PHẨM “CHẲNG HÒA HỢP”
Cuối quyển 440 cho đến đầu quyển 441, Hội thứ II, ĐBN.
(Tương đương với phần sau phẩm “Ma Sự”, tức cuối quyển
303 cho đến
đầu quyển 304, Hội thứ I, ĐBN)
Tóm
lược:
Lại nữa, Thiện Hiện! Người học pháp thì ưa thích lắng nghe,
ghi chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát Nhã thậm thâm. Còn người trì pháp(1)
thì tham đắm hỷ lạc, tiêu cực không chịu nói, không muốn trao truyền Bát Nhã
thậm thâm. Nên biết đây là ma sự của Bồ tát. Trái lại, Thiện Hiện! Người trì
pháp, tâm không tham đắm hỷ lạc, cũng không tiêu cực, muốn nói, muốn trao
truyền Bát Nhã thậm thâm, và dùng phương tiện khuyên gắng thọ trì, đọc tụng, tu
tập. Còn người học pháp thì tiêu cực, tham đắm hỷ lạc, không muốn nghe thọ. Nên
biết đây là ma sự của Bồ tát.
Lại nữa, Thiện Hiện! Người học pháp thì ưa thích lắng nghe,
ghi chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát Nhã. Còn người trì pháp thì muốn đến
những nơi nào không có dạy, không có trao Bát Nhã. Nên biết đây là ma sự của Bồ
tát. Trái lại, Thiện Hiện! Người trì pháp thì muốn thuyết, muốn trao Bát Nhã
thậm thâm, dùng phương tiện khuyên gắng ghi chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập.
Còn người học pháp thì muốn đến những nơi nào mà không phải nghe, phải học Bát
Nhã. Nên biết đây là ma sự của Bồ tát.
Lại nữa, Thiện Hiện! Người trì pháp thì đầy đủ ác dục, ưa
chuộng danh lợi, muốn được cung kính cúng dường y phục, thức ăn nước uống,
giường chõng, thuốc men và các của cải khác với tâm không nhàm chán. Còn người
học pháp thì ít muốn, vui đủ, tu hạnh viễn ly, dõng mãnh tinh tấn, đầy đủ niệm,
định, tuệ, chán lợi dưỡng, sợ cung kính, danh dự. Hai bên không hòa hợp, nên
không được dạy trao, nghe thọ, ghi chép, đọc tụng, tu tập Bát Nhã thậm thâm.
Nên biết đây là ma sự của Bồ tát. Trái lại, Thiện Hiện! Người trì pháp thì ít
muốn, vui đủ, tu hạnh viễn ly, dõng mãnh tinh tấn, đầy đủ niệm, định, tuệ, chán
lợi dưỡng, sợ cung kính, danh dự. Còn người học pháp thì đầy đủ ác dục, ưa
chuộng danh lợi, thích được cung kính cúng dường v.v... Hai bên không hòa hợp,
nên không được dạy trao, nghe, thọ, ghi chép, đọc tụng, tu tập Bát Nhã. Nên
biết đây là ma sự của Bồ tát.
Lại nữa, Thiện Hiện! Người trì pháp thì đầy đủ mười hai công
đức Đỗ đa (khổ hạnh hay hạnh đầu đà), đó là: Ở chỗ thanh vắng, thường
khất thực, mặc y phấn tảo, nhận một bữa ăn, ăn một lần, ăn những gì xin được, ở
bãi tha ma, ở nơi đồng trống, ở dưới gốc cây, thường ngồi không nằm, nghỉ đâu
cũng được, chỉ giữ ba y; còn người học pháp thì không thọ mười hai công đức Đỗ
đa. Hai bên không hòa hợp, nên không được dạy trao, nghe, thọ, ghi chép, đọc
tụng, tu tập Bát Nhã. Nên biết đây là ma sự của Bồ tát. Trái lại, Thiện Hiện!
Người học pháp thì đầy đủ mười hai công đức Đỗ đa; còn người trì pháp thì không. Hai bên
không hòa hợp, nên không được dạy trao, nghe, thọ, ghi chép, đọc tụng, tu tập Bát
Nhã. Nên biết đây là ma sự của Bồ tát.
Lại nữa, Thiện Hiện! Người trì pháp thì có lòng tin, có thiện
pháp, muốn vì người khác nói Bát Nhã thậm thâm, dùng phương tiện khuyên gắng
ghi chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập; còn người học pháp thì không có lòng tin,
không có thiện pháp, không muốn lắng nghe, thọ trì. Hai bên không hòa hợp, nên
không được dạy trao, nghe, thọ, ghi chép, đọc tụng, tu tập Bát Nhã. Nên biết
đây là ma sự của Bồ tát. Trái lại, Thiện Hiện! Người học pháp thì có lòng tin,
có thiện pháp, cầu muốn lắng nghe, ghi chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát Nhã.
Còn người trì pháp thì không có lòng tin, không có thiện pháp, không muốn dạy
trao. Hai bên không hòa hợp, nên không được dạy trao, nghe, thọ, ghi chép, đọc
tụng, tu tập Bát Nhã. Nên biết đây là ma sự của Bồ tát.
Lại nữa, Thiện Hiện! Người trì pháp thì tâm không keo kiệt,
thường bố thí tất cả; còn người học pháp thì tâm keo kiệt, không bố thí gì cả.
Hai bên không hòa hợp, nên không được dạy trao, nghe, thọ, ghi chép, đọc tụng,
tu tập Bát nhã Ba la mật thậm thâm. Nên biết đây là ma sự của Bồ tát. Trái lại,
Thiện Hiện! Người học pháp thì tâm không keo kiệt, thường bố thí tất cả; còn
người trì pháp thì tâm keo kiệt, không bố thí gì cả. Hai bên không hòa hợp, nên
không được dạy trao, nghe, thọ, ghi chép, đọc tụng, tu tập Bát Nhã. Nên biết
đây là ma sự của Bồ tát.
Lại nữa, Thiện Hiện! Người học pháp thì mong muốn cúng dường
cho người trì pháp y phục, thức ăn nước uống, giường chõng, thuốc men và các
thứ của cải khác. Nhưng người trì pháp thì không muốn thọ dụng. Hai bên không
hòa hợp, nên không được dạy trao, nghe, thọ, ghi chép, đọc tụng, tu tập Bát Nhã
thậm thâm. Nên biết đây là ma sự của Bồ tát. Trái lại, Thiện Hiện! Người trì
pháp thì mong muốn cung cấp cho người học pháp y phục, thức ăn nước uống v.v...
Nhưng người học pháp thì không muốn thọ dụng. Hai bên không hòa hợp, nên không
được dạy trao, nghe, thọ, ghi chép, đọc tụng, tu tập Bát Nhã. Nên biết đây là
ma sự của Bồ tát.
Lại nữa, Thiện Hiện! Người trì pháp thì thành tựu khai trí,
nhưng không muốn nói rộng; còn người học pháp thì thành tựu diễn trí không muốn
nói lược. Hai bên không hòa hợp, nên không được dạy trao, nghe, thọ, ghi chép,
đọc tụng, tu tập Bát nhã Ba la mật thậm thâm. Nên biết đây là ma sự của Bồ tát.
Trái lại, Thiện Hiện! Người học pháp thì thành tựu khai trí, chỉ muốn nói tóm
lược; còn người trì pháp thì thành tựu diễn trí chỉ muốn nói rộng. Hai bên
không hòa hợp, nên không được dạy trao, nghe, thọ, ghi chép, đọc tụng, tu tập Bát
Nhã. Nên biết đây là ma sự của Bồ tát.
Lại nữa, Thiện Hiện! Người trì pháp thì muốn hiểu biết rộng
rãi về ý nghĩa mười hai phần giáo theo tuần tự, đó là: Khế Kinh, Ứng tụng, Biệt
ký, Phúng tụng, Tự thuyết, Nhân duyên, Bổn sự, Bổn sanh, Phương quảng, Hy pháp,
Thí dụ, Nghị luận; còn người học pháp thì không muốn hiểu biết rộng rãi về ý
nghĩa mười hai phần giáo theo tuần tự. Hai bên không hòa hợp, nên không được
dạy trao, nghe, thọ, ghi chép, đọc tụng, tu tập Bát Nhã thậm thâm. Nên biết đây
là ma sự của Bồ tát. Trái lại, Thiện Hiện! Người học pháp thì muốn hiểu biết
rộng rãi về ý nghĩa mười hai phần giáo theo tuần tự; còn người trì pháp thì
không muốn hiểu biết rộng rãi mười hai phần giáo theo tuần tự. Hai bên không
hòa hợp, nên không được dạy trao, đọc tụng, tu tập… Bát Nhã. Nên biết đây là ma
sự của Bồ tát.
Lại nữa, Thiện Hiện! Người trì pháp thì thành tựu bố thí,
tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật; còn người học pháp
thì không thành tựu bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Hai bên không hòa hợp,
nên không được dạy trao, đọc tụng, tu tập… Bát nhã Ba la mật thậm thâm. Nên
biết đây là ma sự của Bồ tát. Trái lại, Thiện Hiện! Người học pháp thì thành
tựu bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật; còn người trì pháp thì không thành tựu bố
thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Hai bên không hòa hợp, nên không được dạy trao,
đọc tụng, tu tập… Bát Nhã. Nên biết đây là ma sự của Bồ tát.
Lại nữa, Thiện Hiện! Người trì pháp thì có phương tiện thiện
xảo đối với sáu pháp Ba la mật; còn người học pháp thì không có phương tiện
thiện xảo đối với sáu pháp Ba la mật. Hai bên không hòa hợp, nên không được dạy
trao, đọc tụng, tu tập… Bát nhã Ba la mật thậm thâm. Nên biết đây là ma sự của
Bồ tát. Trái lại, Thiện Hiện! Người học pháp thì có phương tiện thiện xảo đối
với sáu pháp Ba la mật; còn người trì pháp thì không có phương tiện thiện xảo
đối với sáu pháp Ba la mật. Hai bên không hòa hợp, nên không được dạy trao, đọc
tụng, tu tập… Bát Nhã. Nên biết đây là ma sự của Bồ tát.
Lại nữa, Thiện Hiện! Người trì pháp thì muốn cung kính, ghi
chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát Nhã thậm thâm. Còn người học pháp thì không
muốn cung kính, ghi chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát Nhã thậm thâm. Hai bên
không hòa hợp, nên không được dạy trao, nghe, thọ, ghi chép, đọc tụng, tu tập… Bát
Nhã thậm thâm. Nên biết đây là ma sự của Bồ tát. Trái lại, Thiện Hiện! Người học
pháp thì muốn cung kính, ghi chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát Nhã thậm thâm.
Còn người trì pháp thì không muốn cung kính, ghi chép, thọ trì, đọc tụng, tu
tập… Bát Nhã thậm thâm. Hai bên không hòa hợp, nên không được dạy trao, đọc
tụng, tu tập… Bát Nhã thậm thâm. Nên biết đây là ma sự của Bồ tát.
Lại nữa, Thiện Hiện! Người trì pháp thì đã lìa trần cấu keo
kiệt, đã lìa các triền cái tham dục, sân nhuế, hôn trầm, ngủ nghỉ, dao động, ác
tác (hối hận), nghi ngờ; còn người học pháp thì chưa lìa nổi các tật đố trên. Hai bên không hòa
hợp, nên không được dạy trao, đọc tụng, tu tập… Bát nhã Ba la mật thậm thâm.
Nên biết đây là ma sự của Bồ tát. Trái lại, Thiện Hiện! Người học pháp thì đã
lìa các tật đố ác nghiệp trên; còn người trì pháp thì chưa lìa trần cấu keo
kiệt. Hai bên không hòa hợp, nên không được dạy trao, đọc tụng, tu tập… Bát Nhã.
Nên biết đây là ma sự của Bồ tát.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có các thiện nam, thiện nữ trụ Bồ tát
thừa, khi ghi chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, diễn nói Kinh Bát Nhã
thậm thâm như thế. Có người đến nói các sự khổ trong địa ngục, bàng sanh, ngạ
quỷ, và nói: Ngay thân này, ông hãy tinh tấn diệt hết khổ để được vào Niết bàn,
cần gì phải ở mãi trong biển lớn sanh tử, chịu trăm ngàn sự khổ khó kham nổi để
mong cầu đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề! Các thiện nam, thiện nữ này, nếu do
lời kia mà đối với việc ghi chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, diễn nói Bát
Nhã thậm thâm không được rốt ráo, thì nên biết đây là ma sự của Bồ tát. (Q. 440, ĐBN)
Lại nữa, Thiện Hiện! Các thiện nam, thiện nữ… trụ Bồ tát
thừa, khi ghi chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, diễn nói Kinh điển Bát
Nhã thậm thâm như thế, có người đến khen ngợi nhiều việc tốt đẹp trong loài
người, khen ngợi các việc thắng diệu của chúng trời Tứ đại vương cho đến trời Tha
hóa tự tại; khen ngợi các việc thắng diệu của trời Phạm chúng cho đến trời Sắc
cứu cánh; khen ngợi các việc thắng diệu trời Không vô biên xứ cho đến trời Phi
tưởng phi phi tưởng xứ, nhân đó mà nói rằng: “Tuy hưởng các dục lạc ở cõi Dục,
thọ các hỷ lạc tịnh lự ở cõi Sắc, thọ các diệu lạc tịch tịnh, đẳng chí (định)
ở cõi Vô sắc, nhưng tất cả những thứ đó đều là pháp hữu vi, vô thường, khổ,
không, vô ngã, bất tịnh, biến hoại, pháp tận cùng, pháp rơi rụng, pháp xa lìa,
pháp tiêu diệt. Sao các vị không nương thân này tinh tấn để chứng quả Dự lưu,
hoặc quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, hoặc Độc giác Bồ đề nhập Niết bàn rốt
ráo an vui? Cần gì ở lâu trong sanh tử luân hồi, vô cớ vì người khác chịu các thống khổ để mong cầu đến Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề”. Nếu các thiện nam, thiện nữ… này nghe theo lời ấy thì
cho dù ghi chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, diễn nói Kinh Bát nhã Ba la
mật thậm thâm cũng không được rốt ráo. Nên biết đây là ma sự của Bồ tát.
Lại nữa, Thiện Hiện! Người trì pháp thân không ràng buộc, chỉ
chuyên chăm lo sự nghiệp riêng mình, không lo sự nghiệp người khác; còn người
học pháp thì ưa lãnh đồ chúng, thích làm doanh nghiệp cho người, không lo sự
nghiệp mình. Hai bên không hòa hợp, nên không được dạy trao, đọc tụng, tu tập… Bát
nhã Ba la mật thậm thâm. Nên biết đây là ma sự của Bồ tát. Trái lại, Thiện
Hiện! Người học pháp thân không ràng buộc, chỉ chuyên chăm lo sự nghiệp riêng
mình, không lo sự nghiệp người khác; còn người trì pháp thì ưa lãnh đồ chúng,
thích làm doanh nghiệp cho người, không lo sự nghiệp mình. Hai bên không hòa
hợp, nên không được dạy trao, đọc tụng, tu tập… Bát Nhã. Nên biết đây là ma sự
của Bồ tát.
Lại nữa, Thiện Hiện! Người trì pháp không thích ồn ào; còn
người học pháp thì thích nơi ồn ào. Hai bên không hòa hợp, nên không được dạy
trao, đọc tụng, tu tập… Bát nhã Ba la mật thậm thâm. Nên biết đây là ma sự của
Bồ tát. Trái lại, Thiện Hiện! Người học pháp không thích ồn ào; còn người trì
pháp thì thích nơi ồn ào. Hai bên không hòa hợp, nên không được dạy trao, đọc
tụng, tu tập Bát Nhã. Nên biết đây là ma sự của Bồ tát.
Lại nữa, Thiện Hiện! Người trì pháp muốn người học pháp hỗ
trợ việc làm của mình; còn người học pháp thì không muốn theo ý thích của người
kia. Hai bên không hòa hợp, nên không được dạy trao, đọc tụng, tu tập… Bát nhã
Ba la mật thậm thâm. Nên biết đây là ma sự của Bồ tát. Trái lại, Thiện Hiện!
Người học pháp muốn người trì pháp hỗ trợ việc làm của mình; còn người trì pháp
thì không muốn theo ý thích của người kia. Hai bên không hòa hợp, nên không
được dạy trao, đọc tụng, tu tập… Bát Nhã. Nên biết đây là ma sự của Bồ tát.
Lại nữa, Thiện Hiện! Người trì pháp vì danh lợi nên muốn vì
mọi người thuyết Bát Nhã thậm thâm; còn người học pháp biết hậu ý của người trì
pháp nên không muốn theo. Hai bên không hòa hợp, nên không được dạy trao, đọc
tụng, tu tập Bát Nhã được. Nên biết đây là ma sự của Bồ tát. Trái lại, Thiện
Hiện! Người học pháp vì danh lợi nên muốn thỉnh người trì pháp thuyết Bát Nhã
thậm thâm. Nhưng người trì pháp biết thâm ý của người học pháp nên không chấp
nhận lời thỉnh cầu. Hai bên không hòa hợp, nên không được dạy trao, đọc tụng,
tu tập Bát Nhã. Nên biết đây là ma sự của Bồ tát.
Lại nữa, Thiện Hiện! Người trì pháp muốn đến nơi khác, chỗ đó
nguy hiểm đến thân mạng; còn người học pháp thì sợ mất thân mạng nên không muốn
đi theo. Hai bên không hòa hợp, nên không được dạy trao, đọc tụng, tu tập… Bát
Nhã thậm thâm. Nên biết đây là ma sự của Bồ tát. Trái lại, Thiện Hiện! Người
học pháp muốn đến nơi khác, chỗ đó nguy hiểm đến thân mạng; còn người trì pháp
thì sợ mất thân mạng nên không muốn đi theo. Hai bên không hòa hợp, nên không
được dạy trao, đọc tụng, tu tập… Bát Nhã. Nên biết đây là ma sự của Bồ tát.
Lại nữa, Thiện Hiện! Người trì pháp muốn đến nơi khác, ở nước
ấy có nhiều giặc cướp, bệnh dịch đói khát; còn người học pháp thì sợ khó khăn
đó nên không chịu đi theo. Hai bên không hòa hợp, nên không được dạy trao đọc
tụng, tu tập… Bát nhã Ba la mật thậm thâm. Nên biết đây là ma sự của Bồ tát.
Trái lại, Thiện Hiện! Người học pháp muốn đến nơi khác, ở nước ấy có nhiều giặc
cướp, bệnh dịch, đói khát; còn người trì pháp thì sợ khó khăn đó nên không chịu
cùng đi. Hai bên không hòa hợp, nên không được dạy trao, đọc tụng, tu tập… Bát
Nhã. Nên biết đây là ma sự của Bồ tát.
Lại nữa, Thiện Hiện! Người trì pháp muốn đến nơi khác yên ổn,
giàu vui, không tai hoạnh; còn người học pháp muốn đi theo, người trì pháp dùng
phương tiện thử: “Tuy ông vì lợi muốn đi theo tôi nhưng ông đến đó đâu chắc vừa
lòng, nên suy nghĩ kỹ, sau chớ hối hận”. Người học pháp nghe rồi nghĩ: Người kia
không muốn cho ta cùng đi, nếu cố đi theo đâu chắc được nghe pháp. Do đó không
đi theo. Hai bên không hòa hợp, nên không được dạy trao, đọc tụng, tu tập… Bát
nhã Ba la mật thậm thâm. Nên biết đây là ma sự của Bồ tát.
Thiện Hiện! Người trì pháp muốn đến nơi khác phải trải qua
đường sá, đồng trống hiểm trở, có nhiều giặc cướp và chiên đà la, ác thú, thợ
săn, rắn độc v.v... khủng bố. Người học pháp muốn đi theo người trì pháp dùng
phương tiện thử: “Nay ông không việc gì mà phải theo tôi đi qua các chỗ hiểm nạn
như thế, hãy suy nghĩ kỹ, sau chớ hối hận”. Người học pháp nghe rồi nghĩ: Người
kia không muốn cho ta đi theo, nếu cố đi theo đâu chắc được nghe pháp. Do đó
không đi theo. Hai bên không hòa hợp, nên không được dạy trao, đọc tụng, tu
tập… Bát nhã Ba la mật thậm thâm. Nên biết đây là ma sự của Bồ tát.
Lại nữa, Thiện Hiện! Người trì pháp có nhiều thí chủ thường
đi theo; người học pháp đến thỉnh người trì pháp thuyết Bát nhã Ba la mật thậm
thâm, hoặc thỉnh ghi chép, thọ trì, đọc tụng để tu học đúng pháp, người trì
pháp viện nhiều lý do không rảnh dạy trao; người học pháp sanh tâm hờn ghét,
sau dù có dạy trao cũng không nghe. Hai bên không hòa hợp, nên không được dạy
trao, đọc tụng, tu tập… Bát Nhã. Nên biết đây là ma sự của Bồ tát.
(Ác ma huyễn dụ hay
khuynh đảo nên việc tu tập Bát Nhã không được trọn vẹn)
Lại nữa, Thiện Hiện! Có các ác ma giả dạng Bí sô đến chỗ
Bồ tát, tìm cách phá hoại làm cho Bồ tát không thể ghi chép, thọ trì, đọc
tụng, tu tập, tư duy, vì người diễn nói Bát nhã Ba la mật.
Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật:
- Bạch Thế Tôn! Bằng cách nào ác ma giả dạng Bí sô đến chỗ Bồ
tát, tìm cách phá hoại làm cho không được ghi chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập,
tư duy, vì người diễn nói Bát nhã Ba la mật?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Có các ác ma giả dạng Bí sô đến chỗ Bồ tát,
tìm cách phá hoại làm cho Bồ tát nhàm chán Bát nhã Ba la mật, không ghi chép,
thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, vì người diễn nói. Ác ma còn nói: “Kinh điển
vô tướng mà ông đã đọc tụng, tu tập chẳng phải là Bát nhã Ba la mật chơn thật;
còn Kinh điển hữu tướng mà ta đã đọc tụng, tu tập mới đúng là Bát nhã Ba la mật”.
Khi ác ma nói lời này, các Bồ tát chưa được thọ ký liền sanh nghi ngờ đối với Bát
Nhã. Do nghi ngờ nên người ấy sanh nhàm chán Bát Nhã. Do nhàm chán nên không
ghi chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, vì người diễn nói Bát Nhã. Nên
biết đây là ma sự của Bồ tát.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có các ác ma giả dạng Bí sô đến chỗ Bồ
tát nói: “Bồ tát nào hành Bát Nhã này thì chỉ chứng thật tế, đắc quả Dự lưu,
hoặc quả Nhất lai, hoặc Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề, quyết chắc không
thể chứng Phật quả Vô thượng, cần gì phải chịu nhọc nhằn đối với việc tu tập
kia, chỉ uổng công mà thôi”. Bồ tát nghe rồi bèn chẳng ghi chép, thọ trì, đọc
tụng, tu tập, tư duy, vì người diễn nói Bát Nhã. Nên biết đây là ma sự của Bồ
tát.
Lại nữa, Thiện Hiện! Khi ghi chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập,
tư duy, diễn nói Kinh điển Bát Nhã thậm thâm như thế, có nhiều ác ma làm trở
ngại, ngăn cản sự mong cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Các Đại Bồ tát nên quán
sát kỹ mà tự xa lìa.
Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật:
- Bạch Thế Tôn! Những gì gọi là ma sự gây trở ngại để
cho các Bồ tát biết rõ mà tự xa lìa?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Các thiện nam, thiện nữ… trụ Bồ tát thừa,
khi ghi chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, diễn nói Kinh Bát Nhã thậm
thâm như thế, có nhiều pháp môn trông tương tự như pháp Phật nhưng thật ra gây
nhiều trở ngại. Trong đó Bồ tát nên quán sát kỹ mà xa lìa.
Lại nữa, Thiện Hiện! Các thiện nam, thiện nữ trụ Bồ tát thừa,
khi ghi chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, diễn nói Bát Nhã thậm thâm như
thế, có người đem Kinh điển tương ưng Nhị thừa đến chỗ Bồ tát nói: “Đây là lời
chơn thật mà Như Lai đã nói: Người nào học pháp này sẽ mau chứng Vô Thượng
Chánh Đẳng Bồ đề”. Như vậy, cũng gọi là ma sự gây trở ngại. Bồ tát nên quán sát
kỹ mà xa lìa.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có các ác ma giả dạng Bí sô đến chỗ Bồ
tát nói việc học, việc hành pháp nội không, ngoại không v.v...hoặc ba mươi bảy
pháp trợ đạo, hoặc ba môn giải thoát v.v... của Nhị thừa. Ác ma nói pháp ấy rồi
lại bảo Bồ tát: “Đại sĩ nên biết, ông hãy nương pháp này mà tinh tấn tu học sẽ
chứng quả Dự lưu, hoặc quả Nhất lai, hoặc Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề,
sẽ được xa lìa tất cả sanh, lão, bệnh, tử, cần gì chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ
đề”. Do đó làm cho Bồ tát không ghi chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, vì
người diễn nói Bát Nhã. Nên biết đây là ma sự của Bồ tát.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có các ác ma giả dạng Bí sô dung mạo
đoan nghiêm, uy nghi, thư thả, đến chỗ Bồ tát. Bồ tát thấy liền sanh lòng ưa
mến. Do đó nên giảm mất Nhất thiết tướng trí, không được nghe, ghi chép, thọ
trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, diễn nói Bát Nhã. Nên biết đây là ma sự của Bồ
tát.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có các ác ma giả tướng Phật, thân màu
vàng ròng, tỏa ánh sáng một tầm, đủ ba mươi hai tướng đại trượng phu, tám mươi
vẻ đẹp trang nghiêm viên mãn, đến chỗ Bồ tát. Bồ tát thấy liền sanh lòng ưa
mến. Do đó nên giảm mất Nhất thiết tướng trí , không được lắng nghe, ghi chép,
thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, diễn nói Bát Nhã. Nên biết đây là ma sự của
Bồ tát.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có các ác ma giả tướng Phật, tuyên
thuyết pháp yếu cho các Bí sô vây quanh. Bồ tát thấy liền sanh lòng ưa mến, và
nghĩ: Ta nguyện đời sau sẽ thành Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, tuyên thuyết pháp
yếu cho các Bí sô, giống như sự việc được thấy hôm nay. Do đó nên giảm mất Nhất
thiết tướng trí, không được lắng nghe, ghi chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư
duy, diễn nói Bát Nhã. Nên biết đây là ma sự của Bồ tát.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có các ác ma giả dạng Đại Bồ tát hoặc
trăm, hoặc ngàn cho đến vô số, đầy đủ vô ngại biện tài, tướng hảo trang nghiêm.
Từ thân ấy biến hóa thành Phật thuyết pháp, dạy chúng Đại Bồ tát tu bố thí cho
đến Bát nhã Ba la mật. Hiện tướng như vậy rồi đến chỗ Bồ tát. Bồ tát thấy liền
sanh lòng ưa mến. Do đó giảm mất Nhất thiết tướng trí, không được lắng nghe ghi
chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, diễn nói Bát Nhã. Nên biết đây là ma
sự của Bồ tát. Vì sao? Vì trong pháp Bát Nhã thậm thâm như thế, sắc vô sở hữu,
bất khả đắc; thọ, tưởng, hành, thức cũng vô sở hữu, bất khả đắc. Mười hai xứ, mười tám giới vô sở
hữu, bất khả đắc. Nhãn xúc vô sở hữu, bất khả đắc; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc
cũng vô sở hữu, bất khả đắc. Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra vô sở hữu,
bất khả đắc; các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra cũng vô
sở hữu, bất khả đắc. Địa giới vô sở hữu, bất khả đắc; thủy, hỏa, phong, không,
thức giới cũng vô sở hữu, bất khả đắc. Vô minh vô sở hữu, bất khả đắc; hành,
thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ,
ưu, não cũng vô sở hữu, bất khả đắc. Cõi Dục vô sở hữu, bất khả đắc; cõi Sắc,
Vô sắc cũng vô sở hữu, bất khả đắc. Quá khứ vô sở hữu, bất khả đắc; vị lai,
hiện tại cũng vô sở hữu, bất khả đắc. Pháp hữu lậu vô sở hữu, bất khả đắc; pháp
vô lậu cũng vô sở hữu, bất khả đắc. Pháp hữu vi vô sở hữu, bất khả đắc; pháp vô
vi cũng vô sở hữu, bất khả đắc. Pháp thế gian vô sở hữu, bất khả đắc; pháp xuất
thế gian cũng vô sở hữu, bất khả đắc. Bố thí vô sở hữu, bất khả đắc; tịnh giới,
an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật cũng vô sở hữu, bất khả đắc. Pháp
nội không cho đến vô tánh tự tánh không cũng vô sở hữu, bất khả đắc. Chơn như
vô sở hữu, bất khả đắc; pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng
đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới
hư không, cảnh giới bất tư nghì cũng vô sở hữu, bất khả đắc. Thánh đế khổ vô sở
hữu, bất khả đắc; Thánh đế tập, diệt, đạo cũng vô sở hữu, bất khả đắc. Bốn tịnh
lự vô sở hữu, bất khả đắc; bốn vô lượng, bốn định vô sắc cũng vô sở hữu, bất
khả đắc. Tám giải thoát vô sở hữu, bất khả đắc; tám thắng xứ, chín định thứ đệ,
mười biến xứ cũng vô sở hữu, bất khả đắc. Bốn niệm trụ vô sở hữu, bất khả đắc;
bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi
Thánh đạo cũng vô sở hữu, bất khả đắc. Pháp môn giải thoát không vô sở hữu, bất
khả đắc; pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện cũng vô sở hữu, bất khả đắc.
Tịnh quán địa vô sở hữu, bất khả đắc; Chủng tánh địa, Đệ bát địa, Cụ kiến địa, Bạc
địa, Ly dục địa, Dĩ biện địa, Độc giác địa, Bồ tát địa, Như Lai địa cũng vô sở
hữu, bất khả đắc. Cực hỷ địa vô sở hữu, bất khả đắc; Ly cấu địa, Phát quang
địa, Diệm tuệ địa, Cực nan thắng địa, Hiện tiền địa, Viễn hành địa, Bất động
địa, Thiện tuệ địa, Pháp vân địa cũng vô sở hữu, bất khả đắc. Năm loại mắt vô
sở hữu, bất khả đắc; sáu phép thần thông cũng vô sở hữu, bất khả đắc. Phật mười
lực vô sở hữu, bất khả đắc; bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại
từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng cũng vô sở hữu, bất khả
đắc. Ba mươi hai tướng Đại trượng phu vô sở hữu, bất khả đắc; tám mươi vẻ đẹp
cũng vô sở hữu, bất khả đắc. Pháp không quên mất vô sở hữu, bất khả đắc; tánh
luôn luôn xả cũng vô sở hữu, bất khả đắc. Nhất thiết trí vô sở hữu, bất khả
đắc; Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí cũng vô sở hữu, bất khả đắc. Thành
thục hữu tình vô sở hữu, bất khả đắc; nghiêm tịnh cõi Phật cũng vô sở hữu, bất
khả đắc. Đại nguyện Bồ tát vô sở hữu, bất khả đắc; thần thông Bồ tát cũng vô sở
hữu, bất khả đắc. Tất cả môn Đà la ni vô sở hữu, bất khả đắc; tất cả môn Tam ma
địa cũng vô sở hữu, bất khả đắc. Quả Dự lưu vô sở hữu, bất khả đắc; quả Nhất
lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề cũng vô sở hữu, bất khả đắc. Tất cả Bồ
tát hạnh vô sở hữu, bất khả đắc; chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề cũng vô sở
hữu, bất khả đắc.
Này Thiện Hiện! Nếu ở đây sắc vô sở hữu, bất khả đắc; thọ,
tưởng, hành, thức cũng vô sở hữu, bất khả đắc. Như vậy, cho đến tất cả Bồ tát
hạnh vô sở hữu, bất khả đắc. Chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề cũng vô sở
hữu, bất khả đắc, thì ở ngay đây tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và các
chúng Đại Bồ tát, Độc giác, Thanh văn, các loại Dị sanh cũng vô sở hữu, bất khả
đắc. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tự tánh của tất cả pháp là không. (Q. 441,
ĐBN)
Lại nữa, Thiện Hiện! Các thiện nam, thiện nữ trụ Bồ tát thừa,
khi ghi chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, diễn nói Kinh Bát Nhã thậm
thâm như thế, có nhiều trở ngại và tai hoạnh phát sanh khiến cho người phước
mỏng học tập không thành tựu. Như châu Thiệm bộ có nhiều châu báu là phệ lưu ly
(loại đá quí sắc xanh), loa bối (ốc quí), ngọc bích, san hô, mạt
ni(ngọc ma ni), Đế thanh (ngọc xanh Đế Thích), kim cương, hổ
phách, vàng, bạc v.v... nhưng có nhiều nạn giặc cướp nhiễu hại, nên những người
phước mỏng cầu không thể được. Châu báu vô giá Bát Nhã thậm thâm cũng như vậy.
Các thiện nam, thiện nữ trụ Bồ tát thừa, khi ghi chép, thọ trì, đọc tụng, tu
tập, tư duy, diễn nói Kinh Bát Nhã thậm thâm như thế, nếu người phước mỏng thì
sẽ gặp nhiều chướng ngại, có các ác ma gây trở ngại.
Cụ thọ Thiện Hiện liền thưa Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đúng vậy! Bạch Thiện Thệ! Đúng vậy! Các bảo
châu không phải ai cũng có thể có được. Bát Nhã thậm thâm cũng như các bảo
châu, các thiện nam, thiện nữ v.v… trụ Bồ tát thừa, khi ghi chép, thọ trì, đọc
tụng, tu tập, tư duy, diễn nói Kinh Bát nhã Ba la mật như thế, nếu người nào
phước mỏng thì sẽ gặp nhiều trở ngại. Vì sao? Vì người ngu si bị ma sai sử,
không thể ghi chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, diễn nói Kinh Bát nhã Ba
la mật được, sẽ bị nhiều trở ngại.
Bạch Thế Tôn! Người ngu si ấy tuệ giác lu mờ, không thể nghĩ
bàn Phật pháp sâu rộng, đối với Kinh điển Bát Nhã thậm thâm tự mình không thể
ghi chép, thọ trì, đọc tụng v.v... Lại muốn ngăn chận người khác ghi chép, thọ
trì, đọc tụng v.v… Bát Nhã.
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói! Người ngu si sẽ
bị ma sai xử! Các thiện nam, thiện nữ… trụ Bồ tát thừa, khi ghi chép, thọ trì,
đọc tụng v.v… Bát nhã Ba la mật sẽ gặp trở ngại.
Này Thiện Hiện! Người ngu si kia tuệ giác lu mờ, không thể
nghĩ bàn Phật pháp sâu rộng, vì chưa trồng thiện căn, chưa phát nguyện rộng
lớn, bị bạn ác khống chế, phước đức mỏng nên đối với Kinh điển Bát Nhã tự mình
không thể ghi chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, vì người diễn nói. Các
thiện nam, thiện nữ v.v… tân học Đại thừa, khi ghi chép, thọ trì, đọc tụng Bát
Nhã thậm thâm như thế sẽ gặp nhiều trở ngại.
Thiện Hiện! Đời tương lai có các thiện nam, thiện nữ v.v…
tuệ giác lu mờ, thiện căn mỏng, bị bạn ác khống chế, đối với công đức rộng lớn
của chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác không thể tin hiểu được, đối với Kinh điển Bát
Nhã thậm thâm tự mình không thể ghi chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, vì
người diễn nói. Lại muốn ngăn các thiện nam, thiện khác ghi chép, thọ trì, đọc
tụng… Bát Nhã. Nên biết người này bị vô lượng tội.
Lại nữa, Thiện Hiện! Các thiện nam, thiện nữ… trụ Bồ tát
thừa, khi ghi chép, thọ trì, đọc tụng Bát Nhã thậm thâm như thế sẽ gặp nhiều ma
sự gây trở ngại, làm cho việc ghi chép, thọ trì, đọc tụng v.v… không thành tựu
và không thể viên mãn Bát Nhã, tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba
la mật. Không thể viên mãn pháp nội không cho đến vô tính tự tính không. Không
thể viên mãn chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi
khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư
không, cảnh giới bất tư nghì. Nói rộng ra, không thể viên mãn tất cả pháp Phật,
không thể viên mãn các công đức này cũng do ác ma làm trở ngại.
Này Thiện Hiện! Các thiện nam, thiện nữ trụ Bồ tát thừa, khi
ghi chép, thọ trì, đọc tụng Bát Nhã thậm thâm như thế, nếu không bị ác ma làm
trở ngại thì có thể viên mãn Bát Nhã, tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố
thí Ba la mật, cho đến viên mãn Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng
trí. Nên biết đều nhờ thần lực Như Lai gia hộ khiến họ ghi chép, thọ trì, đọc
tụng, tu tập, tư duy, diễn nói Bát Nhã không bị chướng ngại. Cũng khiến cho họ
viên mãn sáu pháp Ba la mật, cho đến viên mãn ba Thánh trí kia.
Lại nữa, Thiện Hiện! Hiện tại tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng
Giác ở vô lượng, vô số, vô biên thế giới trong mười phương đang thanh tịnh
thuyết pháp cũng dùng thần lực gia hộ các thiện nam, thiện nữ này, giúp họ ghi
chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, diễn nói Bát nhã Ba la mật như thế đều
không bị chướng ngại. Cũng khiến cho họ viên mãn sáu pháp Ba la mật và ba Thánh
trí kia.
Lại nữa, Thiện Hiện! Hiện tại trong mười phương hằng hà sa số
chư Phật ở các thế giới và tất cả chúng đại Bồ tát Bất thối chuyển cũng dùng
thần lực gia hộ các thiện nam, thiện nữ này, giúp họ ghi chép, thọ trì, đọc
tụng, tu tập, tư duy, diễn nói Bát nhã Ba la mật như thế đều không bị chướng
ngại. Cũng khiến cho họ viên mãn sáu pháp đáo bỉ ngạn cùng viên mãn ba Thánh
trí kia.
Thích nghĩa:
(1). Người trì pháp: Người giữ gìn Phật pháp.
Sơ
giải:
Phẩm “Chẳng Hòa Hợp” của Hội thứ II này tương đương với
phần sau phẩm “Ma Sự”, tức cuối quyển 303 cho đến quyển 304, Hội thứ I, ĐBN, đã
được tóm lược và giảng thuyết rõ trong Hội thứ I rồi, nên ở đây không trùng
tuyên nữa. Xin Quý vị quay lại phẩm “Ma Sự”, Hội thứ I đọc tụng nếu muốn!
---o0o---