XXIV. PHẨM
“VÔ TẠP VÔ DỊ”
(Vẫn ở phần giữa quyển 552, Hội thứ IV, TBBN).
Tóm lược:
(Tâm Bồ tát và Tâm ác ma)
Bấy giờ, Phật bảo A Nan đà:
- Khi nào đại Bồ tát tư duy Bát nhã
Ba la mật, tập học Bát nhã Ba la mật, tu hành Bát nhã Ba la mật thì khi ấy tất
cả ác ma trong Tam thiên đại thiên thế giới đều sanh do dự, đồng nghĩ: Đại Bồ
tát này đang ở giai đoạn chứng Niết bàn hoặc là thối lui vào địa vị Thanh văn
hay Độc giác hay hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, có thể làm lợi
ích cho hữu tình cùng tận đời vị lai.
Lại nữa, này Khánh Hỷ! Nếu khi đại
Bồ tát an trụ Bát nhã Ba la mật thì khi ấy ác ma rất buồn khổ, thân tâm run sợ
như trúng phải tên độc.
Lại nữa, Khánh Hỷ! Nếu khi đại Bồ
tát tu hành Bát nhã Ba la mật thì khi ấy ác ma đi đến chỗ Bồ tát đó hóa ra vô
số việc đáng sợ như: Hóa làm dao kiếm, ác thú, rắn độc, lửa dữ đồng một lúc
cháy bùng lên khắp bốn phía, muốn làm cho thân tâm Bồ tát khủng khiếp, kinh sợ,
bỏ mất cả tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề; đối với sự tu hành tâm bị khuất phục,
cho nên phát khởi một niệm loạn ý làm chướng ngại quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng
Bồ đề, là chỗ mong cầu của các ác ma kia.
Bấy giờ, Khánh Hỷ bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ tát khi
tu hành Bát nhã Ba la mật đều bị ác ma làm rối loạn hết cả hay là có người bị
rối loạn, có người không?
Phật bảo Khánh Hỷ:
- Chẳng phải các đại Bồ tát khi tu
hành Bát nhã Ba la mật đều bị ác ma làm rối loạn hết, mà có người bị, có người
không.
Cụ thọ Khánh Hỷ bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Những đại Bồ tát nào
khi tu hành Bát nhã Ba la mật bị các ma ác làm rối loạn và những đại Bồ tát nào
khi tu hành Bát nhã Ba la mật không bị ác ma làm rối loạn?
Phật bảo Khánh Hỷ:
- Các đại Bồ tát đời trước nghe
thuyết Bát nhã sâu xa tâm không tin
hiểu, hủy báng, chê bai, thì đại Bồ tát này khi tu hành Bát nhã Ba la mật
liền bị ác ma làm rối loạn. Đại Bồ tát nào đời trước nghe giảng dạy Bát nhã sâu
xa, có lòng tin hiểu, chẳng hủy báng chê
bai thì đại Bồ tát này khi tu hành Bát nhã Ba la mật không bị ác ma làm rối
loạn.
Lại nữa, Khánh Hỷ! Đại Bồ tát nào
nghe giảng dạy Bát nhã sâu xa như vậy, nghi ngờ, do dự, là có hay không, là
thật hay chẳng thật, thì đại Bồ tát này khi tu hành Bát nhã Ba la mật liền bị
ác ma quấy rối. Nếu đại Bồ tát nào nghe giảng dạy Bát nhã sâu xa, tâm vị đó
hoàn toàn không nghi ngờ, do dự, tin chắc chắn là có thật, thì đại Bồ tát này
khi tu hành Bát nhã Ba la mật không bị ma ác làm rối loạn.
Lại nữa, Khánh Hỷ! Đại Bồ tát nào xa
lìa bạn lành, bị các bạn ác khống chế,
chẳng nghe nghĩa lý sâu xa của Bát nhã Ba la mật; do không nghe nên không hiểu
rõ; vì không hiểu rõ nên không thể tu tập; vì không tu tập nên không thể thưa
hỏi: Làm thế nào để tu đúng theo Bát nhã sâu xa, làm thế nào để học đúng theo Bát
nhã sâu xa, thì đại Bồ tát này khi tu hành Bát nhã Ba la mật liền bị ác ma làm rối loạn.
Đại Bồ tát nào gần gũi bạn lành, không bị bạn ác khống chế, được nghe nghĩa lý sâu
xa của Bát nhã Ba la mật; do được nghe nên hiểu rõ; do hiểu rõ, lập tức tu tập;
do tu tập nên hay thưa hỏi: Làm thế nào để tu đúng theo Bát nhã sâu xa, làm thế
nào để học đúng theo Bát nhã sâu xa, thì đại Bồ tát này khi tu hành Bát nhã Ba
la mật không bị ác ma làm rối loạn.
Lại nữa, Khánh Hỷ! Đại Bồ tát nào xa
lìa Bát nhã Ba la mật, nắm giữ, khen ngợi pháp chẳng chơn diệu thì đại Bồ tát
này khi tu hành Bát nhã Ba la mật liền bị ác ma làm rối loạn.
Nếu đại Bồ tát nào gần gũi Bát nhã
Ba la mật, không nắm giữ, không chê pháp chẳng chơn diệu, thì đại Bồ tát này
khi tu hành Bát nhã Ba la mật không bị ác ma làm rối loạn.
Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ tát nào xa lìa Bát nhã Ba la mật, hủy báng, chê bai pháp chơn diệu thì
bấy giờ ác ma liền nghĩ: Nay Bồ tát này là bạn của ta. Do Bồ tát này hủy báng
pháp chơn diệu nên có vô lượng các chúng Bồ tát mới học Đại thừa đối với pháp
chơn diệu cũng hủy báng. Do nhân duyên này, nguyện của ta viên mãn. Mặc dầu có
vô lượng các chúng Bồ tát mới học Đại thừa làm bạn với ta nhưng chẳng thể làm
cho nguyện của ta đầy đủ. Nay Bồ tát này làm bạn với ta, làm cho sở nguyện của
ta được đầy đủ hoàn toàn, nên Bồ tát này đúng là bạn của ta, ta nên kết nạp để
tăng thêm thế lực. Đại Bồ tát này khi tu hành Bát nhã Ba la mật liền bị ác ma
làm rối loạn.
Nếu đại Bồ tát nào gần gũi Bát nhã Ba la mật, khen ngợi, tin nhận pháp chơn diệu;
cũng làm cho vô lượng các chúng Bồ tát mới học Đại thừa khen ngợi, tin nhận
pháp chơn diệu, do đây ác ma buồn rầu, sợ hãi thì đại Bồ tát này khi tu hành Bát
nhã Ba la mật không bị ác ma làm rối loạn.
Lại nữa, Khánh Hỷ! Đại Bồ tát nào
khi nghe giảng dạy Kinh Bát nhã sâu xa, nói như vầy: “Bát nhã Ba la mật này lý
thú sâu xa, khó thấy, khó hiểu như vậy thì thọ trì, đọc tụng… làm gì. Kinh điển
này chính ta còn không thể đạt được cội nguồn, huống là những người phước mỏng,
trí cạn kia”. Khi ấy, có vô lượng các Bồ tát mới học Đại thừa nghe lời nói của
Bồ tát ấy, trong tâm kinh sợ, liền thối lui tâm quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ
đề, rơi vào địa vị Thanh văn hoặc Độc giác, thì đại Bồ tát này khi tu hành Bát
nhã Ba la mật liền bị ác ma làm rối loạn.
Nếu đại Bồ tát nào khi nghe thuyết
Kinh Bát nhã sâu xa, nói thế này: Bát nhã Ba la mật này lý thú sâu xa, khó
thấy, khó biết, lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tinh tấn tu học, biên
chép, truyền bá khắp nơi thì có thể chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ
đề. Khi ấy, có vô lượng các Bồ tát mới học Đại thừa, nghe Bồ tát đó nói như vậy
vui mừng hớn hở, đối với Bát nhã Ba la mật thường ưa lắng nghe, thọ trì, đọc
tụng, làm cho thông suốt hoàn toàn, tư duy đúng pháp, tinh tấn tu hành, giảng
thuyết, biên chép, truyền bá cùng khắp cho mọi người cầu thẳng tới quả vị Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, thì đại Bồ tát này khi tu hành Bát nhã Ba la mật không
bị ác ma làm rối loạn.
Lại nữa, Khánh Hỷ! Đại Bồ tát nào ỷ vào công đức thiện căn của mình,
khinh chúng đại Bồ tát khác nên nói thế này: “Ta luôn an trụ hạnh chơn thật
viễn ly, còn các ông đều không có. Ta luôn tu tập hạnh chơn thật viễn ly, còn
các ông chẳng có thể”. Khi ấy, ác ma vui mừng hớn hở nói: “Bồ tát này chính là
bạn bè của ta, luân hồi sanh tử sẽ chưa thoát khỏi”.
Vì lẽ gì? Vì các Bồ tát này ỷ vào
công đức căn lành của mình có, khinh chúng đại Bồ tát khác, liền xa quả vị Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, chẳng thể siêng năng làm trống không cảnh giới của Ta
thì đại Bồ tát này khi tu hành Bát nhã Ba la mật liền bị ác ma làm rối loạn.
Nếu đại Bồ tát nào không ỷ mình có công đức căn lành, khinh chê chúng đại Bồ
tát khác, tuy thường tinh tấn tu các pháp lành nhưng chẳng chấp trước các tướng
pháp lành thì đại Bồ tát này khi tu hành Bát nhã Ba la mật không bị ác ma làm
rối loạn.
Lại nữa, Khánh Hỷ! Nếu đại Bồ tát
nào tự ỷ tên tuổi, dòng họ và công đức
tu tập hạnh Đầu đà, khinh miệt các chúng Bồ tát tu các pháp thắng thiện
khác, thường khen mình và hủy báng, chê bai các vị khác. Họ thật không có các
hành trạng của đại Bồ tát Bất thối chuyển mà cho mình có, nên sanh các phiền
não và nói: “Các ông không có danh hiệu Bồ tát, chỉ riêng ta có”. Do tăng
thượng mạn khinh chê Bồ tát khác, bấy giờ ác ma rất vui mừng, nghĩ như vầy: Nay
Bồ tát này làm cho cung điện và quốc độ của ta chẳng trống không, tăng thêm
cảnh giới địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ.
Bấy giờ ác ma giúp thần lực cho
người kia, làm cho càng tăng thêm uy thế biện tài. Do đây được nhiều người tin
nhận lời nói của người đó. Nhân đó khuyên phát đồng ác kiến như người kia. Ác
kiến đồng rồi, học theo pháp tà của người kia. Học theo pháp tà rồi, phiền não
hừng hực, vì tâm điên đảo nên phát sanh các nghiệp thân, ngữ, ý đều luôn nhận
lấy quả khổ. Do nhân duyên này tăng thêm cảnh giới địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ,
làm cho cung điện, cõi nước ma đông thêm. Do đây, ác ma vui mừng hớn hở, muốn
làm điều gì đều tùy ý tự tại. Đại Bồ tát này khi tu hành Bát nhã Ba la mật liền
bị ác ma làm rối loạn.
Nếu đại Bồ tát nào không ỷ vào danh hiệu hư vọng cùng việc
công đức tu tập Đầu đà của mình mà khinh miệt các chúng Bồ tát tu các pháp
thắng thiện khác, đối với các công đức xa lìa tăng thượng mạn, thường không khen
mình, cũng không chê người, luôn hiểu biết đúng những việc của ác ma, thì đại
Bồ tát này khi tu hành Bát nhã Ba la mật không bị ác ma làm rối loạn.
Lại nữa, Khánh Hỷ! Khi nào đại Bồ
tát này cùng với người cầu Thanh văn, Độc giác thừa gây gỗ, hủy miệt, phỉ báng nhau thì bấy giờ ác ma thấy sự việc như
vậy nên nghĩ: Nay Bồ tát này tuy xa quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề nhưng
không xa lắm. Tuy gần cảnh giới địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ nhưng không gần
lắm. Nghĩ như vậy xong, tuy vui mừng nhưng không hớn hở.
Khi nào đại Bồ tát cùng các chúng
đại Bồ tát khác khinh miệt, chê bai nhau thì khi ấy thấy sự việc như vậy, ác ma
liền nghĩ: Hai Bồ tát này rất xa quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, rất gần
cảnh giới địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ. Nghĩ như vậy rồi rất vui mừng hớn hở và
tăng thêm sức lực của chúng, làm cho hai bên bạn bè đấu tranh luôn không dứt,
làm cho vô lượng, vô biên hữu tình khác đều hết lòng nhàm chán Đại thừa, thì
đại Bồ tát này khi tu hành Bát nhã Ba la mật liền bị ác ma làm rối loạn.
Đại Bồ tát nào cùng người cầu Thanh
văn, Độc giác thừa chẳng đấu tranh, khinh miệt, chê bai nhau, phương tiện giáo
hóa, làm cho hướng đến Đại thừa, hoặc khiến họ tu vượt lên trên thừa của mình
và cùng các thiện nam tử cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, không khinh
chê, hủy báng, đấu tranh nhau, cùng dạy bảo nhau tu pháp thắng thiện, mau thẳng
đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, chuyển vận bánh xe diệu pháp, độ các hữu
tình, thì đại Bồ tát này khi tu hành Bát nhã Ba la mật không bị ác ma làm rối
loạn.
Lại nữa, Khánh Hỷ! Nếu Đại Bồ tát
nào chưa được thọ ký Bất thối quả vị
Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, đối với các đại Bồ tát đã được thọ ký bất thối quả
vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, sanh tâm tổn hại, khinh miệt, đấu tranh, chê
bai, mắng nhiếc. Đại Bồ tát này tùy theo phát khởi bao nhiêu tâm niệm không lợi
ích, thì thối lui bấy nhiêu kiếp từng tu thắng hạnh, trải qua bấy nhiêu đời xa
lìa bạn lành, chịu lại bấy nhiêu đời sanh tử trói buộc. Nếu không bỏ tâm đại Bồ
đề thì trở lại bấy nhiêu kiếp mặc áo giáp Hoằng thệ, siêng tu thắng hạnh không
lúc nào gián đoạn, sau đó mới được bù đắp lại công đức đã bị lui sụt. (Q.552, TBBN)
Bấy giờ, Khánh Hỷ lại bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ tát này đã
phát khởi tâm ác, sanh tử tội khổ thì phải luân hồi trải qua bấy nhiêu đời, hay
ở nửa chừng cũng được ra khỏi. Đại Bồ tát này bị lui thắng hạnh thì phải siêng
năng trải bấy nhiêu kiếp mặc giáp Hoằng thệ, tu các thắng hạnh không lúc nào
gián đoạn, sau đó mới được bù đắp lại công đức đã bị lui sụt, hay là ở nửa
chừng có thể phục hồi lại như trước?
Phật bảo Khánh Hỷ:
- Ta vì Bồ tát, Độc giác, Thanh văn thuyết cách xuất tội và phục hồi thiện pháp
lại. Khánh Hỷ nên biết đại Bồ tát nào chưa
được thọ ký bất thối quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, đối với các đại Bồ
tát đã được thọ ký bất thối quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề sanh tâm tổn hại,
đấu tranh khinh miệt, hủy nhục, chê bai, về sau không hổ thẹn, giữ ác không bỏ,
không chịu như pháp tỏ bày sám hối. Ta nói loại người ấy ở nơi nửa chừng không
thoát khỏi tội và phục hồi thiện pháp, phải theo số kiếp như cũ luân hồi trong
sanh tử, xa lìa bạn lành, bị các khổ trói buộc. Nếu không xả bỏ tâm đại Bồ đề
thì phải bấy nhiêu kiếp mặc giáp Hoằng thệ, siêng tu thắng hạnh không có lúc
nào gián đoạn, sau đó mới phục hồi công đức đã bị lui sụt.
Đại Bồ tát nào chưa được thọ ký bất thối quả vị Vô Thượng
Chánh Đẳng Bồ đề thì đối với các đại Bồ tát đã được thọ ký bất thối quả vị Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, tâm tổn hại, đấu tranh, khinh miệt, mắng nhiếc, hủy
báng nhau, sau đó sanh hổ thẹn, tâm
bỏ điều ác, liền theo đúng pháp phát lồ sám hối tội lỗi, nghĩ thế này: Ta nay
đã được thân người vốn khó được, sao lại để cho khởi lên tội lỗi làm cho mất
lợi lành lớn! Ta nên làm lợi ích cho tất cả hữu tình, sao lại làm hại chúng? Ta
nên cung kính tất cả hữu tình như tôi tớ thờ chủ, sao lại kiêu mạn, khinh miệt,
hủy nhục đối với hữu tình? Ta nên nhận chịu tất cả sự đánh đập, trách mắng của
hữu tình, sao lại đối với hữu tình đem sự tàn bạo của lời nói và hành động đáp
lại họ? Ta nên hòa giải tất cả, làm cho hữu tình kính mến nhau, sao lại đưa ra
lời lẽ hung ác để chống chọi chúng? Ta nên chịu đựng để tất cả hữu tình giẫm
đạp mãi mãi như đường sá hay như cầu cống, sao trở lại lăng nhục chúng? Ta cầu
quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề vì cứu vớt khổ lớn sanh tử cho hữu tình, làm
cho được Niết bàn an vui hoàn toàn, sao lại muốn đem khổ đến cho chúng? Từ nay
cho đến tận đời vị lai, ta nên như si, như câm, như mù, như điếc, đối với các
hữu tình không phân biệt, giả sử có bị chém đứt đầu, chân, tay hoặc móc mắt,
cắt tai, xẻo mũi, cắt lưỡi, cưa xẻ tất cả chi thể thân phần, đối với hữu tình
kia ta quyết không phát khởi một niệm ác. Nếu ta có ác tâm thì liền bị thối lui
tâm cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, chướng ngại sự cầu Nhất thiết trí
trí, không thể làm lợi ích an vui cho hữu tình.
Khánh Hỷ nên biết! Đối với Bồ tát
này, ta nói nửa chừng có thể thoát tội và phục hồi lại thiện pháp, chẳng còn
trải qua nhiều kiếp số luân hồi sanh tử, không bị ác ma làm rối loạn và mau
chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
(Thái độ của Bồ tát trong cuộc sống chung đụng)
Lại nữa, Khánh Hỷ! Các đại Bồ tát
cùng với những vị cầu Thanh văn, Độc giác thừa như vậy chẳng nên giao thiệp.
Giả sử cùng giao thiệp thì chẳng nên ở chung. Giả sử cùng ở chung thì chẳng nên
cùng với họ bàn luận, xác quyết nghĩa lý. Vì sao? Vì nếu cùng với họ luận bàn
để xác định nghĩa lý thì sẽ có thể phát sinh tâm giận dữ v.v… hoặc phát sinh
lời lẽ thô ác. Nhưng các Bồ tát đối với các loài hữu tình thì không nên giận dữ
v.v… Cũng không nên nói lời thô ác. Giả sử bị chém đứt đầu, chân tay, thân
phần… cũng không nên nói lời giận dữ. Vì sao? Vì các đại Bồ tát nên nghĩ: Ta
cầu quả vị Vô thượng Bồ đề vì cứu giúp hữu tình dứt hẳn khổ sanh tử, làm cho
được lợi ích, an vui hoàn toàn, đâu cho phép gây việc ác cho họ.
Khánh Hỷ nên biết! Nếu đại Bồ tát
nào đối với loài hữu tình mà giận dữ, nói ra lời thô ác thì liền bị trở ngại
quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề và hư hoại vô biên pháp hạnh của Bồ tát. Thế
nên, chúng đại Bồ tát muốn đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, đối với các
hữu tình không nên giận dữ, cũng không nên nói lời thô ác.
(Đẳng học)
Bấy giờ Khánh Hỷ bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ tát cùng
đại Bồ tát làm cách nào để cùng ở chung?
Phật bảo Khánh Hỷ:
- Các đại Bồ tát cùng đại Bồ tát ở
chung nên xem nhau như đại sư. Vì
sao? Vì các đại Bồ tát cùng đại Bồ tát hỗ trợ nhau nên nghĩ thế này: Đại Bồ tát kia là bạn lành chơn thật của
chúng ta, cùng chúng ta làm bạn, đồng ngồi một thuyền, đồng đi một đường, đồng
tới một chỗ, đồng làm một việc. Chúng ta cùng với họ cùng học một thời
gian, cùng một nơi chốn và cùng được học một giáo pháp. Nếu học như vậy thì
không khác nhau. Lại nghĩ: Các Bồ tát kia vì chúng ta thuyết đạo đại Bồ đề, tức
là bạn lành của ta, cũng là đạo sư của ta. Nếu đại Bồ tát kia trụ ý nghĩ xen
tạp, xa lìa ý nghĩ tương ưng với Nhất thiết trí trí thì ta sẽ không học chung
với các vị ấy. Nếu đại Bồ tát kia lìa ý nghĩ xen tạp, không lìa ý nghĩ tương
ưng Nhất thiết trí trí thì ta nên thường cùng học tập với họ.
Khánh Hỷ nên biết! Nếu đại Bồ tát
luôn học như vậy thì tư lương Bồ đề mau được viên mãn, mau chứng quả vị Vô
thượng Bồ đề, ở nửa chừng không bị chướng ngại.
Phẩm này nêu lên ba vấn đề: 1. Người tu hành Bát nhã
không chân thật hay vì tật đố nên có thể bị ác ma làm rối loạn; 2. Nói về thái
độ của Bồ tát trong cuộc sống chung đụng; 3. Nói về
đẳng học.
1. Người tu
Bát nhã bị ác ma làm rối loạn:
Người tu các thiện pháp nhất là tu Bát nhã càng đông,
càng nhiều thì bè lũ ma quân xấu ác càng giảm đi. Do đó, ma quân sẽ sầu khổ như
bị tên đâm. Do đó, ma quân luôn luôn tìm cách gây rối loạn, không muốn ai cũng
trở thành Bồ tát hay Phật.
Kinh phân biệt:
Bồ tát nào đời trước nghe thuyết Bát nhã sâu xa tâm không tin hiểu, hủy báng, chê bai, thì
đại Bồ tát này khi tu hành Bát nhã Ba la mật liền bị ác ma làm rối loạn. Đại Bồ
tát nào đời trước nghe giảng dạy Bát nhã sâu xa, có lòng tin hiểu, chẳng hủy báng chê bai thì đại Bồ tát này khi tu
hành Bát nhã Ba la mật không bị ác ma làm rối loạn.
Đại Bồ tát nào nghe giảng dạy Bát nhã sâu xa như vậy, nghi ngờ, do dự, là có hay không, là
thật hay giả, thì đại Bồ tát này khi tu hành Bát nhã Ba la mật liền bị ác ma
quấy rối. Nếu đại Bồ tát nào nghe giảng dạy Bát nhã sâu xa, tâm vị đó hoàn toàn không nghi ngờ, do dự,
tin chắc là thật, thì đại Bồ tát này khi tu hành Bát nhã Ba la mật không bị ma
ác làm rối loạn.
Bồ tát nào xa lìa bạn lành, tự ỷ lại vào thiện căn, ỷ lại vào tên tuổi, dòng họ và công đức, ỷ
vào sự tu tập hạnh Đầu đà… rồi sanh ra khinh miệt các chúng Bồ tát tu các
pháp thắng thiện khác. Bồ tát này thường khen mình, hủy báng, chê bai các vị
khác. Họ thật không có các hành trạng của đại Bồ tát Bất thối chuyển mà cho
mình có, nên sanh các phiền não. Ác ma thấy vậy càng thêm vui mừng và nghĩ như
vầy: Nay Bồ tát này làm cho cung điện và quốc độ của ta chẳng trống không, tăng
thêm cảnh giới địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ. Do đây, ác ma vui mừng hớn hở, muốn
khuynh đảo như thế nào tùy ý. Hạng Bồ tát như vậy tu hành Bát nhã Ba la mật
chắc chắn bị ác ma làm rối loạn. Nếu Bồ tát nào không ỷ vào danh hiệu hư vọng, đối với các công đức không ỷ lại mà
sanh kiêu mạn, thường không khen mình chê người, luôn hiểu biết đúng ma sự, thì
đại Bồ tát này khi tu hành Bát nhã Ba la mật không bị ác ma làm rối loạn.
Nếu Bồ tát sanh
tâm tổn hại, đấu tranh khinh miệt, hủy nhục, chê bai các Bồ tát khác, nhưng
về sau không biết hổ thẹn, giữ ác không bỏ, không chịu sám hối. Loại người ấy
phải theo số kiếp luân hồi trong sanh tử, xa lìa bạn lành, bị các khổ trói
buộc. Nhưng nếu Bồ tát ấy sau đó sanh hổ
thẹn, tâm bỏ điều ác, liền theo đúng pháp phát lồ sám hối, không xa lìa Bồ
đề tâm, hoằng thệ, siêng tu thắng hạnh không có lúc nào gián đoạn, sau đó mới
có thể phục hồi công đức đã bị lui sụt. Vì vậy, Phật bảo cụ thọ Khánh Hỷ:
-“Khánh Hỷ nên
biết! Đối với Bồ tát này, Ta nói nửa chừng có thể thoát tội và phục hồi lại
thiện pháp, chẳng còn trải qua nhiều kiếp số luân hồi sanh tử, không bị ác ma
làm rối loạn và mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề”.
2. Thái độ
của Bồ tát trong cuộc sống chung đụng:
Các đại Bồ tát không nên giao thiệp với các vị Thanh
văn hay Độc giác. Giả sử cùng giao thiệp thì chẳng nên ở
chung. Giả sử cùng ở chung thì chẳng nên cùng với họ bàn luận, xác quyết nghĩa
lý. Vì sao? Vì nếu cùng với họ luận bàn để xác định nghĩa lý thì sẽ có thể phát
sinh tâm giận dữ v.v… hoặc phát sinh lời lẽ thô ác.
Cả đến đối với các hữu tình đại Bồ tát cũng không nên
giận dữ v.v… Cũng không nên nói lời thô ác. Giả sử bị chém bị chặt thân phần…
cũng không nên nói lời giận dữ. Vì sao? Vì các đại Bồ tát nên nghĩ: Ta cầu quả
vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề vì cứu giúp hữu tình dứt hẳn khổ sanh tử, làm cho
được lợi ích, an vui rốt ráo, lẽ đâu lại gây ác cho họ. Bởi vì, nếu đối với hữu
tình mà sanh tâm sân hận tức tự mình làm hư hoại vô biên pháp hạnh của Bồ tát
thì làm sao chứng đạt Vô Thượng Bồ đề.
3. Đẳng học:
Nếu đại Bồ tát cùng đại Bồ tát ở chung nên xem nhau như đại sư. Vì sao? Vì các đại
Bồ tát cùng đại Bồ tát hỗ trợ nhau nên nghĩ thế này: Đại Bồ tát kia là bạn lành
chơn thật của chúng ta, cùng chúng ta làm bạn, đồng ngồi một thuyền, đồng đi
một đường, đồng tới một chỗ, đồng làm một việc. Chúng ta cùng họ học một giáo
pháp như nhau. Nếu học như vậy thì không khác nhau. Lại nghĩ: Các Bồ tát kia vì
chúng ta thuyết đạo Bồ đề, tức là bạn lành của ta, cũng là đạo sư của ta. Nếu
đại Bồ tát kia trụ ý nghĩ xen tạp, xa lìa ý nghĩ tương ưng với Nhất thiết trí
trí thì ta sẽ không cùng học. Nếu đại Bồ tát kia lìa ý nghĩ xen tạp, nhưng
không lìa ý tưởng tương ưng Nhất thiết trí trí thì ta nên cùng học với họ.
Nếu đại Bồ tát luôn học như vậy thì tư lương Bồ đề mau
được viên mãn, mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, ở giai đoạn giữa
không bị chướng ngại. (Q.552, TBBN)
Các vị đồng tu trên nguyên tắc phải kính trọng lẫn
nhau, coi nhau như thiện tri thức, coi nhau như bạn đồng hội, như kẻ đồng
thuyền. Chỗ học, thời gian học và pháp
học của chúng ta và vị ấy, tất cả đều không khác. Các vị ấy phải học lục Ba
la mật, ta cũng phải học; các vị ấy cần phải học mười tám pháp không, phải học
chơn như, pháp giới, pháp tánh v.v…, ta cũng phải học; các vị ấy phải học Tam
giải thoát môn, ta cũng phải học; các vị ấy phải học Nhất thiết trí, Đạo tướng
trí, Nhất thiết chủng trí, ta cũng phải học.
Các vị ấy vì chúng sanh nói đạo Bồ đề, tức là bạn lành
chơn thật của ta, cũng là thầy ta. Nếu các vị ấy tạp loạn, điên đảo xa lìa tác
ý tương ưng Nhất thiết trí, thì ta chẳng cùng học với các vị ấy. Trái lại, nếu
các vị ấy lìa tạp loạn, điên đảo chẳng rời tác ý tương ưng Nhất thiết trí, thì
ta luôn luôn cùng học. Nếu các vị ấy luôn luôn học như thế, thì tư lương Bồ đề
mau viên mãn. Vì sao? Vì học như thế thì gọi là đẳng học. Do cái học bình
đẳng đó, nên mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Bài pháp này chẳng có gì khó, chỉ nói về tâm lý và chí
nguyện của những người tu hành mà thôi, ai đọc cũng có thể hiểu. Nên không cần
dong dài!
---o0o---