PHẨM “PHẬT
QUỐC”
Phần sau
Q.535 đến phần đầu Q.536, Hội thứ III, ĐBN.
(Tương đương với phẩm “Đạo Sĩ”, quyển 476, Hội thứ II,
ĐBN)
Tóm lược:
Bấy giờ, Thiện Hiện suy nghĩ: Thế
nào gọi là Bồ tát đạo, các Bồ tát an trụ trong đạo ấy, mặc giáp bị công đức làm
lợi ích an vui cho tất cả hữu tình mau chứng được Nhất thiết trí trí.
Phật biết tâm niệm ấy, bảo Thiện
Hiện:
- Thiện Hiện nên biết! Bố thí, tịnh
giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật. Nói rộng cho đến Nhất
thiết tướng trí và vô lượng vô biên các Phật pháp khác đều là đạo của đại Bồ
tát. Lại nữa, này Thiện Hiện! Nói chung tất cả pháp đều là đạo của đại Bồ tát.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Không có
chút pháp nhỏ nào mà các đại Bồ tát đều không học. Các đại Bồ tát nào không học
các pháp ấy thì có thể chứng được Nhất thiết trí trí không?
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Không chứng được!
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Nhất
định không có chút pháp nhỏ nào mà các đại Bồ tát đều không học cả. Đại Bồ tát
nào không học các pháp ấy thì nhất định không thể chứng được Nhất thiết trí
trí. Vì sao? Vì nếu đại Bồ tát đối với tất cả pháp không thể biết hết thì không
thành Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác được.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp tự
tánh đều Không thì chúng đại Bồ tát làm sao học tất cả pháp? Làm sao Thế Tôn
đối với pháp không hý luận mà phát sanh hý luận? Nghĩa là có pháp này, pháp
kia, do đây, vì đây. Pháp này là thế gian, pháp kia là xuất thế gian; pháp nọ
là hữu lậu, là vô lậu; là hữu vi, là vô vi; đây là pháp phàm phu, đây là pháp
Dự lưu. Nói rộng, cho đến đây là pháp Bồ tát, đây là pháp chư Phật.
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Các pháp sở hữu tự tánh đều Không. Nếu tất
cả pháp tự tánh chẳng Không thì các đại Bồ tát làm sao chứng đắc Nhất thiết trí
trí, vì tất cả pháp tự tánh đều Không, nên đại Bồ tát nhất định chứng đắc Nhất
thiết trí trí. Cũng như ông đã nói: Nếu tất cả pháp tự tánh đều Không thì
chúng đại Bồ tát làm sao học tất cả pháp, nói rộng cho đến đây là pháp Bồ tát,
pháp chư Phật.
Thiện Hiện nên biết! Các hữu tình
nào biết tất cả pháp tự tánh đều không thì các đại Bồ tát không cần học tất cả
pháp, cũng không cần chứng Nhất thiết trí trí và vì các hữu tình mà giảng
thuyết, khai thị làm gì. Bởi vì các hữu tình không biết các pháp tự tánh đều
Không, nên đại Bồ tát nhất định phải học tất cả pháp và phải chứng được Nhất
thiết trí trí, vì các hữu tình mà giảng thuyết khai thị.
Thiện Hiện nên biết! Các đại Bồ tát
khi mới tu học, đối với Bồ tát đạo nên quán sát kỹ các pháp tự tánh đều bất khả
đắc, chỉ có hư dối phân biệt tạo ra. Chúng ta quán sát các pháp tự tánh đều
hoàn toàn không, không nên ở trong ấy sanh chấp thủ. Nghĩa là không nên chấp thủ sắc, cũng không nên
chấp thủ thọ, tưởng, hành, thức. Nói rộng cho đến không nên chấp thủ tất cả Bồ
tát hạnh, cũng không nên chấp thủ quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư
Phật. Vì sao? Vì tất cả pháp tự tánh đều
Không, tánh Không chẳng nên chấp trước. Trong Không, tánh Không còn bất khả
đắc, huống là tánh Không làm sao chấp trước cái Không được.
Thiện Hiện nên biết! Các đại Bồ tát
khi quán sát tất cả pháp như vậy, đối với các pháp tánh, tuy không chấp trước
nhưng đối với các pháp thường siêng tu học, chưa từng nhàm chán.
Đại Bồ tát này an trụ trong đây, tu
học quán sát tâm hành của các hữu tình sai khác. Nghĩa là quán sát tâm hành của
các hữu tình này ở chỗ nào, đã quán sát rồi, như thật biết rõ tâm của chúng chỉ hành nơi hư vọng, phân
biệt, chấp trước. (Q.535, ĐBN)
Bấy giờ, Bồ tát suy nghĩ: Tâm hành
này đã hành chỗ hư vọng, phân biệt, chấp trước. Ta độ chúng giải thoát, nhất
định không khó. Đại Bồ tát này nghĩ rồi an trụ Bát nhã Ba la mật, dùng phương
tiện thiện xảo dạy bảo giáo giới các hữu tình: “Nay các ngươi nên xa lìa chỗ hư
vọng, phân biệt, chấp trước, đạt đến chánh pháp, tu các hạnh lành”.
Lại nói: “Nay các ngươi nên hành bố
thí, sẽ được tài sản đầy đủ, nhưng đừng ỷ lại, sanh tâm kiêu mạn, buông lung.
Vì sao? Vì trong đây đều không chắc thật. Nay các ngươi nên hành tịnh giới, an
nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật sẽ được các thứ công đức đầy đủ,
nhưng đừng ỷ lại, sanh tâm kiêu mạn, buông lung. Vì sao? Vì trong đây đều không
chắc thật. Nói rộng, cho đến ngày nay các ngươi nên hành quả Dự lưu cho đến quả
vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề và vô lượng vô biên các Phật pháp khác, nhưng
đừng ỷ lại, sanh tâm kiêu mạn, buông lung. Vì sao? Vì trong đây đều không chắc
thật”.
Đại Bồ tát này khi an trụ Bát nhã Ba
la mật, dùng phương tiện thiện xảo dạy bảo giáo giới các hữu tình hành Bồ tát
đạo, tâm không còn chấp trước. Vì sao? Vì tất cả pháp tánh không nên chấp
trước, hoặc mình chấp, hoặc đối tượng để chấp đều vô tự tánh. Vì tất cả pháp tự
tánh đều Không.
Thiện Hiện nên biết! Các đại Bồ tát
khi tu hành Bồ tát đạo, đối với tất cả
pháp đều không chỗ trụ. Đem không chỗ trụ mà làm phương tiện, tuy hành bố
thí cho đến Bát nhã Ba la mật, nhưng ở trong ấy đều không chỗ trụ. Nói rộng,
cho đến tuy hành Bồ tát hạnh, quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật và
vô lượng vô biên các Phật pháp khác, nhưng ở trong ấy đều không chỗ trụ. Vì
sao? Vì tự tánh như thế, người hành, tướng được hành, tất cả đều Không, nên ở
trong ấy đều không chỗ trụ.
Thiện Hiện nên biết! Các đại Bồ tát
tuy có thể chứng đắc quả Dự lưu, nói rộng cho đến Độc giác Bồ đề, nhưng ở trong
ấy không muốn chứng trụ. Vì sao? Vì có hai lý do: Một là quả kia đều không tự
tánh, người trụ, chỗ trụ đều bất khả đắc; hai là đối với chỗ trụ không sanh vui
mừng, không cho là đủ. Vì vậy, ở trong ấy không muốn chứng
trụ. Nghĩa là chúng đại Bồ tát thường suy nghĩ: Ta nhất định phải chứng đắc quả
Dự lưu cho đến Độc giác Bồ đề, không thể không được, nhưng ở trong ấy không nên
chứng trụ. Vì sao? Vì ta từ lúc mới phát tâm quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề
đến nay, trong thời gian ấy không có lúc nào sanh ý tưởng khác, chỉ một lòng
cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, ta nhất định sẽ chứng đắc quả vị Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, không thể nửa chừng an trụ trong các quả Dự lưu cho
đến Độc giác Bồ đề.
Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ tát này
từ lúc mới phát tâm cho đến khi nhập vào Bồ tát Chánh tánh ly sanh không có ý
tưởng nào khác, chỉ cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ tát này
từ khi nhập sơ địa cho đến thập địa không có ý tưởng nào khác, chỉ cầu quả vị
Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ tát này
chuyên tâm cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, không có lúc nào sanh tâm tán
loạn. Nếu có khởi các nghiệp nơi thân, khẩu, ý thì cũng đều cùng tương ưng với
tâm Bồ đề.
Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ tát này
trụ Bồ đề tâm, phát sanh Bồ đề đạo, không bị các việc khác làm rối loạn nơi
tâm. (Q.535, ĐBN)
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp hoàn
toàn không sanh thì làm sao chúng đại Bồ tát phát sanh Bồ đề đạo?
Phật bảo:
- Đúng vậy! Đúng như ngươi nói! Tất
cả pháp đều chẳng sanh, hoạt động, tạo tác của thân, khẩu, ý nghiệp hoàn toàn
tương ưng với tâm Bồ đề.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Có phải chư Phật
xuất hiện ở đời, hoặc không xuất hiện thì pháp tánh, pháp giới các pháp vẫn
thường trụ không?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Nhưng
các hữu tình không hiểu rõ được pháp tánh các pháp là thường trụ, nên luân hồi
sanh tử, chịu các khổ não. Các đại Bồ tát vì làm lợi ích cho hữu tình nên phát
sanh Bồ đề đạo. Nhờ Bồ đề đạo làm cho hữu tình giải thoát hoàn toàn các khổ
sanh tử, chứng được Niết bàn thanh tịnh an vui.
(Đại Bồ tát làm thế nào chứng được Như Lai Chánh Đẳng
Chánh Giác?)
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch
Phật:
- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ tát nhờ
dùng đạo nào để phát sanh Bồ đề?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Không phải!
- Bạch Thế Tôn! Không dùng đạo để
phát sanh Bồ đề chăng?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Không phải
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nhờ dùng đạo hay vô
đạo để phát sanh Bồ đề chăng?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Không phải!
- Bạch Thế Tôn! Nhờ chẳng phải đạo
chẳng phải vô đạo để phát sanh Bồ đề chăng?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Không phải!
Cụ Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu như vậy thì đại
Bồ tát làm thế nào để chứng được Bồ đề?
Phật dạy:
- Này Thiện
Hiện! Bồ đề không do đạo hay chẳng phải đạo mà đắc. Vì sao? Vì Bồ đề tức là
đạo, đạo tức là Bồ đề. Vì vậy, không do đạo hay chẳng phải đạo mà đắc.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu Bồ đề tức là
đạo, đạo tức là Bồ đề thì đại Bồ tát đã đạt được Bồ đề đạo, không thể không đạt
được. Nếu vậy, lý do nào Thế Tôn lại vì các Bồ tát nói Như Lai mười lực, bốn
điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả,
mười tám pháp Phật bất cộng, ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp và vô lượng vô
biên các Phật pháp khác, làm cho họ tu chứng?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Ngươi cho Phật
đạt Bồ đề chăng?
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Không có! Vì sao? Vì
Phật tức là Bồ đề, Bồ đề tức là Phật, nên không nói Phật đạt Bồ đề.
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Nhưng
ông đã hỏi: Đại Bồ tát đã đạt được Bồ đề đạo, không thể không đạt được.
Thiện Hiện nên biết! Các đại Bồ tát
tu Bồ đề đạo chưa được viên mãn, làm sao nói đạt được Bồ đề?
Thiện Hiện nên biết! Các đại Bồ tát
nào đã viên mãn bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la
mật. Nói rộng, cho đến Nhất thiết tướng trí và vô lượng vô biên các Phật pháp
khác. Từ đây không gián đoạn, dùng Kim cang dụ định trong một sát na tương ưng
với Bát nhã, đoạn trừ vĩnh viễn các tập khí tương tục của hai
tướng thô trọng là phiền não chướng và sở tri chướng, chứng đắc quả vị Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thành Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, đối với tất cả pháp
được đại tự tại. (Q.535, ĐBN)
(Thế nào là nghiêm tịnh cõi Phật)
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ tát nghiêm
tịnh cõi Phật là như thế nào?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát từ
lúc mới phát tâm cho đến khi rốt ráo, thường
tự thanh tịnh ba nghiệp thô trọng thân, ngữ, ý; cũng làm cho người khác
thanh tịnh ba nghiệp thô trọng thân, ngữ, ý mới có thể nghiêm tịnh cõi Phật.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ tát thường tự
thanh tịnh ba nghiệp thô trọng thân, ngữ, ý là như thế nào?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Nếu sát hại sanh
mạng, lấy của không cho, làm việc tà hạnh, ba việc bất thiện này gọi là thân nghiệp thô trọng của Bồ tát. Hoặc
nói lời dối trá, lời chia rẽ, lời thô tục, lời tạp uế, bốn điều bất thiện này
gọi là ngữ nghiệp thô trọng của Bồ tát. Hoặc tham dục, sân hận, tà kiến, ba
điều bất thiện này gọi là ý nghiệp thô trọng của Bồ tát.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ tát
nào còn xan tham, phá giới, sân giận, giải đãi, tán loạn, ác tuệ, cũng gọi là
thô trọng.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ tát
nào mà giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát trí kiến uẩn đều
không được thanh tịnh cũng gọi là thô trọng.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ tát
nào xa lìa bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy
chi đẳng giác, tám chi Thánh đạo. Nói rộng, cho đến xa lìa tất cả Bồ tát hạnh,
quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật cũng gọi là thô trọng.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ tát
nào tham đắm quả Dự lưu cho đến Độc giác Bồ đề cũng gọi là thô trọng.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ tát
nào tưởng sắc uẩn cho đến thức uẩn cũng gọi là thô trọng. Nói rộng cho đến
tưởng tất cả Bồ đề đạo và tưởng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề cũng gọi là
thô trọng. Tưởng phàm phu, tưởng Thanh văn, tưởng Độc giác, tưởng Bồ tát, tưởng
Như Lai cũng gọi là thô trọng. Tưởng địa ngục, tưởng bàng sanh, tưởng ngạ quỷ,
tưởng người, tưởng trời, tưởng nam, tưởng nữ cũng gọi là thô trọng. Tưởng cõi
Dục, tưởng cõi Sắc, tưởng cõi Vô sắc cũng gọi là thô trọng. Tưởng thiện, tưởng
phi thiện, tưởng hữu lậu, tưởng vô lậu, tưởng thế gian, tưởng xuất thế gian,
tưởng hữu vi, vô vi cũng gọi là thô trọng.
Thiện Hiện nên biết! Như vậy, vô
lượng, vô biên các sự chấp trước của các pháp và các hữu tình hư vọng, phân
biệt cùng chỗ phát sanh, các nghiệp thân, ngữ, ý và những chủng loại hư vọng khác mà hữu tình
không thể kham nhận nỗi đều gọi là thô trọng. Các đại Bồ tát đối với thô trọng
này đều nên xa lìa. (Q.535, ĐBN)
Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ tát
hành Bát nhã Ba la mật, xa lìa sự thô trọng đã nói ở trên, tự mình hành bố thí Ba la mật, cũng khuyên người khác hành bố thí Ba
la mật. Nên các hữu tình cần ăn cho ăn, cần uống cho uống, cần vật dụng cho vật
dụng, tùy nơi, tùy lúc, tùy vật dùng đều bố thí cho họ. Như tự mình đã hành các
pháp bố thí, khuyên người khác cũng hành như vậy. Bố thí như thế rồi, đem căn
lành này bình đẳng ban cho các hữu tình đều cùng hồi hướng nghiêm tịnh cõi
Phật, làm cho mau được viên mãn, lợi ích an vui cho hữu tình. Đại Bồ tát này tự mình hành tịnh giới cho đến Bát nhã Ba
la mật, cũng khuyên người khác thực hành tịnh giới cho đến Bát nhã Ba la
mật. Làm việc này rồi, đem căn lành này bình đẳng ban cho các hữu tình đều cùng
hồi hướng nghiêm tịnh cõi Phật, làm cho mau được viên mãn, lợi ích an vui cho
hữu tình.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ tát
nào dùng sức thần thông, hoằng nguyện chứa đầy bảy báu thượng diệu khắp tam
thiên đại thiên thế giới, cúng dường Phật, Pháp, Tăng và tháp của Phật. Cúng
rồi, vui mừng phát thệ nguyện rộng: “Tôi đem căn lành như thế này bình đẳng ban
cho các hữu tình đều cùng hồi hướng nghiêm tịnh cõi Phật đang ở, làm cho thế
giới tôi cũng được trang nghiêm bằng bảy báu, tất cả hữu tình tùy ý thọ dụng
các thứ ngọc báu mà không tham đắm”.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ tát
nào dùng sức thần thông, thệ nguyện trổi vô lượng âm nhạc vi diệu trong cõi
trời, người cúng dường Tam bảo và tháp Phật; cúng dường rồi vui mừng phát thệ
nguyện rộng lớn: “Tôi đem căn lành như thế này bình đẳng ban cho các hữu tình
đều cùng hồi hướng nghiêm tịnh cõi Phật đang ở, làm cho quốc độ của tôi thường
được trổi các thứ âm nhạc vi diệu như thế. Hữu tình khác được nghe, thân tâm
vui vẻ nhưng không tham đắm”.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ tát
nào dùng sức thần thông, thệ nguyện chứa đầy các thứ phẩm vật, hương hoa tươi
đẹp ở cõi trời người khắp tam thiên đại thiên thế giới cúng dường Tam bảo và
tháp Phật. Cúng dường rồi vui mừng phát nguyện rộng lớn: “Tôi đem căn lành như
thế này bình đẳng ban cho các hữu tình đều cùng hồi hướng nghiêm tịnh cõi Phật
đang ở và cũng làm cho cõi tôi thường có các thứ hương hoa tươi đẹp như thế,
làm cho hữu tình khác thọ dụng, thâm tâm vui mừng nhưng không tham đắm”.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ tát
nào dùng sức thần thông, thệ nguyện sắm sửa trăm vị thức ăn nước uống thượng
hạng cúng dường chư Phật, Độc giác, Thanh văn và chúng đại Bồ tát. Cúng dường
rồi vui mừng phát nguyện rộng lớn: “Tôi đem căn lành như thế này bình đẳng ban
cho các hữu tình đều cùng hồi hướng nghiêm tịnh cõi Phật đang ở. Khi tôi được
quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề sẽ độ các loài hữu tình trong cõi nước tôi
cũng đều được trăm vị thức ăn nước uống như vậy, thân tâm vui mừng nhưng không
tham đắm”.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ tát
nào dùng sức thần thông, thệ nguyện sắm sửa các thứ hương bột thơm tho, y phục
mềm dịu ở cõi trời, cõi người dâng cúng chư Phật, Độc giác, Thanh văn và chúng
đại Bồ tát. Cúng dường rồi vui mừng phát nguyện rộng lớn: “Tôi đem căn lành như
thế này bình đẳng ban cho các hữu tình đều cùng hồi hướng nghiêm tịnh cõi Phật
đang ở. Khi tôi được quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề sẽ độ các loài hữu tình
trong cõi nước tôi thường được y phục, hương bột như thế tùy ý thọ dụng nhưng
không tham đắm”.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ tát
nào dùng sức thần thông, thệ nguyện sắm sửa các món trang nghiêm, tùy ý sanh ra
năm thứ diệu dục trong cảnh giới trời, người dâng cúng dường chư Phật và tháp
Phật, Độc giác, Thanh văn và chúng đại Bồ tát và các hữu tình. Cúng rồi vui
mừng phát nguyện rộng lớn: “Tôi đem căn lành như thế này bình đẳng ban cho các
hữu tình đều cùng hồi hướng nghiêm tịnh cõi Phật đang ở. Khi tôi được quả vị Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề sẽ độ các loài hữu tình trong cõi nước tôi tùy tâm ưa
thích các cảnh sắc, thanh, hương, vị, xúc thượng diệu, vừa nghĩ liền có hiện
đến, vui mừng thọ dụng nhưng không tham đắm”.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ tát
nào hành sâu Bát nhã Ba la mật, dõng mãnh, chánh cần phát hoằng thệ nguyện, tự
mình trụ pháp nội không cho đến pháp vô tánh tự tánh không; cũng khuyên người
khác trụ vào nội không cho đến pháp vô tánh tự tánh không. Nói rộng, cho đến tự
mình tu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, cũng khuyên người khác tu quả vị Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Làm việc này rồi, phát thệ nguyện: “Khi tôi chứng được
quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề sẽ độ các loài hữu tình trong cõi nước tôi
thường không xa lìa các thứ công đức như thế”.
Như vậy, này Thiện Hiện! Các đại Bồ
tát khi hành sâu Bát nhã Ba la mật, nhờ hành hạnh nguyện này nên có thể nghiêm
tịnh cõi Phật.
Thiện Hiện nên biết! Chúng đại Bồ
tát này tùy theo thời gian hành Bồ đề đạo được bao nhiêu, thì được viên mãn
phát sanh hạnh nguyện tinh tấn tu học bấy nhiêu. Nhờ nhân duyên này nên tự mình
được thành tựu tất cả thiện pháp, cũng có thể làm cho người khác tuần tự thành
tựu tất cả thiện pháp. Tự mình có thể tu được tướng hảo thù thắng để trang
nghiêm thân, cũng giúp cho người khác được tuần tự tu tướng hảo thù thắng để
trang nghiêm thân. Vì nhờ phước đức rộng lớn giúp đỡ hộ trì.
Thiện Hiện nên biết! Hạnh nguyện tu
hành của chúng đại Bồ tát này được viên mãn rồi, đều làm trang nghiêm thanh
tịnh cõi Phật chỗ mình đang ở. Khi Bồ tát chứng được quả vị Vô Thượng Chánh
Đẳng Bồ đề, các loài hữu tình đã được giáo hóa cũng được sanh vào cõi ấy, cùng
hưởng pháp lạc Đại thừa và sanh vào cõi tịnh độ. (Q.535, ĐBN)
Lại nữa, này Thiện Hiện! Chúng đại
Bồ tát nên tu trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật như thế, nghĩa là trong quốc độ
ấy thường không nghe có ba đường ác, cũng không nghe có ác kiến, không nghe có
ba độc tham, sân, si, không nghe có hình tướng nam nữ, không nghe có Thanh văn,
Độc giác, không nghe có vô thường, khổ v.v... các việc không được như ý, không
nghe có giữ gìn đồ vật, không nghe chấp có ngã và ngã sở, không nghe có sự tùy
miên, ràng buộc, không nghe có sự chấp trước điên đảo và cũng không nghe có quả
vị và sự hoạt động khác nhau của loài hữu tình. (Q.536, ĐBN)
Chỉ nghe
tiếng nói không, vô tướng, vô nguyện, vô sanh, vô diệt, vô tánh v.v... Nghĩa là
tùy theo ý muốn khác nhau của hữu tình, cũng như cây trong rừng khi có gió nhẹ
thì các vật trong ngoài đều khua động với nhau, phát sanh các thứ âm thanh vi
diệu. Trong âm thanh phát ra tất cả pháp âm đều vô tự tánh. Vì vô tự tánh cho
nên Không. Vì Không nên vô tướng. Vì vô tướng nên vô nguyện. Vì vô nguyện nên
vô sanh. Vì vô sanh nên vô diệt. Do vậy, các pháp bản tánh vắng lặng, tự tánh
Niết bàn. Dù Như Lai có ra đời hay không ra đời thì pháp tánh, pháp nhĩ, các
pháp vẫn thường trụ, nghĩa là tất cả pháp vô tánh đều Không. Các loài hữu tình
trong cõi Phật kia, dù là ngày hay đêm, lúc đi đứng, lúc nằm ngồi vẫn thường
nghe âm thanh vi diệu như vậy.
Thiện Hiện nên biết! Chúng đại Bồ
tát này đều trụ vào cõi Phật nghiêm tịnh đang ở. Khi chứng đắc quả vị Vô Thượng
Chánh Đẳng Bồ đề, chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác khắp mười phương đều đồng
khen ngợi danh hiệu của từng vị Phật kia. Các hữu tình nào được nghe danh hiệu
của các vị Phật ấy thì đối với quả vị Vô thượng Bồ đề không hề thối chuyển.
Chúng Đại Bồ tát này đều trụ vào cõi
Phật nghiêm tịnh đang ở. Khi chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, vì
các hữu tình mà giảng thuyết Chánh pháp. Các hữu tình nghe rồi nhất định không
còn sanh nghi ngờ là pháp hay phi pháp Vì sao? Vì các loài hữu tình kia đạt
được tất cả pháp, đều tức là chơn như, pháp giới, pháp tánh, tất cả là pháp,
không phải phi pháp.
Như vậy, này Thiện Hiện! Chúng đại
Bồ tát này đều có thể nghiêm tịnh được cõi Phật như vậy.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Chúng đại
Bồ tát này giáo hóa hữu tình chưa đủ các thiện căn, chưa trồng nhiều thiện căn
đối với chư Phật, Bồ tát, Độc giác và Thanh văn, nên bị ác tri thức khuyến dụ.
Vì xa lìa bạn lành nên không nghe Chánh pháp, thường bị các kiến chấp về ngã,
hữu tình và bị thu nhiếp trong các kiến thú, rơi vào nhị biên là đoạn và
thường.
Các loài hữu tình ấy tự mình phát
sanh tà chấp, cũng thường dạy người khác phát sanh tà chấp. Đối với chẳng phải
Tam bảo mà tưởng là Tam bảo, đối với Tam bảo cho là không Tam bảo. Phỉ báng
Chánh Pháp, khen ngợi tà pháp. Do nhân duyên này, sau khi qua đời đọa vào ba
đường ác, chịu nhiều sự khổ. (Q.536, ĐBN)
Chúng đại Bồ tát này an trụ vào thế
giới của mình, chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, thấy các hữu tình
luân hồi trong sanh tử, chịu vô lượng sự khổ, nên dùng sức thần thông phương
tiện giáo hóa làm cho chúng xả bỏ tà kiến, trụ trong chánh kiến, ra khỏi ác
thú, sanh vào nhơn đạo. Lại dùng các thứ thần thông phương tiện giáo hóa làm
cho chúng an trụ trong chánh định, hoàn toàn không bị đọa vào các đường ác, tu
tập căn lành thù thắng, sau khi qua đời được sanh vào cõi Phật nghiêm tịnh,
hưởng thọ pháp lạc Đại thừa nơi cõi tịnh.
Như vậy, này Thiện Hiện! Chúng đại
Bồ tát này đều có thể nghiêm tịnh được cõi Phật như vậy. Nhờ chỗ ở được nghiêm
tịnh nên các loài hữu tình kia đối với tất cả pháp không sanh hư vọng phân
biệt, nghi ngờ, nói đây là pháp thiện, đây là pháp phi thiện; đây là pháp hữu
ký, đây là pháp vô ký; đây là pháp thế gian, đây là pháp xuất thế gian; đây là
pháp hữu lậu, đây là pháp vô lậu; đây là pháp hữu vi, đây là pháp vô vi v.v…
Các sự phân biệt, nghi ngờ như vậy hoàn toàn không sanh. Do nhân duyên này,
loài hữu tình kia nhất định chứng được quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề,
chuyển pháp luân vi diệu, độ thoát các hữu tình.
Thiện Hiện nên biết! Đây là tướng
công đức nghiêm tịnh cõi Phật, đại Bồ tát làm lợi ích an vui cho tất cả hữu
tình.
Sơ giải:
Phẩm “Phật
Quốc” của Hội thứ III này tương đối ngắn dễ hiểu, lại tương đương với phẩm “Đạo
Sĩ” của Hội thứ II hay phẩm “Nghiêm Tịnh Cõi Phật”của Hội thứ I, Quý vị có thể
quay lại đọc tụng nếu muốn.
---o0o---