:
- Như lời Ngài nói, thức ăn và người ăn hoàn toàn đều Không.
Vậy thời các hữu tình lẽ chẳng nhờ ăn.
Mạn Thù Thất Lợi nói:
- Đúng vậy, đúng vậy! Tất cả hữu tình đều chẳng nhờ vào vật
thực. Giả sử Phật hóa làm các loài hữu tình nhiều như số cát sông Hằng v.v… cần
vật thực thì Ngài khiến ai tạo bấy nhiêu thức ăn ư ?
Na Già Thất Lợi nói:
- Chúng sanh được biến hóa không ăn, thì đâu cần tạo ra vật
thực!
Mạn Thù Thất Lợi nói:
- Pháp và hữu tình đều như huyễn hóa, cho nên tất cả đều
không cần ăn. Nếu các hữu tình đều chẳng như thật thông đạt các pháp như huyễn
hóa, thì sẽ luân hồi sanh tử trong các cõi. Hư dối mà cho là có thể nương nhờ,
song chỗ nương nhờ ấy đều chẳng thể được. Nếu như thật quán sát pháp và hữu
tình tự tánh đều Không, không chút chơn thật thì không cần nương nhờ các vật
thực.
Na Già Thất Lợi nói:
- Tôi nay muốn dứt hẳn sự đói khát.
(Như quáng nắng)
Mạn Thù Thất Lợi nói:
- Sự đói khát còn không có, huống nữa là có đoạn dứt. Ví như
huyễn sĩ nói như vầy: “Tôi muốn tìm nước trong quáng nắng để dứt trừ sự cái
khát”. Ngài cũng thế. Vì sao? Vì tất cả pháp đều như quáng nắng, tất cả hữu
tình đều như huyễn sĩ, làm sao muốn dứt trừ đói khát. Trong pháp đã tạo hư dối
phân biệt, người đoạn và cái để đoạn đều bất khả đắc. Đã không có đói khát thì
ai trừ đoạn cái gì? Các pháp xưa nay, tự tánh no đủ, đều không đói khát thì trừ
dứt cái chi?
Kẻ ngu đối với pháp đây chẳng như thật biết, cho rằng ta đói
khát, nên tìm cách trừ dứt sự đói khát ấy. Còn những người có trí, thì như thật
biết đói khát vốn không, chẳng cầu trừ dứt. Đã thấu rõ được tánh Không của các pháp, nên chẳng còn luân hồi sanh tử
trong các nẻo nữa, xa lìa hý luận, không có phân biệt. Đối với tất cả pháp, trụ
chỗ vô trụ, không nương, không nhiễm, không vào không ra, giải thoát rốt ráo,
hết hẳn phân biệt.
Na Già Thất Lợi nói:
- Như các pháp yếu mà Tôn giả nói, đúng vậy, đúng vậy! Pháp
giới như vậy đã hiện ra!
(Người có trí thật biết đói khát vốn
không, chẳng cần cầu dứt. Thấu rõ tánh không của các pháp, nên không còn luân
hồi sanh tử trong các nẻo, xa lìa hý luận, không phân biệt nữa. Đối với tất cả pháp, trụ chỗ vô trụ,
không nương, không nhiễm, không vào không ra, giải thoát rốt ráo, hết hẳn phân
biệt. Chúng ta có thể hiểu mệnh đề sau, nhưng chúng ta không thể hiểu “đói khát
vốn không, chẳng cần cầu dứt”. Đã là chúng sanh đói thì đầu gối phải bò. Nên
những điều mà Mạn Thù Thất Lợi nói chỉ có Thánh giả dùng thiền diệt thực nên
không còn tưởng ăn. Còn phàm phu ngàn đời vẫn là phàm phu khi không thông suốt
quán không, không có thiền định làm sao sanh hỷ thực). (8)
(Thế nào là chơn pháp giới?)
Mạn Thù Thất Lợi nói:
- Chẳng phải chơn pháp giới có hiện
có mất, có co có giãn. Vì sao? Vì chơn pháp giới lìa tướng, vắng lặng, không
hiện không mất, không thể phân biệt, không thể hý luận, không nương không trụ,
không lấy không bỏ, không động không chuyển, không nhiễm không tịnh. Như cõi hư
không không động không chuyển, không lấy không bỏ, không nương không trụ, không
thể hý luận, không thể phân biệt, không hiện không mất. Các pháp cũng thế, tự
tướng vốn Không, tánh ấy cũng chẳng có tướng, bất khả đắc. Nếu tướng của các
pháp có thể đắc thì Phật vào Niết bàn cũng có thể đắc.
Tất cả pháp không có tàng chứa,
không có thủ giữ, không sắc, không thấy, không đối, không tướng, bản lai vắng
lặng. Cho nên hằng hà sa số chư Phật mặc dù đã vào Niết bàn nhưng không diệt
một pháp. Nghĩa là không diệt sắc uẩn và diệt thọ tưởng hành thức uẩn, cũng
không diệt mười hai xứ, mười tám giới. Cũng không diệt địa, thủy, hỏa,
phong, không, thức giới. Như vậy, chư Phật tuy vào Niết bàn nhưng không diệt
một pháp nào để vào Niết bàn.
Có những kẻ muốn khiến cho Niết bàn
có pháp diệt, tức là muốn làm cho cõi hư không kia cũng diệt. Vì sao? Vì tất cả
pháp tánh, bản lai tịch diệt, tự tánh vắng lặng, cực vắng lặng, nên không thể
diệt.
Những kẻ ngu si chẳng như thật biết, cho rằng ngã và ngã sở
phải diệt mới được vào Niết Bàn. Do những kẻ ấy chấp trước ngã và hữu tình, cho
đến tri giả, kiến giả và do chấp tự tánh pháp có không, cho rằng tất cả diệt
hẳn mới vào Niết bàn. Ta nói những hạng ấy không thể giải thoát được sanh, già,
bệnh, chết, sầu, than, khổ, ưu, não. Vì sao? Vì những kẻ ngu si kia chẳng biết, chẳng ngộ bản tánh các pháp,
do chẳng hiểu biết bản tánh các pháp, nên cùng Phật Thế Tôn và các đại đệ tử,
Bồ tát Bất thối chuyển, cũng như đối Thượng hữu chơn tịnh, Tiên thiên vô
thượng, thường chống trái tranh cãi. Vì tranh đấu nhau nên những kẻ ngu kia
chìm đắm mãi trong hôi uế bất tịnh. Tất cả Hiền Thánh đều xa tránh việc ấy. Bậc
trí đồng quở trách sanh tử tệ ác. Như đống phân uế gần thành phố xóm làng, ngày
đêm người vật tới lui, như thế ngày càng thêm bất tịnh, đáng ghét, hôi thối,
tiện lợi cho loài vật dơ. Cũng vậy, kẻ ngu đối với bản tánh của pháp chẳng thể
hiểu biết, nên việc ác càng thêm tăng trưởng, sanh các điều sanh tử thối tha
bất tịnh; Hiền Thánh quở trách, kẻ trí xa lìa. Ta nói những kẻ ấy chẳng thể nào
giải thoát được các thứ tội lỗi sanh già bệnh chết v.v…
Na Già Thất Lợi hỏi:
- Thưa Tôn giả! Đối với pháp, làm sao có thể như thật
biết?
Mạn Thù Thất Lợi đáp:
- Với những kẻ có khả năng dùng tâm
không phân biệt, tùy thuận xa lìa, hướng tới xa lìa, vào hẳn xa lìa, đối với
pháp mới có khả năng như thật biết.
Na Già Thất Lợi hỏi:
- Đối với việc huyễn, ai có thể xa lìa được?
Mạn Thù Thất Lợi đáp:
- Đối với việc huyễn, những người đó có thể xa lìa.
Bấy giờ, Thiện Hiện đi đến chỗ ấy hỏi:
- Hai Đại sĩ luận việc gì vậy?
Mạn Thù Thất Lợi hỏi vặn lại:
- Đại đức! Nay nói pháp nào gọi là Đại sĩ? Chúng tôi chẳng
thấy có một chút pháp nào có thể gọi là Đại sĩ mà cùng luận bàn. Đại Thánh Pháp
Vương cũng chưa từng nói có chút thật pháp gọi là Đại sĩ. Các pháp như tiếng
vang, đều chẳng chơn thật. Tiếng vang ấy nào có đàm luận gì!
Sau khi nghe lời ấy, cụ thọ Thiện Hiện nhập vào môn Tam ma
địa vô sở đắc, chừng giây lát, rồi từ định xuất, chắp tay cung kính hướng về
rừng Thệ đa nói như vầy:
- Con nay quy y những điều mà Phật đã chứng, đã thuyết, pháp
ấy rất sâu xa, vi diệu, vắng lặng, khó thấy khó biết, chẳng thể nghĩ bàn, vượt
cảnh giới tư duy, trừ hẳn chấp thủ, dứt các ràng buộc. Diệu pháp như thế chẳng
thể nghĩ bàn, khiến các hữu tình nghe được lợi ích an vui. Như các Bồ tát đã
được bất thối chuyển, Mạn Thù Thất Lợi làm thượng thủ, cho đến hoặc có các
chúng Bồ tát mới phát tâm hướng tới đại Bồ đề, đều cùng ở trong pháp sâu xa
đây, lần hồi cùng nhau đàm luận việc ấy.
Mạn Thù Thất Lợi nói:
- Đại đức! Phải biết trong đây không có kẻ thân, không phải
không có kẻ thân, cũng không có mê lầm, chẳng có kẻ mê lầm. Lại không có việc
lần hồi cùng nhau đàm luận. Vì sao? Vì không có một chút pháp nào cùng với một
chút pháp nào làm thân hay oán... Vì sao? Vì tất cả pháp vô sở hữu.
Cụ thọ Thiện Hiện lại hỏi:
- Khi nãy thấy hai Đại sĩ cùng luận pháp sâu xa, vì sao nói
không có việc đàm luận?
Mạn Thù Thất Lợi hỏi lại:
- Đại đức có nghe nói huyễn sĩ, cảnh mộng, tiếng vang,
ảnh tượng, quáng nắng, ánh sáng, biến hóa và thành Tầm hương lần hồi cùng
luận nghĩa pháp sâu xa chăng?
- Chẳng nghe.
Mạn Thù Thất Lợi nói:
- Các pháp như huyễn, như cảnh mộng, như tiếng vang…, sao có
thể nói thấy đàm luận cùng nhau? Lẽ nào có việc huyễn sĩ nghe Phật biến hóa nói
pháp nghĩa sâu xa, mà tin hiểu thọ trì, nắm giữ tướng, suy nghĩ danh thân…?
Nghe nói vậy, ngay chỗ đó Thiện Hiện nhập Diệt định.
Lúc đó, Xá lợi Tử đến hỏi Diệu Cát Tường(tức Mạn Thù Thất Lợi):
- Thưa Đại sĩ! Đại sĩ có biết Thiện Hiện đã vào những định
nào không?
Mạn Thù Thất Lợi đáp:
- Thưa Xá lợi Tử! Đại đức Thiện Hiện
chẳng trái một chút với pháp, do đó thường vào những định chẳng trái với pháp:
Định Vô sở trụ, định Vô y pháp, định Vô chấp tạng, định Hại chấp tạng. Trong
đây chẳng trụ có lời có nói, có đến có đi, có đứng có nằm. Vì sao? Vì Đại đức
Thiện Hiện tin hiểu tự tánh các pháp đều Không, bất khả đắc vậy.
(Các pháp lấy gì làm tánh?)
Xá lợi Tử lại hỏi:
- Các pháp lấy gì làm tánh?
Mạn Thù Thất Lợi đáp:
- Các pháp đều lấy vô tánh làm tánh.
Vô tánh như thế cũng bất khả đắc.
Ngay lúc ấy Thiện Hiện xuất định. Diệu Cát Tường thúc:
- Giờ ăn sắp đến, nên mau vào thành, Kinh hành khất thực!
Thiện Hiện nói:
- Đại sĩ nên biết! Tôi nay chẳng vào thành khất thực nữa. Vì
sao? Vì tôi đã xa lìa tất cả tưởng thành ấp, xóm làng; cũng đã xa lìa tưởng các
sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.
Mạn Thù Thất Lợi hỏi:
- Đại đức Thiện Hiện! Nếu đã xa lìa tất cả tưởng, thì vì sao
nay còn có đến, đi, qua, lại?
Thiện Hiện gạn lại:
- Như Lai biến hóa, sao nay lại có các pháp sắc, thọ, tưởng,
hành, thức…? Vì sao nay có đến đi, qua lại, co dũi, ngó xem?
Mạn Thù Thất Lợi đáp:
- Hay thay, hay thay! Đại đức Thiện Hiện! Đại đức là chơn tử
của Phật! Cho nên, Như Lai thường nói Thiện Hiện là người được trụ Vô tránh tối
thượng đệ nhất.
Lại nói:
- Đại đức! Thôi, gác qua việc này, tôi muốn vào thành tuần
hành khất thực. Sau khi dùng cơm xong, đến chỗ Như Lai, tôi sẽ phụng thỉnh, đãi
các Đại đức một bữa ăn đặc biệt hiếm có, khiến được thiện lợi!
Xá lợi Tử hỏi:
- Nay vì chúng tôi, Đại sĩ đãi những thức ăn gì?
Mạn Thù Thất Lợi đáp:
- Đại đức! Tôi đãi thức ăn chẳng thể
cắt khúc chia cục, chẳng thể nếm ngậm nhai nuốt, chẳng phải hương vị xúc, chẳng
nhiếp thuộc ba cõi, cũng chẳng phải không ràng buộc. Đại đức nên biết, thức ăn
mầu nhiệm như thế là thức ăn của Như Lai, chứ chẳng phải thức ăn khác.
Xá lợi Tử nói:
- Nay chúng tôi nghe Đại sĩ nói tên thức ăn hiếm có này đều
đã no đủ, huống nữa là được ăn thật.
Mạn Thù Thất Lợi nói:
- Thức ăn của tôi nhục nhãn, thiên nhãn, tuệ nhãn đều không
thể thấy.
Bấy giờ, Thiện Hiện và Xá lợi Tử nghe lời thành thật như thế
liền nhập vào Diệt định.
Bồ tát Thiện Tư hỏi Mạn Thù Thất Lợi:
- Hai thượng nhân đây nay ăn những thức ăn gì? Vào những
định gì?
Mạn Thù Thất Lợi đáp:
- Hai Tôn giả này ăn thức ăn vô lậu, vào định vô sở y, vô
tạp nhiễm. Những ai ăn thức ăn này, trụ định này thì hoàn toàn không còn ăn
thức ăn của ba cõi nữa.
Thiện Hiện và Xá lợi Tử lại xuất định, cùng Mạn Thù Thất Lợi
và các chúng Bồ tát, Thanh văn… vui mừng thăm hỏi lẫn nhau, rồi đồng đi vào
thành, tùy ý tuần hành khất thực.
Cụ thọ Thiện Hiện đi đến một nhà trống vắng, đứng lặng lẽ.
Có nữ cận sự thấy hỏi:
- Đại đức đứng đây muốn điều gì?
Thiện Hiện đáp:
- Cô phải biết, vì khất thực nên tôi đến đây đứng.
Nữ cận sự hỏi:
- Thánh giả Thiện Hiện! Nay đối với tưởng ăn, Ngài chưa biết
khắp sao?
Thiện Hiện đáp:
- Từ xưa đến nay, có bao nhiêu tưởng ăn, tôi đều đã biết
khắp. Vì sao? Vì tất cả tưởng ăn trước giữa sau đều tự nhiên, Không.
Nữ cận sự nói:
- Dạ phải! Thánh giả nên đưa tay ra, con sẽ dâng cơm.
Cụ thọ Thiện Hiện bèn đưa tay ra.
Nữ cận sự hỏi:
- Thánh giả Thiện Hiện! Tay A la hán thế này ư?
Thiện Hiện đáp:
- Tay A la hán chẳng phải thấy được, cũng chẳng thể đưa ra.
Ví như huyễn sĩ hỏi huyễn sĩ kia rằng: “Cái gì gọi là tay huyễn sĩ? Tôi nay
muốn thấy, xin đưa ra cho”. Cô phải biết! Tay của huyễn sĩ kia có thể thấy và
có thể đưa ra được sao?
Nữ cận sự nói:
- Thưa Đại đức! Chẳng thể thấy được.
Thiện Hiện nói:
- Đúng vậy. Này cô! Đức Phật nói tất cả đều như huyễn, đều
Không, nên chẳng thể nói tay A la hán là thật, có thể thấy và có thể đưa ra
được.
Khi nghe nói như thế, người nữ kia liền chẳng thấy tay Thiện
Hiện, bàn tay biến mất thật lâu làm cho người nữ kia cúng vật thực không được,
muốn để vào bát, bát cũng không hiện. Nữ cận sự kia xem quanh thân Thiện Hiện,
tìm khắp chẳng thấy tay đâu. Trong chớp mắt thân biến mất luôn. Nữ cận sự cung
kính khen Thiện Hiện:
- Hay thay, hay thay! Quả là bậc Thánh mới làm được như thế!
Thân chẳng trụ, tướng cũng chẳng hiện, thật là hiếm có. Vậy nên, Như Lai thường
nói: “Thiện Hiện được trụ Vô tránh tối thượng đệ nhất”.
Ngay khi ấy, nữ cận sự liền dứt hẳn ngã kiến, được quả Dự
lưu.
Cụ thọ Thiện Hiện bèn hiện thân ra, khen rằng:
- Hay thay, hay thay! Cô đã thành nghiệp trượng phu như thế.
Bấy giờ, người nữ vui mừng hớn hở, đem thức ăn dâng cho
Thiện Hiện. Thiện Hiện nhận rồi, trở về dùng bữa.
Mạn Thù Thất Lợi cùng các chúng Bồ tát, Thanh văn v.v… dùng
cơm xong, đồng đến chỗ Phật đảnh lễ chân Ngài, đi nhiễu bên phải ba vòng, lui
ngồi một bên, đem việc vừa rồi trình bày đầy đủ lên Thế Tôn.
Như Lai nghe những vị ấy thuật lại, bèn khen rằng:
- Hay thay, hay thay! Các ông mới thành tựu việc thù thắng
đó, phải biết đều là thần lực của Phật.
Cụ thọ Thiện Hiện cũng đem sự việc vừa mới giáo hóa nữ cận
sự được sơ quả, thưa lên Phật. Thế Tôn cũng khen ngợi Thiện Hiện phương tiện
khéo giỏi.
Mạn Thù Thất Lợi bảo Thiện Hiện:
- Nữ cận sự kia đã dứt ngã kiến, tức
phi ngã kiến, cho nên Như Lai gọi là ngã kiến. Như vậy, Đại đức! Những ai phát
tâm hướng đến Bồ tát thừa, đối với tất cả pháp, nên biết, nên thấy, nên tin
hiểu sâu.
Tin hiểu thế nào? Nghĩa là tin hiểu đúng như pháp chẳng trụ nơi tưởng. Vì sao vậy? Đại
đức Thiện Hiện! Vì kẻ tưởng pháp tức chẳng tưởng pháp, nên Như Lai gọi là tưởng
pháp.
Đại đức nên biết! Giả sử đại Bồ tát đem bảy báu đầy ắp trong
vô số thế giới mà bố thí; lại có thiện nam, thiện nữ v.v… nào đối với Bát nhã
Ba la mật đây, cho đến chỉ thọ trì một bài kệ bốn câu, vì người khác chỉ dạy,
mà không có tưởng chỉ dạy, thì thiện nam, thiện nữ này được phước báo nhiều hơn
phước trước.
Bấy giờ, Thế tôn nói kệ rằng:
Tất cả pháp hữu vi
Như sao nhòa, đèn huyễn,
Sương, bọt, mộng, chớp, mây,
Nên quán sát như thế(9).
Khi đức Bạc Già Phạm thuyết Kinh này rồi, tất cả chúng hội
Bồ tát và các Bí sô, thế gian, trời, người, A tu la… nghe Phật nói đều rất vui
mừng, tín thọ phụng hành.
Thích nghĩa:
(1). Đồng tử Mạn Thù Thất Lợi hay Bồ
tát Văn Thù Sư Lợi hay Diệu Cát Tường chỉ là một nhân vật. Hội thứ VII, dịch
giả dùng tên Mạn Thù Thất Lợi từ đầu tới cuối. Hội thứ VIII thay vì dịch giả
dùng tên Mạn Thù Thất Lợi cho Kinh văn thống nhất, dịch giả lại dùng tên Diệu
Cát Tường. Mạn Thù Thất Lợi, Văn Thù Sư Lợi hay Diệu Cát Tường chỉ là một nhân
vật. Để Kinh văn thống nhất cho toàn bộ Đại Bát Nhã này, chúng tôi dùng tên Mạn
Thù Thất Lợi cho toàn Hội thứ VIII thay vì dùng tên Diệu Cát Tường, để những
người mới học Phật khỏi ngỡ ngàng. Chúng ta cũng biết rằng Hội thứ VI, thứ VII
hay Hội thứ VIII… không phải do nhóm của Ngài Huyền Trang dịch mà nhóm của Ngài
Huyền Trang chỉ sao lại các tác phẩm do những người đi trước dịch mà thôi. Nên
chúng ta thấy tên của những nhân vật trong ba Hội trên không thống nhất nhau.
Kinh “Phật Thuyết Nhu Thủ Bồ Tát Vô Thượng Thanh Tịnh Phân Vệ” gọi Bồ tát Diệu
Cát Tường (hay Mạn Thù Thất Lợi) là Bồ tát Nhu Thủ, còn Bồ tát Na
Già Thất Lợi thì gọi là Bồ tát Long Thủ. Chúng tôi không tìm thấy thân thế, sự
nghiệp của Bồ tát Na Già Thất Lợi hay Bồ tát Long Thủ trong tự điển Phật học.
Chúng ta chỉ cần đọc và nhớ pháp thoại. Không nên quá chú tâm đến danh tướng. Trong
Kinh này Bồ tát Na Già Thất Lợi hỏi Mạn Thù Thất Lợi: Ai là người có thể chứng
Bồ đề? Bồ tát Mạn Thù Thất Lợi trả lời: “Người không chấp danh tánh thi
thiết ngôn ngữ thì có thể chứng được”. Nói
danh tánh, thân thế hay sự nghiệp cũng là lối nói của thế gian thôi.
(2). Vô biểu hay vô biểu sắc: Không
có biểu hiện bằng hình thể vật chất, người ngoài không thể nhận biết được nên
gọi là vô biểu.
(3). Vô đối: Không đối đãi. Vô tỉ:
Không so sánh.
(4). Pháp nhẫn: (法忍)
Nhẫn là chỉ cho sự chịu đựng những cảnh trái ngược mà trong lòng không sinh
khởi sân hận. Còn Pháp nhẫn là đối với các pháp nghĩa sâu xa, mầu nhiệm được
nói trong các Kinh, chẳng những không sợ hãi mà còn siêng năng đọc tụng. Là 1
trong Nhị nhẫn, 1 trong Tam nhẫn, 1 trong Lục nhẫn, 1 trong Thập nhẫn. Đại thừa
nghĩa chương quyển 11 (Đại 44, 685 trung) nói: An trụ trong thực tướng các pháp
gọi là Nhẫn. Pháp nhẫn thông thường được chia làm 2 loại: Khổ pháp nhẫn và Đạo
pháp nhẫn. Khổ pháp nhẫn là chỉ cho sự tin chịu lý Khổ đế ở cõi Dục khi vào
giai vị Kiến đạo. Còn Đạo pháp nhẫn là chỉ cho sự tin chịu lý Đạo đế ở cõi Dục
khi tiến vào giai vị Kiến đạo. Ngoài ra, hàng Bồ tát Đại thừa ở giai vị Kiến
đạo của Sơ địa tin chịu lý vô sinh, thì gọi là Vô sinh pháp nhẫn. (xt. Nhị
Nhẫn, Thập Nhẫn, Tam Nhẫn, Lục Nhẫn, Nhẫn).
Vì là pháp tu khó khăn của Bồ tát
nhất là kinh nói về vô sinh pháp nhẫn. Để hiểu rõ các pháp tu này, nên chúng
tôi ghi thêm thích nghĩa tam pháp nhẫn sau đây của Phật Quang tự điển quý vị
độc giả nghiên cứu thêm khi đọc tụng ĐBN khỏi bị ngỡ ngàng hay lúng túng:
Tam pháp nhẫn: (三法忍) Phạm: Tisra# kwàntaya#. Cũng gọi Tam nhẫn. I. Tam Pháp Nhẫn: Ba loại
nhẫn. Nhẫn nghĩa là thể ngộ, nhận thức sự lý mà tâm được an.
1- Âm hưởng nhẫn (Phạm: Ghowà=
nugama-dharma-kwànyi), cũng gọi Tùy thuận âm thanh nhẫn, Sinh nhẫn: Lắng nghe
giáo pháp mà tâm được an. Đây là giai vị Thập tín, nhờ nghe pháp âm mà liễu ngộ
nên gọi là Âm hưởng nhẫn.
2- Nhu thuận nhẫn (Phạm: Anulo=
mikì-dharma-kwànyi), cũng gọi Tư duy nhu thuận nhẫn, Nhu thuận pháp nhẫn: Nhờ
sự tư duy của chính mình mà được liễu ngộ và tùy thuận chân lý. Đây là giai vị
Tam hiền, hàng phục các hoặc nghiệp, khiến 6 trần vô tính không sinh ra được,
cho nên gọi là Nhu thuận nhẫn.
3- Vô sinh pháp nhẫn (Phạm:
Anutpattika-dharma-kwànyi), cũng gọi Tu tập vô sinh nhẫn, Vô sinh nhẫn. Nghĩa
là khế hợp chân lý. Tức Thất địa trở lên, lìa tất cả tướng mà chứng ngộ thực
tướng.
Trong Vô lượng thọ kinh ký quyển
thượng, Ngài Huyền Nhất đời Đường đem Tam nhẫn phối với Tam tuệ: Nhờ được nghe
âm giáo mà có Âm hưởng nhẫn là Văn tuệ;
nhờ tùy phần điều phục tâm mà có Nhu thuận nhẫn là Tư tuệ; nhờ quán xét chứng lí vô sinh mà có Vô sinh nhẫn là Tu tuệ. Lại trong Vô lượng thọ kinh sao
quyển 5, vị tăng người Nhật bản là Liễu huệ, có dẫn lời giải thích của ngài
Nghĩa tịch, người nước Tân la, về Tam nhẫn như sau:
1. Âm hưởng nhẫn: Nếu nghe pháp chân
thực mà không kinh nghi sợ hãi, lại tin hiểu thụ trì, ưa thích thuận theo, tu
tập an trụ, thì đó là Tùy thuận âm hưởng nhẫn bậc nhất. Đây là lời giải thích
trong phẩm Thập nhẫn.
2. Tùy thuận nhẫn: Bồ tát tùy thuận
tịch tĩnh quán xét tất cả pháp, bình đẳng chính niệm, không trái nghịch các
pháp, dùng tùy thuận vào sâu tất cả các pháp, dùng trực tâm thanh tịnh phân
biệt các pháp, tu bình đẳng quán và thâm nhập đầy đủ, đó là thuận nhẫn thứ 2, gọi
là Tùy thuận nhẫn.
3. Vô sinh pháp nhẫn: Bồ tát không
thấy có pháp sinh, không thấy có pháp diệt; nếu không sinh thì không diệt,
không diệt thì không hết, không hết thì lìa cấu, lìa cấu thì không hoại, không
hoại thì chẳng động, chẳng động thì vắng lặng, đó là Vô sinh pháp nhẫn.
[X. kinh Vô lượng thọ Q.thượng; kinh
Tọa thiền tam muội Q.hạ; kinh Nguyệt đăng tam muội Q.2; luận Du già sư địa
Q.49; Vô lượng thọ kinh sao Q.4]. II. Tam Pháp Nhẫn. Ba pháp Vô sinh nhẫn theo
quan điểm Tịnh độ giáo. Do thấy cõi Tịnh độ của đức Phật A di đà mà lòng sinh
vui mừng và được 3 Vô sinh nhẫn: Hỷ nhẫn, Ngộ nhẫn và Tín nhẫn. Sự phân
chia 3 Vô sinh nhẫn này là dựa theo 3 trạng thái của tâm là hỷ (mừng),
ngộ (hiểu rõ) và tín (tin), khi được Vô sinh nhẫn nhờ sự quán tưởng mạnh mẽ
chuyên tinh, thấy cõi Tịnh độ trang nghiêm mà tâm sinh hoan hỷ. Nhưng vẫn còn
nhiều thuyết phân vân, không biết rốt cuộc thì loại Vô sinh nhẫn này là do quán
tưởng Phật mà được, hay do lòng tin mà được? [X. Quán kinh tự phần nghĩa]. III.
Tam Pháp Nhẫn. Chỉ cho 3 thứ nhẫn: Nại oán hại nhẫn, An thụ khổ nhẫn và Đế sát
pháp nhẫn thuộc Nhẫn nhục Ba la mật. 1. Nại oán hại nhẫn: Dù bị người ta oán
ghét, hãm hại thì mình vẫn thản nhiên chịu đựng, không có tâm trả thù. 2. An
thụ khổ nhẫn: Dù có bị các nỗi khổ não bức ngặt như tật bệnh, nước lửa, dao gậy
thì vẫn yên lòng nhẫn nại, điềm nhiên bất động. 3. Đế sát pháp nhẫn: Xét kỹ thể
tính các pháp hư dối, vốn không sinh diệt, tin hiểu chân thực, tâm không vọng
động, an nhiên lãnh nhận. [X. Nhiếp đại thừa luận thích Q.7 (Thế thân); Duy
thức luận thuật ký Q.10, phần đầu; Hoa nghiêm đại sớ sao Q.5]. (xt. Nhẫn).
Tất cả thích nghĩa từ trước đến nay
về về pháp nhẫn hay vô sanh pháp nhẫn đều không được đầy. Đây là lần thích
nghĩa đầy đủ nhất xin lưu ý Quý vị chớ có bỏ qua.
(5). Rừng Thệ đa (hay Kỳ đà, jetta) hay Thệ đa
lâm là trú xứ của Kỳ Thọ Cấp Cô Độc Viên hay Tịnh xá Kỳ Hoàn, nằm trong Thành
Vương Xá (hay Xá vệ, Sràvasti), thủ đô xứ Ma Kiệt đà. Tương truyền rằng trưởng
già Tu Đạt Đa còn gọi là Trưởng giả Cấp Cô Độc muốn mua khu vườn của Thái tử Kỳ
Đà (nằm trong rừng Thệ đa) để cất tịnh xá cho tăng đoàn Phật có chỗ ở và tu
tập. Thái tử “thử lòng” Cấp Cô Độc, nên nói nếu ông đem vàng lót đầy vườn thì
tôi sẽ bán cho. Cấp Cô Độc lấy xe chở vàng đến trải gần xong, Thái tử vui vẻ
bảo thôi đừng chở vàng thêm nữa và Thái tử xin cúng tất cả vườn tược cây cối
trong vườn cho đức Phật. Khi tịnh xá hoàn thành rồi thì người ta gọi nơi này là
Kỳ Thọ Cấp Cô Độc Viên (tên của hai người ghép lại). Cũng nên biết, Đức Phật đã
trải qua hơn 20 năm thuyết giảng hầu hết các Kinh điển Đại thừa vào cuối đời
Ngài tại tịnh xá này. Thiện Hiện quay về hướng rừng Thệ đa lễ lạy là nghĩ đến
công đức của Đấng Thế Tôn giáo hóa. TB
(6). Pháp thực: Ví các pháp Phật như
thức ăn hằng ngày.
(7). Đoàn thực: Thức ăn vò viên,
người Ấn khi xưa vò viên thức ăn rồi bỏ vào miệng, không dùng muỗng nĩa.
(8). Tôi có đọc một quyển sách lâu
rồi, không nhớ nguồn gốc, có kể lại câu chuyện như sau: Có một người làm nghề
mộc, một hôm vào rừng đốn cây để làm đồ vật cho vua. Thấy một cây cổ thụ có ụ
cây kỳ dị, nên muốn đốn về. Nhưng khi đốn ụ cây dù lưỡi búa có bén cách mấy
cũng không chặt nổi. Có người đi ngang qua thấy vậy mới nói đây không phải là
bọng cây mà đây là một người đang ngồi thiền, qua nhiều năm tháng nên hóa gỗ.
Nói như vậy xong, người đó mới đi tìm một loại nước đặc biệt chế vào ụ cây. Tự
nhiên cây nứt nẻ và hiện ra một người thật. Người đó đứng dậy rồi đi mất. Người
thuật lại câu chuyện này cho rằng người nhập thiền không cần ăn uống lâu ngày
có thể biến thành gỗ đá. Câu chuyện này khó tin. Nhưng trong ĐBN có nhiều đoạn
kinh nói người ngồi thiền, vì vui với thiền nên quên ăn, gọi là “thiền hỷ thực”.
Còn trên cõi trời các chư thiên dùng thiền định, sống bằng thức nên không cần
đoạn thực hôi tanh như chúng ta. Chúng tôi xin mở dấu ngoặc ở đây khi kể những
chuyện thần thoại viễn vong, thiếu khoa học. Tin hay không là tùy người, chẳng
có gì đáng quan tâm cho lắm!
(9). Bốn bản dịch của các Ngài: Bồ
Đề Lưu Chi, Chân Đế, Cấp Đa và Nghĩa Tịnh, cũng giống như Ngài Huyền Trang: Bài
kệ này sử dụng 9 thí dụ: Tinh (tinh tú, sao), Ế (ảo ảnh của mắt bị bệnh), Đăng
(đèn), Ảo (ảo thuật), Lộ (sương mai), Bào (bóng nước), Mộng (chiêm bao), Điện
(Ánh chớp), và Vân (đám mây) để diễn tả cái vô thường của toàn bộ các pháp hữu
vi. Nguyên bản tiếng Phạn cũng dùng 9 thí dụ:
Những hòa hiệp mà có,
Như sao mù, đèn huyễn,
Sương, bọt, mộng, điện, mây,
Nên khởi quán như thế.
Nhưng bản dịch của Ngài Cưu Ma La
Thập thì chỉ sử dụng 6 thí dụ mà thôi: Chiêm bao (mộng), ảo thuật (ảo), bóng
nước (bào), sương mai (lộ) và ánh chớp (điện) là 6 ví dụ:
Nhất thiết hữu vi pháp
Như mộng ảo bào ảnh
Như lộ diệc như điện
Ưng tác như thị quán.
Lối dịch của Ngài La Thập ngắn gọn
hơn. Vì vậy, quý độc giả thấy trong các Kinh thuộc hệ Bát Nhã có hai bài kệ
khác nhau như trên.
Sơ giải:
Cũng như Hội thứ VII, chúng tôi
chiết giải chi tiết theo từng đoạn Kinh của chính văn. Nên trong phần sơ giải
này chúng tôi chỉ chiết giải tổng quát mà thôi:
1. Ai là
người có thể chứng Bồ đề:
“Na Già Thất Lợi hỏi:
- Ai là người chứng được?
Mạn Thù Thất Lợi đáp:
- Người không chấp
danh tánh thi thiết ngôn ngữ thì có thể chứng được.
Na Già Thất Lợi hỏi:
- Vậy người đó chứng như thế nào?
Mạn Thù Thất Lợi đáp:
- Người mà tâm không sanh, chẳng niệm Bồ đề và tòa Bồ đề,
cũng chẳng thương nhớ tất cả hữu tình, dùng tâm vô biểu, tâm vô kiến thảy năng
chứng Vô thượng Bồ đề.
Na Già Thất Lợi hỏi:
- Nếu vậy, Tôn giả dùng những tâm nào để được Bồ đề?
Mạn Thù Thất Lợi đáp:
- Tôi không thấy mình hướng đến,
cũng chẳng thấy có chỗ hướng đến, đều không chỗ học; tôi cũng chẳng thấy đời
sau đến cội Bồ đề ngồi tòa Kim cương chứng đại Bồ đề, chuyển bánh xe diệu pháp
cứu vớt sanh tử. Vì sao? Vì các pháp không động, không thể phá hoại, không thể
thu nhiếp, rốt ráo Không, vắng lặng. Tôi đem những tâm chẳng hướng tới như thế
để được Bồ đề”.
Ở phần này cũng như phần “Mạn Thù
Thất Lợi” của Hội thứ VII, Mạn Thù Thất Lợi cũng dùng lối nói mà chúng ta tạm
gọi là phản biện hay nghịch đảo để phát biểu quan điểm của mình: “Người mà tâm không sanh, chẳng niệm
Bồ đề và tòa Bồ đề, cũng chẳng thương nhớ tất cả hữu tình, dùng tâm vô biểu,
tâm vô kiến thảy năng chứng Vô thượng Bồ đề”.
Người chứng được Vô Thượng Bồ đề là người không nghĩ về Bồ đề cũng chẳng thương
nhớ tất cả hữu tình. Nếu quan niệm như vậy thì làm sao chứng Bồ đề? Vì vậy, mới
nói Mạn Thù Thất Lợi “lật úp” những nghĩ tưởng thế gian. Tuy nhiên, nó lại rất
đạo lý. Bởi vì khi tâm không, vô thức, vô niệm, vô tâm thì mới có thể đạt huệ
mà chứng Thánh. Vì vậy, Na Già Thất Lợi cho lời nói đó của Mạn Thù Thất Lợi là
nương vào thắng nghĩa đế, như chúng ta đã luận giải trong Hội thứ VII.
2. Tất cả pháp là huyễn, là mộng, là bèo bọt, sương khói...
Lấy dịp đi khất thực Mạn Thù Thất
Lợi Bồ tát và Na Già Thất Lợi Bồ tát luận về các pháp thế gian và cho rằng: Tất
cả
pháp như huyễn, như mộng, như trò biến
hóa, như tiếng vang trong hang động, như bóng sáng, như ảnh trong gương, như
bong bóng nước, như quáng nắng, như lột bẹ chuối, như thành Tầm hương v.v... Vì
sao? Vì “tất cả pháp đều chẳng thể lấy, cũng chẳng thể bỏ, không thành
không hoại, chẳng phải pháp đối với pháp có tạo tác và có diệt hoại. Không có
pháp nào đối với pháp nào mà có hòa hiệp, có chia lìa. Vì sao? Vì tất cả pháp
chẳng hợp chẳng tan, tự tánh đều Không, lìa ngã, ngã sở, đồng cõi hư không,
không nói, không chỉ, không khen, không chê, không cao, không thấp, không tổn,
không ích, chẳng thể tưởng tượng, chẳng thể hý luận, bản tánh hư tịch, rốt ráo
đều Không, như huyễn như mộng, vô
đối, vô tỉ, sao có thể khởi tâm phân biệt nó được”.
Đó là cái thấy về tất cả pháp thế
gian giống như các Hội trước thường đề cập. Tất cả pháp nói chung tánh tướng
đều như huyễn hóa. Huyễn hóa tức Không và trong Tánh không, không phân biệt
chấp trước, nên chẳng nắm giữ cất dấu hay tạo tác.
Phần “Na Già Thất Lợi”, quyển 576, ĐBN, Mạn Thù Thất Lợi
nói:
- “Từ xưa đến nay, tôi đối với tánh tướng của pháp, chưa
từng tuyên thuyết, cũng chẳng phân biệt, nắm giữ hay tạo tác. Vì sao? Vì tánh
tướng của các pháp chẳng thể nêu bày, chẳng thể phân biệt, chẳng thể nắm giữ,
chẳng thể tạo tác. Tất cả hữu tình nếu như thật thấu rõ các pháp đều như huyễn
hóa, thì lẽ ra đã chứng Vô thượng Bồ đề. Nhưng bởi hữu tình chẳng thông suốt
tất cả pháp đều như huyễn hóa, nên trôi lăn sanh tử trong các cõi. Như nhà
huyễn thuật, nương vào bất cứ vật nào cũng làm ra được các vật huyễn hóa, đó là
thế gian, trời, Ma vương, Phạm thiên, Đế thích, Sa môn, Bà la môn, Phạm chí,
các rồng, Dược xoa, A tu la… chúng người chẳng phải người. Các loài ngu si, mê
chấp cho là thật có. Huyễn sư, bậc trí đều biết không có thật tánh, chỉ có các
thứ tướng hư dối biến hiện.
Các pháp như vậy, tuy như
huyễn như hóa, nhưng các loài hữu tình ngu si chẳng biết rõ, nên phi hữu
cho là hữu, vô thường chấp là thường; ở trong các pháp phân biệt đủ loại: Như
phân biệt sắc, hoặc phân biệt tâm, hữu vi vô vi, hữu lậu vô lậu v.v... Phân
biệt đủ thứ như vậy. Do sự phân biệt đây, nên đối với các pháp chẳng như thật
biết đều như huyễn hóa. Bởi chẳng biết nên luân hồi sanh tử”.
Ở các phẩm trước, cụ thọ Thiện Hiện
thường thuyết rằng: Đối với tánh tướng của pháp, tuy có thuyết mà cho là chưa
từng nói một chữ, thì làm gì có phân biệt, nắm giữ hay tạo tác. Nên, phần này
Mạn Thù Thất Lợi cũng nói với Bồ tát Na Già Thất Lợi như vậy.
Cùng đoạn Kinh dẫn chứng trên, Mạn
Thù Thất lợi nói tiếp:
“... Các loài hữu tình
bản lai đều có diệu pháp của chư Phật, tất cả đã có như vậy nên không thối lui
Phật trí. Do đó, các hữu tình đều có thể an lập nơi diệu pháp của Phật, tuệ
giác không động, biết pháp tánh Không, không danh, không tướng, không nương,
không trụ, không lấy, không chấp, không ngăn ngại, không dính mắc, giống như hư không, không tàng chứa, không
nắm giữ, vô thượng vắng lặng, cùng cực vắng lặng, không sanh không diệt, không
nhiễm không tịnh, không thành không hoại, chẳng có chẳng không. Do đó, ở trong
thành nhẫn sâu xa, thường chẳng xa lìa diệu pháp của chư Phật. Vì sao? Vì diệu
pháp của chư Phật lìa tánh, lìa tướng, không thể thi thiết, không thể tuyên
thuyết, không thể nêu bày, khắp các loài hữu tình đều như hư không”.
Không những Kinh Đại Bát Nhã mà
nhiều Kinh khác như Kinh Pháp Hoa chẳng hạn nói bản lai chúng sanh đều có Phật
trí (tri kiến Phật) như chàng cùng tử có sẵn hạt châu trong chéo áo mà không tự
biết, nên phải lang thang đầu đường xó chợ kiếm ăn. Ở đây, Mạn Thù Thất Lợi
được xem là Bồ tát trí tuệ nhất trong hàng Bồ tát cũng nói: “Các loài hữu tình bản lai đều có
diệu pháp của chư Phật, tất cả đã có như vậy nên không thối lui Phật trí. Do
đó, các hữu tình đều có thể an lập nơi diệu pháp của Phật, tuệ giác không động,
biết pháp tánh Không, không danh, không tướng, không nương, không trụ, không
lấy, không chấp v.v…”
Câu này phải giải thích ra sao? Bản
lai chúng sanh đều có diệu pháp của chư Phật, mà diệu pháp chư Phật tức là Phật
trí, là Bát Nhã Trí. Nếu an lập trong diệu pháp này thì tuệ giác như như bất
động, nên biết pháp tánh là không, thì không chấp đắm nên không trôi lăn như
chàng cùng tử. Vì vậy, Mạn Thù Bồ tát mới bảo: “... tất cả các pháp đều chẳng thật, đều như tiếng vang, không danh, không
tướng, không thể nắm giữ. Đối với pháp đây mà chấp trước, tức là hành hý luận.
Nếu hành hý luận thì trôi lăn trong sanh tử. Đối với tất cả pháp như tiếng
vang, chúng sanh chẳng như thật biết, khởi lên các sự tranh đấu. Vì khởi sự
tranh đấu, nên tâm bị dao động. Khi tâm dao động, thì tạo ra nhiều mê lầm. Mê lầm
tăng nên luân hồi trong các nẻo”.
Nhưng, rốt ráo phải nói những điều
nghĩ tưởng của Mạn Thù Thất Lợi không ngoài quan niệm bản hữu mà chúng ta
thường nói trước đây “Các loài hữu tình bản lai đều có diệu pháp của chư Phật,
tất cả đã có như vậy nên không thối lui Phật trí”. Bản lai chính là cái mà chúng ta gọi là bản hữu.
3. Đối với tất cả pháp làm sao biết như thật?
Trong toàn bộ Đại Bát Nhã pháp hội
nào Phật cũng thường lặp đi lặp lại các pháp là giả thi thiết, là huyễn hóa, là
trì độn, là không thật có, là không, là như như, là bình đẳng. Người nào có cái
thấy như vậy thì tâm được thanh tịnh. Trong Hội này Na Già Thất Lợi Bồ tát hỏi
Mạn thù Thất Lợi Bồ tát:
- “Thưa Tôn giả! Đối với pháp, làm sao có thể như thật
biết?
Mạn Thù Thất Lợi đáp:
- Với những kẻ có khả năng dùng tâm
không phân biệt, tùy thuận xa lìa, hướng tới xa lìa, vào hẳn xa lìa, đối với
pháp mới có khả năng như thật biết”. (Q.576,
ĐBN)
Đó là chìa khóa ngàn năm một thuở,
trực tiếp trả lời chúng ta. Nếu tâm không phân biệt, tu hạnh xa lìa. Xa lìa cái
gì? Xa lìa tướng, xa lìa ngã, ngã sở, xa lìa phân biệt, chấp trước thì pháp nào
pháp nào cũng là chân như thật tướng. Dĩ nhiên, nếu những ai thân tâm còn dao
động thì sẽ không bao giờ thấy được thật tướng các pháp.
4. Thân tâm không dao động.
Phần “Na Già Thất Lợi”, quyển 576, Hội thứ VIII, Na Già Thất
Lợi Bồ tát đáp lời Bồ tát Thiên Tư: - “Thiện Tư phải biết! Nếu những ai
thân tâm dao động thì thấy đại địa… cũng dao động. Chư Phật Thế Tôn, Bồ tát Bất
thối chuyển, đại Độc giác và đại A la hán thân tâm an tĩnh, xa lìa sự dao động;
ở trong các pháp không thấy, không biết có động, có chuyển, có nghiêng có lay.
Vì sao? Vì các Ngài thường an trụ pháp không động, không chuyển, không nghiêng,
không lay; nghĩa là chứng tướng Không, vô tướng, vô nguyện, vắng lặng, pháp xa
lìa, bản tánh Không. Do trụ pháp này nên thân tâm không động”.
Phật Bồ tát nói tất cả pháp như
huyễn như mộng mục đích là chỉ cho chúng sanh biết tất cả pháp hữu vi chỉ do
duyên hợp nên có, duyên hết thì tan. Đừng bám víu vào cái hư ảo mà phải chịu
nhiều khổ lụy. Nhưng, thành bại hoại không hay phân ly phi tán trở thành luật
vô thường luôn luôn đe dọa cuộc sống của chúng sanh. Không ai không đau đớn
trước cảnh sanh ly tử biệt vợ khóc chồng, mẹ khóc con... Đó là những cái đứt
ruột của cuộc sống! Làm sao thân tâm không dao động. Sống là khổ, là quá khổ!
Chỉ những bậc La hán, Bồ tát, Phật thân tâm đoạn diệt, an trụ trong pháp không
chuyển không lay mới tránh khỏi cảnh đoạn trường này. Phải “dọn mình” tu khổ
hạnh, tu pháp không, vô tướng, vô nguyện, vô sanh, vô diệt, vắng
lặng, xa lìa thì thân tâm không còn dao động, đối với tất cả pháp mới có khả
năng như thật biết mà chứng tánh.
5. Chơn pháp giới.
Chắc chúng ta ai cũng nhớ rõ câu hỏi
Na Già Thất Lợi Bồ tát: Đối với các pháp làm sao như thật biết? Mạn Thù Bồ tát
trả lời: “Với những kẻ có khả năng dùng tâm không
phân biệt, tùy thuận xa lìa, hướng tới xa lìa, vào hẳn xa lìa, đối với pháp mới
có khả năng như thật biết". Điều đó có nghĩa: Nếu tâm không phân biệt,
tu hạnh xa lìa. Xa lìa cái gì? Xa lìa tướng, xa lìa ngã - ngã sở, xa lìa phân
biệt chấp trước, không còn phiền não dính mắc thì pháp nào pháp nào cũng là
chân như thật tướng.
Phần “Na Già Thất Lợi”, quyển 576, Hội thứ VIII, ĐBN, Mạn
Thù Thất Lợi nói:
- “Chẳng phải chơn pháp giới có hiện
có mất, có co có giãn. Vì sao? Vì chơn
pháp giới lìa tướng, vắng lặng, không hiện không mất, không thể phân biệt,
không thể hý luận, không nương không trụ, không lấy không bỏ, không động không
chuyển, không nhiễm không tịnh. Như cõi hư không không động không chuyển, không
lấy không bỏ, không nương không trụ, không thể hý luận, không thể phân biệt,
không hiện không mất. Các pháp cũng
thế, tự tướng vốn Không, tánh ấy cũng chẳng có tướng, bất khả đắc. Nếu tướng
của các pháp có thể đắc thì Phật vào Niết bàn cũng có thể đắc.
Tất cả pháp không có tàng chứa, không có thủ
giữ, không sắc, không thấy, không đối, không tướng, bản lai vắng lặng. Cho nên
hằng hà sa số chư Phật mặc dù đã vào Niết bàn nhưng không diệt một pháp. Nghĩa là không diệt sắc uẩn và diệt
thọ tưởng hành thức uẩn, cũng không diệt 12 xứ, 18 giới. Cũng không diệt địa,
thủy, hỏa, phong, không, thức giới. Như vậy, chư Phật tuy vào Niết bàn nhưng
không diệt một pháp nào để vào Niết bàn.
Có những kẻ muốn khiến cho Niết bàn có pháp diệt, tức là
muốn làm cho cõi hư không kia cũng diệt. Vì sao? Vì tất cả pháp tánh, bản lai
tịch diệt, tự tánh vắng lặng, cực vắng lặng, nên không thể diệt”.
Diệt là diệt cái tâm chấp ngã chấp
pháp, làm sao diệt được các pháp. Kinh cũng thường nói tất cả pháp nhập vào
pháp giới. Pháp giới, pháp tánh, thật tế... cùng chơn như thật tướng không hai
không khác. Đó là lý do tại sao Hội thứ VI nói về chơn như, pháp giới, pháp
tánh, bình đẳng tánh. Hội thứ VII phần “Mạn Thù Thất Lợi” cũng nói về chơn như,
pháp giới, pháp tánh, thật tế. Bây giờ, Hội thứ VIII, phần “Na Già Thất Lợi”
cũng đề cập tới chơn pháp giới. Biết như thật các pháp là biết cái “chân như
thật tướng”. Nhưng chân như thật tướng này chẳng khác pháp giới, pháp tánh,
bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, bất tư nghì giới, an ẩn
giới, Tánh không, Diệu hữu, Chân thiện
diệu sắc, Tất kính không, Hư không, Trung thực li tâm, Nhất tâm, Phi hữu phi vô
trung đạo, Đệ nhất nghĩa đế, Vi diệu tịch diệt, Bồ đề, Niết bàn v.v... Hiểu và
thâm nhập các pháp này tức giác ngộ. Vậy, Bồ tát muốn giác ngộ phải tu chánh
đạo, tu Bồ tát hạnh, tu tất cả pháp Phật.
6. Bồ tát làm sao tu hạnh hướng đến Bồ đề?
Phần “Na Già Thất Lợi”, quyển 576, Hội thứ VIII, ĐBN, Mạn
Thù Thất Lợi hỏi:
- “... Bồ tát làm sao tu học hướng tới hạnh Bồ đề?
Na Già Thất Lợi đáp:
- Nếu chúng Bồ tát đối với các pháp, không nắm giữ thì đó là tu học hạnh hướng tới Bồ đề. Nếu chúng Bồ
tát đối với các pháp, không nương tựa
cậy nhờ thì đó là tu học hạnh hướng tới Bồ đề. Nếu chúng Bồ tát hiện quán
các pháp, nương gá các duyên Không,
không có tự tánh, lìa ngã, ngã sở,
thì đó là tu học hạnh hướng tới Bồ đề. Nếu chúng Bồ tát dù có sở hành nhưng không tưởng hành, thì đó là tu học hạnh hướng
tới Bồ đề.
Mạn Thù Sư Lợi nói:
“(...) Quán hạnh sở hành bản tánh đều Không. Đối
với các pháp không có nắm giữ. Thông đạt tất cả pháp đều không có tướng
trạng, không tàng chứa, không thủ giữ, đồng với hư không v.v… bản tánh Không,
vắng lặng. Nếu các Bồ tát hành được như thế, không có nắm giữ, lìa các hý luận,
thì đó là ruộng phước chơn tịnh cho trời, người…, xứng đáng nhận sự cúng dường,
cung kính của thế gian”.
Hành mà không thấy năng sở là vô đạo
hành, hành như vậy nên mới gọi là hành Bồ tát đạo, hành hạnh hướng đến Bồ đề,
nghĩa là
không tàng chứa, cất giữ đồng với hư
không v.v… bản tánh hư vô, vắng lặng thì có thể làm phước điền cho toàn thể
chúng sanh.
Rốt Phật bảo:
Những hòa hiệp mà có,
Như sao mù, đèn huyễn,
Sương, bọt, mộng, điện, mây,
Nên khởi quán như thế.
Phải quán toàn bộ pháp hữu vi như sao mù, đèn huyễn,
như sương, bọt, điện chớp, mây. Chúng tụ
tán đổi dời, có đó rồi mất đó, vô thường biến hoại nên gọi là Không. Nếu biết
như thế thì vạn duyên buông xuống, “nhất thiết phóng xả hết”, mới có thể thật
sự cầu giải thoát. Chữ “giải” là giải trừ phiền não lậu hoặc, những hệ lụy thế
gian. Thoát là “thoát” khỏi lục đạo sanh tử luân hồi. Người tỉnh giác đối với
sự nghiệp thế gian đều buông xuống hết. Sự nghiệp thế gian chẳng qua chỉ là
những tạo tác sanh tử luân hồi. Được như vậy thì chúng ta có thể ngâm:
Ngoảnh nhìn lại cuộc đời
như giấc mộng
Được mất bại thành bỗng chốc hóa hư không!
Bùi Giáng.
Đến đây chấm dứt phần tám,
(Hội thứ VIII).
Hội thứ VIII nhắc nhở hành giả Bát Nhã phải quán các pháp
như huyễn, như mộng, như điện chớp, như sương khói, như mây, như hòn bọt nổi tụ
tán, đổi dời... chỉ cho cái vô thường của toàn bộ pháp hữu vi. Ngày nào, chúng
sanh còn thấy tất cả pháp là thật dù chỉ bằng mảy lông sợi tóc, thì ngày đó
chúng sanh vẫn còn chìm trong bể khổ. Huyễn là không, không thật, hư giả. Bỏ
được cái bóng dáng sáu trần hư giả thì thể tánh mới hiển bày. Khi được thể tánh
hiển bày thì tánh giác sẽ tràn đầy khắp cả mười phương hư không thế giới. Đó
chính là pháp thân. Vậy muốn được pháp thân hiển lộ thì phải lìa huyễn cấu.
Huyễn cấu là gì? Là thân tứ đại, là bóng dáng sáu trần chớ không có gì khác.
Kinh Viên giác Phật dạy: “Vì huyễn thân diệt cho nên huyễn tâm cũng diệt. Vì huyễn
tâm diệt nên huyễn trần cũng diệt. Vì huyễn trần diệt, cho nên “cái huyễn” cũng
diệt. Vì “cái huyễn diệt” cũng diệt cho nên cái phi huyễn hiện bày”. Phi huyễn chính là chân.
Vì vậy, phần sau của Hội thứ VIII này là nhấn mạnh về Tánh
Không Bát Nhã. Vì sao? Vì trò huyễn chẳng khác nào mộng ảo, mộng ảo tức là
không, chẳng có gì để nắm bắt, cất giữ. Vạn duyên đều buông, mảy trần chẳng
nhiễm, không còn gì để thi vi tạo tác nữa. Tánh không, Bản tánh không nâng Bát
nhã Ba la mật đến đỉnh cao tột cùng của nó. Toàn thể Bát Nhã là nói về Tánh
Không này, từ đầu tới cuối cốt để hành giả Bát Nhã đạt được trí không này thoát
khỏi ngục tù sanh tử, thong dong tự tại mà sang bờ kia.
Hằng ngày phải quán không, đi đứng nằm ngồi sáu thời đều
quán không. Quán cho đến mảy niệm không còn, năng sở tan hoang. Quán cho đến
khi thành thục thì thấy được chân như, mới có thể tháo gỡ được gông cùm của cảm
quan và ý thức (nhị nguyên, phân biệt, chấp trước) nhưng không phải để thay thế
vào đó cái Thánh trí tự giác ngay được, mà để tâm như như bất động, bình đẳng
và thanh tịnh và một khi tâm đạt được trạng thái đó thì linh chi sẽ mở tức dọn
đường cho Thánh trí tự giác hiện nguyên hình của nó.
Nếu đọc Hội thứ VII và Hội thứ VIII mà “tỉnh” ra, thì có thể
nói là thông đạt hay chứng ngộ Bát nhã Ba la mật, có lẽ chúng ta không cần phải
lặn lội nhọc nhằn tìm pháp nọ pháp kia nữa.
Hội thứ IX tiếp theo, có tên “Kim Cương Năng Đoạn” phần, chỉ
có một quyển: Quyển thứ 577. Tuy nói là một quyển, nhưng hết sức thậm thâm, rất
được các nhà khảo luận chiếu cố không ít. Kinh này không do nhóm của của Ngài
Huyền Trang dịch, mà do người khác dịch và nhóm của Ngài Huyền Trang chỉ sao
lại.
Văn từ của Hội này giản dị, pháp vị không phức tạp như hai
Hội VII và VIII như vừa tụng qua. Phật thuyết về các giáo lý đoạn trừ vọng niệm chấp trước để ứng dụng vào công phu tu
tập, cốt dứt trừ các tập khí phiền não tương tục. Đoạn trừ vọng niệm có nghĩa
là chặt đứt gốc rễ phiền não, các vô minh, tham ái, chấp ngã chấp pháp... thì
có thể tháo gỡ tất cả mọi trói buộc, mọi hệ lụy thế gian. Nên các giáo lý ở đây
có tánh cách phá chấp triệt để, Phật không muốn người nghe tàng trữ cất dấu bất
cứ thứ gì. Phật nói đó rồi “phủi” đó: “Sang sông thì phải quên đò”, “pháp Phật
còn phải bỏ huống chi phi pháp”.
Nên một số luận gia bình giải Kinh này phát biểu một cách
quyết liệt rằng: Kinh “Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật” chẳng khác nào Kiếm Kim
Cương, mỗi khi vung lên thì có thể chặt đứt gốc rễ phiền não lậu tận một cách
triệt để. Chúng ta nói một cách nhẹ nhàng giáo pháp của kinh “Kim Cương Năng
Đoạn” là giáo pháp phủi sạch tất cả. Phật nói đó rồi phủi đó, không để chúng
sanh tàn trữ cất dấu bất cứ pháp gì: “Pháp Phật còn phải bỏ, hiến chi phi
pháp”,“sang sông thì phải quên đò”... mục đích gột sạch tâm thức để trở về cái
bản nhiên thanh tịnh của thửa ban đầu. Nói khác, giáo pháp năng đoạn này chẳng
khác nào một bài pháp xả chắp, cố phủi sạch tâm thể cho được rỗng không trong
suốt để được vô thức, vô niệm, vô tâm mà chứng Thánh.
---o0o---