ĐẠO VÀ ĐỜI
Những gì Phật chứng, Phật thuyết
trong toàn bộ Đại Bát Nhã này nhiều nhất là nói về trí Phật, kế đến nói về tác
dụng của tâm và tâm sở, ngã và ngã sở hay nói khác là những liên hệ giữa người
với vật hay nói khác giữa người với vạn hữu chung quanh. Nhưng, ở đây không
phải Phật cố ý nói lên tác dụng có tánh cách tiêu cực hay tích cực, bi quan hay
lạc quan của cuộc sống. Phật chỉ cố nói đến một thứ vận hành gần như là qui luật chi phối toàn thể sinh hoạt tâm
linh của kiếp sống con người, mà dưới ảnh hưởng của nó có thể mang lại hạnh
phúc hay khổ đau tùy theo hoàn cảnh sống, cách sống hay quan điểm sống của thế
gian. Tất cả ảnh hưởng đó dù là chủ quan hay khách quan đều được giải thích một
phần nhỏ qua giáo lý nhân quả, nghiệp báo hay luân hồi. Nghiệp là do tạo tác thi vi và quả
tức kết quả của tạo tác thi vi mà tác giả phải trực tiếp hay gián tiếp phải
gánh chịu tương đương với nghiệp.
Nghiệp có nghiệp riêng, nghiệp chung
hay cộng nghiệp do một cá nhân, một nhóm người hay cả cộng đồng phải tự gánh
chịu mà không thể “đổ thừa” cho hoàn cảnh xã hội hay lịch sử. Còn luân hồi
trong lục đạo ở 3 cõi Dục, Sắc và Vô sắc cũng chỉ là sự tái sanh để trả nghiệp
hay hưởng quả trong tương lai, đối với những tạo tác do chính mình gây tạo
trong quá khứ hay hiện tại. Nhưng nói riêng về nghiệp là bi quan, cũng bất
công, thiên chấp; nếu nói về giải thoát Niết bàn là lạc quan, cũng là một thứ
thiên chấp khác nữa; chỉ nói không nghiệp không quả, không Niết bàn có lẽ hợp
với lẽ đạo hơn.
Nhưng, Đạo Phật không đóng khung
trong khuôn khổ hạn hẹp với các quan niệm về nghiệp báo, nhân quả hay luân hồi
thuộc phần nhỏ của Tiểu thừa Phật đạo. Ý chí (Trí) và tình thương (Bi) của Đại
thừa là lý tưởng trong việc xây dựng cộng đồng thế giới. Thiếu
ý chí, thiếu tình thương, thì đời sống biến thành thao trường của những bạo lực
mù quáng. Hãy xem thế giới thực tại phơi bày ra sao trong cái nhiễu nhương đầy
biến động của nó để tìm lấy hướng đi chung. Đó là ý nghĩa của đạo và đời được
đặt ra trước khi chấm dứt thiên Tổng luận này.
Có vay thì phải có trả. Đó là tự
nhiên! Không ai có thể trốn khỏi qui luật này. Không ai có thể tự than “Tôi
sanh ra đời dưới một vì sao xấu”, cũng không thể nói có cái gì đó đặt để cho
mình, gọi là “định mệnh”. Đổ thừa cho số mệnh hay định mệnh do một quyền lực bí
ẩn nào đó là sự qui trách vu vơ, thiếu trách nhiệm. Khôn là trách mình, dại là
trách người. Mình làm mình chịu là nhân bản, là công bằng!
Tại sao có những đứa trẻ xuôi ngược
trên bãi rác mênh mông đầy hôi thối, dưới ánh nắng thiêu đốt của mặt trời để
nhặt những túi nylon, những bao bì bằng plastic hay những chai lọ bẩn thỉu để
đổi lấy miếng ăn? Tại sao trẻ em của các quốc gia nghèo đói chậm tiến không cơm
ăn, sữa bú, ốm o chết lần chết mòn trên cánh tay của mẹ? Tại sao những người da
đen sống cuộc đời nô lệ, cơm không đủ ăn, áo không đủ ấm, bị đối xử còn kém hơn
các con chó ở các quốc gia Tây Âu xưa cũng như nay? Chén cơm chưa đủ mặn mồ hôi
và nước mắt thì chưa thấm mùi đời. Phải nếm đủ mùi tân khổ (cay đắng) mới hiểu
giá trị của cuộc sống. Thượng đế bảo vậy? Tại ông Trời hay số mệnh chăng? Vô
lý! Không có Thượng đế hay ông Trời nào muốn đày ải chúng sanh. Thiên đế, Trời
cũng do tu thập thiện mà ra. Còn nói là do số mệnh, lại còn vô lý hơn nữa,
không có số mệnh nào an bài ở đây. Tất cả đều do nghiệp, nghiệp riêng của từng
cá nhân phải trả do mình gây ra. Nhưng đó chỉ là chuyện nhỏ. Nghiệp chung,
nghiệp tập thể mới đáng sợ!
Ở thời đại phong kiến khi quan niệm
“thế thiên hành đạo” ra đời. Những kẻ có chút ít khôn ngoan hay sức mạnh, tự
cho mình là con trời, đã nắm giữ quyền hành, cái gọi là “thế thiên hành đạo”,
một thứ khoác lác mị dân, chỉ cốt tước đoạt tài sản và sanh mệnh của bao con
dân vô tội. Người tạo các chủ thuyết như vậy chỉ để trục lợi cho bản thân, mà
không cần biết bao nhiêu sanh linh quằn quại đọa đày trong các chiến trường máu
lửa hay các công trường xây dựng lâu đài vĩ đại uy nghi để cho cá nhân hưởng
thụ. Dân đen trở thành nô lệ của chế độ
quân chủ chuyên chế, một thứ
quái thai của thời đại cổ xưa! Ở đây dân đen không có một chọn lựa nào hết! Đổ
thừa cho thiên mạng (mạng trời) chăng?
Tiến lên một chút, những người có tư
tưởng cấp tiến, muốn thỏa mãn nguyện vọng của dân đen, nên luôn luôn nổi dậy
làm cách mạng lật đổ chế độ quân chủ chuyên chế phong kiến này và thay vào đó chế độ quân chủ lập hiến, để mọi tầng lớp
dân chúng có quyền tham dự vào chính trường trong việc quản trị tài sản chung
của quốc gia, cũng như tài sản riêng của từng cá nhân sống trong quốc gia đó.
Nhưng chủ thuyết này cũng không chận đứng nổi tham vọng của những kẻ độc đoán
nắm chính quyền vẫn còn đó.
Tiến lên chút nữa, dân chúng muốn
hoàn toàn loại bỏ giai cấp thống trị gọi là vương quyền để thay thế vào đó chế
độ dân quyền. Dân chúng tạo hiến pháp, chia các cơ quan công quyền thành ba
loại khác nhau là hành pháp, lập pháp, tư pháp và bầu cử các đại biểu tham dự
vào các cơ quan công quyền trên, để thay thế cho dân chúng trong việc quản trị
quốc gia dân tộc. Chế độ dân chủ lập
hiến thay thế cho chế độ quân chủ lập hiến ra đời. Đó là một sự tiến bộ
vượt bực.
Nhưng chế độ này cũng chưa hoàn chỉnh,
vẫn còn hố cách biệt giữa những người khôn ngoan giàu có đối với những người
gọi là “dân phu khu đen” nghèo khổ ít học. Chế độ tư bản ra đời với những quyền
lực “hợp pháp hợp hiến” của nó.
Để chấm dứt tình trạng chênh lệch
này, chế độ cộng hữu nẩy sanh. Những nhà làm công việc xã hội muốn đem lại một
thế quân bình mới. Chủ trương tài sản của quốc gia chính là tài sản của toàn
thể dân chúng. Đại biểu của dân chúng là những người được bầu lên để quản trị
tài sản chung đó và nó phải được phân chia đồng đều cho tất cả mọi người dân.
Nhưng chế độ này lại tạo thành một giai cấp mới còn tàn độc hơn chủ nghĩa tư
bản. Karl Marx, một kinh tế gia, một sử gia, một nhà xã hội học, một lý thuyết
gia chánh trị, một phóng viên thời đại của thế kỷ XIX, với chủ thuyết cộng hữu mà vô hình chung chia thế giới làm hai khối,
giết hại lẫn nhau không kể xiết!
Biết bao sanh linh vô tội chết mòn
mỏi trong cảnh tù đày hay phơi thây ngoài chiến trường hoặc chôn thây trong
những nắm mồ tập thể… là do tham vọng hay tư tưởng gây nên bởi mệnh Trời theo
đạo Lão khi xưa hoặc thời cuộc nói theo chánh trị hôm nay? Hãy tự thấu rõ
nguyên nhân để tránh hậu quả. Đừng bao giờ kết án vu vơ để trốn tránh tội ác đã
phủ lên đầu những dân đen thấp cổ, bé họng.
Ai đọc thế giới sử cũng không quên
một cuộc chiến tranh qui mô xảy ra hơn chín lần phát động của cái gọi là Thập
tự chinh từ cuối thế kỷ thứ XI cho đến cuối thế kỷ thứ XIII giữa các quốc gia
Tây Âu do sự kêu gọi của đức Giáo Hoàng, tiến hành bởi các vị vua và những người quý tộc tình nguyện cầm cây thập tự giá tiến về Trung Đông với mục tiêu phục hồi vùng Đất
Thánh (Jerusalem) do các dân tộc thuộc
Hồi giáo chiếm đóng. Dù giải thích với danh nghĩa nào hoặc chính trị, kinh tế
hay tôn giáo các sử gia xưa cũng như nay đều cho nguyên do của các cuộc động
binh tàn khốc này không ngoài lý do tôn giáo giữa các quốc gia Công giáo hay
Kitô với các quốc gia Hồi giáo(1).
Lịch sử không dừng ở đó. Sự nổi dậy
của một nhóm khủng bố gốc Hồi giáo có tên là Isis tại Trung đông sau chiến
tranh Iraq, tàn sát những người da trắng và các liên minh của họ một cách man
rợ. Những người trong và ngoài cuộc đều kết án là bọn khủng bố gây chết chóc
đau thương bởi nhóm Isis này là để trả thù nợ máu truyền kiếp do đoàn Thập tự giá
năm xưa gậy nên. Không biết những phê phán đó có chủ quan hay không? Nhưng nhìn
cách chém giết man rợ không có duyên cớ, nên kết luận là do “hận”. Hận đó có
thể là do quyền lợi kinh tế, hận đó là do màu da sắc áo dân tộc hay hận đó do
tôn giáo gây nên hay có lẽ, là tổng hợp của tất cả các nguyên do trên?
Một thí dụ khác liên quan đến Phật
giáo mà những người theo đạo Phật hôm nay đều rõ: Sự tàn sát của những người
Hồi giáo đối với Viện đại học Nalanda tại Ấn Độ. Viện
Đại học này tọa lạc gần Rajgir trong bang Bihar, Ấn Độ; một vùng đất tập trung
nhiều di tích lịch sử và tôn giáo, kể cả Bồ đề Đạo tràng, nơi Đức Phật thành
đạo. Khu vực này là trung tâm của vương quốc cổ Magadha (Ma kiệt đà), nổi tiếng
do Đại đế Ashoka (vua A Dục) thống trị, có ảnh hưởng lớn lao trong việc bảo trợ
và truyền bá Phật giáo khắp Á châu.
Viện Đại học Nalanda nguyên thủy
được thành lập từ năm 413 và bị tiêu hủy vào năm 1193, bởi một viên tướng Hồi
giáo người Thổ Nhĩ Kỳ (gốc Afghanistan là Muhammad of Ghor). Viên tướng
Bakhtiyar Khilji đã thiêu sống và chặt đầu hàng ngàn Tăng sĩ vì hắn cố gắng
bằng mọi giá tiêu diệt Phật đạo. Các tài liệu còn lưu lại nói rằng có hơn 3.000
sinh viên Tăng sĩ được tập họp và nhận lệnh nếu người nào đặt tay lên kinh
Koran tuyên bố bỏ đạo thì được tha mạng sống, người nào chống lại sẽ bị chặt
đầu. Tất cả đều không bỏ đạo. Thế là 3.000 tín đồ Phật giáo, 3.000 cái đầu rơi
xuống, máu chảy thành sông, thây chất thành núi. Còn việc đốt phá tòa thư viện
đã diễn ra trong suốt nhiều tháng và “khói từ những bản sách viết tay bị đốt
cháy đã tụ lại như một tấm màn đen bao phủ khắp những ngọn đồi phía dưới suốt
nhiều ngày liên tiếp”. Đạo Phật Ấn độ bắt đầu suy thoái từ đó!
Không những tín đồ Phật giáo bị tàn sát mà cả
những tín đồ khác nằm trên lộ trình tiến quân của tướng Bakhtiyar Khilji từ Thổ
Nhĩ Kỳ xuyên qua các quốc gia láng giềng của Ấn độ cũng bị số phận máu lửa như
vậy. Thật quá khủng khiếp!
Mới đây nước Myanmar (tên cũ là Miến
Điện) có tiếng là mộ đạo, 89.3% dân chúng của quốc gia nầy theo đạo Phật và
dưới thời Thủ
tướng Ne Win, Phật
giáo từng được đưa vào Hiến pháp là quốc giáo. Thủ tướng U Nu là người đem lại
vẻ vang cho đạo Phật tại Đông Nam Á, cũng bị rơi vào cuộc khủng hoảng giữa nhóm
chủ nghĩa Phật giáo dân tộc cực đoan Miến và nhóm Hồi giáo người Rohingya sống
ở bang Rakhine.
Sự khủng hoảng này bắt đầu từ trước năm
1970 và bùng nổ dữ dội vào Ngày 09/10/2016 khi một toán võ trang trong “nhóm ly
khai của Tổ chức Đoàn kết Rohingya” tấn công nhiều trạm cảnh sát biên phòng
thuộc bang Rakhine làm cho 9 cảnh sát viên bị tử nạn. Vũ khí và đạn dược cũng
bị cướp đi. Lại có thêm các cuộc tấn công lớn đã diễn ra tại thị trấn Maungdaw
của Myanmar nữa.
Dân Miến và quân đội mở chiến dịch
“càn quyét” các làng do người Rohingya thuộc đạo Hồi sinh sống ở phía Bắc của
bang Rakhine này. Trong cuộc “bố ráp” khởi đầu, hàng chục người đã thiệt mạng
và nhiều người đã bị bắt giữ. Số thương vong đã gia tăng theo từng cuộc đàn áp.
Những vụ bắt bớ tùy tiện, giết chóc, cướp bóc, hãm hiếp tàn bạo nhắm vào thường
dân Rohingya thuộc đạo Hồi, giống như bất cứ một sự xung đột nào khác. Theo báo
cáo của giới truyền thông, hàng trăm người Rohingya đã bị giết và nhiều người
đã trốn khỏi Myanmar với tư cách tị nạn trong các khu vực lân cận như Bangladesh. Cuối tháng Mười một, Tổ chức theo dõi Nhân quyền HRW công bố hình ảnh vệ tinh cho thấy rằng có khoảng 1.250 ngôi nhà của người Rohingya
trong năm ngôi làng đã bị thiêu rụi bởi các lực lượng an ninh. Dân thiểu số
Rohingya gốc Hồi ở bang Rakhine phải bế bồng chạy loạn qua các quốc gia láng
giềng, nhiều nhất là vượt Sông Naf để vào Bangladesh tại thị trấn Palongkhali.
Liên Hiệp Quốc nói rằng có tới 537.000 dân sắc tộc Rohingya đã tới Bangladesh
trong vòng 7 tuần, kể từ hôm 16/10/2017.
Con số này còn tăng hơn thế nữa sau đó.
Ở đâu dân tỵ nạn Rohingya cũng bị
đuổi xô gần như không còn đất sống. Ủy ban Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc mở cuộc
điều tra, các cơ quan như Giáo hội Vatican, bộ ngoại giao Hoa kỳ, các chánh phủ
như Mã Lai Á, Thái Lan, Indonesia... cáo buộc tình trạng này như là một “tội ác
chống lại nhân quyền”, “thanh lọc sắc tộc” hay “diệt chủng” v.v... Nhưng đến
nay vẫn chưa có giải pháp thỏa đáng nào có thể xoa dịu mối đau thương quá to
lớn đối với những người Rohingya gốc Hồi giáo này(3).
Những người thuộc đạo Phật tại Myanmar
phải ý thức về trường hợp này. Đây không phải là cuộc di dân kinh tế, chính trị
hay mệnh trời, cũng không thể nói đây là nghiệp riêng, nghiệp chung hay cộng
nghiệp của những người Hồi giáo hôm nay, phải trả cái quả báo to lớn cho ông
cha của mình khi xưa, mà đây tạm nói là những nạn nhân thời cuộc đảo điên gây
ra, cần phải giúp đỡ. Hãy quên quá khứ đau buồn và phải nhìn hiện tại và tương
lai trong mối bao dung của tứ vô lượng.
Chúng ta lên án Công giáo trong cuộc
Thập tự chinh chăng? Chúng ta kết tội Hồi giáo tại Trung đông trong các cuộc
bạo động thảm sát xưa và nay chăng? Chúng ta qui trách nhóm chủ nghĩa Phật giáo
dân tộc của Myanmar v.v... ? Tất cả là do những người lãnh đạo ẩn náu dưới
chiêu bài tôn giáo gây tội ác này chăng? Không! Không có bất cứ một thứ tôn
giáo chánh thống nào lại chủ trương bạo động cả. Đừng buộc mà phải mở!
Những cuộc di tản chính trị, kinh
tế, tôn giáo hay chủng tộc lúc nào, ở đâu, bao giờ cũng trở thành mối quan ngại
chung cho toàn thể cộng đồng quốc tế. Không ai trên thế giới có thể quên được
cuộc thảm sát của những người Hồi giáo đối với dân tộc Do Thái, buộc con dân
của quốc gia này phải sống tha hương cầu thực trên toàn thế giới. Cũng không ai
quên được tội ác diệt chủng của Đức quốc xã một lần nữa đổ lên đầu dân tộc này
khi họ bị tập trung để đưa vào “hỏa lò”.
Rồi đến chiến tranh Đông Dương từ
sau Hiệp định Genève năm 1954 kéo dài đến năm 1975 của người Việt, Miên, Lào.
Bom đạn máu lửa xảy ra từng giờ từng phút, từng giây gây tử vong cho các dân
tộc này khoảng từ 2-4 triệu kể cả quân đội đồng minh tùy theo thống kê, con số
này ngang hàng hay hơn tổng số các dân tộc tử vong trên toàn thế giới trong Đệ
nhị thế chiến. Chưa hết, sau năm 1.975 cũng tại ba quốc gia này, lại từng đợi
người được mệnh danh là “Boat people” hoặc theo đường bộ hoặc chèo thuyền vượt
biển tìm tự do đã bị bắt cóc, hãm hiếp hoặc chôn xác dưới lòng biển. Rồi đến
năm 1.990, những người dân Serbs chạy tứ tán qua các quốc gia Tây Âu trong
chiến tranh Kosavo. Đến năm 2011 cho tới bây giờ đất nước Syria chỉ có 22 triệu
dân mà 6,5 triệu phải bỏ nhà bỏ cửa ra đi lánh nạn, trong đó có hơn 3,2 triệu
người hiện sống trong các trại tỵ nạn trên vùng đất Turkey (Thổ nhĩ kỳ). Đất
nước Syria chỉ còn là đống gạch vụn, một vùng oanh kích tự do. Thật quá thương
tâm không những cho dân tộc Syria mà cả đến những người Trung Đông và Bắc Phi
lưu vong, đi đến đâu bị đuổi xô tới đó, phải sống lạc loài vô định. Còn nữa,
đến năm 2.016 lại xảy ra việc di tản cả triệu người Rohingya gốc Hồi giáo tại
Myanmar như đã nói trên. Mới đây Trung Cộng bị cáo buộc đã tập trung cải tạo
hơn 2 triệu dân thiểu số gốc Uighur, Kazakhstan và những sắc dân theo Hồi giáo
sống ở miền Tân Cương Trung Quốc, gần Kazakhstan.
Ai đã từng sống trong các trại cải
tạo, các trại tỵ nạn, các nhà tù hay các trại tập trung do chiến tranh hoặc các
hỏa lò thiêu sống hay hơi ngạt của những kẻ bạo tàn kỳ thị... mới hiểu cảnh khổ
đau cả thể xác lẫn tinh thần... Con người ở trong bất cứ cảnh huống nào, dù tận
cùng của địa ngục trần gian, còn hơi thở là còn hy vọng sống. Chính nguồn cảm
hứng tuôn trào từ cuộc sống đau khổ, rồi từ cái đau khổ đó mà nảy sanh đại bi,
phát nguyện thương yêu muốn cưu mang cho tất cả những người cùng đau khổ như
mình.
Tôi chứng kiến một đoạn phim (film)
thời sự, bọn Isis hành hình những người hợp tác với chánh quyền chống lại
chúng, ở nơi nào mà chúng tạm chiếm. Những tù binh bất đắc dĩ này bị đưa đi
hành huyết. Họ được dẫn đến một cái mương hẹp trên một khoảng đất trống. Vừa
tới đó khi tiếng súng phát ra, tất cả những nạn nhân đáng thương đó dành nhau
nhảy vào cái mương sâu chưa được một thước. Họ dành nhau nhảy vào đó không phải
dành sống, mà họ dành được chết trước, chết để được an thân. Quá thảm! Ở thời
đại Phật, Phật thấy đau, già, bệnh, khổ... đã là mối động tâm lớn của Phật. Ở
thời đại chúng con, thảm cảnh nhân loại như thế đó!
Ở đây chúng tôi không phải bàn về
pháp chế sử hay lịch sử của các tôn giáo trong xã hội loài người. Ở đây chủ
đích của chúng tôi cũng không muốn bàn về định mệnh, nghiệp riêng hay chung của
cá nhân hay tập thể. Ở đây chúng tôi cũng không muốn cáo buộc bất cứ hành vi
gây tội ác nào, mà ở đây chúng tôi cốt nêu lên thái độ sống, cách sống hay nói
khác là quan niệm sống của mỗi con người chúng ta trong mối tương quan giữa con
người với con người, giữa con người với quốc gia, giữa các quốc gia với nhau
hay giữa các quốc gia với cộng đồng quốc tế... trong sự sống còn của nhân loại.
Hiến chương Liên Hiệp Quốc được xem
là qui ước quan trọng, một thứ luật lệ tối cao của cộng đồng quốc tế cũng không
thể chận đứng những hành động điên rồ tạo nguy hại cho toàn thể nhân loại. Ở
thời đại digital này chỉ cần một chữ nhập vào (enter) hay một cái bấm nút, cả
thế giới trở thành tro bụi. Đó là cách tự sát nhanh chóng nhất của con người.
Nhưng chết từ từ, chết chậm rãi còn
đau đớn hơn mà nhân loại chưa đặt vào tình trạng báo động. Đó là tình trạng suy
hóa của môi sinh từ không khí, sông nước, biển cả, rừng núi, cỏ cây, cả đến đất
đai nữa v.v... Con người sanh theo cấp số nhân trong khi lương thực tăng theo
cấp số cộng, còn đất cát càng ngày càng tế phân từng mảnh vụn, thu hẹp bởi nạn
nhân mãn. Vì vậy, nên con người phải khai thác, tận dụng thiên nhiên càng nhiều
càng tốt để tiếp tục sống còn. Đó là vấn đề!
Khí Ozone do các chất thuộc dạng
freon tạo thành, không tự có trong thiên nhiên mà do con người tạo ra có
tính độc hại rất cao. Khí này chủ yếu được hình thành từ các hoạt động công
nghiệp như nhà kiếng (green houses), khu kỹ nghệ, khai thác quặng mỏ, xử dụng
khí đốt, xử lý rác thải, cháy rừng… Khí này làm cho tầng ozone (Ozone layer) bao
chung quanh trái đất trở nên mỏng ra, có chỗ bị thủng, các chuyên viên không
gian và các khoa học gia tiên đoán phải mất hàng chục năm (ít nhất phải mất 30
năm hay nhiều hơn) mới tái tạo lại được.
Hậu quả của sự suy thoái của tầng
ozone này là không ngăn chận được tia tử ngoại (ultra violet) của ánh sáng mặt
trời mà ảnh hưởng của nó một mặt gây nguy hại đến sức khỏe của nhân loại như
tạo nhiều bệnh lý cho cả người lẫn vật; mặt khác là làm nhiệt độ của quả địa
cầu tăng dần, gây nên bão tố, lụt lội, tuyết tan, mực nước biển dâng lên, diện
tích chăn nuôi trồng trọt bị thâu hẹp lại. Sức nóng càng ngày càng tăng làm cho
việc trồng lúa gặp nhiều trở ngại (hạn hán, sâu rầy, năng suất thâu hoạch kém
về phẩm cũng như về lượng). Các chuyên gia nông nghiệp ước đoán ít nhất có đến
600 triệu các dân tộc dùng lúa gạo bị rơi vào tình trạng đói kém. Nhiệt độ của
quả cầu cũng làm cho hằng trăm sinh vật bị diệt chủng v.v... và v.v...
Đó là chỉ nói đến những ảnh hưởng
của chất ozone do con người tạo ra chưa kể việc thải hồi các độc chất như công
ty hóa chất của Đài loan có cơ sở tại Việt nam đã đâm vào biển cả của quốc gia
này chất formosa làm cho hàng trăm ngàn loài thủy tộc bị tiêu diệt mà không
biết bao nhiêu thế kỷ mới có thể phục hồi, đó là một thí dụ. Ngoài ra, các công
ty của Trung Quốc cũng như một số các quốc gia khác thải hồi bừa bãi những độc
chất có tánh cách phóng xạ hay nồng độ toxic cao trên đất nước Phi châu hay
trên các vùng biển hẻo lánh như thuốc trừ sâu DDT chẳng hạn, v.v... và v.v... Trước
các vấn đề đó, vai trò của các khoa học gia, các lãnh tụ Kinh tế, chính trị hay
tôn giáo thế giới phải có thái độ như thế nào?
Chúng ta biết rằng: Đe dọa càng lớn,
trách nhiệm của nhân loại càng cao. Đã có các hội nghị thượng đỉnh giữa các
quốc gia diễn ra nhằm đối phó với các hiểm họa này. Tuy nhiên, kết quả không
được rõ rệt lắm! Các tôn giáo không thể im lặng trước các vấn đề sinh tồn của
nhân loại. Vai trò của các tôn giáo phải đặt vào vị trí nào trong việc bảo toàn
nhân loại đây?
Riêng Đại Bát Nhã cũng như các Kinh
khác của Phật đạo chủ trương phá ngã, diệt tội, thành thục chúng sanh, thanh
tịnh Phật độ. Đó là tôn chỉ lớn trong việc xây dựng cộng đồng xã hội. Đơn vị
nhỏ nhất để xây dựng cộng đồng chính là cá
nhân. Một cá nhân trong sáng, thanh tịnh, thì gia đình được thanh tịnh, vui
tươi, hạnh phúc. Một gia đình thanh tịnh thì xóm làng, quận thanh tịnh. Xóm,
làng, quận, tỉnh thanh tịnh thì cả nước được thanh tịnh. Cứ thế mà lan rộng cho
cả thế giới. Vậy, trách nhiệm chung của cộng đồng bắt đầu từ cá nhân. Muốn thế thì
mỗi cá nhân phải tự hiểu quyền lợi và trách nhiệm của mình.
Ngày nay, thế giới gặp quá nhiều
nguy cơ, ngoài nguy cơ do thiên nhiên tạo thành như đã nói trên, còn có nguy cơ
của chiến tranh nguyên tử có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Chúng tôi muốn đề cập
đến vấn đề chạy đua vũ trang của các cường quốc. Cái nguy hại to lớn là sự phát
triển bom hạt nhân (nuclear bomb). Các quốc gia thi đua vũ khí đã chế ra những
quả bom nguyên tử to lớn như bom hydrogen Tsar bomba (king of bombs) của Liên
Sô, có sức ép từ 50 cho đến 100 megatons, chiều dài 26 bộ, đường kính 7 bộ và
nặng khoảng 60.000 cân Anh, loại vũ khí giết người có mức độ tàn phá không thể
tưởng tượng nổi gắp 3.300 lần sức tàn phá ở Hiroshima. Nếu thả một quả bom như
thế xuống thành phố Sài gòn thì một con ruồi ở Vũng tàu cũng chết. Bán kính tàn
phá của nó trên cả trăm cây số và nhiệt độ tăng hàng ngàn, hàng chục ngàn hay
hơn nữa, nên nói một con ruồi bị chết, chẳng có gì quá đáng. Đó là tôi nói
chuyện xưa cách đây hơn nửa thế kỷ (khoảng 1955 đến 1965 dưới thời Khrushchev).
Ngày nay, các cường quốc muốn tiêu diệt nhau nhanh chóng, đã chế tạo các hỏa
tiễn có tốc độ cao và to lớn có thể mang đầu đạn nguyên tử để bắn qua các lục
địa, hay cất giấu bomb hạt nhân trên quỹ đạo trái đất để có thể
tấn công đối thủ mau lẹ hơn, ghê gớm hơn. Đó là một sự tiến bộ vượt bậc, nhân
loại đã thực hiện một bước nhảy, “một bước nhảy khá dài về đàng sau”, đã thành
công trong việc giúp nhân loại tự sát một cách nhanh chóng nhất.
Nhưng chết oằn oại chậm rãi mới là
cái chết đáng sợ. Chúng tôi muốn nói đến các bệnh dịch do siêu vi trùng (virus)
gây nên. Có ba trường hợp lớn trong lịch sử nhân loại được cơ quan Y tế thế
giới (WHO) ghi nhận là: 1. Xảy ra tại Trung Quốc từ ngày 1/11/2002 tới
7/8/2003, có một loại dơi truyền virus corona (SARS=Severe Acute Respiratory
Syndrome dạng CoV) qua heo, rồi từ heo truyền sang người, gây tang tóc cho 32
quốc gia trên thế giới, khiến 8.422 người nhiễm bệnh, trong đó 916 người tử
vong; tai nạn thứ 2. xảy ra tại Trung Đông được xác định đầu tiên tại Saudi
Arabia vào năm 2012, cũng cùng loại với siêu vi Virus corona (MERS= Middle East
Respiratory Syndrome dạng CoV) khiến
851 người tử vong. Bệnh này phát xuất từ dơi truyền sang lạc đà, sau đó truyền
sang người nhưng tác hại kém hơn; và tai nạn thứ 3. cũng do coronavirus đồng loại với SARS và
MERS, có tên mới là COVID-19 (4). Người ta cho rằng bệnh này phát xuất từ chợ bán súc vật (wet market) tại thành phố Vũ Hán, tỉnh Hồ
Bắc, Trung Quốc. Đây là loại hội chứng hô hấp cấp tính mới, nghiêm trọng nhất, truyền
nhiễm qua không khí, phát triển rất nhanh chóng. Nguồn gốc bệnh này chưa xác
định rõ ràng. Tính từ ngày 12/12/2019 cho đến ngày 28/04/2021, Johns Hopkins University báo cáo có
hơn 149.197.932 trường
hợp bị nhiễm Covid-19 và số tử vong lên hơn 3.146.119 người.
Theo Worldometer Coronavirus USA tường trình cho đến nay
có tất cả 150.216.590 người bị nhiễm, số tử vong lên đến 3.163.873 và khoảng 222 quốc gia và các lãnh thổ trên thế giới bị
nhiễm. Con số này còn tăng thêm từng giờ, từng phút, từng giây vì còn quá sớm
chưa có thể tổng kết hết được(5). Đó là con số đáng ngại, ngoài việc gây đau
thương chết chóc lan tràn trên 222 quốc gia, đồng thời gây khó khăn trầm trọng
cho nền Kinh tế toàn cầu trong vài năm sắp tới nữa. Nếu nạn này do thiên nhiên
gây nên thì chẳng có gì đáng trách, nhưng nếu thật sự phát triển siêu vi trùng
để tạo vũ khí gọi là bom vi trùng (virus bomb), một loại vũ khí sinh hóa
(biological weapon) để giết người hàng loạt, là tội phạm lớn đối với nhân loại,
cho dù là sơ xuất.
Thử tưởng tượng một thứ chiến tranh
xảy ra khi con người tận dụng tất cả các loại vũ khí như vậy để giết hại lẫn
nhau, thì nhân loại sẽ đi về đâu? Thế giới không ngớt bị đe dọa dưới hình thức
này hay hình thức khác, nên phải cùng nhau cảnh giác!
Hơn bao giờ hết, phải có sự đoàn kết
giữa các quốc gia trên thế giới, phải có sự chia sẻ và cưu mang lẫn nhau mới
mong tránh khỏi diệt vong. Không thể kêu gọi suông, tôn giáo phải có bổn phận
hướng dẫn quần chúng trong việc bảo vệ sự sống còn cho toàn thể nhân loại! Đừng
bao giờ cho đây là vấn đề chính trị nằm bên lề tôn giáo. Người tu không phải
quay lưng với cuộc sống, mà ngược lại phải đối diện với cuộc sống. Albert
Einstein từng nói: “Thế giới sẽ bị hủy diệt không
phải bởi những người làm điều ác, mà bởi những người đứng khoanh tay nhìn mà
không làm gì cả”(6). Đó là trách nhiệm chung của nhân loại kể cả
những vị tu Bồ tát đạo, không thể thoái thác được! Tu là rộng mở tâm hồn, mở
rộng đại bi trong bất cứ trạng huống nào. Thế mới tốt!
Kết luận:
Tất cả cái gì được ghi lại trong toàn
thiên Tổng luận này đều “nặng mùi” giáo điều, toàn thuyết về Phật pháp, kỹ thuật tu trì quán tưởng và nhất là
trí tuệ Phật. Tác giả “y Kinh giải nghĩa”, mượn lời Phật, Tổ để giải thích lời
của Phật, Tổ. Chúng tôi sợ cảnh “luận từ chương, khảo Kinh điển” mà người ta
thường gọi là bọn tông đồ tri giải, nhưng nhiều chỗ trong thiên Tổng luận này,
khó tránh khỏi. Vào lúc cuối cùng trước khi dừng bút lại nói về đạo và đời, một
thứ động niệm đối với người tu “khép kín”. Tuy nhiên tu, hành và sống là các
phương cách song hành trực tiếp thể hiện sinh hoạt của cuộc đời kể cả Tăng lẫn
Tục. Thật khó có thể ngoảnh mặt làm ngơ trước ngưỡng cửa của cuộc sống đối với
những biến cố đau lòng đang và sẽ xảy ra cho nhân loại.
Nếu sống, học hỏi, đọc tụng sách vở thế nhân bằng
những thứ nhục cảm tham ái thường tục không thôi, chắc chắn lạc mất tâm đạo.
Nhưng tu viễn ly, gò bó trong một khuôn khổ nào đó, cũng chưa hẳn là hoàn
chỉnh. Có đời mà không có đạo, không phải là điều tốt. Trái lại, có đạo mà
thiếu đời chưa hẳn là toàn diện. Không có đời làm gì có đạo, đó là cái có thể
tin được. Dung hợp cả hai, có lẽ là phương-tiện-lực tác động đem lại nhiều sinh
lực mới.
Quan điểm tác giả của thiên Tổng luận này là
cố gắng kết hợp đạo và đời với kinh nghiệm nội chứng riêng, diễn đạt bằng một
thứ ngôn ngữ riêng đối với những gì đã chứng kiến nói theo hoàn cảnh khách
quan, chứ không phải để biểu lộ cá tính. Đó chỉ là tâm huyết, tâm đạo của một
tục gia đối với Đạo và Đời. Tuy nhiên, chỉ
e rằng những kiến giải cá nhân có tánh cách chủ quan do khát vọng tâm linh, có
thể gây động niệm cho cả mình lẫn người. Nhưng, cái gì xảy ra trong cuộc sống
cứ để nó phô diễn tự nhiên theo cái trôi chảy xuôi ngược của dòng đời miễn giữ
được tâm đạo.
Có va chạm thực tế, mới có những
kích động xảy ra. “Dòng luân lưu của nhân sinh hay cái trôi chảy của cuộc sống,
không phải là lối quán tưởng siêu hình hay luyện trí suông mà có thể chứng nhập
trạng thái siêu nhiên, dung thông tất cả mâu thuẫn hay tán loạn trong sinh hoạt
của cuộc sống”(7). Nếu Thái tử Sĩ Đạt Ta (Siddhatta) không chứng kiến cảnh già
yếu, chết chóc, đói khổ, bệnh tật,... tại các cửa thành Ca tỳ la vệ
(Kapilavastu) và những điều đó không trở thành mối động tâm lớn đối với Ngài,
thì con đường cứu khổ không được vạch ra và có lẽ Phật đạo không xuất hiện ở
thế gian. Chính những kích động của cuộc sống trôi chảy mới là chất liệu sinh
động, có thể đánh thẳng vào tầng sâu kín nhất của trí năng để từ đó nẩy sanh
cái thiên chất phong phú đầy diệu dụng của Trí và Bi. Chúng ta biết rằng chấn
động càng lớn thì dao động càng to, dao động càng to mới có thể tạo nên những
dư âm kỳ diệu. Nếu Chúa không bị đóng đinh trên Thánh giá thì Chúa không phải
là Chúa. Lịch sử tôn giáo trở thành lịch sử tâm chứng cá nhân cũng bởi những lý
do đó.
Cứ nghiệm lại xem nghiệp quả của
những thống khổ bắt đầu từ đâu ra? Phải chăng bắt nguồn từ cái thân và trái tim nầy: Nóng,
lạnh, đói, khát, bệnh tật, yêu thương hay bị đời hất hủi khinh khi... Tất cả các nổi cay đắng, thương đau về vật chất lẫn tinh thần này đều
bắt nguồn từ tham ái thủ giữ. Mà tham ái thủ giữ là do bởi thân tâm tiếp xúc
với lục trần. Thân là chỗ nương của lục căn, nên sự khổ thọ vui sướng lấy thân
làm gốc. Nếu cái gốc đã trừ, thì cái ngọn tự nhiên khô héo. Nhân đã không còn
thì quả cũng tự diệt. Tất cả tu hành nói thì nhiều nhưng rốt lại chỉ nằm trong
yếu chỉ này thôi!
Lại nữa, ngã và ngã sở
tạo thành thân kiến chướng ngại pháp lành. Nên trong đoạn kinh sau đây, phẩm “Bình Đẳng”, quyển 570, Hội thứ VI, ĐBN. Phật dạy Thắng thiên vương Bát Nhã: “Này đại vương! Bình đẳng là quán
các pháp không sinh, không diệt, tự tánh vắng lặng. Tất cả phiền não, giả dối,
phân biệt, không sinh không diệt tự tánh vắng lặng, gọi là bình đẳng. Danh
tướng, vọng tưởng không sinh, không diệt, tự tánh vắng lặng gọi là bình đẳng.
Diệt trừ các điên đảo, không sinh tâm phan duyên gọi là bình đẳng. Khi tâm năng
duyên đã diệt, thì vô minh hữu ái đều vắng lặng. Si ái đã diệt, nên không sinh ngã và ngã sở, gọi là bình đẳng. Ngã và ngã sở diệt, thì danh sắc vắng lặng,
gọi là bình đẳng. Vì danh sắc diệt nên biên kiến chẳng sanh gọi là bình đẳng.
Chấp đoạn, chấp thường đã diệt thì thân kiến vắng lặng, gọi là bình đẳng.
Này đại vương! Tất cả phiền não năng thủ sở thủ chướng ngại
pháp lành đều nương vào thân kiến mà
sinh ra. Bậc đại Bồ tát diệt được thân kiến thì tất cả nghiệp tạo tác và kết sử
đều đoạn dứt và vắng lặng. Ví như cây lớn, nếu nhổ gốc rễ thì cành lá đều bị
khô héo. Cũng như người không đầu thì chết. Tất cả phiền não cũng vậy, nếu đoạn thân kiến thì kết sử tự diệt.
Này đại vương! Nếu có
người quán các pháp không có ngã, thì năng thủ và sở thủ đều vắng lặng”.
Giáo pháp này quá thậm thâm, là pháp
bảo trí tuệ: Tất cả gốc rễ phiền não đều nương vào thân kiến mà thân kiến là
sào huyệt của ngã. Diệt thân kiến, ngã,
ngã sở không nơi nương tựa thì tất cả kiết sử do đâu mà phát sanh? Rốt lại tu hành cốt là phá thân kiến hay
nói khác là phá ngã!
Nếu quán các pháp không có ngã, thì
năng thủ, sở thủ đều vắng lặng thì được bình đẳng và thanh tịnh, nên được an
vui.
Đời có trăm lần vui
nhưng có vạn lần sầu. Quá khứ đầy khổ đau, hiện tại cũng chẳng cải thiện được
mấy, tương lai mong mỏi khá hơn, nhưng nào có được toại nguyện. Đó là ba thời
bất khả đắc. Nếu có nghĩ đến ba thời, nghĩ đến khổ đau tội lỗi thì tốt nhất là
niệm Phật, niệm năm mười phút sẽ vơi đi. Nghĩ đến quá khứ cũng niệm, nghĩ đến
hiện tại cũng niệm, nghĩ đến tương lai cũng niệm. Nghĩ bất cứ thứ gì dù tốt hay
xấu đều niệm Phật. Đi đứng nằm ngồi sáu thời đều niệm(8). Như vậy, là sống
trong chánh niệm thì đời bớt khổ!
Chúng ta không thể “bắt đứng” cuộc
sống đang trôi chảy, bởi vì nó là như vậy. Tu, hành và sống, những yếu tố trọng
yếu trong sinh hoạt xã hội cũng như tâm linh không thể tách rời nhau được! Dung
hợp cả ba là thuận đạo. Vậy, nếu có chí hướng cao hơn thì một mặt: Trên cầu Vô
thượng Bồ đề (tu), mặt khác, dưới
hóa độ chúng sanh theo tôn chỉ bất diệt của những người hành Bồ tát đạo (hành). Rồi ra, nắng mặc nắng, mưa cứ
mưa tha hồ ngang dọc đổ xuống cái nghiêng ngã của cuộc sống (sống)!
“Sống là động nhưng lòng luôn bất động
Sống là thương nhưng lòng chẳng vấn vương
Sống hiên ngang danh lợi xem thường
Tâm bất biến giữa dòng đời vạn biến” (9)
(Vô danh thị).
Nếu làm được như vậy thì không còn
một đời thương vay khóc mướn(10), không còn sớm nắng chiều mưa(11) nữa, thì được
thong dong. Nghĩa là sống trong tỉnh thức, luôn luôn an trụ trong chánh niệm,
chánh định tức lúc nào cũng rõ ràng thường biết, tự mình làm chủ cuộc đời mình
thì có thể xa lìa phiền não. Rồi dần dần đường mê đảo ngược thì được tự tại!
Thích nghĩa cho phần đạo và đời:
(1). Viết theo tài liệu “Thập Tự
Chinh” của Vikipedia.
(2). Viết theo cuốn
“Nalanda University” do Akhilesh Pillalamarri biên soạn.
(3). Tóm tắt theo các bản tin tổng
hợp.
(4). Loại hội chứng hô hấp cấp tính
mới có tên là Covid-19 (viết tắt của chữ Co=corona, vi= virus, d= disease, năm
2019), do một bác sĩ của WHO đặt ra.
(5). Khi chúng tôi cập nhật thiên
khảo luận này vào cuối tháng Tư Năm 2021, Ấn độ bị nhiễm COVID-19 lên đến cao
độ. Liên tiếp trong 9 ngày, có từ 300.000 người đến 380.000 bị nhiễm, số nạn
nhân chết trên 3.000 mỗi ngày (tính đến ngày 30/2021). Dân số Ấn độ khoảng 1.210.193.422 người. Mức độ đông dân tính theo cây số vuông(per square
kilometer) khoảng khoảng 423.88 người. Dân đông, quốc gia nghèo lại thiếu dụng
cụ y khoa và thuốc men. Nên vấn đề càng trở nên trầm trọng hơn! Trong khi đó,
Brazil (Ba Tây) trung tuần của tháng Tư vừa qua số người chết vì COVID-19 tính
bình quân trong 7 ngày liên tiếp trên 3.100 mỗi ngày, và tổng số người chết lên
cao thứ nhì thế giới, đứng sau Hoa kỳ là 401,186 người. Thảm thương quá!
(6). “The
world will not be destroyed by those who do evil, but by those who watch them
without doing anything”. - Albert Einstein.
(7). Tư tưởng của Thiền sư D.T.
Suzuki trong Thiền Luận.
(8). Đừng lấy làm lạ tại sao người
tu thiền mà lại niệm Phật? Các vị Tổ của các tôn phái khác mặc dù hoằng truyền
tôn mình, nhưng vẫn niệm Phật như Ngài Trí Giả đại sư, Tổ của Thiên Thai Tôn;
ngài Hiền Thủ, Tổ của Hoa Nghiêm tôn; Ngài Nguyên Chiếu, Tổ của Luật tôn... vẫn
thường niệm Phật cầu về Tịnh độ.
(9). Bài thơ này tương truyền do Sa
môn Thích Hạnh Hải sáng tác, nhưng chẳng có gì làm chắc. Câu trước tác cuối
cùng thật bất hữu, chỉ thấy xuất hiện thường xuyên trong văn học của đạo và
đời. Ai cũng có đọc qua, nhưng đáng tiếc là không ai biết gốc gác tác giả!
(10). Sống cuộc đời vay mượn, chẳng
có gì là mình!
(11). Chỉ biết sống bằng con tim với
những thứ tình cảm vụn vặt: Sáng thì cười, chiều khóc… không tự chủ được.
Nam Mô Bát Nhã Hội Thượng Phật Bồ Tát Ma Ha Tát.
San
Jose, CA- ngày 24-02-2020
Cư sĩ Thiện Bửu.
HẾT