“PHẨM “TƯỚNG
BẤT THỐI CHUYỂN”
Phần sau
quyển 514, Hội thứ III, ĐBN.
(Tương đương phẩm “Bất Thối Chuyển”, quyển 325 - 328,
Hội thứ I
hay phẩm cùng tên, phần sau Q.448 cho đến phần đầu
Q.449, Hội thứ II, ĐBN).
Tóm lược:
Bấy giờ,
Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:
- Chúng con
phải do hành tướng trạng nào để biết Bồ tát này Bất thối chuyển?
Phật bảo:
- Thiện
Hiện! Nếu đại Bồ tát có thể biết rõ như thật hoặc bậc dị sanh, hoặc bậc Thanh
văn, hoặc bậc Độc giác, hoặc bậc Bồ tát, hoặc bậc Như Lai, các bậc như thế tuy
nói có khác, nhưng trong các pháp như
không biến đổi, không phân biệt, không hai, không hai phần.
Đại Bồ át
này tuy thật ngộ nhập vào các pháp như nhưng đối với tánh như không có sự phân
biệt, vì lấy vô sở đắc làm phương tiện.
Đại Bồ tát
này đã thật ngộ nhập các pháp như, dù nghe tất cả pháp như không hai, không
khác mà tâm không nghi trệ. Vì sao? Vì pháp như không thể nói là một, không thể
nói khác, không thể nói đồng hay không đồng. Đại Bồ tát này quyết không coi nhẹ
điều này mà phát ra lời nói, nếu có nói lời gì đều đem lại lợi ích và có nghĩa
lý. Nếu không lợi ích và vô nghĩa quyết không nói ra. Đại Bồ tát này hoàn toàn
không xem chỗ tốt xấu, hay dở của người, bình đẳng thương xót và vì họ thuyết
pháp. Đại Bồ tát này chẳng xem chủng tánh sang hèn của Pháp sư, chỉ cầu thuyết
được pháp nghĩa chơn tịnh. Thiện Hiện! Đại Bồ tát Bất thối chuyển đều có những
hành tướng trạng như vậy. Vì có những hành tướng trạng này nên biết là đại Bồ
tát Bất thối chuyển. (Q.514, ĐBN)
Cụ thọ Thiện
Hiện lại thưa Phật rằng:
- Bạch Thế
Tôn! Do các hành tướng trạng nào mà biết đó là đại Bồ tát ấy Bất thối chuyển?
Phật bảo:
- Thiện
Hiện! Nếu đại Bồ tát năng quán các pháp
không hành trạng tướng, phải biết là đại Bồ tát Bất thối chuyển.
(Đại Bồ tát đối với pháp nào chuyển
nên gọi là Bất thối chuyển?)
Bấy giờ,
Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:
- Nếu tất cả
pháp không có hành tướng trạng, đại Bồ tát này đối pháp nào chuyển nên gọi Bất
thối chuyển (1)?
Phật bảo:
- Thiện
Hiện! Đại Bồ tát này đối sắc uẩn cho đến thức uẩn chuyển nên gọi Bất thối chuyển. Đối mười hai xứ cho đến mười tám
giới chuyển nên gọi Bất thối chuyển. Đối nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho
đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ chuyển nên gọi Bất thối chuyển. Đối địa
giới cho đến thức giới chuyển nên gọi Bất thối chuyển. Đối nhân duyên cho đến
tăng thượng duyên chuyển nên gọi Bất thối chuyển. Đối vô minh cho đến lão tử
chuyển nên gọi Bất thối chuyển. Đối bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật chuyển nên
gọi Bất thối chuyển. Đối nội không cho đến vô tánh tự tánh không chuyển nên gọi
Bất thối chuyển. Đối chơn như cho đến bất tư nghì giới chuyển nên gọi Bất thối
chuyển. Nói rộng ra, đối với tất cả pháp Phật từ Tứ đế cho đến chư Phật Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề chuyển nên gọi Bất thối chuyển. Vì sao? Vì tự tánh sắc
vô sở hữu, cho đến tự tánh chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề vô sở hữu, đại Bồ tát này không trụ trong ấy nên gọi
là chuyển. Nếu đại Bồ tát có thể biết được như thế, đấy gọi Bồ tát Bất thối
chuyển.
Lại nữa,
Thiện Hiện! Tất cả đại Bồ tát Bất thối chuyển trọn chẳng muốn xem hình tướng
lời nói của ngoại đạo, Sa môn, Bà la môn v.v… Các Sa môn, Bà la môn v.v… kia
đối pháp sở tri như thật biết thật thấy, hoặc có thể thi thiết chánh kiến,
quyết định không có lẽ ấy. Nếu Bồ tát trọn nên các hành tướng trạng như thế,
nên biết đấy là đại Bồ tát Bất thối chuyển.
Lại nữa,
Thiện Hiện! Đối với Pháp và Luật mà đức Phật đã thuyết một cách hoàn hảo, tất
cả đại Bồ tát Bất thối chuyển đều tin hiểu sâu xa, không sanh nghi ngờ, đối
việc thế gian, không giới cấm thủ, chẳng đọa tà kiến, chẳng chấp các điềm lành
của thế tục, trọn chẳng lễ kính các thiên thần và các ngoại đạo. Cũng trọn
chẳng đem các thứ tràng hoa, hương bột, hương xoa cùng y phục anh lạc, bảo
tràng phan lọng, kỹ nhạc đèn sáng, cúng dường thiên thần và các ngoại đạo. Nếu
Bồ tát thành tựu các hành tướng trạng như thế, nên biết đó là Bồ tát Bất thối
chuyển.
(Thế nào là hành tướng trạng của Bồ
tát Bất thối chuyển?)
Lại nữa,
Thiện Hiện! Tất cả đại Bồ tát Bất thối chuyển chẳng sanh trong địa ngục, bàng
sanh, quỷ giới, A tu la, cũng chẳng sanh ở dòng giống hạ tiện, nghĩa là làm
nghề hàng thịt, gánh thây chết v.v…, cũng trọn chẳng thọ báo sanh thân không
căn, hoặc hai căn và thân nữ nhân, cũng lại chẳng thọ thân mù điếc câm ngọng,
cùi cụt tay chân, hủi lác, lùn xấu, gù lưng v.v…, cũng trọn chẳng sanh ở chỗ
tất bật (đầu tắt mặt tối). Nếu Bồ tát
trọn nên các các hành tướng trạng như thế, nên biết đấy là đại Bồ tát Bất thối
chuyển.
Lại nữa,
Thiện Hiện! Tất cả đại Bồ tát Bất thối chuyển thường muốn thọ hành mười thiện
nghiệp đạo. Tự lìa hại sanh mạng cho đến tà kiến, cũng khuyên người lìa hại
sanh mạng cho đến tà kiến, từng chính xưng nêu pháp lìa hại sanh mạng cho đến
tà kiến, vui mừng khen ngợi kẻ lìa hại sanh mạng cho đến tà kiến. Bồ tát này
cho đến trong mộng cũng chẳng hiện thọ hành mười bất thiện nghiệp đạo, huống
khi thức sanh tâm bất thiện. Nếu đại Bồ tát trọn nên các hành tướng trạng như
thế, nên biết đấy là đại Bồ tát Bất thối chuyển.
Lại nữa,
Thiện Hiện! Tất cả đại Bồ tát Bất thối chuyển khắp làm nhiêu ích tất cả hữu
tình, đem vô sở đắc mà làm phương tiện thường tu bố thí cho đến Bát nhã Ba la
mật hằng không biếng bỏ. Nếu Bồ tát trọn nên các hành tướng trạng như thế, nên
biết đấy là đại Bồ tát Bất thối chuyển.
Lại nữa,
Thiện Hiện! Tất cả đại Bồ tát Bất thối chuyển có thọ trì suy nghĩ đọc tụng bao
nhiêu Khế Kinh cho đến Luận nghị tất cả đều rốt ráo thông lanh, rồi đem pháp
như thế vui vẻ bố thí tất cả hữu tình, hằng khởi nghĩ này: Làm sao phải khiến
các loại hữu tình cầu chánh pháp phát nguyện đều được đầy đủ. Lại đem căn lành pháp
thí như thế cùng các hữu tình bình đẳng chung có, dùng vô sở đắc mà làm phương
tiện hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Nếu Bồ tát trọn nên các hành tướng
trạng như thế, nên biết là đại Bồ tát Bất thối chuyển. (Q.514, ĐBN)
Lại nữa,
Thiện Hiện! Tất cả đại Bồ tát Bất thối chuyển đối pháp môn sâu thẳm mà Phật đã
thuyết, trọn chẳng sanh niệm do dự nghi ngờ.
Cụ thọ Thiện
Hiện bèn thưa Phật rằng:
- Duyên nào
đại Bồ tát Bất thối chuyển đối pháp môn Phật thuyết trọn chẳng sanh niệm do dự
nghi ngờ?
Phật bảo:
- Thiện
Hiện! Tất cả đại Bồ tát Bất thối chuyển đều chẳng thấy có pháp khá nghi ngờ do
dự. Nghĩa là chẳng thấy có sắc uẩn cho
đến thức uẩn. Cũng chẳng thấy có nhãn xứ cho đến ý xứ. Cũng chẳng thấy có sắc
xứ cho đến pháp xứ. Cũng chẳng thấy có nhãn giới cho đến ý giới. Cũng chẳng
thấy có sắc giới cho đến pháp giới. Cũng chẳng thấy có nhãn thức giới cho đến ý
thức giới. Cũng chẳng thấy có nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc
làm duyên sanh ra các thọ. Cũng chẳng thấy có địa giới cho đến thức giới. Cũng
chẳng thấy có nhân duyên cho đến tăng thượng duyên. Cũng chẳng thấy có vô minh
cho đến lão tử. Cũng chẳng thấy có bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Cũng chẳng
thấy có nội không cho đến vô tánh tự tánh không. Cũng chẳng thấy có chơn như
cho đến bất tư nghì giới. Nói rộng ra, cũng chẳng thấy có tất cả pháp Phật từ
Tứ đế cho đến chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề khá đối trong ấy do dự nghi
ngờ. Nếu đại Bồ tát trọn nên các hành tướng trạng như thế, nên biết đấy là đại
Bồ tát Bất thối chuyển. (Q.514, ĐBN)
Lại nữa,
Thiện Hiện! Tất cả đại Bồ tát Bất thối chuyển trọn nên nghiệp thân ngữ ý điều
hòa mềm mỏng dễ mến dễ ưa, đối các hữu tình tâm không trở ngại. Nếu đại Bồ tát
trọn nên các hành tướng trạng như thế, nên biết đấy là đại Bồ tát Bất thối
chuyển.
Lại nữa,
Thiện Hiện! Tất cả đại Bồ tát Bất thối chuyển hằng thường trọn nên từ bi hỷ xả
v.v… khởi nghiệp tương ưng thân ngữ ý, đối các hữu tình làm việc lợi ích. Nếu
đại Bồ tát trọn nên các hành tướng trạng như thế, nên biết là đại Bồ tát Bất
thối chuyển.
Lại nữa,
Thiện Hiện! Tất cả đại Bồ tát Bất thối chuyển tâm thường chẳng chung cùng năm
che. Chỗ gọi là tham dục, giận dữ, mê mờ ngủ nghỉ, lay động ác tác, nghi. Nếu
đại Bồ tát trọn nên các hành tướng trạng như thế, nên biết đấy là đại Bồ tát
Bất thối chuyển.
Lại nữa,
Thiện Hiện! Tất cả đại Bồ tát Bất thối chuyển đối với tất cả tùy miên(3) đều đã đè
dẹp, tất cả buộc gút phiền não đều hằng chẳng khởi. Nếu đại Bồ tát trọn nên
hành tướng trạng như thế, biết đấy là đại Bồ tát Bất thối chuyển.
Lại nữa,
Thiện Hiện! Tất cả đại Bồ tát Bất thối chuyển vào ra qua lại tâm chẳng mê lầm,
hằng luôn an trụ chánh niệm tĩnh giác, oai nghi tiến dừng, đi đứng nằm ngồi, hạ
chân cất bước cũng đều như vậy, dạo đi chỗ nào phải quan sát nơi ấy, niệm niệm
thong thả, nhìn thẳng mà bước, cử chỉ và lời nói không thô bạo. Nếu đại Bồ tát
trọn nên các hành tướng trạng như thế, nên biết đấy là đại Bồ tát Bất thối
chuyển.
Lại nữa,
Thiện Hiện! Tất cả đại Bồ tát Bất thối chuyển, đối các đồ thọ dụng giường
chiếu, áo mặc đều thường thơm sạch không mồ hôi, trùng rận bọ chét v.v…, tâm ưa
thanh tao, thân không tật bệnh. Nếu đại Bồ tát trọn nên các hành tướng trạng
như thế, nên biết đấy là đại Bồ tát Bất thối chuyển.
Lại nữa,
Thiện Hiện! Tất cả đại Bồ tát Bất thối chuyển thân tâm thanh tịnh, chẳng phải như trong thân người thường hằng bị
tám muôn hộ trùng xâm hại. Vì sao? Vì các Bồ tát này căn lành tăng lên vượt
khỏi thân hình đã thọ thế gian, trong ngoài sạch sẽ nên không có loại trùng xâm
hại nơi thân. Căn lành như thế tăng dần, như vậy thân tâm càng thanh tịnh. Do
nhân duyên đây, các Bồ tát này thân tâm bền chắc y như kim cương, chẳng bị các
nghịch duyên xâm hại. Nếu đại Bồ tát trọn nên các hành tướng trạng như thế, nên
biết đấy là đại Bồ tát Bất thối chuyển. (Q.514,
ĐBN)
Cụ thọ Thiện
Hiện lại thưa Phật rằng:
- Đại Bồ tát
Bất thối chuyển như thế làm sao được thanh tịnh thân ngữ ý?
Phật bảo:
- Thiện
Hiện! Các thiện căn như thế của đại Bồ tát này dần dần tăng trưởng như vậy. Vì
được năng lực của các căn lành đều do trừ khiển nên mới được như vậy, cho đến
tận cùng đời vị lai, nghiệp thân, khẩu, ý hoàn toàn không phát sanh. Do vậy,
thân, khẩu, ý thường được thanh tịnh.
Lại nữa,
Thiện Hiện! Ba diệu hạnh về thân, bốn diệu hạnh về khẩu và ba diệu hạnh về ý
của đại Bồ tát này luôn luôn hiện tiền, nên bất cứ lúc nào thân, khẩu, ý cũng
thanh tịnh. Nhờ sự thanh tịnh này nên vượt qua các bậc Thanh văn, Độc giác
v.v…, trụ ngôi vị Bồ tát kiên cố chẳng động. Do đây, thân, khẩu, ý thường được
thanh tịnh. Nếu đại Bồ tát thành tựu các hành tướng trạng như thế, thì biết đó
là đại Bồ tát Bất thối chuyển.
Lại nữa,
Thiện Hiện! Tất cả đại Bồ tát Bất thối chuyển chẳng trọng lợi dưỡng, chẳng màng
danh dự. Đối các uống ăn, áo mặc, đồ nằm, phòng nhà, của cải chẳng sanh nhiễm
đắm. Mặc dù thọ mười hai công đức Đầu đà mà với trong ấy không ỷ lại. Nếu đại
Bồ tát trọn nên các hành tướng trạng như thế, biết đấy là đại Bồ tát Bất thối
chuyển.
Lại nữa,
Thiện Hiện! Tất cả đại Bồ tát Bất thối chuyển thường tu bố thí cho đến Bát nhã
Ba la mật, rốt ráo chẳng khởi tâm tham rít, phá giới, giận dữ, lười biếng, tán
loạn, ngu si và các thứ tương ưng phiền não trói buộc quấn gút. Nếu đại Bồ tát
trọn nên các hành tướng trạng như thế, nên biết đấy là đại Bồ tát Bất thối
chuyển.
Lại nữa,
Thiện Hiện! Tuệ giác sâu xa kiên cố của tất cả đại Bồ tát Bất thối chuyển do
lắng nghe chánh pháp, cung kính, tin thọ, chú tâm suy nghĩ nghĩa lý một cách
rốt ráo, tùy theo pháp đã lãnh thọ thuộc thế gian hay xuất thế gian đều có thể
phương tiện hội nhập lý thú sâu xa của Bát nhã Ba la mật. Các sự nghiệp đã tạo
thuộc thế gian cũng đều dựa vào Bát nhã Ba la mật để hội nhập pháp tánh. Không
thấy có sự nghiệp nào ra ngoài pháp tánh ấy. Nếu có pháp nào chẳng tương ưng
với pháp tánh, thì cũng có thể phương tiện hội nhập vào lý thú sâu xa của Bát
nhã Ba la mật được. Do đây, chẳng thấy pháp nào ra ngoài pháp tánh ấy. Nếu đại
Bồ tát thành tựu các hành tướng trạng như thế, thì biết đó là đại Bồ tát Bất
thối chuyển.
Lại nữa,
Thiện Hiện! Tất cả đại Bồ tát Bất thối chuyển, giả sử có ác ma hiện tiền hóa
làm tám địa ngục lớn, lại ở trong mỗi địa ngục lớn hóa ra vô lượng trăm ngàn Bồ
tát đều bị khổ lớn là lửa dữ đốt cháy thấu suốt, đều chịu khổ chua cay độc hại.
Hóa làm việc này rồi bảo các Bồ tát Bất thối chuyển rằng: “Các Bồ tát đây đều
nhận ký chẳng quay lui Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, nên đọa trong địa ngục lớn
như vầy, hằng chịu các thứ cực khổ như đây! Bồ tát các ngươi đã nhận ký chẳng
thối lui Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề cũng sẽ rơi trong địa ngục lớn đây chịu các
cực khổ. Phật trao ký cho các ngươi chịu cực khổ trong địa ngục lớn, chẳng phải
trao ký chẳng thối lui Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vậy các ngươi nên mau từ bỏ
tâm Bồ đề, may ra thoát khỏi khổ địa ngục đây, sẽ sanh lên trời hoặc trong
người hưởng các vui sung sướng”.
Khi ấy, đại
Bồ tát Bất thối chuyển nghe thấy việc này nơi tâm chẳng động, cũng chẳng kinh
nghi, chỉ khởi nghĩ này: “Nhận ký chẳng thối lui đại Bồ tát nếu đọa trong địa
ngục, bàng sanh, quỷ giới, A tu la quyết định không có lẽ ấy. Vì sao? Vì các Bồ
tát Bất thối chuyển quyết định không có nghiệp bất thiện, cũng không có nghiệp
thiện mà rước lấy quả khổ vậy. Chư Phật chắc chắn không lời dối gạt vậy. Như
Lai nói ra đều vì lợi vui tất cả hữu tình do lòng đại từ bi tuôn chảy ra vậy.
Nay những điều thấy nghe ấy nhất định do ác ma nói ra đều chẳng thật có”. Nếu
đại Bồ tát trọn nên các hành tướng trạng như thế, nên biết đấy là đại Bồ tát
Bất thối chuyển.
Lại nữa,
Thiện Hiện! Giả sử có ác ma hóa làm Sa môn đi đến chỗ đại Bồ tát Bất thối
chuyển nói lời như vầy: “Ngươi trước đã nghe nên tu bố thí cho đến Bát nhã Ba
la mật khiến mau viên mãn, cho đến nên chứng sở cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Đã nghe như thế đều là tà thuyết nên mau nới bỏ, chớ bảo là chơn. Lại ngươi
trước đã nghe nên đối quá khứ, vị lai, hiện tại tất cả Như Lai Ứng Chánh đẳng
giác và các đệ tử, từ sơ phát tâm cho đến pháp trụ, ở giữa có bao công đức căn
lành đều sanh tùy hỷ, tất cả nhóm hợp cùng các hữu tình bình đẳng chung có, đem
vô sở đắc mà làm phương tiện, rồi cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Đã nghe như
thế cũng là tà thuyết, nên mau nới bỏ, chớ bảo là chơn. Nếu ngươi bỏ tà pháp đã
nghe kia, ta sẽ dạy ngươi Phật pháp chơn tịnh, khiến ngươi tu học mau chứng Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Ngươi trước đã nghe chẳng phải lời chơn Phật, là kẻ
văn tụng soạn tập giả dối, lời Ta thuyết ra mới là lời chơn Phật”.
Thiện Hiện
phải biết: Nếu đại Bồ tát nghe lời như thế tâm động, kinh nghi sợ hãi, phải
biết Bồ tát ấy chưa nhận ký, nên đối Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề vẫn chưa quyết
định, chưa gọi đại Bồ tát Bất thối chuyển được.
Thiện Hiện
phải biết: Nếu đại Bồ tát nghe lời như thế tâm
chẳng động, cũng chẳng kinh nghi, chỉ theo pháp tánh vô tác vô tướng vô
sanh mà trụ. Đại Bồ tát này có ra làm việc gì chẳng tin lời người, chẳng theo
người dạy mà tu bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật, chẳng theo người dạy cho đến
chứng lấy sở cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Phải biết đại Bồ tát như thế đã
đối Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề được Bất thối chuyển.
Như lậu tận
A la hán làm điều gì chẳng tin lời người, hiện chứng pháp tánh không lầm không
nghi, tất cả ác ma chẳng thể nghiêng động. Đại Bồ tát Bất thối chuyển cũng lại
như thế, tất cả Thanh văn, Độc giác, ngoại đạo các ác ma v.v… chẳng thể bẻ gãy
tâm kia khiến đối Bồ đề mà sanh lui khuất được. Đại Bồ tát này quyết định đã
trụ bậc Bất thối chuyển, có làm sự nghiệp gì đều tự xét, chẳng phải chỉ tin
người mà bèn khởi tác, cho đến những lời dạy của Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác
còn không thể tín thọ dễ dàng, huống chi lại tin lời Thanh văn, Độc giác, ngoại
đạo và các ác ma mà hành động ngay. (Q.514,
ĐBN)
Đại Bồ tát
này có ra làm việc gì chẳng bao giờ không tự xét nghĩ kỹ mà chỉ tin lời người,
quyết không có lẽ ấy được. Vì sao? Vì đại Bồ tát này chẳng thấy có pháp khá tin
hành. Vì sao? Đại Bồ tát này chẳng thấy có sắc khá tin hành, chẳng thấy có thọ
tưởng hành thức khá tin hành. Cũng chẳng thấy có sắc như khá tin hành ấy, chẳng
thấy có thọ tưởng hành thức như khá tin hành ấy. Nói rộng, cho đến chẳng thấy
có tất cả Bồ tát hạnh khá tin hành, chẳng thấy có chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng
Bồ đề khá tin hành. Cũng chẳng thấy có tất cả Bồ tát hạnh như khá tin hành ấy,
chẳng thấy có chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề như khá tin hành ấy. Nếu đại
Bồ tát trọn nên các hành trạng tướng trạng như thế, biết đấy là đại Bồ tát Bất
thối chuyển.
Lại nữa,
Thiện Hiện! Giả sử có ác ma hóa làm Bí sô đi đến chỗ Bồ tát, xướng lời như vầy:
Sở hành các người là pháp sanh tử chẳng phải Bồ tát hạnh, vì vậy chẳng thể
chứng sở cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Nay các ngươi nên tu đạo hết khổ, mau
hết các khổ được vào Niết bàn. Khi ấy ác ma tức vì Bồ tát thuyết đạo pháp tương
tự đạo sanh tử. Chỗ gọi tưởng thây chết, hoặc tưởng xanh bầm, hoặc tưởng rữa
bẫy, hoặc tưởng sình chướng, hoặc tưởng trùng ăn, hoặc tưởng đỏ màu khác; hoặc
từ, hoặc bi, hoặc hỷ, hoặc xả; hoặc sơ tĩnh lự, hoặc cho đến đệ tứ tĩnh lự;
hoặc Không vô biên xứ hoặc cho đến phi tưởng phi phi tưởng xứ, bảo Bồ tát rằng:
“Đấy là chơn đạo chơn hạnh. Ngươi do đạo hạnh đây sẽ được quả Dự lưu, hoặc quả
Nhất lai, hoặc quả Bất hoàn, hoặc quả A la hán, hoặc Độc giác Bồ đề. Ngươi do
đạo đây, do hạnh đây nên mau hết tất cả sanh lão bệnh tử, làm gì phải chịu khổ
sanh tử lâu dài? Thân khổ hiện tại hãy đáng nhàm chán, huống chi cầu thân khổ
đời sau! Nên tự nghĩ kỹ, bỏ những gì đã tin từ trước”.
Thiện Hiện
phải biết: đại Bồ tát này khi nghe lời kia tâm
chẳng động, cũng chẳng kinh nghi, chỉ khởi nghĩ này: Bí sô đây làm lợi ích
ta không ít. Năng vì ta nói đạo pháp tương tự, khiến ta biết thật đạo này chẳng
thể được quả Dự lưu, cho đến chẳng thể được Độc giác Bồ đề, huống chi có thể
chứng sở cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Đại Bồ tát này khởi nghĩ ấy rồi, rất
sanh vui mừng. Lại nghĩ lần nữa: Nay Bí sô này nói lời ích lợi cho ta, phương
tiện vì ta nói pháp chướng đạo, khiến ta hiểu biết pháp chướng đạo rồi đối đạo
Tam thừa tự tại tu học.
Thiện Hiện
phải biết: Khi ác ma kia biết Bồ tát này thân tâm vui mừng, lại khởi lời này: “Thiện
nam tử! Khốn thay! Ngươi nay muốn thấy các đại Bồ tát trong thời gian lâu hành
hạnh vô ích chăng? Nghĩa là chúng các đại Bồ tát, trải qua đại kiếp như số cát
sông Căng già, đem vô lượng thứ thượng diệu, uống ăn áo mặc, đồ nằm thuốc men,
của cải hoa hương các vật, cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen chư Phật
Thế Tôn. Lại ở chư Phật ngang số cát sông Căng già, tu hành bố thí cho đến Bát
nhã Ba la mật. Học trụ nội không cho đến vô tánh tự tánh không. Học trụ chơn
như cho đến bất tư nghì giới. Nói rộng ra, học trụ tất cả pháp Phật từ khổ tập
diệt đạo Thánh đế cho đến Nhất thiết tướng trí. Chúng đại Bồ tát này cũng gần gũi vâng thờ chư Phật nhiều như cát
sông Căng già. Ở chỗ chư Phật thỉnh hỏi đạo Bồ tát, rằng nói lời này: Sao là
đại Bồ tát an trụ Đại thừa? Sao là đại Bồ tát tu hành bố thí cho đến Bát nhã Ba
la mật. An trụ nội không cho đến vô tánh tự tánh không? An trụ chơn như cho đến
bất tư nghì giới. An trụ khổ tập diệt đạo Thánh đế cho đến Nhất thiết tướng
trí? Chư Phật Thế Tôn nhiều ngang
như cát sông Căng già, như đã thỉnh hỏi thứ lớp vì thuyết. Chúng các đại Bồ tát
này như lời Phật dạy bảo, an trụ tu học, trải vô lượng kiếp mạnh mẽ tinh tiến,
hãy chẳng thể chứng được sở cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, huống gì sự tu học
của các ông ngày nay mà có thể chứng được quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề ư?”
Khi ác ma
kia biết tâm Bồ tát này chẳng lui khuất, không ngờ không nghi, ngay lúc đó hóa
làm vô lượng Bí sô, rồi bảo Bồ tát rằng: Các Bí sô đây đều ở quá khứ siêng cầu
Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, trải vô lượng kiếp tu hành các khổ hạnh khó hành,
mà chẳng được sở cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, nay đều lui trụ quả A la hán,
thì làm sao các ông có thể được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề?
Thiện Hiện
phải biết: Các đại Bồ tát này thấy nghe đấy rồi, tức khởi nghĩ này: “Quyết định
ác ma hóa làm Bí sô như thế để rối loạn tâm ta, nhân đấy thuyết đạo pháp tương
tự ngăn ngại. Quyết định không có chúng đại Bồ tát tu hành Bát Nhã đến ngôi
viên mãn chẳng chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, lui đọa các bậc Thanh văn Độc
giác!”
Bấy giờ Bồ
tát lại khởi nghĩ này: Nếu đại Bồ tát tu hành bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật
đến ngôi rốt ráo, mà chẳng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, chắc không có lẽ
đó. Nói rộng, cho đến nếu đại Bồ tát tu hành Nhất thiết trí, Đạo tướng trí,
Nhất thiết tướng trí đến ngôi viên mãn mà chẳng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ
đề, chắc không có lẽ đó. Nếu đại Bồ tát trọn nên các hành tướng trạng như thế,
nên biết đấy là đại Bồ tát Bất thối chuyển.
Lại nữa,
Thiện Hiện! Tất cả đại Bồ tát Bất thối chuyển từng hành Bát nhã Ba la mật
thường khởi nghĩ này: Nếu đại Bồ tát như chư Phật dạy tinh siêng tu học từng
chẳng xa lìa sở nhiếp diệu hạnh sáu Ba la mật, từng chẳng xa lìa tác ý tương
ưng sáu Ba la mật, từng chẳng xa lìa tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí, thường
dùng phương tiện khuyến dẫn các hữu tình tinh siêng tu học bố thí, tịnh giới,
an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật. Đại Bồ tát này quyết định chẳng
lui bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Quyết định chẳng lui nội không cho đến vô
tánh tự tánh không. Quyết định chẳng lui chơn như cho đến bất tư nghì giới. Nói
rộng ra, quyết định chẳng lui tất cả pháp Phật từ bốn Thánh đế cho đến Nhất
thiết tướng trí, ắt chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Nếu đại Bồ tát trọn nên
các hành tướng trạng như thế, nên biết đấy là đại Bồ tát Bất thối chuyển.
Lại nữa,
Thiện Hiện! Tất cả đại Bồ tát Bất thối chuyển từng hành Bát nhã Ba la mật
thường khởi nghĩ này: Nếu đại Bồ tát giác biết việc ma, chẳng theo việc ma,
giác biết bạn ác, chẳng theo lời bạn ác, giác biết cảnh giới chẳng chuyển theo
cảnh giới, Đại Bồ tát này quyết định chẳng lui bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật.
Quyết định chẳng lui nội không cho đến vô tánh tự tánh không. Quyết định chẳng
lui chơn như cho đến bất tư nghì giới. Nói rộng ra, quyết định chẳng lui tất cả
pháp Phật từ bốn Thánh đế cho đến Nhất thiết tướng trí. Nếu đại Bồ tát trọn nên
các hành tướng trạng như thế, nên biết đấy là đại Bồ tát Bất thối chuyển. (Q.514, ĐBN)
Lại nữa,
Thiện Hiện! Tất cả đại Bồ tát Bất thối chuyển nghe các Như Lai Ứng Chánh Đẳng
Giác thuyết ra pháp yếu, thâm tâm vui mừng, cung kính tín thọ, khéo hiểu nghĩa
thú, nơi tâm vững chắc y như kim cương, chẳng thể lay chuyển, chẳng thể dẫn
cướp, thường siêng tu học bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát
nhã Ba la mật, cũng khuyên người học, tâm không nhàm mỏi. Nếu đại Bồ tát trọn
nên các hành tướng trạng như thế, nên biết đấy là đại Bồ tát Bất thối chuyển.
(Đại Bồ tát này đối với pháp nào có
quay lui nên gọi là chẳng quay lui?)
Bấy giờ,
Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:
- Đại Bồ tát
Bất thối chuyển như thế, đối pháp nào có quay lui (thối chuyển) nên gọi chẳng quay lui (bất thối chuyên)?
Phật bảo:
- Thiện
Hiện! “Thiện Hiện!
Bồ tát Ma ha tát này đối tưởng sắc uẩn cho đến tưởng thức uẩn có quay lui nên
gọi chẳng quay lui”. (Xin độc giả đọc kỹ
phần thích nghĩa số (2) để tránh ngộ nhận). Đối tưởng
nhãn xứ cho đến tưởng ý xứ có quay lui nên gọi chẳng quay lui. Đối tưởng sắc xứ
cho đến tưởng pháp xứ có quay lui nên gọi chẳng quay lui. Đối tưởng nhãn giới
cho đến tưởng ý giới có quay lui nên gọi chẳng quay lui. Đối tưởng sắc giới cho
đến tưởng pháp giới có quay lui nên gọi chẳng quay lui. Đối tưởng nhãn thức
giới cho đến tưởng ý thức giới có quay lui nên gọi chẳng quay lui. Đối tưởng
nhãn xúc cho đến tưởng ý xúc có quay lui nên gọi chẳng quay lui. Đối tưởng nhãn
xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến tưởng ý xúc làm duyên sanh ra các thọ có
quay lui nên gọi chẳng quay lui. Đối tưởng địa giới cho đến tưởng thức giới có
quay lui nên gọi chẳng quay lui. Đối tưởng nhân duyên cho đến tưởng tăng thượng
duyên có quay lui nên gọi chẳng quay lui. Đối tưởng vô minh cho đến tưởng lão
tử có quay lui nên gọi chẳng quay lui. Đối tưởng bố thí cho đến tưởng Bát nhã
Ba la mật có quay lui nên gọi chẳng quay lui. Đối tưởng nội không cho đến tưởng
vô tánh tự tánh không có quay lui nên gọi chẳng quay lui. Đối tưởng chơn như
cho đến tưởng bất tư nghì giới có quay lui nên gọi chẳng quay lui. Nói rộng ra,
đối tưởng tất cả pháp Phật từ bốn Thánh đế cho đến Nhất thiết tướng trí có quay
lui nên gọi chẳng quay lui. Vì sao? Vì
đại Bồ tát Bất thối chuyển như thế dùng tự tướng không quán tất cả pháp, rồi
vào Bồ tát Chánh tánh ly sanh cho đến chẳng thấy chút pháp khá được. Vì chẳng
khá được nên không tạo tác. Vì không tạo tác nên gọi rốt ráo chẳng sanh. Vì rốt
ráo chẳng sanh nên gọi Vô sanh pháp nhẫn. Bởi vì được Vô sanh pháp nhẫn như thế
nên gọi đại Bồ tát Bất thối chuyển. Nếu đại Bồ tát trọn nên các hành tướng
trạng như thế, nên biết đấy là đại Bồ tát Bất thối chuyển. (Q.514, ĐBN)
Lại nữa, Thiện
Hiện! Giả sử có ác ma muốn đại Bồ tát Bất thối chuyển, nhàm chán quả vị Vô
thượng Bồ đề, nói lời như vầy: “Nhất thiết trí trí ngang cùng hư không, vô tánh
làm tánh, tự tướng bản không. Các pháp cũng vậy, ngang cùng hư không, vô tánh
làm tánh. Trong tự tánh không, không có một pháp khá gọi năng chứng, không có
một pháp khá gọi sở chứng, chỗ chứng, thời chứng và do đây chứng cũng bất khả
đắc. Tất cả pháp đã ngang cùng hư không, vô tánh làm tánh, tự tướng bản không,
vì sao các ngươi luống chịu khổ nhọc cầu chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề?
Ngươi trước đã nghe các chúng Bồ tát cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề đều là do
ma thuyết, chẳng phải lời chơn Phật. Các ngươi nên bỏ tâm cầu chứng Vô thượng
Chánh đẳng giác, chớ để trải qua nhiều kiếp luống uổng nhọc nhằn vì lợi vui tất
cả hữu tình, tự chịu khổ nhọc. Mặc dù hành các thứ khổ hạnh khó làm, muốn cầu
Bồ đề nhưng trọn chẳng thể được”.
Đại Bồ tát
này khi nghe nói những lời quở trách can gián như vậy, xem xét kỹ: “Việc ác ma
đây muốn làm lui bại tâm đại Bồ đề ta, ta nay chẳng nên tín thọ lời kia. Tuy là
tất cả pháp ngang cùng hư không, vô tánh làm tánh, tự tướng bản không, mà các
hữu tình trải qua nhiều kiếp chịu sanh tử chẳng biết chẳng thấy, điên đảo mông
lung gây tạo các nghiệp chịu khổ sanh tử. Ta phải mặc giáp mũ công đức tánh
tướng đều không như thái hư không, mau tới Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, vì các
hữu tình thuyết pháp, khiến họ giải thoát các khổ sanh tử, được quả Dự lưu,
hoặc quả Nhất lai, hoặc quả Bất hoàn, hoặc quả A la hán, hoặc Độc giác Bồ đề, hoặc
chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, đến tận vị lai lợi vui tất cả”.
Đại Bồ tát
này từ sơ phát tâm đã nghe pháp đây, nơi tâm vững vàng chẳng động chẳng chuyển.
Nương tâm vững vàng chẳng động chẳng chuyển đây, hằng chính tu hành sáu pháp
đến bờ kia. Đã vào Bồ tát Chánh tánh ly sanh, lại chính tu hành sáu pháp đến bờ
kia nữa, lần lữa viên mãn dẹp hết các trói gút. Do đây, được vào bậc Bất thối
chuyển. Vậy nên, ác ma mặc dù đã bày nhiều thứ phương tiện làm lụi bại, nhưng
chẳng thể làm lụi bại được tâm Đại Bồ đề mà Bồ tát đã phát. Nếu đại Bồ tát trọn
nên các hành tướng trạng như thế, nên biết đấy là đại Bồ tát Bất thối chuyển. (Q.515, ĐBN)
(Vì không thối chuyển nên gọi là Bất
thối chuyển
hay vì thối chuyển nên gọi là Bất
thối chuyển?)
Cụ thọ Thiện
Hiện liền bạch Phật:
- Bạch Thế
Tôn! Đại Bồ tát này vì không thối chuyển nên gọi là Bất thối chuyển, hay vì
thối chuyển mà gọi là Bất thối chuyển?
Phật bảo:
- Thiện
Hiện! Đại Bồ tát này vì không thối chuyển nên gọi là Bất thối chuyển. Cũng vì
thối chuyển nên gọi là Bất thổi chuyển.
Thiện Hiện
lại bạch Phật:
- Bạch Thế
Tôn! Vì sao đại Bồ tát này vì không thối chuyển nên gọi là Bất thối chuyển? Vì
sao cũng thối chuyển nên gọi là Bất thối chuyển?
Phật bảo:
- Thiện
Hiện! Đại Bồ tát này vượt khỏi bậc Thanh văn và Độc giác, không thối lui vào trong hai bậc ấy. Do đó nên nói vì không thối chuyển
nên gọi là Bất thối chuyển.
Đại Bồ tát
này xa lìa bậc Thanh văn và Độc giác. Đối với hai bậc ấy nhất quyết lui bỏ. Do
đây nên nói vì thối chuyển nên gọi là Bất thối chuyển.
(Ở đây đứng
về cách hành văn rất khó giải thích, nhưng đứng về ý nghĩa Phật nói thì có thể
giải thích: Vì tránh được thối chuyển nên gọi là Bất thối chuyển)
Vì vậy, nên
Bồ tát này được hai cách gọi. Chẳng
phải như các ngôi khác chỉ gọi là thối chuyển. Nếu Đại Bồ tát thành tựu các
hành tướng trạng như thế, thì chắc chắn đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Các ác ma không thể làm thối lui được. (Q.515,
ĐBN)
Lại nữa,
Thiện Hiện! Tất cả đại Bồ tát Bất thối chuyển muốn vào sơ thiền cho đến đệ tứ
thiền tức tùy ý vào. Muốn vào từ vô lượng cho đến xả vô lượng tức tùy ý vào.
Muốn vào định Không vô biên xứ cho đến định Phi tưởng phi phi tưởng xứ tức tùy
ý vào. Muốn vào bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo tức tùy ý vào. Muốn vào
sơ giải thoát cho đến diệt tưởng thọ giải thoát tức tùy ý vào. Muốn vào sơ
thắng xứ cho đến thắng xứ thứ tám tức tùy ý năng vào. Muốn vào định sơ tĩnh lự
cho đến định diệt tưởng thọ tức tùy ý vào. Muốn vào sơ biến xứ cho đến biến xứ
thứ mười tức tùy ý vào. Muốn vào không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn tức
tùy ý vào. Muốn dẫn phát năm thần thông tức tùy ý dẫn phát.
Thiện Hiện
phải biết: Đại Bồ tát này tuy vào bốn tĩnh lự cho đến dẫn phát năm thần thông
mà chẳng thọ quả kia. Do nhân duyên đây chẳng theo tĩnh lự, vô lượng, đẳng chí
cho đến diệt định và các công đức khác mà thọ sanh. Cũng chẳng lấy quả Dự lưu,
hoặc quả Nhất lai, hoặc quả Bất hoàn, hoặc quả A la hán, hoặc Độc giác Bồ đề.
Vì muốn lợi vui các hữu tình nên theo ý muốn nhiếp thọ thân đáng nên thọ, tức
theo sở nguyện đều có thể nhiếp thọ được, làm việc nên làm xong liền bèn bỏ đi.
Nếu đại Bồ tát trọn nên các hành tướng trạng như thế, biết đấy là đại Bồ tát
Bất thối chuyển.
Lại nữa,
Thiện Hiện! Tất cả đại Bồ tát Bất thối chuyển trọn nên tác ý Vô Thượng Chánh
Đẳng Bồ đề, từng chẳng xa lìa tâm đại Bồ đề. Chẳng quý sắc uẩn cho đến thức
uẩn. Chẳng quý nhãn xứ cho đến ý xứ. Chẳng quý sắc xứ cho đến pháp xứ. Chẳng
quý nhãn giới cho đến ý giới. Chẳng quý sắc giới cho đến pháp giới. Chẳng quý
nhãn thức giới cho đến ý thức giới. Chẳng quý nhãn xúc cho đến ý xúc. Chẳng quý
nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ.
Chẳng quý địa giới cho đến thức giới. Chẳng quý nhân duyên cho đến tăng thượng
duyên. Chẳng quý tất cả duyên tánh, duyên khởi. Chẳng quý các tướng, chẳng quý
tùy hảo. Chẳng quý sở y. Chẳng quý pháp có sắc không sắc, chẳng quý pháp có
thấy không thấy, chẳng quý pháp có đối không đối, chẳng quý pháp có lậu không
lậu, chẳng quý pháp có vi không vi, chẳng quý pháp thế gian xuất thế gian.
Chẳng quý ngã, chẳng quý hữu tình cho đến chẳng quý tri giả, kiến giả. Chẳng
quý đồ chúng, chẳng quý quyến thuộc. Chẳng quý lộc vị, chẳng quý của cải.
Chẳng quý bố
thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Chẳng quý nội không cho đến vô tánh tự tánh
không. Chẳng quý chơn như cho đến bất tư nghì giới. Nói rộng ra, chẳng quý tất
cả pháp Phật từ tứ Thánh đế cho đến chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Chẳng
quý nghiêm tịnh cõi Phật. Chẳng quý thành thục hữu tình. Chẳng quý thấy nhiều
chư Phật. Chẳng quý vun trồng căn lành. Vì sao? Đại Bồ tát này thấu rõ tất cả
pháp ngang đồng hư không, lấy vô tánh làm tánh, tự tướng đều không, chẳng thấy
có pháp khá sanh quý trọng. Năng sanh, sở sanh, thời sanh, chỗ sanh, do đây mà
sanh đều bất khả đắc. Vì sao? Vì tất cả pháp này ngang đồng hư không, tánh tướng
đều không, nghĩa vô sanh vậy. Đại Bồ tát này thành tựu tác ý Vô Thượng Chánh
Đẳng Bồ đề, thường chẳng xa lìa tâm đại Bồ đề, bốn oai nghi của thân khi ra
vào, qua lại, hạ chân cất bước, tâm không tán loạn, đi đứng ngồi nằm, tiến
dừng, và làm việc gì đều trụ tâm trong chánh niệm. Nếu đại Bồ tát thành tựu các
hành tướng trạng như thế, thì biết là đại Bồ tát Bất thối chuyển. (Q.515, ĐBN)
Lại nữa,
Thiện Hiện! Vì lợi lạc hữu tình, tất cả đại Bồ tát Bất thối chuyển hiện thân
trong gia đình thế tục, nhưng không thọ hưởng năm thứ dục lạc, chỉ mong muốn
mau cứu giúp hữu tình. Nghĩa là các hữu tình cần ăn cho ăn, cần uống cho uống,
cần áo cho áo, cần xe cho xe, cho đến tất cả vật cần dùng đều mau cấp cho,
khiến họ được mãn nguyện.
Đại Bồ tát
này tự hành bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật, cũng khuyên người hành bố thí cho
đến Bát nhã Ba la mật, hằng chính xưng nêu pháp hành bố thí cho đến Bát nhã Ba
la mật, vui mừng khen ngợi kẻ hành bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật.
Đại Bồ tát
này hiện ở gia đình dùng sức thần thông hoặc sức đại nguyện nhiếp thọ các thứ
của cải đầy châu Thiệm bộ cho đến thế giới Tam thiên đại thiên, đem dùng cúng
dường Phật Pháp Tăng bảo và thí các loại hữu tình nghèo khổ. Đại Bồ tát này dù
hiện ở gia đình thế tục mà thường tu phạm hạnh, trọn chẳng thọ dụng các dục
lạc. Dù hiện nhiếp thọ nhiều thứ của cải ngọc báu mà đối trong ấy chẳng khởi
nhiễm đắm. Lại khi nhiếp thọ các thứ dục lạc và của cải, cũng chẳng ép bức các
loại hữu tình khiến sanh sầu khổ. Nếu đại Bồ tát trọn nên các hành tướng trạng
như thế, nên biết đấy là đại Bồ tát Bất thối chuyển. (Q.515, ĐBN)
Lại nữa,
Thiện Hiện! Tất cả đại Bồ tát Bất thối chuyển có Thần vương Dược xoa cầm chày
kim cương thường theo hai bên thầm bảo hộ, hằng khởi nghĩ này: “Đại Bồ tát này
chẳng lâu sẽ chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Tôi nguyện thường âm thầm theo
bảo hộ cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Tôi cầm chày kim cương của tộc họ
thần Dược xoa bảo hộ, không lúc nào tạm bỏ. Người và phi người v.v… chẳng thể
làm tổn hại, chư thiên ma phạm và các thế gian cũng không có khả năng phá hoại
tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề đã phát”. Do nhân duyên đây các Bồ tát này cho
đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thân ý thơ thới, thường không rối rắm.
Đại Bồ tát
này năm căn thế gian thường không khuyết giảm, chỗ gọi mắt tai mũi lưỡi thân.
Năm căn xuất thế gian cũng không khuyết giảm, chỗ gọi tín căn, tinh tấn căn,
niệm căn, định căn, huệ căn. Đại Bồ tát này thân thể đầy đủ, tướng hảo trang
nghiêm, các công đức nơi tâm mỗi niệm mỗi niệm tăng tiến cho đến Vô Thượng
Chánh Đẳng Bồ đề. Nếu đại Bồ tát trọn nên các hành tướng trạng như thế, nên
biết đấy là đại Bồ tát Bất thối chuyển.
Lại nữa,
Thiện Hiện! Tất cả đại Bồ tát Bất thối
chuyển thường làm thượng sĩ chẳng làm hạ sĩ.
Cụ thọ Thiện
Hiện liền thưa Phật rằng:
- Tại sao
Đại Bồ tát này thường làm thượng sĩ chẳng làm hạ sĩ?
Phật bảo:
- Thiện
Hiện! Đại Bồ tát này tất cả phiền não chẳng còn hiện tiền, sát na pháp lành
tăng tiến, cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề ở tất cả thời tâm không tán loạn.
Vậy nên, Ta nói đại Bồ tát đây thường làm thượng sĩ chẳng làm hạ sĩ. Nếu đại Bồ
tát trọn nên các hành tướng trạng như thế, nên biết đấy là đại Bồ tát Bất thối
chuyển.
Lại nữa,
Thiện Hiện! Tất cả đại Bồ tát Bất thối chuyển thành tựu tác ý quả vị Vô Thượng
Chánh Đẳng Bồ đề, thường chẳng xa lìa tâm đại Bồ đề, tu thanh tịnh thân mạng,
chẳng làm chú thuật, chữa thuốc, xem bói, các việc tà mạng khác. Chẳng vì danh
lợi mà dùng bùa chú của quỷ thần nhập vào trai hay gái để hỏi việc lành dữ…
Cũng chẳng xem tướng thọ lượng dài ngắn, của cải lộc vị nam nữ các việc thiện
ác. Cũng chẳng dự đoán điềm lạnh nóng được mùa mất mùa, cát hung tốt xấu làm
loạn hoặc hữu tình. Cũng chẳng chú cấm hòa hợp thang thuốc, tà đạo trị chữa tật
bệnh, kết hảo quý nhân, cũng chẳng vì người làm sứ mạng giao thông hiện tướng
thân hữu, mong lợi cầu danh. Hãy chẳng nhiễm lòng xem nhìn nam nữ giỡn cười nói
năng, huống các việc khác, cũng chẳng cung kính cúng dường quỷ thần. Vậy nên,
Ta nói thường làm thượng sĩ chẳng làm hạ sĩ. Vì sao? Vì đại Bồ tát này biết tất
cả pháp tánh tướng đều không. Trong tánh tướng không chẳng thấy có tướng. Vì
chẳng thấy có tướng, nên xa lìa các thứ tà mạng chú thuật, chữa thuốc xem
tướng; chỉ cầu Vô thượng Cháng đẳng Bồ đề, thường làm nhiêu ích cho các hữu
tình. Nếu Bồ tát trọn nên các hành tướng trạng như thế, nên biết đấy là đại Bồ
tát Bất thối chuyển. (Q.515, ĐBN)
Lại nữa,
Thiện Hiện! Tất cả đại Bồ tát Bất thối chuyển đối văn chương mỹ nghệ thế gian dù được giỏi khéo mà chẳng mến đắm.
Vì sao? Đại Bồ tát này thấu rõ tất cả pháp đều rốt ráo không, thế gian có bao
văn chương mỹ nghệ đều bất khả đắc. Lại văn chương mỹ nghệ của các thế gian đều
lời tạp uế, nhiếp vào tà mạng. Vậy nên, Bồ tát biết mà chẳng làm.
Thiện Hiện
phải biết: Đại Bồ tát này đối các thơ luận thế tục ngoại đạo dù giỏi biết mà
chẳng ưa đắm. Vì sao? Đại Bồ tát này thấu rõ tất cả pháp tánh tướng đều không.
Trong tánh tướng không, tất cả thơ luận đều bất khả đắc. Lại các thơ luận thế
tục ngoại đạo sở thuyết những sự lý phần nhiều có thêm bớt, đối đạo Bồ tát
chẳng thể nào tùy thuận được, đều là nhiếp vào lời hý luận tạp uế, nên các Bồ
tát biết mà chẳng ưa. Nếu Bồ tát trọn nên các hành tướng trạng như thế, nên
biết đấy là đại Bồ tát Bất thối chuyển.
Lại nữa,
Thiện Hiện! Tất cả đại Bồ tát Bất thối chuyển lại còn có hằng bao nhiêu các
hành tướng trạng khác nữa, nên biết đấy là đại Bồ tát Bất thối chuyển. Ta sẽ vì
ngươi phân biệt giải nói, ngươi nên lóng nghe chắc chắc, rất khéo suy nghĩ.
Thiện Hiện
thỉnh rằng: Dạ, xin thuyết cho. Chúng con hôm nay chuyên ý muốn nghe!
Phật bảo:
- Thiện
Hiện! Đã có đại Bồ tát Bất thối chuyển hành sâu Bát Nhã, tuy thông suốt các
pháp đều vô sở hữu, thường chẳng xa lìa tâm Bồ đề, nhưng chẳng ưa xem xét luận nói về các uẩn, các xứ và các giới. Vì sao?
Vì đại Bồ tát này đã suy nghĩ rốt ráo và thông suốt hoàn toàn chân lý về tánh,
tướng Không của uẩn, xứ, giới.
Thiện Hiện
phải biết: Đại Bồ tát này chẳng muốn xem
xét luận nói việc vua. Vì sao? Đại Bồ tát này vì trụ bản tánh không, chẳng
thấy chút pháp có tướng thắng bại sang hèn vậy.
Thiện Hiện
phải biết: Đại Bồ tát này chẳng muốn xem
xét luận nói việc giặc. Vì sao? Đại Bồ tát này vì trụ tự tướng không, chẳng
thấy chút pháp có tướng được mất để cướp vậy.
Thiện Hiện
phải biết: Đại Bồ tát này chẳng muốn xem
xét luận nói việc quân. Vì sao? Đại Bồ tát này vì trụ bản tánh không, nên
chẳng thấy các pháp có tướng nhiều, ít, hợp, tan.
Thiện Hiện
phải biết: Đại Bồ tát này chẳng muốn xem
xét luận nói chiến đấu. Vì sao? Đại Bồ tát này vì khéo trụ lý các pháp chơn
như không, chẳng thấy chút pháp có tướng mạnh yếu ưa giận vậy.
Thiện Hiện
phải biết: Đại Bồ tát chẳng muốn xem xét
luận nói nam nữ. Vì sao? Đại Bồ tát này vì trụ các pháp không, chẳng thấy
chút pháp có tướng tốt xấu yêu ghét vậy.
Thiện Hiện
phải biết: Đại Bồ tát này chẳng muốn xem
xét luận nói xóm làng. Vì sao? Đại Bồ tát này vì trụ các pháp không, chẳng
thấy chút pháp có tướng tăng giảm hợp lìa vậy.
Thiện Hiện
phải biết: Đại Bồ tát này chẳng muốn xem
xét luận nói thành ấp. Vì sao? Đại Bồ tát này vì trụ các pháp không, chẳng
thấy chút pháp có tướng nhiếp chẳng nhiếp tốt xấu vậy.
Thiện Hiện phải
biết: Đại Bồ tát này chẳng muốn xem xét
luận nói cõi nước. Vì sao? Đại Bồ tát này vì an trụ thật tế, chẳng thấy các
pháp có tướng thuộc chẳng thuộc đây kia vậy.
Thiện Hiện
phải biết: Đại Bồ tát chẳng muốn xem xét
luận nói tướng tốt. Vì sao? Đại Bồ tát này vì an trụ vô tướng, chẳng thấy
các pháp có tướng tốt xấu sai khác vậy.
Thiện Hiện
phải biết: Đại Bồ tát này chẳng muốn xem
xét luận nói đây ngã, đây hữu tình cho
đến đây tri giả, đây kiến giả. Vì sao? Đại Bồ tát này vì trụ rốt ráo không,
đều chẳng thấy tướng ngã cho đến kiến giả hoặc có hoặc không sai khác vậy.
Thiện Hiện phải biết: Đại Bồ tát này chẳng muốn xem
xét luận nói các việc thế gian như thế, chỉ muốn xem xét luận nói Bát nhã Ba la
mật. Vì sao? Vì Bát Nhã thậm thâm xa lìa các tướng, năng chứng được Vô thượng
đại Bồ đề vậy.
Thiện Hiện
phải biết: Đại Bồ tát này thường chẳng xa lìa tác ý tương ưng Nhất thiết trí
trí, tu hành bố thí Ba la mật lìa xan tham. Tu hành tịnh giới Ba la mật lìa
phạm giới. Tu hành an nhẫn Ba la mật lìa giận hờn cãi vã. Tu hành tinh tấn Ba
la mật lìa lười nhác. Tu hành tĩnh lự Ba la mật lìa tán loạn. Tu hành Bát nhã
Ba la mật lìa ác huệ.
Thiện Hiện
phải biết: Đại Bồ tát này tuy trụ tất cả pháp không mà ưa mến chánh pháp, chẳng
ưa phi pháp. Tuy trụ bất khả đắc không mà thường xưng khen công đức Tam Bảo.
Thiện Hiện
phải biết: Đại Bồ tát này tuy hành tướng các pháp chơn như, pháp giới nhất vị,
mà muốn xưng nêu các công đức chơn như, pháp giới.
Thiện Hiện
phải biết: Đại Bồ tát này tuy biết các pháp đều rốt ráo không mà mến bạn lành,
chẳng ưa bạn ác. Nói bạn lành ấy là các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và chúng
các đại Bồ tát, hoặc các Thanh văn Độc giác thừa v.v… khéo giáo hóa an lập hữu
tình khiến đạt tới Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, cũng gọi bạn lành.
Thiện Hiện
phải biết: Đại Bồ tát này thường muốn gần tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác,
lóng nghe chánh pháp. Nếu nghe Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ở các thế giới khác
hiện thuyết chánh pháp, tức dùng nguyện lực vãng sanh cõi kia, cúng dường cung
kính, tôn trọng ngợi khen, nghe thọ chánh pháp.
Thiện Hiện
nên biết! Đại Bồ tát này hoặc ngày, hoặc đêm thường chẳng xa lìa tác ý niệm
Phật, cũng chẳng xa lìa tác ý nghe pháp. Nhờ thiện căn này những quốc độ nào có
Phật Thế Tôn đang thuyết chánh pháp, vị ấy liền nương vào nguyện lực đến cõi ấy
thọ sanh, hoặc nương thần thông đến đó nghe pháp. Do nhân duyên đó nên các đại
Bồ tát này đời đời kiếp kiếp sanh đến chỗ nào cũng không lìa Phật, thường nghe
chánh pháp, không gián đoạn.
Thiện Hiện
phải biết: Đại Bồ tát này hằng vì lợi vui các hữu tình, nên dù hiện khởi tĩnh
lự, các định vô sắc mà lại khởi tâm hiện cõi Dục để giáo hóa các hữu tình mười
thiện nghiệp đạo, cũng theo nguyện lực hiện sanh Dục giới cõi nước có Phật,
cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen chư Phật Thế Tôn, lóng nghe chánh
pháp, tu các thắng hạnh. Nếu đại Bồ tát trọn nên các hành tướng trạng như thế,
nên biết đấy là đại Bồ tát Bất thối chuyển. (Q.515,
ĐBN)
Lại nữa,
Thiện Hiện! Tất cả đại Bồ tát Bất thối chuyển thường hành bố thí cho đến Bát
nhã Ba la mật. Thường hành nội không cho đến vô tánh tự tánh không. Thường hành
chơn như cho đến bất tư nghì giới. Thường hành tất cả pháp Phật từ tứ Thánh đế
cho đến chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Thiện Hiện
phải biết: Đại Bồ tát này hằng đối tự địa chẳng khởi nghi ngờ, chẳng khởi nghĩ
này: Ta là Bất thối chuyển, ta chẳng phải Bất thối chuyển. Vì sao? Vì đại Bồ
tát này chẳng thấy chút pháp khá đối Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề nói có thối
chuyển hay không thối chuyển. Và
cũng vì đại Bồ tát này đối pháp tự địa đã khéo biết rõ, khéo thông suốt vậy.
Thiện Hiện
phải biết: Như kẻ Dự lưu trụ quả Dự lưu, đối pháp tự quả không nghi không ngờ;
Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác và các Như Lai Ứng Chánh đẳng Giác đều
trụ tự quả, đối pháp tự quả không nghi không ngờ. Đại Bồ tát này cũng lại như
thế, đối tự sở trụ bậc Bất thối chuyển nhiếp được các pháp hiện biết hiện thấy,
không nghi không ngờ.
Thiện Hiện
phải biết: Đại Bồ tát này trụ trong bậc đây thành thục hữu tình, nghiêm tịnh
cõi Phật, tu các công đức, có ma sự khởi tức năng giác biết, chẳng theo thế lực
sự ma chuyển đổi, khéo năng tiêu diệt được các thứ ma sự, khiến chẳng ngăn ngại
sở tu công đức.
Thiện Hiện
phải biết: Như có kẻ gây nghiệp vô gián, tâm vô gián kia hằng thường theo dõi
cho đến mệnh chung, chẳng thể bỏ được. Vì sao? Vì kẻ kia năng khởi thế lực tăng
thượng nghiệp vô gián trói buộc, hằng thường chuyển theo cho đến mệnh tận cũng
chẳng thể dẹp bỏ được. Đại Bồ tát này cũng lại như thế, an trụ tự địa, nơi tâm
chẳng động, không sở phân biệt, thế gian, trời, người, A tu la v.v… đều chẳng thể
chuyển nổi. Vì sao? Vì đại Bồ tát này nơi tâm vững vàng, vượt các thế gian,
trời, người, ma, phạm, A tu la v.v…, đã vào Bồ tát Chánh tánh ly sanh, trụ bậc
Bất thối, đã được thần thông thù thắng, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi
Phật. Từ một nước Phật tới một nước Phật, cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi
khen chư Phật Thế Tôn và các đệ tử Phật, lóng nghe chánh pháp, ở chỗ chư Phật
trồng các căn lành, thỉnh hỏi pháp nghĩa Bồ tát nên học.
Thiện Hiện
phải biết: Đại Bồ tát này an trụ tự địa, có khởi ma sự tức liền giác biết,
quyết chẳng thuận theo ma sự mà chuyển đổi. Dùng phương tiện thiện xảo tập
trung các ma sự để vào trong thật tế, rồi phương tiện trừ diệt. Đối pháp tự địa
không nghi ngờ. Vì sao? Đại Bồ tát này biết tất cả pháp đều vào thật tế, thông suốt
thật tế chẳng một chẳng nhiều. Đối trong thật tế không sở phân biệt, vì đối với
thật tế không nghi không ngờ, đối pháp tự địa cũng không do dự.
Thiện Hiện
phải biết: Đại Bồ tát này nếu có chuyển đổi thọ sanh cũng đối thật tế không còn
quay lui, trọn chẳng phát khởi tác ý Thanh văn, Độc giác. Vì sao? Đại Bồ tát
này biết tất cả pháp tự tướng đều không, với trong không đây chẳng thấy có pháp
hoặc sanh hoặc diệt, hoặc nhiễm hoặc tịnh.
Thiện Hiện
phải biết: Đại Bồ tát này cho đến chuyển sanh cũng chẳng nghi ngờ rằng sẽ được
Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề hay chẳng được. Vì sao? Vì đại Bồ tát này thông suốt các pháp tự tướng đều không, tức là Vô Thượng
Chánh Đẳng Bồ đề.
Thiện Hiện
phải biết: Đại Bồ tát này an trụ tự địa chẳng theo duyên khác. Đối pháp tự địa
không ai phá hoại được. Vì sao? Đại Bồ tát này trọn nên trí vô động vô thối chuyển, tất cả ác duyên chẳng thể làm nghiêng
động được. Nếu đại Bồ tát này trọn nên các hành tướng trạng như thế, nên biết
đấy là đại Bồ tát Bất thối chuyển. (Q.
515, ĐBN)
Lại nữa, Thiện
Hiện! Giả sử nếu có ác ma giả làm Phật đi đến chỗ Bồ tát bất thối chuyển nói
lời như vầy: “Ngươi nay nên cầu quả A la hán, diệt hẳn các lậu, chứng vào Niết
bàn. Ngươi chưa kham nhận thọ ký đại Bồ đề, chưa chứng được Vô sanh pháp nhẫn.
Ngươi nay chưa có các hành tướng trạng bậc Bất thối chuyển, Như Lai chẳng thể
trao ngươi ký Vô thượng Đại Bồ đề. Cần có đầy đủ các hành tướng trạng bậc Bất
thối chuyển mới có thể nhờ Phật trao ký Vô thượng đại Bồ đề”. Đại Bồ tát này
nghe lời kia rồi tâm không biến động, chẳng lui chẳng chìm, không kinh không
sợ, đại Bồ tát này nên tự chứng biết: “Ta ở chỗ các Đức Như Lai quá khứ chắc đã
nhận được ký đại Bồ đề. Vì sao? Bồ tát trọn nên thắng pháp như thế quyết định
nhờ chư Phật trao cho ký đại Bồ đề. Ta đã trọn nên thắng pháp như thế, lẽ đâu
Thế Tôn chẳng trao ký cho ta? Vậy nên ta ở chỗ Như Lai quá khứ quyết định đã
nhận được ký Đại Bồ đề”. Nếu đại Bồ tát trọn nên các hành tướng trạng như thế,
nên biết đấy là đại Bồ tát Bất thối chuyển.
Lại nữa,
Thiện Hiện! Giả sử có ác ma, hoặc sứ giả ma giả làm Phật đến trao Bồ tát ký bậc
Thanh văn, hoặc trao Bồ tát ký bậc Độc giác, bảo Bồ tát rằng: “Thiện nam tử!
Khốn thay! Dùng chi Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, sanh tử luân hồi, chịu đại khổ
lâu dài! Nên tự mau chứng vô dư Niết bàn, lìa hẳn sanh tử, an vui rốt ráo”. Đại
Bồ tát này nghe lời kia rồi khởi nghĩ này: “Đây quyết định ác ma hoặc sứ giả ma
giả làm Phật để rối loạn tâm ta, trao ta ký bậc Thanh văn, Độc giác, khiến lui
Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì sao? Nhất định không chư Phật nào dạy các Bồ tát
hướng tới Thanh văn hoặc bậc Độc giác, nới bỏ Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề”. Đại
Bồ tát này trọn nên các hành tướng trạng như thế, nên biết đấy là đại Bồ tát
Bất thối chuyển.
Lại nữa,
Thiện Hiện! Giả sử có ác ma, hoặc sứ giả ma giả làm Phật bảo Bồ tát rằng: “Ngươi
đã thọ trì Kinh điển Đại thừa chẳng phải Phật thuyết ra, cũng chẳng phải đệ tử
Như Lai thuyết ra. Đấy các ác ma hoặc các ngoại đạo vì dối gạt ngươi lập thuyết
như thế. Ngươi nay chẳng nên thọ trì đọc tụng”. Đại Bồ tát này nghe lời bọn ma
kia rồi khởi nghĩ này rằng: “Đây nhật định ác ma hoặc dòng họ ma khiến ta chán
bỏ Vô thượng Bồ đề nên nói Kinh điển Đại thừa sâu thẳm chẳng phải Phật thuyết,
cũng chẳng phải đệ tử Như Lai thuyết ra. Vì sao? Vì lìa Kinh điển đây có thể
đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề tất không có lẽ ấy”. (Q.515, ĐBN)
Thiện Hiện
phải biết: Đại Bồ tát này nhất định đã an trụ bậc Bất thối chuyển, chư Phật quá
khứ đã trao ký Đại Bồ đề lâu rồi. Vì sao? Đại Bồ tát này đầy đủ trọn nên các
hành tướng trạng như thế, phải biết đã nhận ký Đại Bồ đề rồi, tất đã an trụ bậc
Bất thối chuyển, nên có thể giác biết được sự nghiệp ác ma. Nếu đại Bồ tát trọn
nên các hành tướng trạng như thế, nên biết đấy là đại Bồ tát Bất thối chuyển.
Lại nữa,
Thiện Hiện! Tất cả đại Bồ tát Bất thối chuyển khi hành sâu Bát Nhã, nhiếp hộ
chánh pháp chẳng tiếc thân mạng, huống chi các của cải bè bạn dòng họ. Đại Bồ
tát này hằng khởi nghĩ này: “Thà ta nới bỏ thân hữu, của cải và thân mạng,
quyết chẳng nới bỏ chánh pháp chư Phật. Vì sao? Vì thân hữu, của cải và thân mạng
đời đời thường có, rất là dễ được. Chánh pháp chư Phật trăm ngàn trăm ức muôn
ức kiếp mới được gặp một lần. Gặp được suốt đời suốt kiếp được lợi vui lớn, nên
ta nhất định phải tinh siêng nhiếp hộ, chẳng đoái thân mạng, thân hữu, của cải”.
Thiện Hiện phải
biết: Khi đại Bồ tát này nhiếp hộ chánh pháp liền khởi nghĩ: Ta nay chẳng vì
nhiếp hộ chánh pháp một Phật hai Phật ba Phật cho đến trăm ngàn chư Phật mà
khắp vì nhiếp hộ chánh pháp chư Phật mười phương ba đời, làm cho chẳng bị suy
tổn. (Q.515, ĐBN)
(Pháp Không là chánh pháp chư Phật)
Cụ thọ Thiện
Hiện bèn thưa Phật rằng:
- Những gì
gọi là chánh pháp chư Phật? Đại Bồ tát này vì sao nhiếp hộ chẳng tiếc của cải
thân hữu thân mạng?
Phật bảo:
- Thiện
Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vì các Bồ tát thuyết các pháp không. Như vậy, gọi là chánh pháp chư Phật.
Có loại ngu si bài báng hủy chê nói đây phi pháp, phi Tỳ nại da, chẳng phải
đấng Thiên Nhơn Sư nói ra Thánh giáo, tu học pháp đây chẳng được Vô Thượng
Chánh Đẳng Bồ đề, chẳng chứng Niết bàn an vui vắng lặng. Đại Bồ tát này nhiếp
hộ pháp đây chẳng tiếc của cải thân hữu, thân mạng, thường khởi nghĩ này: Như
Lai thuyết ra tất cả pháp không là chỗ nương chơn thật cho các hữu tình; Bồ tát
tu học mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, cứu vớt các hữu tình thoát khỏi
sanh lão bệnh tử, khiến được Niết bàn rốt ráo thường vui. Nên ta nay chẳng tiếc
thân mạng của cải thân hữu nhiếp hộ pháp đây. Lại khởi nghĩ này: Ta sẽ được ở
trong số chư Phật đời vị lai. Đức Phật đã thọ ký đại Bồ đề cho ta. Vì vậy,
chánh pháp của chư Phật tức là chánh pháp của ta. Ta phải hộ trì, chẳng tiếc
thân mạng, của cải, bà con, bạn bè. Ở đời vị lai khi thành Phật, ta cũng vì hữu
tình tuyên thuyết các pháp Không như vậy.
Thiện Hiện
phải biết: Đại Bồ tát này thấy nghĩa lợi đây nhiếp hộ chánh pháp Như Lai đã
thuyết, chẳng tiếc thân mạng của cải thân hữu, cho đến Bồ đề thường không lười
mỏi. Nếu đại Bồ tát trọn nên các hành tướng trạng tướng như thế, nên biết đấy
là đại Bồ tát Bất thối chuyển.
Lại nữa,
Thiện Hiện! Tất cả đại Bồ tát Bất thối chuyển nghe các Như Lai Ứng Chánh Đẳng
Giác thuyết ra chánh pháp không nghi ngờ. Nghe rồi thọ trì chẳng quên mất, cho
đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì sao? Vì đại Bồ tát này đã được Đà la ni khéo
léo vậy.
Cụ thọ Thiện
Hiện bèn thưa Phật rằng:
- Đại Bồ tát
này đã được những Đà la ni nào nên nghe các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thuyết
ra chánh pháp không nghi ngờ, nghe rồi thọ trì thường chẳng quên mất?
Phật bảo:
- Thiện
Hiện! Đại Bồ tát này đã được Vô tận tạng Đà la ni, Hải ấn Đà la ni, Liên hoa
chúng tạng Đà la ni v.v… phương tiện khéo léo, nghe các Như Lai Ứng Chánh Đẳng
Giác thuyết ra chánh pháp không nghi ngờ. Nghe rồi thọ trì được chẳng quên mất,
cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thường như hiện tiền nghe Phật thuyết ra. (Q.515, ĐBN)
Bấy giờ,
Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:
- Đại Bồ tát
này chỉ nghe Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thuyết ra chánh pháp không nghi ngờ,
nghe rồi thọ trì thường chẳng quên mất, hay nghe Bồ tát, Độc giác, Thanh văn,
trời, rồng, dược xoa, người, phi người v.v… thuyết chánh pháp cũng không mê
hoặc, nghi ngờ đối với chánh pháp, nghe rồi thọ trì chẳng quên mất?
Phật bảo:
- Thiện
Hiện! Đại Bồ tát này nghe tất cả âm thanh, ngôn ngữ, văn tự, nghĩa lý của tất
cả hữu tình và hiểu rõ được hết, không có mê hoặc, nghi ngờ, đến tận cùng đời
vị lai cũng chẳng quên mất. Vì sao? Vì đại Bồ tát này đã được Vô tận tạng Đà la
ni v.v... giữ gìn điều đã thuyết làm cho không quên mất.
Nếu đại Bồ
tát thành tựu các hành tướng trạng như thế, thì biết đó là đại Bồ tát Bất thối
chuyển. (Q.515, ĐBN)
Thích nghĩa:
Trước khi giải thích hai câu hỏi (1). và (2). sau đây,
chúng tôi xin trần thuật cùng độc giả: Câu hỏi (1). thuộc phần mở đầu của phẩm
"Tướng Bất Thối Chuyển" và câu hỏi (2). nằm ở phần sau của phẩm này.
Cả hai câu hỏi trên đều được ba pháp hội thuyết như nhau, chỉ khác về cách diễn
đạt. Muốn nắm vững vấn đề xin quý vị đọc kỹ phần trình bày của chúng tôi:
(1). Nếu tất cả pháp không có hành tướng
trạng, đại Bồ tát này đối pháp nào chuyển nên gọi Bất thối chuyển?
1- Phẩm
“Tướng Bất Thối Chuyển” thuộc phần sau quyển 514, Hội thứ III, dịch: “Thiện Hiện! Đại Bồ tát này đối sắc uẩn cho đến thức uẩn chuyển nên gọi Bất thối chuyển”. Nguyên văn chữ Hán là “佛 Phật 告 cáo 善 thiện 現 hiện. 是 thị 菩 Bồ 薩 Tát 摩 Ma 訶 Ha 薩 Tát. 於 ư 色 sắc 蘊 uẩn 乃 nãi 至 chí 識 thức 蘊 uẩn 轉 chuyển 故 cố 名 danh 不 bất 退 thối 轉 chuyển”.
2- Phẩm “Bất thối
Chuyển”, quyển 448, Hội thứ II, dịch: “Phật nói: Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha
tát này đối sắc chuyển nên gọi Bất thối
chuyển…”. Nguyên văn câu chữ Hán là “佛 Phật 言 ngôn. 善 thiện 現 hiện. 是 thị 菩 Bồ 薩 Tát 摩 Ma 訶 Ha 薩 Tát. 於ư 色sắc 轉chuyển 故cố 名danh 不bất 退 thối 轉 chuyển”.
3- Phẩm “Bất Thối
Chuyển”, phần cuối quyển 325, Hội thứ I, dịch: “Phật nói: Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này
đối sắc thối chuyển nên gọi Bất thối chuyển, …”. Nguyên văn đoạn này bằng chữ Hán, viết
rằng: “佛 Phật 言 ngôn 善 thiện 現 hiện. 是 thị 菩 Bồ 薩 Tát 摩 Ma 訶 Ha 薩 Tát. 於 ư 色 sắc 退 thối 轉 chuyển 故 cố 名 danh 不 bất 退 thối 轉 chuyển”.
Cả ba đoạn
Kinh trên của ba pháp Hội đều nói: Chuyển hay thối chuyển nên gọi là bất thối
chuyển. Câu hỏi được đặt ra là: Đã là
chuyển hay thối chuyển thì tại sao gọi là bất thối chuyển được?
(2). “...đối pháp nào có quay lui (thối chuyển) nên gọi chẳng quay lui (bất thối chuyên)?”
1- Phẩm “Tướng Bất Thối Chuyển” thuộc phần sau quyển 514,
Hội thứ III, dịch: “Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này đối tưởng sắc uẩn cho
đến tưởng thức uẩn có quay lui nên gọi
chẳng quay lui”. Nguyên ngăn câu chữ
Hán là: “佛 Phật 告 cáo 善 thiện 現 hiện. 是 thị 菩 Bồ 薩 Tát 摩 Ma 訶 Ha 薩 Tát. 於 ư 色 sắc 蘊 uẩn 想 tưởng 乃 nãi 至 chí 識 thức 蘊 uẩn 想 tưởng 有 hữu 退 thối 轉 chuyển 故 cố 名 danh 不 bất 退 thối 轉 chuyển”. Cũng có thể dịch như vầy: “Thiện Hiện!
Đại Bồ tát này đối tưởng sắc uẩn cho đến tưởng thức uẩn có thối chuyển nên gọi bất thối chuyển”. Đứng về phương diện
dịch thuật, dịch như vậy không có gì sai trái. Nhưng đứng về nghĩa thú thì
không thể hiểu nổi. Vì một khi Bồ tát gặp trái duyên mà thối thất đạo Bồ đề thì
gọi là thối chuyển. Đã thối chuyển thì làm sao gọi là bất thối chuyển?
2- Phẩm “Bất Thối
chuyển”, quyển 326, Hội thứ I, dịch đoạn Kinh này như sau: “Phật nói: Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này đối tưởng
sắc giới thối chuyển nên gọi Bất thối chuyển…”. Nguyên văn câu chữ Hán là: “善 thiện 現 hiện. 是 thị 菩 Bồ 薩 Tát 摩 Ma 訶 Ha 薩Tát. 於 ư 色 Sắc 界 Giới 想 tưởng 退 thối 轉 chuyển 故 cố 名 danh 不 bất 退 thối 轉 chuyển”. Câu
dịch này chính xác, nghĩa lý giống như Hội thứ III trên.
3- Phẩm “Bất Thối Chuyển”, quyển 449, Hội thứ
II, dịch: “Phật dạy: Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này đối với sắc có tưởng thối chuyển nên cũng gọi là thối chuyển…”. Nguyên văn câu chữ Hán là: “善 thiện 現 hiện. 是 thị 菩 Bồ 薩 Tát 摩 Ma 訶 Ha 薩 Tát. 於 ư 色 sắc 想 tưởng 有 hữu 退 thối 轉 chuyển 故 cố 亦 diệc 名 danh 退 thối 轉 chuyển”. Đứng
về phương diện dịch thuật cũng như nghĩa thú thì đoạn Kinh này dễ hiểu nhất,
mặc dầu trái ngược với các đoạn Kinh trên.
Chúng tôi không dám sửa Kinh văn do chính Ngài Huyền
Trang dịch từ Phạn sang Hán, nhưng vì đây là một bản tóm lược nên chúng tôi
chọn lối dịch nào vừa dịch đúng và phù hợp ý Kinh thì ghi lại. Phẩm “Bất Thối
Chuyển”, thuộc quyển 449, Hội thứ II văn từ lý thú có vẻ chính xác nhất: Trước sự cám dỗ của ngũ dục lục trần hay
những phiền não bất tận do bát phong gây nên mà người tu, tâm như như bất động
thì gọi là bất thối chuyển. Vậy, nếu không động chuyển thì gọi là bất thối
chuyển, nếu vì nghịch duyên mà tâm “thối chuyển nên gọi là thối chuyển”, không
thể nói “có thối chuyển mà gọi là bất thối chuyển” theo lối nói
của chúng ta ngày nay!
(3). Tùy miên khác với thùy miên: Thùy miên là một
trạng thái dật dờ, uể oải như người ngủ gục. Tùy miên đôi khi cũng được hiểu
như vậy; tuy phạm vi rộng hơn. Theo từ điển Phật Quang: Tùy miên là tên khác
của phiền não. Phiền não thường theo sát với con người nên gọi là tùy, thể
trạng của nó rất sâu kín nhỏ nhiệm khó biết, giống như tính ngủ, nên gọi là
miên. Nói rộng, cửu thập bát tùy miên là tổng số của Kiến hoặc, Tư hoặc (tu) do tông
Câu xá của Tiểu thừa thành lập. Trong đó, Kiến hoặc có 88 tùy miên, Tư hoặc có
10 tùy miên. Con số 98 là đem 10 tùy miên: Tham, sân, si, mạn, nghi, thân,
biên, tà, thủ, giới phối với năm bộ trong ba cõi. Tức là: Kiến khổ sở đoạn ở
cõi Dục có 10 thứ, Kiến tập sở đoạn có 7 thứ, Kiến diệt sở đoạn có 7 thứ, Kiến
đạo sở đoạn có 8 thứ và Tu hoặc sở đoạn ở cõi Dục có 4 thứ, cộng chung là 36
thứ. Còn năm bộ ở cõi Sắc và cõi Vô sắc mỗi cõi có 31 thứ, tổng cộng là 98 thứ.
Muốn hiểu rõ kiến hoặc và tư hoặc, xin đọc Phật-Học
Phổ-Thông của HT. Thích Thiện Hoa khóa thứ III. Mặc dầu, lối giải thích của
Phật-Học Phổ-Thông với Từ Điển Phật Quang có khác đôi chút, nhưng lối giải
thích của Phật-Học Phổ-Thông căn bản, dễ hiểu.
Sơ giải:
Phẩm này có thể làm cho chúng ta lúng túng vì việc xử
dụng danh từ chứ không do pháp nghĩa. Nếu gặp ngoại cảnh hay nghịch duyên mà
tâm như bất động thì gọi là Bất thối chuyển. Đó là cái hiểu biết theo thế tục ngày
nay. Nếu chuyển từ xấu sang tốt để cải thiện hoàn cảnh thì đó là thuận chuyển,
nếu ngược lại chuyển từ tốt sang xấu đó là nghịch chuyển. Trong cả hai trường
hợp này đều nói là chuyển. Chúng ta không thể nói là “bất thối chuyển”.
Nhưng bất cứ trong mọi trường hợp dù bị ngũ dục lục
trần, bát phong xuy động (được, mất, khen, chê, vinh, nhục, khổ,vui) mà tâm như
như bất động, không chuyển không dời thì được gọi là bất thối chuyển. Đó là tri
thức thường nghiệm của chúng ta. Nghĩ như vậy hành như vậy, chẳng có gì sai
quấy!
---o0o---