PHẨM “CHÁNH
ĐỊNH”
Phần đầu
quyển 477, Hội thứ II, ĐBN.
(Tương đương phẩm “Tịnh Độ Phương Tiện”, phần cuối Q.394
cho đến phần đầu Q.395, Hội thứ I, ĐBN)
Tóm lược:
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch
Phật:
- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ tát ấy do
trụ vào chánh định hay trụ vào bất định(1)?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Các đại Bồ tát ấy đều
trụ vào chánh định, chứ chẳng phải bất định.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ tát ấy
trụ những chánh định nào? Thanh văn thừa, Độc giác thừa, hay Bồ tát thừa?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Các đại Bồ tát ấy đều trụ vào chánh định của Bồ tát, chẳng
phải trụ vào chánh định của hai thừa kia.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ tát ấy
khi nào trụ vào chánh định? Lúc mới phát tâm, lúc ở địa vị Bất thối hay ở thân
cuối?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát ấy
khi mới phát tâm hoặc ở địa vị bất thối, hay thân cuối cùng, đều trụ vào chánh
tánh định tụ của Bồ tát.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ tát trụ vào
chánh định có đọa vào đường ác không?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Đại Bồ tát trụ vào
chánh định nhất định không đọa cảnh giới ác.
Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Đệ bát,
Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác có đọa vào cảnh giới ác không?
Thiện Hiện thưa:
- Bạch Thế Tôn! Không!
Phật bảo:
- Này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát
cũng vậy, từ lúc mới phát tâm tu hành bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật và vô
lượng, vô biên Phật pháp khác đều đoạn trừ các pháp ác. Do đó, mà không có
chuyện bị đọa vào các đường ác, sanh vào trời trường thọ cũng không có việc đó.
Nghĩa là ở nơi đó, không thể tu tập các pháp lành thù thắng được. Nếu các đại
Bồ tát ấy sanh nơi biên địa xa xôi, chỗ mọi rợ… thì không có việc đó. Vì ở chỗ
đó không thể tu hành các thiện pháp thù thắng, vì chỗ đó sanh nhiều ác kiến,
không tin nhân quả, thường hành những nghiệp xấu ác. Ở đó cũng chẳng nghe tên
Phật, Pháp, Tăng, cũng không có bốn chúng là Tỳ kheo nam, Tỳ kheo nữ, cư sĩ nam
và cư sĩ nữ. Nếu đại Bồ tát sanh vào nhà tà kiến, thì cũng không có việc đó. Vì
sanh vào nhà đó thì thường chấp trước, đầy ác kiến hay bài bác, không nói các
hạnh lành, không tu tập các điều thiện lại ưa thích làm điều ác.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Các đại Bồ
tát khi mới phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, do thọ lạc thắng ý mà tạo ra
mười nghiệp đạo bất thiện thì không có việc đó.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ tát từ sơ
phát tâm trọn nên công đức căn lành như thế, đối các chỗ ác chẳng thọ sanh nữa,
cớ sao Thế Tôn mỗi khi vì chúng nói việc "tự bổn sanh" nhiều trăm
ngàn thứ, trong ấy cũng có kẻ thọ sanh các ác thú, vậy căn lành lúc đó ở đâu?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Chẳng phải đại Bồ
tát do nghiệp bất tịnh mà thọ thân ác thú. Chỉ vì lợi vui các loại hữu tình, do
cớ đó nên vì nguyện mà thọ thân kia. Vì vậy, không nên đem những việc như thế
để hỏi.
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Có các
Độc giác, hoặc A la hán, dùng phương tiện thiện xảo, giống như các Bồ tát mà
thành tựu phương tiện thiện xảo thù thắng, thọ thân bàng sanh như voi trắng
v.v... thấy kẻ thù đến muốn làm tổn hại, nhưng phát sanh lòng từ bi an nhẫn vô
thượng để làm cho kẻ kia được lợi ích, tự mình chịu bỏ thân mạng, chứ không hại
người kia có phải như vậy không?
Thiện Hiện thưa:
- Bạch Thế Tôn! Các vị Độc giác
v.v... không làm những việc như vậy.
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Do nhân duyên này
nên biết Bồ tát vì muốn làm lợi ích cho các hữu tình và mau viên mãn lòng đại
bi, mặc dù hiện thân làm các loài bàng sanh nhưng không bị tội lỗi của bàng
sanh làm ô nhiễm.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ tát trụ
vào căn lành nào để làm lợi ích các hữu tình mà phải thọ thân bàng sanh?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát
không có căn lành nào mà không viên mãn! Các Bồ tát từ lúc mới phát tâm cho đến
ngồi tòa Bồ đề, căn lành nào cũng viên mãn. Cần phải làm viên mãn đầy đủ tất cả pháp lành mới được chứng quả vị Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Nếu chưa viên mãn bất cứ một pháp lành nào mà đắc
quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, thì không có việc đó. Cho nên Bồ tát từ mới
phát tâm cho đến lúc ngồi tòa Bồ đề, ở khoảng giữa đó thường học viên mãn tất
cả pháp lành. Học xong sẽ đạt được Nhất thiết tướng trí, vĩnh viễn đoạn trừ tất
cả tập khí tương tục mới có thể chứng đắc Nhất thiết trí trí.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Vì sao đại Bồ tát thành tựu bạch
pháp và chơn Thánh trí mà còn thọ thân bàng sanh ở các cõi ác?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Ý ông thế nào? Như
Lai có thành tựu tất cả bạch pháp và chơn Thánh trí không?
Thiện Hiện thưa:
- Bạch Thế Tôn! Như Lai có thành tựu
tất cả bạch pháp và chơn Thánh trí?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Ý ông thế nào? Như
Lai có hóa làm thân bàng sanh để làm Phật sự lợi ích cho chúng sanh hay không?
Thiện Hiện thưa:
- Bạch Thế Tôn! Như Lai có hóa làm
bàng sanh để làm Phật sự lợi ích cho hữu tình.
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Ý ông thế nào? Khi
Như Lai hóa làm thân bàng sanh là có thật là bàng sanh bị các khổ không?
Thiện Hiện thưa:
- Bạch Thế Tôn! Khi Như Lai hóa làm
thân bàng sanh chẳng phải thật là bàng sanh bị các khổ.
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát
cũng vậy, mặc dù thành tựu bạch pháp và chơn Thánh trí nhưng đó là vì thành
thục hữu tình nên mới dùng phương tiện thiện xảo thọ thân bàng sanh, tùy theo
căn cơ mà thành thục các loại hữu tình.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Ý ông thế
nào? Có A la hán nào đoạn tận các lậu mà có thể hóa thân làm các sự nghiệp rồi
nhờ sự nghiệp ấy mà có thể làm người khác sanh tâm hoan hỷ không?
Thiện Hiện thưa:
- Bạch Thế Tôn! Như vậy! Bạch Thiện
Thệ! Như vậy! Có A la hán hết hẳn các lậu, năng hóa làm thân khởi các sự
nghiệp, do sự nghiệp kia khiến người khác sanh hoan hỷ.
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát
cũng vậy, tuy thành tựu bạch pháp và chơn Thánh trí, nhưng vì lợi ích cho các
loài hữu tình mà dùng phương tiện thiện xảo thọ thân trong đường ác, ứng hiện
như vậy để giáo hóa các loại hữu tình. Tuy thọ thân như vậy, nhưng không bị các
khổ não. Cũng không bị tội lỗi của cõi đó làm ô nhiễm.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Ý ông thế
nào? Có nhà ảo thuật, hoặc đệ tử của ông ta, hóa làm những việc như voi, ngựa
v.v... làm cho mọi người thấy thích thú. Nhưng đó có phải voi, ngựa v.v... thật
sự không?
Thiện Hiện thưa:
- Bạch Thế Tôn! Đó không phải voi,
ngựa v.v... thật.
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát
cũng vậy, mặc dù thành tựu bạch pháp và chơn Thánh trí nhưng vì làm lợi ích cho
các loài hữu tình mà thị hiện thọ các loại thân bàng sanh. Tuy thọ thân như vậy
nhưng thật chẳng phải là bàng sanh, cũng không bị tội lỗi của loài ấy làm ô
nhiễm.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ tát dùng
phương tiện thiện xảo rộng lớn như vậy, tuy thành tựu bạch pháp và chơn Thánh
trí, nhưng vì hữu tình mà thọ các loại thân, tùy theo từng loài mà ứng hiện làm
lợi ích. Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ tát trụ vào những pháp nào để có thể làm
những phương tiện thiện xảo như thế? Tuy thọ đủ loại thân hình trong các loài
nhưng không bị tội lỗi của loài đó làm ô nhiễm?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát trụ vào Bát nhã Ba la mật có
thể làm phương tiện thiện xảo như vậy. Nhờ năng lực phương tiện thiện xảo
này mà mặc dầu đến hằng hà sa số thế giới chư Phật trong mười phương để hiện
các loại thân làm lợi ích an lạc cho các loại hữu tình đó, nhưng ở trong đó
không có chấp trước. Vì sao? Vì các đại Bồ tát ấy đối với tất cả pháp hoàn toàn
không có sở đắc, nghĩa là hoàn toàn không có người nhiễm, bị nhiễm và pháp
nhiễm. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp đều không.
(Tánh không và bất khả đắc không)
Thiện Hiện
nên biết! Không chẳng thể nhiễm không. Không chẳng thể nhiễm các
pháp, cũng không có các pháp năng nhiễm được không. Vì sao? Trong tánh không,
không còn bất khả đắc huống chi có các pháp khác có thể nhiễm trước không. Như
vậy, gọi là bất khả đắc không. Các
đại Bồ Tát an trụ trong đây năng chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, vì các
hữu tình thường làm nhiêu ích.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ tát chỉ
an trụ vào Bát Nhã thẳm sâu mà có thể hành phương tiện thiện xảo như thế, hay
là cũng an trụ vào các pháp nào khác?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Chẳng lẽ còn có
pháp nào khác không được bao gồm vào trong Bát nhã Ba la mật mà ông nghi ngờ
như vậy?
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã thẳm sâu đã
tự tánh không, làm sao nói Bát Nhã có thể nhiếp tất cả pháp? Chẳng phải ở trong
không khá nói được có pháp nhiếp cùng chẳng nhiếp?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Há chẳng phải tất
cả pháp tự tánh đều không?
Thiện Hiện thưa:
- Bạch Thế Tôn! Đúng vậy! Bạch Thiện
Thệ! Đúng vậy!
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Nếu tất cả pháp tự tánh đều không thì
trong cái bất không làm sao nhiếp thọ được tất cả pháp(2).
Thiện Hiện thưa:
- Bạch Thế Tôn! Đúng vậy! Đúng vậy!
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Do nhân duyên này mà Bát Nhã thẳm sâu này bao gồm tất
cả pháp. Thiện Hiện nên biết! Bồ tát trụ Bát Nhã thẳm sâu mà có thể hành phương
tiện thiện xảo như thế.
Khi ấy, cụ
thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Vì sao khi đại Bồ
tát hành sâu Bát Nhã, an trụ vào trong tự tánh không của các pháp để phát ra
thần thông Ba la mật? An trụ vào thần thông Ba la mật đó có thể đến hằng hà sa
số thế giới chư Phật trong mười phương, để cung kính dường cúng dường chư Phật
Thế Tôn, được thọ lãnh Chánh pháp của chư Phật mà gieo trồng vô lượng căn lành
thù thắng.
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát khi
hành sâu Bát Nhã, thấy khắp mười phương hằng hà sa số thế giới chư Phật và
nhiều chư Phật, cùng nhau thuyết các pháp tự tánh không. Nhưng chỉ giả danh
theo thế tục, thuyết đây là thế giới Phật, chúng Tăng và đây là các pháp. Nhưng
danh tự như vậy, do thế tục giả nói, tự tánh cũng không.
Thiện Hiện nên biết! Nếu thế giới
chư Phật trong mười phương cùng nhau thuyết pháp, giả nói danh tự mà tự tánh
chẳng không, thì cái không được thuyết đó sẽ thành một phần. Vì cái không được
thuyết chẳng thành một phần, nên tự tánh của tất cả pháp đều là không. Lý của
nó tròn đầy, không hai không khác. Các đại Bồ tát khi hành sâu Bát Nhã, do quán
thấy là không, dùng phương tiện thiện xảo mà phát sanh thần thông Ba la mật. An trụ vào Bát Nhã đó có thể phát sanh Thiên
nhãn, thiên nhĩ, thần cảnh, tha tâm, túc trụ, tùy niệm và biết lậu tận.
Thiện Hiện nên biết! Các đại Bồ tát
không xa lìa thần thông Ba la mật thì có thể tự tại, thành thục hữu tình, trang
nghiêm thanh tịnh cõi Phật, để chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Cho nên thần thông Ba la mật là đạo Bồ đề.
Các đại Bồ tát đều y vào đạo này mà cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Khi
cầu có thể tự mình viên mãn tất cả pháp lành, cũng có thể dạy bảo người khác tu
tập các pháp lành. Tuy làm những việc như vậy, nhưng đối với pháp lành đó, đại
Bồ tát đều không chấp trước. Vì sao? Vì đại Bồ tát đó biết tự tánh của các pháp
lành đều không. Chẳng phải tự tánh không mà có chấp trước. Nếu có chấp trước
thì có vị ngọt của ái. Do không chấp trước nên không có vị ngọt của ái, vì
trong tự tánh không có vị ngọt của ái, người hưởng vị, sự hưởng vị và pháp được
hưởng vị, ở trong pháp không đều không thể đắc.
Thiện Hiện nên biết! Các đại Bồ tát
khi hành sâu Bát Nhã, an trụ trong thần thông Ba la mật, mà phát sanh thiên nhãn thanh tịnh hơn người. Dùng
thiên nhãn này thấy tự tánh của tất cả pháp đều là không. Vì thấy tự tánh của
tất cả pháp đều không, nên không dựa vào tướng của pháp để tạo ra các nghiệp,
mặc dù vì hữu tình nói pháp như vậy nhưng cũng không thấy tướng của các hữu
tình và pháp được thuyết. Đại Bồ tát ấy lấy vô sở đắc để làm phương tiện, sanh
ra các thần thông thù thắng của Bồ tát. Dùng thần thông này làm tất cả sự
nghiệp cần làm. Đại Bồ tát ấy dùng thiên nhãn thanh tịnh hơn người, thấy khắp
hằng hà sa số thế giới chư Phật trong mười phương. Thấy rồi phát sanh thần cảnh trí thông, đến đó làm lợi ích
cho các loại hữu tình. Lấy bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật mà làm lợi ích.
Hoặc lấy bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo để làm lợi ích. Hoặc lấy bốn
tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc để làm lợi ích. Hoặc lấy tám giải thoát
cho đến mười biến xứ để làm lợi ích. Hoặc lấy pháp môn giải thoát không, vô
tướng, vô nguyện để làm lợi ích. Hoặc lấy các pháp lành thù thắng khác để làm
lợi ích. Hoặc lấy pháp của Thanh văn, Độc giác, Bồ tát và chư Phật để làm lợi
ích.
Ở trong thế giới mười phương, thấy
hữu tình nào nhiều xan tham, thì đại Bồ tát sanh lòng thương xót, nói pháp như
vầy: Hữu tình các ngươi nên hành bố thí.
Những ai xan tham thì chịu nghèo khổ cùng cực. Vì nghèo khổ cùng cực nên không
có oai đức, tự mình không thể có lợi ích huống chi có thể làm lợi ích cho
người. Cho nên các người hãy siêng năng thực hành bố thí, tự mình được an vui,
còn làm cho người khác được an vui, đừng vì nghèo khổ cùng cực mà ăn nuốt lẫn
nhau, để rồi mình và người không thể giải thoát nỗi khổ khỏi các đường ác.
Nếu thấy hữu tình hủy phạm tịnh
giới, đại Bồ tát sanh lòng thương xót, nói pháp như vầy: Hữu tình các ngươi nên
giữ gìn tịnh giới. Những ai phá giới
thì bị khổ trong đường ác. Người phá giới không có oai đức, mình không có lợi
ích làm sao có thể làm lợi ích cho người. Do phá giới mà đọa trong ba đường ác,
chịu quả báo khổ đau đớn khó chịu nổi, tự mình không thể cứu được, thì làm sao
có thể cứu người. Cho nên các ngươi nên giữ gìn tịnh giới, không nên dung chứa
tâm phá giới dù trong sát na, huống chi thời gian lâu, đừng để tâm của mình
buông lung để rồi sau này hối hận buồn khổ.
Nếu thấy hữu tình sân hận nhau rồi
trở thành hận thù làm tổn hại lẫn nhau, thì đại Bồ tát sanh lòng thương xót,
nói pháp như vầy: Hữu tình các ngươi nên tu
tập an nhẫn, đừng sân hận nhau mà kết oán kết thù tàn hại nhau. Vì tâm sân
hận đó nó không thuận với pháp lành, làm tăng trưởng pháp ác, rồi nhận lấy sự
tổn hại trong đời hiện tại. Do tâm sân giận này mà sau khi qua đời các ngươi sẽ
đọa vào đường ác chịu nhiều khốn khổ, chẳng biết lúc nào thoát ra được. Cho nên
các ngươi không nên dung chứa tâm sân hận dù trong sát na, huống chi để nó kéo
dài liên tục. Các ngươi hiện nay hãy lần lượt nương tựa vào nhau, nên khởi lòng
từ để làm việc lợi ích.
Nếu thấy hữu tình biếng nhác, giải
đãi, đại Bồ tát sanh lòng thương xót, nói pháp như vầy: Hữu tình các ngươi nên tinh tấn siêng năng, đừng biếng
nhác, giải đãi với pháp lành. Người giải đãi không thể nào thành tựu các pháp
lành và những việc thù thắng. Do biếng nhác, giải đãi mà các ngươi đọa vào các
đường ác chịu vô lượng khổ. Cho nên các ngươi không nên dung chứa tâm biếng
nhác, giải đãi, dù trong sát na, huống chi kéo dài liên tục.
Nếu thấy hữu tình thất niệm, tâm tán
loạn không tịch tịnh, đại Bồ tát sanh lòng thương xót, nói pháp như vầy: Hữu
tình các ngươi nên tu tập tịnh lự,
tâm đừng có thất niệm, tán loạn. Tâm như vậy không thuận với pháp lành mà tăng
trưởng pháp ác, hiện tại nhận lấy suy tổn. Do đó, các ngươi sau khi qua đời,
đọa các cõi ác chịu vô lượng khổ. Cho nên các ngươi không nên dung chứa tâm
tương ưng với thất niệm, tán loạn dù trong sát na, huống chi kéo dài liên tục.
Nếu thấy hữu tình ngu si ác tuệ, đại
Bồ tát sanh lòng thương xót, nói pháp như vầy: Hữu tình các ngươi nên tu thắng tuệ (Bát Nhã) chớ khởi ác tuệ. Người có ác tuệ không thể đến các cõi
lành thì làm sao giải thoát được. Do nhân ác tuệ này mà các ngươi đọa vào các
cõi ác bị vô lượng khổ. Cho nên các ngươi không nên dung chứa tâm tương ưng với
ngu si, ác tuệ, dù trong sát na, huống chi kéo dài liên tục.
Nếu thấy hữu tình nhiều tham dục, đại Bồ tát sanh lòng thương
xót, dùng phương tiện dạy họ tu tập quán
bất tịnh. Nếu thấy hữu tình nhiều sân
giận, đại Bồ tát sanh lòng thương xót, dùng phương tiện dạy họ tu tập về
phép quán từ bi. Nếu thấy hữu tình
nhiều ngu si, đại Bồ tát sanh lòng
thương xót, dùng phương tiện dạy họ tu tập phép quán về duyên khởi. Nếu thấy hữu tình nhiều kiêu mạn, đại Bồ tát sanh lòng thương xót, dùng phương tiện dạy họ tu tập giới phân biệt. Nếu thấy hữu
tình nhiều tầm tứ, đại Bồ tát sanh
lòng thương xót, dùng phương tiện dạy họ tu
phép quán hơi thở.
Nếu thấy hữu tình mất chánh đạo, đại Bồ tát sanh lòng thương
xót, dùng phương tiện dạy bảo, hướng dẫn
để trở về chánh đạo. Nghĩa là đạo Thanh văn, đạo Độc giác, đạo Như Lai thì
dùng phương tiện vì họ nói pháp như vầy: Những gì mà các ngươi chấp lấy thì tự
tánh của nó đều không, chẳng phải trong pháp không mà có thể chấp lấy. Vì vô sở
chấp là tướng không.
Như vậy, này Thiện Hiện! Khi các đại
Bồ tát thực hành sâu Bát Nhã, an trụ trong thần thông Ba la mật, dùng phương
tiện tự tại, giảng nói chánh pháp để làm lợi ích an lạc cho các loài hữu tình.
Thiện Hiện nên biết! Nếu đại Bồ tát
lìa xa thần thông Ba la mật thì không thể nào tự tại, giảng nói chánh pháp, làm
những việc lợi ích cho các hữu tình.
Thiện Hiện nên biết! Như con chim
không có cánh thì không thể nào bay lượn trên bầu trời để đến những chỗ xa. Các
đại Bồ tát cũng như vậy. Nếu không có thần thông Ba la mật thì không thể tự tại
giảng nói chánh pháp, làm những lợi ích cho các loài hữu tình. Cho nên, này
Thiện Hiện! Các đại Bồ tát khi hành sâu Bát Nhã sẽ phát sanh thần thông Ba la
mật, nếu phát sanh thần thông Ba la mật tức là có thể tự tại giảng nói chánh
pháp, tùy ý làm lợi lạc cho các loài hữu tình.
Thiện Hiện nên biết! Các đại Bồ tát
dùng thiên nhãn thanh tịnh hơn người, nhìn khắp hằng hà sa số thế giới chư Phật
trong mười phương và thấy các loài hữu tình sống nơi đó. Thấy rồi phát sanh
thần cảnh trí thông, chỉ trong khoảnh khắc, đã đến được cảnh giới ấy. Dùng trí
tha tâm mà như thật liễu tri tâm và tâm sở pháp của các hữu tình ấy. Tùy theo
căn cơ thích ứng mà nói pháp giải thoát. Nghĩa là nói bố thí cho đến Bát nhã Ba
la mật; hoặc nói bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo; hoặc nói bốn tịnh lự,
bốn vô lượng, bốn định vô sắc; hoặc nói tám giải thoát cho đến mười biến xứ;
hoặc nói pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện; hoặc nói tất cả Đà la
ni, Tam ma địa môn; hoặc nói pháp nội không cho đến pháp vô tính tự tính không;
hoặc nói chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì; hoặc nói Thánh đế khổ, tập,
diệt, đạo; hoặc nói nhân duyên cho đến tăng thượng duyên; hoặc nói các pháp do
duyên sanh; hoặc nói vô minh cho đến lão tử; hoặc nói tất cả pháp môn của uẩn,
xứ, giới; hoặc nói đạo Thanh văn, hoặc nói đạo Độc giác, hoặc nói Bồ tát đạo,
hoặc nói Bồ đề, hoặc nói Niết bàn để cho các hữu tình đó nghe pháp này rồi đều
đạt được lợi ích an vui thù thắng.
Đại Bồ tát ấy dùng thiên nhĩ thanh tịnh hơn người có thể nghe tiếng tất cả người, phi người.
Nhờ thiên nhĩ này mà nghe chánh pháp của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác
trong hằng hà sa số thế giới chư Phật ở mười phương nói. Nghe rồi thọ trì, tư
duy y theo pháp đã nghe mà giảng nói cho hữu tình, hoặc nói bố thí cho đến Bát
nhã Ba la mật. Nói đầy đủ cho đến hoặc nói Bồ đề, hoặc nói Niết bàn, để các hữu
tình đó sau khi nghe pháp đều đạt được lợi ích an lạc thù thắng.
Đại Bồ tát ấy dùng tha tâm trí thông thanh tịnh hơn người,
như thật biết rõ tâm, tâm sở của các loại hữu tình. Tùy theo căn cơ thích
ứng mà nói pháp giải thoát cho chúng. Nghĩa là nói bố thí cho đến Bát nhã Ba la
mật. Nói đầy đủ cho đến hoặc nói Bồ đề, hoặc nói Niết bàn để cho hữu tình kia
sau khi nghe pháp ấy, đều đạt được lợi ích an vui thù thắng.
Đại Bồ tát ấy dùng túc trụ tùy niệm trí thông nhớ được
những việc quá khứ của mình và người.
Nhờ túc trụ tùy niệm trí thông này mà như thật nhớ biết tất cả tên sai khác của
chư Phật và chúng đệ tử ở quá khứ. Nếu các hữu tình nào thích nghe những việc
đời trước ở quá khứ để được lợi ích, thì liền giảng nói những việc đời trước
cho họ nghe. Nhờ đây mà dùng phương tiện nói chánh pháp cho họ. Nghĩa là nói bố
thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Nói đầy đủ cho đến hoặc nói Bồ đề, hoặc nói Niết
bàn, để các hữu tình đó sau khi nghe pháp ấy, đều đạt được lợi ích an vui thù
thắng.
Đại Bồ tát ấy dùng tấn tốc thần cảnh trí thông đến hằng hà
sa số thế giới chư Phật trong mười phương, gần gũi cúng dường chư Phật Thế Tôn.
Trồng các căn lành với chư Phật rồi trở về cõi của mình để nói cho hữu tình
nghe những việc ở cõi Phật ấy. Nhờ đó dùng phương tiện đem chánh pháp nói cho
họ. Nghĩa là nói bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Nói đầy đủ cho đến hoặc nói
Bồ đề, hoặc nói Niết bàn, để cho các hữu tình đó sau khi nghe pháp này, đều đạt
được lợi ích an vui thù thắng.
Đại Bồ tát ấy dùng tùy sở đắc lậu tận trí thông, mà như
thật biết rõ các loại hữu tình lậu đã
tận hoặc chưa tận (những phiền não đã
hết hay chưa hết), cũng như thật biết phương tiện lậu tận vì những người
chưa lậu tận để giảng nói pháp giải thoát. Nghĩa là nói bố thí cho đến Bát nhã
Ba la mật. Nói đầy đủ cho đến hoặc nói Bồ đề, hoặc nói Niết bàn, để cho các hữu
tình đó sau khi nghe pháp này, đều đạt được lợi ích an vui thù thắng.
Như vậy, này Thiện Hiện! Các đại Bồ
tát khi hành sâu Bát Nhã, nên phát sanh thần thông Ba la mật. Đại Bồ tát ấy do
tu tập thần thông Ba la mật nên được viên mãn, có thể thọ nhiều loại thân tùy
theo ý muốn, nhưng không bị tội lỗi của khổ vui làm ô nhiễm. Giống như hoá thân
của Phật, mặc dầu làm những sự việc như vậy nhưng không bị tội lỗi của khổ vui
làm ô nhiễm.
Như vậy, này Thiện Hiện! Các đại Bồ
tát khi hành sâu Bát Nhã, nên đạt được du hý thần thông Ba la mật. Nếu đạt được
du hý thần thông Ba la mật, thì có thể giáo hóa cho các hữu tình thành tựu
trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, mau chóng chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng
Bồ đề.
Thiện Hiện nên biết! Nếu đại Bồ tát
không giáo hóa các hữu tình được thành tựu trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật,
thì không thể nào đạt được sự mong cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì
sao? Vì các đại Bồ tát chưa viên mãn tư lương Bồ đề thì chắc chắn không thể nào
chứng được sự mong cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
(Tất cả thiện pháp là tư lương Bồ đề Bồ tát)
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật.
- Bạch Thế Tôn! Tư lương Bồ đề Bồ
tát là những gì mà chư đại Bồ tát nên viên mãn Bồ đề đạo mới có thể chứng quả
vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Tất cả các thiện pháp là tư lương Bồ đề Bồ
tát. (Q. 477, ĐBN)
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Cái gì là tất cả
thiện pháp?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát từ khi mới phát tâm tu hành bố thí cho
đến Bát nhã Ba la mật, trong đó đều không phân biệt chấp trước, nghĩa là nghĩ
như vầy: “Đây là bố thí cho đến Bát Nhã. Do đây vì đây mà tu bố thí cho đến Bát
Nhã”. Ba phân biệt chấp trước ấy đều không, vì biết tự tánh của các pháp đều
không vậy. Do tu sáu Ba la mật: Bố thí, tịnh giới, v.v... mà có thể tự mình
được lợi ích và cũng có thể làm lợi ích cho tất cả hữu tình, để thoát khỏi sanh
tử, chứng Niết bàn. Đó gọi là thiện pháp, cũng gọi là tư lương Bồ đề Bồ tát,
cũng gọi là đạo Bồ tát. Chúng đại Bồ tát quá khứ, hiện tại, vị lai đều tu hành
đạo này. Được đạo này rồi sẽ được đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề ngay
hiện tại, cũng làm cho hữu tình ngay hiện tại vượt qua biển lớn sanh tử, được
Niết bàn an lạc.
Lại nữa, này
Thiện Hiện! Các đại Bồ tát từ khi mới phát tâm tu hành bốn niệm trụ cho đến tám
chi Thánh đạo. An trụ trong pháp nội không cho đến pháp vô tính tự tính không.
An trụ vào chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì. An trụ vào Thánh đế khổ,
tập, diệt, đạo. Tu hành bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Tu hành tám
giải thoát cho đến mười biến xứ. Tu hành pháp môn giải thoát không, vô tướng,
vô nguyện. Tu hành địa vị đại Bồ tát. Tu hành tất cả pháp môn Đà la ni, môn Tam
ma địa. Tu hành Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Tu hành
pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả. Tu hành Nhất thiết trí, Đạo tướng trí,
Nhất thiết tướng trí. Trong đó hoàn toàn không phân biệt chấp trước. Nghĩa là
suy nghĩ như vầy: “Đây là bốn niệm trụ cho đến Nhất thiết tướng trí. Do đây vì
đây mà tu bốn niệm trụ cho đến Nhất thiết tướng trí”. Ba phân biệt chấp trước
này hoàn toàn không, vì biết tự tánh của các pháp là không. Nhờ đã tu bốn niệm
trụ cho đến Nhất thiết tướng trí này mà có thể tự mình được lợi ích, và cũng
làm lợi ích cho tất cả hữu tình, độ chúng thoát khỏi sanh tử mà được Niết bàn.
Nói là thiện pháp, cũng gọi là tư lương Bồ đề Bồ tát, cũng gọi là đạo Bồ tát.
Quá khứ, vị lai, hiện tại chúng đại Bồ tát đều tu hành đạo này. Được đạo này
rồi, hiện tại sẽ chứng được quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Cũng có thể
khiến hữu tình được đạo ấy, vượt qua biển lớn sanh tử đạt được Niết bàn an vui
rốt ráo.
Thiện Hiện
nên biết! Lại có vô lượng công đức mà đại Bồ tát tu tập cũng đều gọi là thiện
pháp, cũng gọi là tư lương Bồ đề Bồ tát, cũng gọi là đạo Bồ tát. Các đại Bồ tát
cần phải tu tập các thiện pháp thù thắng như vậy cho hoàn toàn viên mãn, thì
mới có thể chứng đắc Nhất thiết trí trí. Chứng Nhất thiết trí trí rồi, mới có
thể chuyển Chánh pháp luân không sai lầm, khiến cho hữu tình hoàn toàn an lạc. (Q.477, ĐBN)
Thích nghĩa:
1). Bất định tụ (不定聚, Phạm: aniyataràzi, Pàli: aniyata-ràsi) cũng
gọi Bất định tính tụ, Bất định. Chẳng thuộc tà chẳng thuộc chính kiến. Một
trong ba tụ. Tụ nghĩa là chia loại thành từng nhóm. Dựa theo sự sai khác của
căn cơ chúng sinh, có thể chia thành ba nhóm. Tâm tính chúng sinh nào chưa
thuộc chính hay tà, hễ gặp duyên lành thì thành quyết định chính, hễ gặp duyên
ác thì thành quyết định tà. Vì bất định như thế, nên gọi Bất định tụ [X. luận
Thành thực Q.2; Viên giác Kinh đại sớ sao Q.3]. (xt. Tam Định Tụ, Chính Định
Tụ). - Từ điển Phật Quang.
(2). – “Này Thiện
Hiện! Há chẳng phải tất cả pháp tự tánh đều không?
Thiện Hiện thưa:
- Bạch Thế Tôn! Đúng vậy! Bạch Thiện
Thệ! Đúng vậy!
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Nếu tất cả pháp tự tánh đều không thì
trong cái bất không làm sao nhiếp thọ được tất cả pháp”.
Nguyên văn bằng chữ Hán của đoạn Kinh này là:
“善 thiện 現 hiện . 豈 khởi 不 bất 諸 chư 法 pháp 自tự 性 tánh 皆 giai 空 không .
如 như 是 thị . 世 Thế 尊 Tôn . 如 như 是 thị . 善 Thiện 逝 Thệ .
善 thiện 現 hiện . 若 nhược 一 nhất 切 thiết 法 pháp 自tự 性 tánh 皆 giai 空 không . 豈 khởi 不 bất 空 không 中 trung 攝 nhiếp 一 nhất 切 thiết 法 pháp”.
Đoạn Kinh
này khó hiểu, nên đã được thích nghĩa trong phẩm “Phương Tiện Tịnh Độ”, phần
cuối quyển 394 đến phần đầu quyển 395, tập 16, Hội thứ I, ĐBN.
Sơ giải:
Tu lục Ba la
mật; tu tất cả pháp quán như tu quán bất tịnh, quán từ bi, quán duyên khởi,
quán giới phân biệt, quán hơi thở, tu tất cả thần thông, và nhất là tu Bồ tát
đạo và cũng dạy người tu tất cả pháp ấy. Như vậy là thành thục hữu tình thanh
tịnh Phật độ.
Phẩm “Thành
Thục Hữu Tình”, Nghiêm Tịnh Cõi Phật” và phẩm “Phương Tiện Tịnh Độ” của Hội thứ
I đã thuyết nhiều về các giáo pháp này. Quý vị có thể quay lại ôn tập. Thuyết
giảng như vậy quá đủ nên không cần trùng tuyên nữa.
---o0o---