TOÁT YẾU
Đây chỉ là tóm lược 13 chủ đề của
phần thứ III Tổng luận, không có gì mới mẻ ở đây. Mục đích giúp độc giả nắm
vững những gì đã diễn nói trong phần thứ III Tổng luận với toát yếu ngắn gọn
như sau:
1- Những phát biểu của Bát nhã Ba la mật về con người liên hệ
đến sự sống, cách sống, lối sống hay nói khác về quan niệm sống liên quan đến
hạnh phúc hay khổ đau. Đây không phải là những phát biểu hời hợt, mà là một thứ
phát biểu triết lý ở tầng cao của Phật đạo nhằm thức tỉnh tâm thức con người.
Những gì Bát nhã Ba la mật thuyết đều là những
biểu thị ẩn mật, đòi hỏi phải lặn sâu vào tâm thức mới có thể thâm nhập
được và một khi thâm nhập được rồi thì đó chính là máu mủ trí tuệ trong tự thể
của chính các ông. Vì vậy, muốn học, muốn hiểu Bát nhã Ba la mật thì tự mình
phải đào sâu những biểu thị hay pháp nghĩa hiển hiện của nó.
Nhưng, Bát
nhã Ba la mật luôn luôn lưu ý độc giả Bát nhã Ba la mật không ngôn thuyết, không nói năng, luận bàn... Nói như vậy nhưng
không phải vậy. Đại Bát Nhã có cả thảy 600 quyển, chiếm 1/3 Đại tạng Kinh, hơn
7000 trang sách đánh máy khổ lớn, tổng cộng hơn 5 triệu chữ, truyền tụng qua
không biết bao nhiên thời đại, tốn không biết bao nhiêu công sức giấy mực. Vậy
mà Bát nhã Ba la mật lúc nào cũng cho là không nói năng luận bàn. Vì những điều
Bát nhã Ba la mật muốn nói không phải dành cho trí năng thường tục. Bát Nhã không muốn chúng ta tìm kiếm thứ gì
trên mặt nổi của ngôn từ. Những ai muốn học Bát nhã Ba la mật phải lặn sâu
vào tâm thức và tự mình đào xới, tự hội những gì mà Bát nhã Ba la mật biểu thị
hay hàm ngụ, điều đó có nghĩa là đừng học Bát Nhã trên mặt nổi của ngôn từ mà
“học Bát Nhã phải học ở chỗ không có văn tự”, Cổ đức nói như thế. Đó là lối hóa
đạo đặc biệt của Bát nhã Ba la mật. Phải có “đổ mồ hôi sôi nước mắt” thì mới có
miếng ăn, không ai dọn sẵn cho mình! Trâu Bảo Lộc ăn cỏ, trâu Đồng Nai không
thể no được!
2- Vậy, muốn học Bát nhã Ba la mật phải làm sao? Phải tự mình
khám phá những biểu thị của nó. Bát
nhã Ba la mật tự biểu thị nhân sinh quan và vũ trụ quan của chính nó qua những
cái gọi là nội hay ngoại mà uẩn xứ giới và vạn pháp chung quanh tiêu biểu cho
những biểu thị đó. Không có uẩn xứ giới, không có pháp giới. Không có pháp giới
thì không có Phật, không có Bồ tát, không có Bát nhã Ba la mật, không có chúng
sanh, không có “thông tin” hay “giao cảm” giữa vạn hữu với con người. Thế giới
và con người chỉ có thể hiểu biết qua cái thấy nghe hiểu biết của các quan năng
và đối tượng của các quan năng này mà thôi.
Trung tâm
của các quan năng này chính là tâm và
tâm sở, ngã và ngã sở. Ngã (con người)
và ngã sở (pháp giới) trở thành đầu mối của những chuyển biến bất tận của
thế giới hiện tượng cũng như nội tâm. Thấy biết có dính ngã vào đó nên có phân
biệt, và do phân biệt nên có chấp. Có chấp mới có chia chẻ phân hóa. Thế giới
vốn dĩ là một, cái duy nhất một biến thành đa thù. Đó chính là điên đảo, từ đó
sầu than khổ não bắt đầu! Muốn yên vui thì đừng
phân biệt, không phân biệt khác. Dứt phân biệt thì không chấp, không chấp thì không phân hai, nên nói là bất nhị. Bất nhị thì bất động, tức
chẳng chuyển chẳng lai nên được như như, như đó là Như Lai, nên nói là bình
đẳng và bình đẳng chính là thanh tịnh.
Tất cả
giáo pháp nói về tâm và tâm sở, ngã và ngã sở, những giáo pháp nói về phân biệt
hay không phân biệt, chấp hay chẳng chấp, nhị hay bất nhị: Đó là những biểu thị
của Bát nhã Ba la mật. Qua những biểu thị này chúng ta có thể hiểu rõ thế giới
nội và ngoại như thế nào để từ đó có thể rút ra kinh nghiệm sống, cách sống để
cải thiện sinh hoạt tâm linh được tốt đẹp hơn!
3- Người thế gian vì mê lầm chấp tâm, chấp pháp cho là thật
có, Thánh giả thấy các pháp chỉ là giả danh, không thật như huyễn như mộng,
các pháp vốn trì độn ngu si, các
pháp là không, không có tánh tướng,
thể dụng, các pháp lúc nào cũng như,
chẳng lúc nào chẳng như, các pháp như vậy là như vậy, như đó là bình đẳng; bình đẳng nên nói là thanh tịnh. Thánh giả có cái thấy như
thực (yathàbhùtam) trong chân như thật tướng của các pháp, nên các Ngài không
bị trói buộc bởi các pháp. Do đó, mới giải thoát mà qua được bờ kia. Rồi từ bờ
kia nhìn lại bờ này mới tuyên bố các pháp là không thật, giả danh chỉ là huyễn
mộng...
Chỉ cần quán và hiểu rõ một trong
mười thí dụ về huyễn mộng, 18 pháp không... thì cũng đủ an thân lập mệnh không
cần tầm cầu các pháp môn siêu việt nào khác!
4- Cái nhìn của chúng sanh là cái nhìn “nhập thị”, cái nhìn
tương đối của thế giới phân hai, thế giới của thiện ác, nhiễm tịnh, xấu tốt,
thương ghét, lấy bỏ… nên gọi là Tục đế.
Trong khi cái nhìn của Thánh giả là cái nhìn “xuất thị”, cái nhìn trong suốt
của thế giới tuyệt đối trong đó không tội-phước, không-tốt xấu, không uế-tịnh,
không có minh hay vô minh, không có phiền não hay Bồ đề, không có sanh tử hay
Niết bàn…, nên gọi là Thánh đế.
Nhưng nói Thánh hay phàm, tuyệt đối hay tương đối cũng còn nằm trong nhị
nguyên, thì vẫn đi ngược Phật đạo. Nói như thế chưa phải là chứng tánh, vẫn còn
thấy cái hố cách biệt giữa Chân và Tục. Làm sao lấp cái hố phân chia ngăn cách
này để đem chúng sanh hội ngộ cùng chư Phật.
Để tìm giải pháp dung hòa, tạo mối
thông cảm để đem chúng sanh đến gần cảnh giới Phật, Bồ tát Long Thọ dùng Trung
quán tạo con đường giữa gọi là Trung Đạo.
Con đường này không có nghĩa là đưa hai đối thủ đến một thỏa hiệp nào cả mà nó
chỉ muốn giữ vai trò trung lập, tạo điều kiện để hai bên sánh vai nhau trong
việc thực hiện nếp sống bao dung Thánh thiện giữa các thiên chấp của cuộc đời
thường trong tư duy cũng như trong tạo tác.
Nói Tục đế, Chân đế hay Trung đạo đế không phải nói về sự phân chia
ngăn cách giữa bờ này, bờ kia hay ở giữa hai. Pháp giới chỉ là một, cái duy
nhất một. Sư phân chia cốt chỉ cái hư với cái thực, cái mê đối với ngộ, cái bên
này hay bên kia. Đứng một bên là thiên chấp, là thiếu sót, cục bộ kể cả đứng ở
giữa. Trung đạo tạo nhịp cầu giao duyên bắc ngang hố thẳm Chân Tục để chúng
sanh có cơ hội đặt chân lên bờ kia. Nói như vậy có nghĩa Trung đạo chỉ là con
đường giữa cố lấp cái hố thẳm Có Không. Có cũng không mà Không cũng không nốt.
Khi hiểu ra rằng tất cả đều không thì không ôm giữ cất giấu nữa.
5- Nhưng nói gì đi nữa, Bát nhã Ba la mật phải trả lời thẳng
những câu hỏi hết sức thực tế mà phàm phu muốn biết: Bát nhã Ba la mật là gì? Bát nhã Ba la mật có thể đáp ứng những đòi
hỏi tâm linh hay không? Phải nắm bắt Bát nhã Ba la mật như thế nào để sống,
sống một kiếp sống Thánh thiện?
“Bát Nhã” là trí tuệ, là tri kiến của tất cả chúng sanh. “Ba la mật” là bờ bên kia, bờ giác.
Ghép hai cụm từ Bát nhã Ba la mật với nhau thì có thể nói nhờ trí tuệ giác tánh
mới có đời sống tự tại gọi là giải thoát mà có thể lên thuyền Bát Nhã qua bờ
bên kia.
Vì vậy, phải nói tu Bát nhã Ba la
mật để được Giác ngộ và Chánh giác, nhờ Giác ngộ và Chánh giác mới có Nhất
thiết trí trí. Do đó mới có thể tìm thấy con đường giải thoát mà sang bờ kia.
Nhưng đây không phải là một tiến trình nhờ cái này mà có cái kia. Tất cả đều hỗ
tương sanh khởi giữa Giác ngộ, Chánh giác và Nhất thiết trí trí khi ánh sáng
của buổi bình minh chiếu vào cội Bồ đề sau 49 ngày thiền định của Phật.
Với những lý do đó, nên nhà thiền
thường nói “không Giác ngộ không phải là Bát Nhã” hay nói “chỉ thành tựu Giác
ngộ trong Bát Nhã hay ngược lại”. Đó là những đòi hỏi của tâm linh hay mục tiêu
tối hậu của những ai hành trì Bát nhã Ba la mật.
Nhưng thực thi mục tiêu đó không
phải dễ, phải tùy thuận Nhất thiết trí trí, phải lấy vô sở đắc làm phương tiện
để tư duy ngũ uẩn là vô thường, khổ, vô ngã, là không, vô tướng, vô nguyện, là
tịch tịnh, viễn ly... Đó là những tư duy
Thánh thiện về cảnh giới mà mình muốn sống. Nhưng tư duy như vậy vẫn còn
thiếu sót, phải tư duy ngũ uẩn như bệnh hoạn, như ung thư, như tên đâm, như lửa
dữ, như tai ương… Đó là tất cả những tư
duy đen tối do ngũ uẩn tạo thành. Một đàng thì tư duy Thánh thiện, đàng
khác thì tư duy cái đen tối do ngũ uẩn tạo thành. Vậy, phải tư duy như thế nào
mới cho đúng? Cuối cùng Kinh bảo phải tư duy ngũ uẩn như vô sanh vô diệt, vô
nhiễm vô tịnh... cốt đối trị những thứ phân hóa của cuộc đời thường để từ đó
chúng sanh tự mình vươn lên trong ánh sáng giác ngộ mà qua bờ kia.
Vậy, phải khởi quán tất cả pháp
không có ngã và ngã sở. Vì ngã và ngã sở là đầu mối của bao kiếp đọa đầy của
tất cả chúng sanh. Có ngã, ngã sở là có kiến. Có kiến là có chấp, có chấp là có
phiền não. Nhân kiến là gốc của phiền não. Lìa nhân kiến thì phiền não chẳng
sanh. Rốt lại, phải quán tất cả pháp “không pháp nào chẳng đều không”, thì được
tự tại. Vậy, quán không, vô tướng, vô nguyện là bước qua được cửa giải thoát.
Đó là nắm bắt đúng Bát nhã Ba la mật. Nói như thế nhưng không phải thế. Rốt
ráo, không có pháp nào chẳng đều không, Bát nhã Ba la mật cũng không nốt. Vậy,
nắm bắt là nắm bắt cái gì?
6- Thành tựu Bát nhã Ba la mật tức Giác ngộ. Đây không phải là
hai vấn đề riêng rẽ mà đây là sự liên hệ hỗ tương mà yếu tố trọng yếu chính là
phải học và thực hành các pháp thực tu thực chứng. Các pháp thực tu thực chứng
này còn gọi là các pháp mầu Phật đạo, tư lương Bồ đề Bồ tát hay còn gọi là Bồ
tát đạo. Đó là phương tiện chánh nẩy
sanh Bát Nhã, không có phương tiện đó không có Bát nhã Ba la mật, không có
Bồ tát, không có Phật, Phật đạo hay Đại thừa.
Tuy nhiên, những phương tiện thứ yếu khác không phải là không quan trọng,
nhưng mấy ai để ý đến! Phật phải dùng những từ như mật ngữ, pháp ấn hay đại
luân tự để nhấn mạnh tầm quan trọng của chúng trong việc tầm cầu Giác ngộ. Ở
đâu hay bất cứ pháp hội nào, không những đối với Kinh ĐBN mà còn đối với các
Kinh khác nữa, Phật đều nói đến vô sở
hữu, bất khả đắc. Kinh nói: “... pháp vô sở hữu bất khả
đắc đó
chính là Bát nhã Ba la mật”. Kinh cũng
nói: “Vô sở đắc là tướng của Bát nhã Ba la mật; vô sở đắc là tướng của Vô
Thượng Bồ Đề; vô sở đắc cũng là tướng của người hành Bát nhã Ba la mật”. Vô sở hữu, bất khả đắc cũng được định nghĩa
là “tên khác của Không”. Như vậy, vô
sở hữu, bất khả đắc là cụm từ huyền diệu được xem như Thánh chỉ đặt ngang hàng
với Bát nhã Ba la mật hay Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vậy, học và hành Bát Nhã
phải luôn nhớ hai cụm từ quan trọng này. Ngày nào còn nắm bắt buông bỏ có
không, ngày đó còn trầm luân khổ ải!
Đi song song với Vô sở hữu, Bất khả
đắc, từ Vô tướng lại là một thứ
Thánh chỉ khác trong việc tu tập Bát nhã Ba la mật. Kinh bảo: “Tu vô tướng là tu Bát nhã Ba la
mật, tu như vậy chóng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề”. Vì vậy, Phật lấy thí dụ Phạm Chí Thắng quân nhờ tu pháp môn ly tướng mà
chứng được Nhất thiết trí trí.
Không những Vô tướng giữ vai trò
quan trọng trong việc tu tập Bát nhã Ba la mật mà Vô Tánh cũng được nâng lên thành một thứ “diệu tướng” trong sự
thành tựu Thánh trí. Phẩm “Diệu Tướng”, Hội thứ III, ĐBN nói: “Các đại Bồ tát lấy vô tánh làm
Thánh đạo” và Phật bảo “Ta lúc bấy giờ,
quán tất cả pháp bình đẳng lấy vô tánh làm tánh, do một sát na tương ưng Bát
Nhã chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề”. Chúng ta có thể hiểu tầm quan trọng của các từ này trong đạo
Phật!
Phẩm “Học
Quán”, quyển 03, mở đầu cho pháp hội thứ I, còn thêm vào đó một số các từ khác
như Vô trụ, Vô xả, Vô hộ, Vô thủ, Vô
cần, Vô tư, Vô trước làm phương tiện tu hành. Chúng ta cũng có thể thêm vào danh sách đó các từ như Vô thức, Vô niệm, Vô tâm nếu muốn. Tất cả các từ trên dẫn xuất từ Tánh
không. Chúng là sở hành của trí, sở hành của Bát nhã Ba la mật cũng là sở hành của Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Chúng như
là phương tiện đưa đến thành tựu Bát Nhã hay Giác ngộ, vì chúng hộ trì chánh
pháp và chúng cũng là chánh pháp xuất sanh từ Bát nhã Ba la mật.
Ngoài những từ trên, ĐBN
luôn luôn lặp đi lặp lại những câu nói như trong phẩm “Thế Gian”, quyển 547, Hội thứ IV, TBBN. Như sau:
-
“Pháp Ta đã dạy lấy không, vô tướng, vô
nguyện, vô tạo, vô tác, vô sanh, vô diệt, tịch diệt, Niết bàn, pháp giới làm tướng. Vì sao? Vì pháp
Phật dạy không có chỗ nương tựa, ví như hư không, không thể biểu thị được”.
-
“Tất cả pháp tánh, không sanh, không khởi, không biết, không thấy. Vì tất cả
pháp Không, vô sở hữu, không chỗ nương tựa và không có sự lệ thuộc. Do nhân
duyên này nên không sanh, không khởi,
không biết, không thấy”.
-
“Bát Nhã sâu xa có thể hiển bày Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thế gian Không, thế
gian xa lìa, thế gian thanh tịnh, thế gian vắng lặng, cho nên nói có thể hiển
bày thật tướng thế gian. Vì sao? Vì Không,
xa lìa, thanh tịnh, vắng lặng là các tướng như thật của thế gian”.
Những từ như, không,
vô tướng, vô nguyện, vô tạo, vô tác, vô sanh, vô diệt, tịch diệt, Niết bàn, xa
lìa, thanh tịnh, vắng lặng... nói trong phẩm “Thế Gian”. Đó là tướng như thật
biểu thị thế gian. Thông hiểu các từ này là hiểu thế gian, là hiểu Phật pháp,
là hiểu Bát nhã Ba la mật hay nói khác những từ này thật sự đóng góp vào sự
giác ngộ, vì chúng cũng phát xuất từ giác ngộ như các từ vô sở hữu, bất khả
đắc, vô tướng, vô tánh... nói trên.
Quyển 575, phần “Mạn Thù Thất Lợi”,
Hội thứ VII, Phật cũng bảo:
“Mạn
Thù Thất Lợi! Như Ta đã nói, tất cả các loại pháp môn đều đồng một vị là vị xa
lìa, vị vắng lặng, vị giải thoát không có điều chống trái”.
7- Câu hỏi được đặt ra: Mục tiêu của việc tu hành Bát nhã Ba la mật là gì? Ai cũng có thể trả lời câu hỏi này một cách dễ dàng: Tu
Bát Nhã để Giác ngộ, đạt Chánh giác và Nhất thiết trí trí. Đó là ba mục tiêu
chính yếu của người hành trì Bát Nhã. Biết như vậy, nhưng tìm Bát Nhã ở đâu?
Bát Nhã đề cập ở đây phải hiểu là trí tuệ, trí tuệ này phải tìm ở đâu? Kinh bảo
chẳng tìm trong sở hành của Bồ tát,
vì sở hành của Bồ tát là chẳng cầu, cũng
chẳng cầu hay lìa 5 uẩn, 12 xứ, 18 giới và tất cả các pháp
Phật. Chẳng cầu ở uẩn xứ giới, vì uẩn xứ giới là cái lôi kéo đưa con người
vào cảnh giới đen tối. Do đó, không cầu ở uẩn xứ giới là phải. Nhưng uẩn xứ
giới như nhiều lần chúng ta phát biểu nó chính là sanh địa, là môi trường sống
của con người, nó là củi lửa gạo nước... lìa nó làm sao sống. Nên, Kinh lại bảo
là không nên lìa uẩn xứ giới là vì vậy. Nên Phật bảo “6 căn 6 trần 6 thức đưa
chúng sanh vào địa ngục và cũng chính những thứ này đưa chúng sanh vào Niết
bàn”. Nương vịn vào chúng để tầm cầu nắm bắt là rơi vào sanh tử, chế ngự được
chúng thì được an vui giải thoát nên nói Niết bàn.
Riêng, Nhất thiết trí, Đạo tướng trí
hay Nhất thiết trí trí là sở hành của Bồ tát, đó là trọng tâm của tu hành. Kinh
nói tu Bát Nhã mà lìa tâm Nhất thiết trí giống như chim xí to lớn từ trời cao
rơi xuống mà không có cánh(1) nếu không bị thương tật thì cũng phải bỏ mạng.
Vậy, tại sao không cầu nó như là sở hành? Vì nếu hành mà có mong cầu nắm bắt
tức có nương vịn như dây leo nương dậu, như chim nương cành tức còn tùy thuộc trói
buộc. Nhưng hành thì vẫn hành mà không nên mong cầu, cũng chẳng nắm bắt cất giữ
dù là Nhất thiết trí, Đạo tướng trí hay Nhất thiết chủng trí hay pháp tối cao
nào khác được xem như mang lại nhiều công đức nhất.
Vậy, câu hỏi được đặt ra là phải cầu
sở hành Bát Nhã ở đâu? Kinh trả lời: “Sở hành Bát nhã Ba la mật của đại
Bồ tát phải cầu ở trong sở thuyết của Thiện Hiện”(2).
Sở cầu của Thiện Hiện là không cầu ở
ngũ ấm, lục nhập, lục thức, lục xúc hay ở trong tất cả pháp Phật; cũng không
lìa ngũ ấm, lục nhập, lục thức, lục xúc hay
tất cả pháp Phật. Sở cầu là như vậy, nên sở hành Bát nhã Ba la mật của đại Bồ
tát phải cầu ở sở thuyết của Thiện
Hiện là như thế nào? Sở thuyết của Thiện Hiện là hành
Không, Vô tướng, Vô tác hay vô nguyện.
Thiện Hiện được xem là “Giải Không bậc nhất” trong hàng đệ tử Phật và chính
Phật giao cho nhiệm vụ dạy bảo trao truyền cho các Bồ tát trong các pháp hội
Đại Bát Nhã. Vậy những ai theo chân Thiện Hiện tìm sở hành như vậy, thì được
xem là chân đệ tử Phật, từ khẩu Phật sanh, từ tâm Phật hóa sanh!
8- Một câu hỏi khác được đặt ra là quán cái gì cũng không thì
làm thế nào thông đạt Bát nhã Ba la mật?
Không có ở đây, không có ở kia, cũng
không ở giữa; không có sự thông đạt, không bị thông đạt, không chỗ thông đạt,
không thời thông đạt, không người thông đạt. Tất cả đều giả lập...
tất cả đều rỗng không, chẳng có gì để thông đạt! Nếu như thật hiểu như thế tức
là thông đạt, thông đạt tuệ.
Cái gì không thể hiểu, không thể
biết, không thể nghĩ tưởng nổi; muốn cho người khác hiểu biết thì chỉ còn cách
là thí dụ hay lập phương tiện giả nói
hay thi thiết. Không giả nói, không thi thiết thì không thể hiểu tất cả
pháp. Đó là lập cước của Phật. Trước khi Phật xuất hiện, chúng ta không biết
đến ba cõi: Dục, Sắc và Vô sắc. Phật thi thiết có ba cõi, chúng sanh luân hồi
không thoát khỏi ba cõi này. Nhờ Phật giả nói do tội chướng mà chúng sanh phải
lặn hụp trong ba cõi. Chúng ta hiểu được lời nói này là do giả nói, nên chúng
ta biết ba cõi. Nhưng Kinh nói ba cõi cũng không thật, chỉ giả thi thiết. Nhờ giả
nói, thi thiết mới hiểu. Nên suy ra giả nói, thi thiết là một thứ phương tiện
của việc hóa đạo đặc biệt trong việc dẫn dắt chúng sanh.
Vậy,
câu nói: Tất cả đều giả lập... tất cả đều rỗng không! Nếu như thật hiểu như thế
tức là thông đạt, thông đạt tuệ. Đây không phải là lời bí ẩn. Rốt ráo, tất cả
là giả nói, rỗng không, chẳng có gì thông đạt ở đây, hiểu như vậy là thông đạt
tuệ!
Kết luận này có thể gây ngạc nhiên
mọi người? Ghi nhớ thuộc ký ức tức phải qua trung gian của thức. Nhưng ký ức
chỉ có thể cất giữ trong một thời gian ngắn. Còn thâm hiểu, thông đạt bất cứ chi tiết nhỏ nhặt nào nó
là tuệ. Tuệ không cần nhớ, không cần kêu gọi đến ký ức, nó trở thành máu mủ
trong tự thể, sẵn sàng phát chiếu như tia điện chớp. Nó là một thứ trực giác
thực chứng không qua trung gian của bất cứ thứ gì. Biết liền biết, đó là cái
diệu dụng hiện tiền của tuệ. Còn chần chừ suy nghĩ là sai, nó thuộc thức. Thức
thì không bao giờ với tới tuệ nổi.
Muốn vói tới tuệ thì phải có sự
chuyển y và bất cứ sự chuyển y nào cũng bắt nguồn từ Bát Nhã. Nên Kinh nói: “Thế nào là thành tựu thông đạt Bát
Nhã? Là không có việc nhỏ nào mà không thông đạt hoàn toàn. Đối với tất cả việc
hoàn toàn thông đạt nên gọi là thông đạt Bát Nhã. Như vậy, Bát Nhã đối với tất
cả việc đều siêu việt. Nếu thành tựu Bát Nhã như vậy thì các điều thấy, nghe,
ngửi, nếm, biết đều thông đạt”. Thấy nghe
hiểu biết hết, điều đó có nghĩa là đối với tất cả pháp thông đạt được thật tánh
của chúng. Thông đạt thật tánh tất cả pháp thì không còn điên đảo, không bị
dính mắc trói buộc nữa. Không bị vướng mắc trói buộc nên có thể phá bỏ vô minh,
các triền phược liền giải thoát tức sang được bờ kia!
9- Tu hành Bát Nhã có nghĩa là để chứng
đắc chăng?
- Phẩm “Pháp Giới”, quyển 567, Hội
thứ VI, ĐBN. Phật bảo Thắng Thiên
vương: “Thiên vương nên biết! Bát nhã Ba la mật xuất thế có khả năng thấy
đúng như thật nên gọi là chứng, hậu đắc trí thông suốt nên gọi là đắc”.
Đó là nói theo ngôn ngữ thế tục có
chứng có đắc trong việc tu Phật. Nhưng chứng hay đắc chỉ thuộc nội tâm, chỉ có
mình tự thầm biết, thầm ngộ, không thể chỉ nói cho người. Nên những đoạn Kinh
được dẫn chứng sau đây lại nói khác:
- Phẩm “Thấy Bất Động”, quyển 521, ĐBN. Nói: Năng chứng,
sở chứng, sở hành…của Bồ tát trọn bất khả đắc, như sau:
“Các
Bồ tát Ma ha tát sở chứng nghĩa thú trọn bất khả đắc, năng chứng Bát nhã Ba la
mật cũng bất khả đắc, pháp chứng, kẻ
chứng, chỗ chứng, thời chứng cũng bất khả đắc.
Cụ thọ Tu Bồ Đề trình Phật: Bạch Thế Tôn! Các Bồ tát Ma ha
tát quán tất cả pháp đã bất khả đắc, có nghĩa thú nào khá làm sở chứng, có Bát
nhã Ba la mật nào khá làm năng chứng, lại có những gì mà thi thiết được pháp
chứng, kẻ chứng, chỗ chứng, thời chứng. Như vậy, vì sao chấp do đây chứng được
Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề? Pháp Thanh văn hay Duyên giác chẳng thể chứng,
huống chi muốn chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Bạch Thế Tôn! Nếu hành như thế
đấy gọi Bồ tát hành vô sở đắc. Nếu Bồ tát Ma ha tát năng hành cái hành
vô sở đắc như thế, đối tất cả pháp không bị ám chướng. Bạch Thế Tôn! Nếu Bồ tát
Ma ha tát nghe như thế mà tâm chẳng chìm đắm, cũng chẳng buồn hối, chẳng kinh
chẳng sợ là hành Bát nhã Ba la mật.
Bạch Thế Tôn! Bồ tát Ma ha tát này khi hành như thế chẳng
thấy các tướng, chẳng thấy ta hành, chẳng thấy chẳng hành, chẳng thấy Bát nhã
Ba la mật là sở hành của ta, chẳng thấy Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề là sở chứng
của ta, cũng lại chẳng thấy cả xứ thời và chứng”.
Chẳng thấy năng sở, chẳng thấy chỗ
chứng, thời chứng… thì lấy gì để chứng? Đoạn Kinh sau đây, bậc Thánh sẽ trả lời
tại sao?
- Phần “Na Già Thật Lợi”, quyển thứ 576, ĐBN: Bồ tát Long Cát Tường (Na Già Thất
Lợi) nói với Bồ tát Mạn Thù Thất Lợi là muốn chứng Vô Thượng Bồ đề. Mạn Thù
Thất Lợi bảo: “Pháp Vô thượng Bồ đề chẳng thể chứng.
Ngài muốn chứng pháp ấy tức là hành hý luận. Vì sao? Vì Vô thượng Bồ đề lìa
tướng, tịch diệt. Vậy Ngài muốn trở thành người giữ lấy sự hý luận hay sao? Ví
như có người nói như vầy: “Tôi khiến huyễn sĩ ngồi tòa Bồ đề, chứng huyễn Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề”. Lời nói như thế quá ư hý luận. Vì các huyễn sĩ còn
bất khả đắc, huống nữa là khiến cho chứng được huyễn đại Bồ đề!
Huyễn
đối với pháp huyễn chẳng hợp chẳng tan, chẳng lấy chẳng bỏ, tự tánh đều Không.
Chư Phật Thế Tôn nói tất cả pháp chẳng thể phân biệt, đều như huyễn mộng. Nay Ngài muốn chứng Vô thượng Bồ đề, há
chẳng phải thành người phân biệt huyễn pháp! Nhưng tất cả pháp đều chẳng
thể lấy, cũng chẳng thể bỏ, không thành không hoại, chẳng phải pháp đối với
pháp có tạo tác và có diệt hoại. Không có pháp nào đối với pháp nào mà có hòa
hiệp, có chia lìa. Vì sao? Vì tất cả pháp chẳng hợp chẳng tan, tự tánh đều
Không, lìa ngã, ngã sở, đồng cõi hư không, không nói, không chỉ, không khen,
không chê, không cao, không thấp, không tổn, không ích, chẳng thể tưởng tượng,
chẳng thể hý luận, bản tánh hư tịch, đều rốt ráo Không, như huyễn như mộng, vô
đối, vô tỉ, sao có thể khởi tâm phân biệt nó được”.
Vậy, tu Phật không có nghĩa chứng
Phật quả hay đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Phật là danh tự, Vô Thượng Chánh
Đẳng Bồ đề cũng là danh tự. Danh tự cũng như bất cứ danh tự nào khác là do
người khác đặt ra hay người khác gán cho. Chứng hay không chứng cũng tự mình
biết, không thể nói cho người. Đó chỉ là nội chuyển, chuyển từ mê sang ngộ,
không có gì khác. Tu Phật đừng bao giờ nghĩ đến chứng hay đắc. Nếu còn nghĩ
tưởng mong cầu nắm bắt là còn sở đắc, thì sẽ không đắc, không hiện quán. Vậy,
đừng bao giờ nói đến chứng nói đắc khi tu Phật, nếu không sẽ bị ăn 30 gậy.
10- Bây giờ, nói đến công đức Bát Nhã. Nói công đức Bát Nhã là nói đến bố thí Ba la mật: Bố thí mà không thấy
mình là người cho, không thấy vật cho, không thấy kẻ nhận, mới được xem là bố
thí Ba la mật. Đó là tam luân không tịch, Bố
thí như vậy mới được xem là công đức vô lậu không gì bằng, nên nói là công đức
vô bờ bến! Đó là loại công đức thường nghe, quá quen tai trong Kinh Phật. Nhưng
công đức cao tột lại là công đức trí tuệ.
Không riêng bố thí Ba la
mật mà các Ba la mật khác như tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, thiền định và Bát
Nhã cũng góp phần vào bố thí vật chất hay tinh thần này nữa. Nơi nào có khổ nơi
đó có Bồ tát! Hạnh nguyện của các Ngài
là hy sinh cá nhân mình, sống nhiều đời nhiều kiếp ra vào sanh tử để cứu khổ
chúng sanh và làm cho thế gian này mỗi ngày một tươi đẹp trong sáng hơn. Các
Ngài lấy thân làm thân giáo tu phạm hạnh, kham nhẫn chịu đựng mọi trạng huống
dù bị ngược đãi, lăng nhục, phỉ báng... hay phải chịu trăm ngàn hình phạt dầu
sôi lửa bỏng ở địa ngục, thay thế cho chúng sanh vì hạnh nguyện. Các Ngài cũng
luôn luôn cải thiện tánh đức trí tuệ để soi sáng mình, người trong việc thành
thục chúng sanh, thanh tịnh quốc độ. Tất cả hạnh nguyện cao cả đó chính là công
đức trí tuệ.
Nhưng tại sao đoạn Kinh
sau đây phẩm “Mạn Thù Sư Lợi”, quyển 575,
Hội thứ VII, ĐBN, nói ngược lại những phát biểu trên mà được gọi là
công đức chơn thật?
“Mạn
Thù Thất Lợi bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Con quán Bát Nhã thâm sâu này không có
tướng vô vi, không có các công đức,
không sanh, không diệt, không sức, không khả năng, không đến, không đi, không
vào, không ra, không tổn, không ích, không biết, không thấy, không thể, không
dụng, chẳng phải người tạo tác, cũng không thể làm cho các pháp sanh diệt,
không làm cho các pháp là một hay là khác, không thành, không hoại, chẳng phải
tuệ, chẳng phải cảnh, chẳng phải pháp phàm phu, chẳng phải pháp Thanh văn,
chẳng phải pháp Độc giác, chẳng phải pháp Bồ tát, chẳng phải pháp Như Lai,
chẳng phải chứng hay không chứng, chẳng đắc hay không đắc, chẳng phải tận hay
bất tận, chẳng vào sanh tử, chẳng ra khỏi sanh tử, chẳng nhập Niết bàn, chẳng
ra khỏi Niết bàn, đối với các pháp của Phật chẳng thành chẳng hoại, đối với tất
cả pháp chẳng phải tạo tác hay không tạo tác, chẳng phải có thể nghĩ bàn hay
không thể nghĩ bàn, lìa phân biệt, dứt hý luận. Bát nhã Ba la mật này hoàn toàn không có công đức, làm sao Như Lai
khuyên các hữu tình siêng năng tu học?
Phật
bảo đồng tử Mạn Thù Thất Lợi:
-
Những điều ngươi đã nói đó tức là công
đức chơn thật của Bát nhã Ba la mật. Các thiện nam thiện nữ nào nếu biết như
vậy thì gọi là chơn thật tu học Bát nhã Ba la mật thậm thâm”.
Không có gì là nghịch lý hay phản
biện ở đây. Phật nói là để cứu độ chúng sanh chứ Phật nói không phải để huyễn
hoặc những người con Phật. Những điều Mạn Thù Thất Lợi nói là những biểu thị
của thế giới lưỡng nguyên đối đãi, những mâu thuẫn cùng cực bất tận của cuộc
đời thường. Cái mâu thuẫn đó bắt nguồn từ cảm quan và ý thức gây nên. Như nhiều
lần chúng tôi nói: Cảm quan và ý thức là cái giúp mình sống, nhưng đôi khi lừa
phỉnh mà mình không tự biết. Khi hiểu biết như vậy và nói cho người khác hiểu
biết để tránh sai lầm. Đó là công đức.
Mạn Thù Thất Lợi Bồ tát thừa hiểu
điều này nên đại diện chúng sanh để thưa hỏi Phật. Phật bảo: “Những điều ngươi đã nói tức là công
đức chơn thật của Bát nhã Ba la mật”. Tất
cả pháp chẳng phải chứng hay không chứng, chẳng phải đắc hay không đắc, chẳng
phải tận hay bất tận, chẳng vào sanh tử chẳng ra khỏi sanh tử, chẳng nhập Niết
bàn hay chẳng ra khỏi Niết bàn, chẳng thành chẳng hoại, chẳng phải tạo tác hay
không tạo tác v.v... Thiện nam thiện nữ nào biết như vậy thì gọi là chơn thật
tu học Bát nhã Ba la mật thậm thâm. Biết như vậy là biết theo đệ nhất nghĩa đế
tức biết như Thánh giả, tức biết nguồn gốc của tất cả mâu thuẫn xung đột bắt
đầu từ đâu? Khi biết chúng bắt nguồn từ đâu tức biết được nguyên nhân sanh khởi
của nó, nếu biết nguyên nhân sanh khởi thì có thể cứu chữa được. Bệnh này xuất
phát từ cảm quan và ý thức. Cảm quan và ý thức lúc nào cũng đưa đến phân biệt
chấp trước tạo thành những điên đảo bất tận. Biết như vậy là do sự chiếu soi
của Bát Nhã. Biết rồi tự tu hành, lại có thể giúp người khác tu hành. Đó chính
là bố thí pháp. Bố thí như vậy, công
đức không thể nghĩ bàn. Đó là một thí dụ trong trăm ngàn thí dụ.
Nhưng lạ lùng thay những điều được
xem là mâu thuẫn hay nghịch lý “tận cùng thế giới” lại trở thành bình thường,
hợp lý trong cơ cấu trí năng Bát Nhã. Nếu “nhập lý” với lối phát biểu đó thì
mới có thể tuyên nói thế nào là công đức chân thật của Bát nhã Ba la mật. Ở đây
không nói công đức hữu vi hay vô vi như các phẩm “So Lường Công Đức” hay phần
“Kim Cương Năng Đoạn” hay các phẩm, các phần khác của ĐBN. Phần “Mạn Thù Thất
Lợi” là một phần (không gọi là phẩm) đặc biệt với lối diễn tả ngược đời của nó.
Đây không phải là những kêu gọi suông, đây cũng không phải là những kích động
cốt đánh thức tâm ngái ngủ ngàn đời của người học đạo, mà ở đây người chứng đạo
tất có những tư tưởng thâm trầm đi ngược dòng thế gian. Nên có thể nói chả có
gì đặc biệt được biểu thị ở đây đối với các bậc chứng đạo. Công đức hay không
công đức chẳng có gì khác nhau trong cái tâm bình đẳng như như. Đó là lối hóa
đạo đặc thù của Bồ tát hiện thân trong cõi này giúp Phật dạy dỗ chúng sanh tại
Nam Thiệm bộ châu. Tuy nhiên, tu Bát nhã Ba la mật phải nói là có vô vàn công
đức, không thể nghĩ bàn.
Trước khi
chấm dứt thuyết giảng về ĐBN, đoạn Kinh cuối cùng của quyển 600, phần Bát nhã
Ba la mật, Hội Thứ XVI. Phật bảo:
“Này
Thiện Dũng Mãnh! Nếu ai đối với Bát nhã Ba la mật thâm sâu này mà thọ trì, dù
chỉ một câu cũng đạt được vô lượng, vô biên công đức; huống gì họ được Kinh
Đại Bát Nhã này mà thọ trì, chuyển đọc, ghi chép đầy đủ và cúng dường lưu
truyền rộng rãi khắp vì người khác, thì phước đức của người này đạt được không
thể nghĩ bàn”.
Thọ trì chỉ một câu còn đạt được vô
lượng, vô biên công đức, huống chi thọ trì trên 7.000 trang sách của Đại Bát
Nhã Ba La Mật. Thành thật mà nói Bát nhã Ba la mật có vô vàn diệu dụng không thể nghĩ bàn, nó sẽ “đổi đời” hay “lột xác” nếu những ai biết
tuân theo những chỉ dẫn của nó! Muốn được như vậy thì phải tích tụ thiện căn
công đức, phải vì người mà hy sinh, phải biết cho đi mà chẳng nhận.
11- Đọc hết 600 quyển, 16 pháp hội, tổng cộng trên 7.000 trang
sách cỡ lớn, chúng ta thấy rằng Bát nhã Ba la mật bao gồm và chi phối tất cả
pháp thế gian và xuất thế gian, nên chúng ta gọi Bát nhã là một Đại tùng thư
trong kho tàng kinh điển Phật học. Nên, quyển 596, phần “Bát Nhã Ba La Mật”
Phật xác nhận Bát nhã Ba la mật là sâu
xa, là không ngằn mé, là vô biên. Bởi vì, không có bất cứ pháp nào trong
càn khôn vũ trụ thoát khỏi sự nhiếp phục của Bát nhã Ba la mật. Vì vậy, không
thể khu định Bát nhã Ba la mật vào một khuôn khổ nhất định nào. Nếu chúng ta
nhốt nó vào một lâu đài to lớn bằng vàng, bằng kim cương hay bằng ngọc Ma ni
huy hoàng tráng lệ cho dù to lớn như hư không, là chúng ta giết nó. Bát Nhã giải phóng mọi trói buộc, để mọi chúng sanh được tự do như chim xí
bay lượn trên hư không. Bát nhã phóng xả(1) hay phủi sạch mọi lo nghĩ tính toán. Chính nhờ nét đặc thù này
hành giả Bát Nhã mới thật sự khai phóng được nguồn năng lực nội tại để thực
hiện một bước nhảy.
Kinh so sánh: “Ví như biển lớn là nơi dung chứa
nhiều dòng nước và thường làm chỗ quay về cho các dòng sông. Cũng vậy, nếu Bồ
tát nắm giữ được Bát nhã Ba la mật thâm sâu rộng lớn này mà tinh tấn siêng năng
tu học thì vô cùng thông đạt và lợi ích. Phải biết không bao lâu vị này sẽ là
biển lớn chứa tất cả pháp, mau thành tựu tất cả pháp khí, thường làm chỗ quay
về cho các pháp, nên các pháp thế gian không thể nào quấy nhiễu được”.
12- Như đã nói trước, toàn thể Bát nhã Ba la mật chỗ nào cũng
tán tụng những công đức oai thần, những diệu dụng thần thông, hay những uy lực
huyền bí không thể nghĩ bàn của Bát nhã Ba la mật và Chư Phật cũng thường
khuyên rằng muốn được như thế thì phải học Bát nhã Ba la mật. Nhưng, để
thực-tế-hóa cuối cùng phần “Bát Nhã Ba La Mật”, quyển 596, Hội thứ XVI, tức Hội
cuối cùng trước khi kết thúc thuyết giảng về Đại Bát Nhã, Phật bảo: Bát Nhã kỳ cùng không phải là thực tại cứu
cánh, thực tại tối hậu nào cả! Bát Nhã không tự mâu thuẫn, Bát Nhã không
muốn nói huyền thuyết diệu, không muốn huyễn hoặc những người con Phật ở đây!
Bát Nhã không vì tất cả pháp đối đãi
hay không đối đãi, Bát Nhã không phải là pháp thành tựu hay hoại diệt, không
phải là pháp tăng hay giảm, không phải là pháp tập hợp hay xa lìa. Bát Nhã cũng
không phải là
pháp có lấy, có bỏ, có tạo tác hay không
tạo tác... Bát nhã Ba la mật là vô sắc, vô kiến, vô đối, vô tánh, chẳng có chút khá trụ khá vượt, khá vào khá đắc, khá chứng khá
thọ, chỗ gọi là công đức. Bát Nhã không vì tất cả pháp như vậy mà hiện tiền.
Tất
cả không phải là thực tại cứu cánh, thực tại hiện hữu hay giây phút
vĩnh hằng nào cả. Pháp nhĩ tự nhiên thôi! Đừng có
tưởng tượng bốc cao mà lạc mất tâm đạo. Chẳng có gì cần thần-thánh-hóa, cũng
chẳng có gì kỳ đặc phi thường cần phô diễn ở đây! Đó là lời dạy giản dị nhất mà
cũng là lời nói chân thành thiết thực nhất của Phật đối với những ai còn nặng
óc mê tín.
Phật chỉ muốn nói: Bát Nhã kỳ cùng không phải là thực tại
tối hậu nào cả. Phật phủ nhận tất cả những gì gọi là Thần Thánh, phi thường hay
kỳ đặc ở đây, Phật không muốn chúng sanh nắm bắt cất giữ bất cứ thứ gì trong
tâm dù là pháp được xem là cứu cánh hay thực tại hiện hữu, thực tại vĩnh hằng
nào cả! Phật muốn chúng sanh tự chiêm nghiệm, tự chứng lấy cái diệu dụng hiện
tiền của Bát nhã Ba la mật. Và một khi thành tựu Bát Nhã hay Nhất thiết trí trí
thì diệu dụng tự nhiên phát ra như hoa nở từ cây, nước rỉ ra từ lòng đất!
13- Vì vậy, ba quyển 598, 599 và 600 cuối cùng trước khi chấm
dứt pháp Hội thứ XVI hay chấm dứt thuyết giảng Đại Bát Nhã Ba La Mật này, Phật
chọn các pháp môn giản dị, thiết thực,
dễ hiểu nhất giảng dạy cho tất cả chúng sanh, bất cứ căn cơ trình độ nào
cũng đều có thể lãnh hội được. Đây là bố cục mà chúng tôi cho là kỳ diệu của
ĐBN. Không phải thuyết các pháp môn cao thâm mà cho là kỳ diệu, trái lại lối
diễn đạt giản dị, dễ hiểu lại là lối thuyết giảng độc đáo khó diễn đạt nhất! Ba
quyển Kinh cuối cùng chứng minh được điều này:
1/. Chấp
tâm và tâm sở:
Sống làm sao tránh khỏi tội lỗi, làm
sao không phạm sai lầm. Một khi “tay đã nhúng chàm” rồi mới than trời trách
đất. Biết nghĩ thì trách mình, ngu si thì trách người. Bởi chấp đắm tâm tức là
ngã, tâm là ngã sở, tâm nương nơi ngã, tâm từ ngã sanh. Hay nói nôm na tâm là
“ta”; ngã sở là “cái của ta”. Đó là thế giới nội và ngoại, thế giới của uẩn xứ
giới, môi trường hoạt dụng của ngã và pháp, của người và vật hay nói theo
chuyên môn là của nhân sanh và vũ trụ.
Căn nguyên của tất cả biến động đổi
dời bắt đầu từ đấy, cái làm cho thân tâm vui buồn, sướng khổ hay là điên đảo!
Nên Kinh nói “Nếu
có thể thông đạt tâm và tâm sở đều vô sở hữu thì chẳng điên đảo. Chẳng phải bản
tánh của tâm có sanh, có khởi, có tận, có diệt... tương quan với điên đảo mà
bảo rằng tâm, tâm sở có sanh, có khởi, có tận, có diệt”. (Q. 598, phần “Bát Nhã Ba La Mật”)
Tâm vốn vắng lặng trong sáng, vì
phan duyên nghĩ tưởng bắt nắm như người khuấy bùn tự nhiên nước trong biến
thành đục rồi lăng xăng tìm cách lóng. Một khi nước đổi thành đục thì liền theo
đó một chuỗi dài sanh diệt trôi lăn, hết gạn rồi lóng, hết lóng rồi gạn, tự
mình làm rối mình là vậy.
2/. Không
phân biệt, không phân biệt khác.
Tất cả nghĩ tưởng bắt nguồn từ thấy
biết đối với cảnh sở duyên. Đây là một phần trong toàn bộ quan điểm của giáo lý
Bát Nhã đối với uẩn xứ giới và tất cả pháp hay nói là một phần trong toàn bộ
quan điểm về nhân sinh và vũ trụ quan. Bát Nhã được tóm tắt ở đây cũng như đã
từng thuyết giảng trong nhiều pháp hội khác. Ý chính ở đây là quy trách ở cái
thấy biết. Thấy biết thật ra chẳng có lỗi gì. Qua một tầng nữa do thấy biết mà
sanh phân biệt, phân biệt cũng không đáng trách. Lên một tầng nữa do phân biệt
mới sanh chấp. Đầu dây mối nhợ là nằm ở chỗ này. Tất cả pháp là không thể phân
biệt, không biệt khác. Có phân biệt là có chấp đắm, có chấp đắm là có dính mắc,
có trói buộc, có nương tựa, có động chuyển, có hợp có lìa. Có hợp có lìa là có
được có mất. Có được có mất là có sầu, than, khổ,
ưu, não.
Biết cái
gốc “hoặc nghiệp” đã trừ, thì cái ngọn ngành tức nhiên phải khô mục. Nhân đã
không còn thì quả cũng tự mất. Bệnh
này lúc nào cũng hiện diện ở mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý... của chúng sanh. Dễ
thấy dễ biết nên dễ phạm, phạm là phạm ở cái phân biệt chấp đắm. Đó là thấy
biết mê! Thấy mà biết quay lại quán chiếu tự tâm thì thấy tánh, tức ngộ. Nên
nói quay đầu lại là thấy bến bờ!
3/. Tất cả
pháp không hợp không lìa:
“Vì
tất cả các pháp không hợp, không lìa. Chẳng phải tất cả pháp vì hợp hay lìa mà hiện
tiền. Hợp nghĩa là thường, mà lìa nghĩa
là đoạn. Bản tánh của các pháp không do quán sát giác biết mà có hợp, có lìa.
Nếu
tánh các pháp vì hợp vì lìa mà hiện tiền, thời các pháp ấy có thể đắc, có kẻ
tác kẻ khiến tác, kẻ khởi kẻ khiến khởi, kẻ thọ kẻ khiến thọ, kẻ biết kẻ khiến
biết, kẻ thấy kẻ khiến thấy, kẻ hợp kẻ khiến hợp, kẻ lìa kẻ khiến lìa. Như Lai
cũng lẽ thi thiết các pháp: Đây là kẻ tác kẻ khiến tác, cho đến kẻ lìa kẻ khiến
lìa. Nếu như vậy thì Như Lai cũng có thể thiết lập ra các pháp, đây là kẻ tác
kẻ khiến tác, cho đến kẻ lìa, kẻ khiến lìa.
Do tánh các pháp không vì hợp, lìa
mà hiện tiền, nên các pháp không có kẻ tác kẻ khiến tác, cho đến kẻ lìa kẻ
khiến lìa, chút phần khá được. Vì chẳng thể được nên Phật chẳng thi thiết.
Vả
lại, nếu chỗ có hợp, chỗ ấy có lìa. Nếu ở trong hợp mà không đắc, không nương
tựa và không khởi chấp trước thì không thấy lìa. Nếu ở trong lìa mà có đắc, có
nương tựa và khởi chấp trước thì đó là có hợp, nên khổ đau sanh tử chưa thể
giải thoát. Các Bồ tát ấy quán sát thật nghĩa này, nên đối với pháp tánh chẳng
hợp, chẳng lìa; cũng không vì pháp hoặc hợp hoặc lìa mà có sở tác hoặc có tu
học. Nhờ biết rõ về hợp, lìa mà các Bồ tát tu hành Bát nhã Ba la mật mau viên mãn”. (Q.599, phần “Bát Nhã Ba La Mật”)
Các pháp trơ lì ra đó nên nói các
pháp là trì độn ngu si. Các pháp không tự biết các pháp, các pháp cũng không
biết các pháp khác chung quanh nó, các pháp không sanh pháp... Thấy trơ lì,
thấy đẹp xấu, dài ngắn, vuông tròn... là ở con người. Do nhận thức đó mà có
buông bỏ, nắm bắt... Đẹp thì muốn gần gũi thân cận, xấu thì đuổi xô xa lánh,
nên nói có hợp có lìa. Pháp tự nó không có hợp có lìa!
Phẩm “Nghiêm Tịnh Cõi Phật”. Phật
bảo: “Các
pháp bản lai tịch tịnh, tự tánh Niết bàn”.
4/. Không
sở duyên, không sở trụ thì không sở hành:
Vì biết cái hại của sở duyên nên
tránh được chỗ nương chấp, vì không chỗ nương chấp nên hoàn toàn không có sở
hành, cũng không có chứa giữ, cất giấu. Vì không có chứa giữ cất giấu nên không
bị trói buộc, không bị trói buộc, nên cũng không cần lìa trói buộc. Do đó, mà
không có phát khởi và cũng không theo phát khởi. Biết cáí hại ấy chính là tu
hành Bát nhã Ba la mật.
“Các
Bồ tát tu hành Bát nhã Ba la mật, chẳng hành uẩn xứ giới đắm không đắm; cũng
chẳng hành uẩn xứ giới thanh tịnh không thanh tịnh; chẳng hành sở duyên hợp hay
lìa. Vì tất cả đều có dời chuyển, nương chấp, dao động, hoặc hành hoặc quán, Bồ
tát biết rõ tất cả như vậy, nên ở trong đó không
hành, không quán nữa.
Các
Bồ tát tu hành Bát nhã Ba la mật, chẳng hành uẩn xứ giới quá khứ vị lai hiện tại
đắm không đắm; chẳng hành uẩn xứ giới quá khứ vị lai hiện tại thanh tịnh không
thanh tịnh; chẳng hành uẩn xứ giới quá khứ vị lai hiện tại sở duyên hợp hay
lìa. Vì sao chẳng hành? Vì các Bồ tát này hành Bát nhã Ba la mật đều chẳng thấy pháp hành, chẳng hành. Các
Bồ tát ấy đều không có sở hành nên có thể ngộ nhập biết rõ các hành mà tu hành
Bát nhã Ba la mật. Nếu các Bồ tát năng hành như thế, mau được viên mãn pháp
Nhất thiết trí”. (Q.600, phần “Bát Nhã Ba
La Mật”)
Không sở duyên, không sở trụ thì
không sở hành. Không sở hành nên có thể ngộ nhập biết rõ các hành mà tu hành
Bát nhã Ba la mật. Nếu các Bồ tát năng hành như thế, mau viên mãn Nhất thiết
trí trí. Ai cũng có thể thấy biết như vậy. Thấy biết như vậy mà vẫn co chân
nhảy vào bóng tối. Đó là hành trong điên đảo nên phải chịu nhiều đau khổ, trôi
lăn không lúc nào yên.
Tôn chỉ tu hành rốt ráo “chẳng hành,
chẳng thấy hành hay chẳng hành” thì có thể tháo gỡ mọi trói buộc mà được giải
thoát, giải thoát hai chướng mà chứng trí.
5/. Không
năng duyên sở duyên, lìa ái nhiễm thì được thanh tịnh.
Không duyên vào 5 uẩn, 12 xứ, 18
giới; không duyên vào danh sắc; không duyên vào tạp nhiễm; không duyên vào điên
đảo, tà kiến, triền cái, ái hành; không duyên vào tham, sân, si; không duyên
vào ngã, hữu tình v.v…; không duyên vào đoạn, thường; không duyên vào biên vô
biên; không duyên vào cõi Dục, Sắc, Vô sắc; không duyên vào duyên khởi v.v... Tất
cả pháp chẳng có năng duyên, sở duyên. Năng là ở con người, sở là ở vật. Vì có
thấy biết năng sở đối đãi, nên có động chuyển, nên sanh tâm.
Nếu không thấy sở duyên thì không bị
trói, không bị trói thì cũng không cần tháo gỡ. Nếu
có sở duyên tức là có nương chấp, động chuyển và hý luận. Nếu có sở duyên tức
là có đấu tranh, kiện tụng. Nếu có sở duyên tức là có vô minh, si ám. Nếu có sở
duyên tức là có sợ hãi. Nếu có sở duyên tức là có khổ bức bách rồi tìm cầu an
lạc. Nếu không có sở duyên như vậy thì đối với cảnh giới nhất định được tự
tại.
Nếu có thể hành như vậy, thì không
bị phan duyên, không chấp trước các pháp, nên có thể an trụ tất cả pháp mà
không bị nhiễm. Nếu đối với khắp cảnh giới và pháp sở duyên đều không bị trói
thì coi như tu hành Bát nhã Ba la mật chóng được viên mãn. (Q.599, phần “Bát
Nhã Ba La Mật”)
Đây là kinh nghiệm thực tiễn. Chặt
đứt năng duyên, sở duyên thì không còn tham ái, nên phá được ma chướng của cuộc
sống, ma chướng trên đường học đạo, ma chướng của giác ngộ, ma chướng của Niết
bàn. Đó là phiền não chướng và sở tri chướng. Biết được như thế là chứng trí.
6/. Vì các
pháp không có tự tánh, lấy vô tánh làm tự tánh, nên không tu cũng không khiển
tu:
“Không
có chút pháp tánh được coi là thực tại cứu cánh, tất cả pháp đều thế tục giả
lập, chẳng phải trong ấy có chút tự tánh. Vì không tự tánh nên đều chẳng thật
có. Các pháp đều lập vô tánh làm tánh, vậy nên các pháp không thật không sanh.
Vì sao? Vì các pháp điên đảo đều chẳng thật có, các pháp đều từ điên đảo mà
khởi. Các điên đảo ấy đều không thật tánh. Vì sao? Vì tất cả pháp đều lìa tự
tánh, tìm cầu tự tánh trọn chẳng thể được, vậy nên đều lấy vô tánh làm tánh.
Vô
tánh ấy không thật không sanh, nên gọi vô tánh. Đây thời chỉ rõ tánh chẳng phải
thật có, nên gọi vô tánh. Nếu tánh chẳng có thời chẳng thể tu, cũng chẳng thể
khiển, điên đảo sở khởi chẳng phải thật có, nên chẳng thể tu cũng chẳng thể
khiển. Vì sao? Vì tất cả pháp lấy vô
tánh làm tánh, xa lìa tự tánh nên chẳng phải thật vật. Vì chẳng thật vật nên
không tu không khiển.
Nếu
các đại Bồ Tát đối trong các pháp trụ kiến như thật, tu hành Bát nhã Ba la mật,
đối tất cả pháp không tu không khiển, đó gọi tu Bát nhã Ba la mật. Nếu các Bồ
tát năng hành như thế, năng trụ như thế tu hành Bát nhã Ba la mật mau được viên
mãn”. (Q.598, phần “Bát Nhã Ba La Mật”).
Điên đảo, thanh tịnh, triền cái ái
hành, đau khổ yên vui, phiền não Niết bàn... tất cả đều không có tự tánh. Nếu
không có tự tánh, thì không phải là thật vật. Vì không phải thật vật nên không
cần tu, không cần khiển.
Kinh nói: “Vì không có sự đoạn trừ nên mới
hiển bày ý niệm về khổ đoạn. Nghĩa là trong đó không có một chút khổ nào để
đoạn trừ nên gọi là khổ đoạn. Nếu khổ tự tánh có chút chơn thật thì mới có thể
đoạn trừ, nhưng tự tánh khổ không chút chơn thật nên không có chỗ để đoạn trừ, chỉ thấy khổ không có nữa nên gọi khổ đoạn.
Nghĩa là biết khắp khổ trọn không tự tánh chút phần khá được nên gọi khổ đoạn.
Nếu mọi người đối với khổ mà hoàn toàn không phân biệt và phân biệt khác thì
gọi là khổ tịch tĩnh, tức là làm cho khổ không còn có ý nghĩa phát sanh nữa”. (Q.599, phần “Bát Nhã Ba La Mật”).
Không có gì để đoạn trừ nên mới hiển
bày ý niệm về khổ đoạn. Nếu khổ tự tánh có chút chơn thật thì mới có thể đoạn
trừ, nhưng tự tánh khổ không chút chơn thật nên không có chỗ để đoạn trừ, chỉ
thấy khổ không có tự tánh nên gọi khổ đoạn. Mấu chốt là thấy hay không thấy
“khổ không có chút chân thật hay không?”
Đó là pháp dễ hiểu. Nhưng làm sao
không thấy khổ? Đời đầy trăm cay nghìn đắng, nào tứ khổ, nào bát khổ. Ai cũng
thấy biết như vậy. Tu hành mới khó và còn khó hơn nữa là đừng thấy đừng biết.
Không thấy biết thì không phải tu phải khiển. Không ai có thể bịt tai, bịt mắt
mà có thể sống. Điều đó có nghĩa thấy biết vẫn thấy biết nhưng phải đóng cửa
các giác quan đừng để nó rong ruổi mà sanh động niệm. Đó là điều hết sức khó
khăn. Chỉ có người tu luyện đạt được diệt tận định thì mới có thể thực hiện
giải pháp này. Nhưng làm sao tu nổi diệt tận định. Vậy thì phải phủi hết, phóng
xả hết thì mới có hy vọng.
7/. Rốt
ráo không phải học:
Không
chỗ phan duyên thì không có tàng chứa cất giữ, không chỗ tàng chứa cất giữ thì
không có chỗ bám, không chỗ bám thì không chỗ hành. Một chu kỳ sanh diệt bất
tận. Biết như vậy thì ngoài không phan duyên, trong không chỗ bám, trong ngoài
rỗng không trong suốt, phá vỡ được chu kỳ sanh diệt, thì được an nhiên tịch
lặng. Bởi chấp đắm tâm tức tâm là
ngã, là ngã sở. Tâm nương nơi ngã, tâm từ ngã ái sanh. Tâm vốn không bỗng phát
vô minh điên đảo, rồi sanh ra lo âu phiền muộn mới tìm cách tháo gỡ. Suốt đời
loanh quanh hết buộc rồi gỡ, tự mình làm rối mình! Phật đã bẻ gãy, đập vỡ tan
tành chuỗi dây nhân duyên mà được tự tại.
Vậy, đừng
chấp tâm, chấp pháp. Vì sao? Vì các pháp không có tự tánh, lấy vô tánh làm tự
tánh. Nên đối với tất cả pháp không thủ, không chấp, không trụ, không trước.
Rốt ráo, không cần học, không cần tu, cũng không khiển tu nữa.
Khi các Bồ tát quán biết các pháp
như thế là không phải học. Không học uẩn xứ giới sanh hay diệt; không vì nhiếp
phục hay không nhiếp phục uẩn xứ giới mà học, không vì uẩn xứ giới nhiếp phục
hay dời chuyển mà học; không vì uẩn xứ giới hướng vào hay an trụ mà học. Một
khi đối với tất cả pháp không thủ, không chấp, không trụ, không trước, không
tham ái... thì cần học, cần tu, cần khiển cái gì?
Nói thì quá dễ nhưng thực hành đến
chỗ đó mới siêu xuất! Làm sao không học mà thành đạo Bồ đề? Phật nói không biết
bao nhiêu giáo pháp, bao nhiêu pháp môn mà rốt lại tuyên bố “đối với tất cả
pháp không thủ, không chấp, không trụ, không trước thì không cần học, không cần
tu nữa!” Nói như thế nhưng không phải thế. Nói “không phân biệt, không chấp,
không thủ, không trụ, thì không hành...” Đó chính là học, là hành Bát Nhã.
Giáo pháp dễ hiểu, ai cũng có thể
hiểu, nhưng không phải dễ học, dễ hành! Hiểu như vậy, biết như vậy, rồi ngày
ngày tập luyện, quán tưởng đến một lúc nào đó thì Bát Nhã sẽ là máu mủ, là tự
thể của chính ông. Những gì ông nghĩ tưởng nói ra đều là Bát Nhã. Tự ông biểu
lộ cái diệu dụng của nó. Bấy giờ, ông không còn là tên ăn mày chân lý nữa. Ông
đã có chìa khóa để mở kho tàng trí tuệ rồi. Ông là ông chủ của Tam thiên đại
thiên này với muôn vàn thần thông trí tuệ. Muốn chứng minh sự thật đó không?
Nếu muốn thì chính ông phải thành đạt những gì mà Bát nhã Ba la mật đã thuyết.
Kết luận:
Đấy là 13 điểm chính đã thuyết giảng
của phần thứ III Tổng luận này. Bao nhiêu điểm tóm lược trên dĩ nhiên không thể
gói ghém tất cả những gì mà Đại Bát Nhã muốn truyền đạt. Tuy nhiên, nói ít thì
thiếu, nói nhiều thì thừa, người học đạo đôi khi ngộ chỉ cần một động tác, một
cử chỉ, một lời nói, một cái tát, hay ăn 30 gậy... cũng có thể tỏ ngộ! Nhưng
ngộ đó chỉ là đốn ngộ, cái ngộ từng phần. Phật là tiệm ngộ, ngộ toàn triệt nên
phải mất ba A tăng kỳ kiếp, học vô lượng, vô số, vô biên pháp môn!
Tóm lại, toàn thể giáo pháp Đại Bát
Nhã Ba La Mật nói một cách giản dị là cố thay đổi quan điểm sống của chúng ta.
Quan điểm đó có thể nói là cái thấy, cái biết, chỗ đứng hay nói khác là vị trí sống của chúng ta. Quan trọng là
chúng ta có chấp nhận thay đổi vị trí này hay không? Nếu không chấp nhận thì bờ
mê vẫn là bờ mê, bến giác vẫn là bến giác, ngàn năm mơ mộng chỉ là mây khói hão
huyền. Nếu chấp nhận, thì phải học Bát nhã Ba la mật. Đó là con đường hướng
thượng duy nhất đưa đến vị trí mới, cảnh giới mới hoàn toàn khác biệt với cảnh
giới đọa đày hôm nay! Nhưng cảnh giới mới đó là cảnh giới nào vậy? Cũng không
gian đó, cũng thời gian đó, cũng trăng nước đó, chỉ khác là khác ở tâm niệm, nghìn xưa, nghìn sau trăng nước vẫn còn trơ trơ!
---o0o---