II. PHẨM “ĐẾ THÍCH”
Giữa quyển 539, Hội thứ IV, TBBN.
Tóm lược:
Bấy giờ, trời Đế Thích
cùng bốn vạn Thiên tử ở cõi trời thứ Ba mươi ba đồng đến câu hội (vân
tập hay tụ tập). Bốn Thiên vương hộ đời cùng hai vạn Thiên tử, trời Tứ đại
thiên vương đồng đến câu hội. Đại Phạm thiên vương, chủ cõi Sách ha cùng một
vạn Phạm chúng đồng đến câu hội. Như vậy, cho đến trời Ngũ tịnh cư đều cùng vô
lượng trăm ngàn Thiên tử đồng đến câu hội. Các Thiên chúng này có nghiệp cảm dị
thục ánh sáng nơi thân, tuy có thể chiếu soi nhưng vì oai lực ánh sáng của Như
Lai nên ánh sáng của họ không chiếu rõ được.
Khi ấy, trời Đế
Thích thưa Thiện Hiện:
- Nay có vô lượng
Thiên chúng trong Tam thiên đại thiên thế giới đồng đến câu hội, muốn nghe Đại
đức giảng thuyết, khai thị Bát nhã Ba la mật sâu xa, dạy bảo giáo giới các đại
Bồ tát đối với Bát nhã Ba la mật mau được rốt ráo. Cúi xin Đại đức thương xót
vì nói: Đại Bồ tát làm sao nên trụ Bát
nhã Ba la mật? Đại Bồ tát làm sao nên học
Bát nhã Ba la mật?
Bấy giờ, Thiện
Hiện bảo trời Đế Thích:
- Ta nhờ sức oai
thần của Phật, thuận theo ý Như Lai giảng thuyết, khai thị Bát nhã Ba la mật
sâu xa cho chúng đại Bồ tát. Như vậy, chúng đại Bồ tát có thể ở trong ấy nên trụ
như vậy, nên học như vậy. Thiên chúng các ông đều nên lắng nghe, chú tâm suy
nghĩ kỹ.
Này Kiều thi ca!
Các trời các ông, người chưa phát tâm Vô thượng Bồ đề nay nên phát tâm. Có các
vị đã vào Thanh văn, Độc giác, Chánh tánh ly sanh, chẳng năng phát lại tâm Đại
Bồ đề. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Vì họ đối dòng sanh tử đã lâu hạn cách, nên
trong ấy nếu có kẻ năng phát được tâm Vô thượng Bồ đề, tôi cũng tùy hỷ. Vì sao?
Vì các thắng nhân nên cầu thắng pháp. Tôi chắc chắn đối với sự thắng thiện của
họ chẳng bị trở ngại.
Bấy giờ, Thế Tôn
khen Thiện Hiện:
- Hay thay! Nay
ngươi đã giảng thuyết, khai thị Bát nhã Ba la mật sâu xa cho các đại Bồ tát.
Cũng có thể khuyên bảo các đại Bồ tát làm cho họ vui mừng siêng năng tu Bát nhã
Ba la mật.
Cụ thọ Thiện Hiện
bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn!
Con đã biết ơn như thế lẽ nào không trả ơn. Vì sao? Vì chư Phật và các đệ tử đời
quá khứ đã giảng thuyết bố thí cho đến Bát Nhã cho các đại Bồ tát, dạy bảo giáo
giới nhiếp thọ hộ trì. Bấy giờ, Thế Tôn cũng ở trong ấy học phạm hạnh thanh tịnh,
nay chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, chuyển pháp luân vi diệu, làm lợi
ích cho chúng con. Nên ngày nay con theo lời Phật dạy, giảng thuyết bố thí cho
đến Bát Nhã cho các đại Bồ tát, dạy bảo giáo giới, giúp đỡ hộ trì, làm cho họ
siêng năng tu học phạm hạnh thanh tịnh, mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ
đề, làm lợi ích an vui cho tất cả hữu tình đến tận đời vị lai. Đó gọi là đền ơn
trả ơn chư Phật. (Q. 539, TBBN)
(Làm sao nên học, làm
sao nên trụ Bát nhã Ba la mật?)
Cụ thọ Thiện Hiện
bảo Đế Thích:
- Ông hỏi các đại
Bồ tát làm sao nên trụ, nên học Bát nhã
Ba la mật ấy? Hãy lắng nghe kỹ, tôi sẽ vì ông mà nói về các đại Bồ tát đối
với Bát nhã Ba la mật nên học tướng như
vậy, nên trụ tướng như vậy.
Này Kiều thi ca!
Các đại Bồ tát mặc áo giáp đại công đức, nên đem tướng không an trụ Bát nhã Ba la mật. Không nên trụ sắc; không nên trụ thọ, tưởng, hành, thức. Không nên
trụ vào quả Dự lưu; không nên trụ vào quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán. Không
nên trụ Độc giác; không nên trụ vào quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư
Phật. Không nên trụ đây là sắc; không nên trụ đây là thọ, tưởng, hành, thức.
Không nên trụ đây là quả Dự lưu; không nên trụ đây là quả Nhất lai, Bất hoàn, A
la hán. Không nên trụ đây là Độc giác; không nên trụ đây là quả vị Vô Thượng
Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật. Không nên trụ sắc hoặc thường hoặc vô thường; không nên trụ thọ, tưởng, hành, thức hoặc
thường hoặc vô thường. Không nên trụ sắc hoặc vui hoặc khổ; không nên trụ thọ, tưởng, hành, thức hoặc vui hoặc khổ.
Không nên trụ sắc hoặc ngã hoặc vô ngã;
không nên trụ thọ, tưởng, hành, thức hoặc ngã hoặc vô ngã. Không nên trụ sắc hoặc
tịnh hoặc bất tịnh; không nên trụ thọ,
tưởng, hành, thức hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Không nên trụ sắc hoặc Không hoặc bất Không; không nên trụ
thọ, tưởng, hành, thức hoặc Không hoặc bất Không. Không nên trụ vào quả Dự lưu
hoặc vô vi hiển lộ; không nên trụ
vào quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán hoặc vô vi hiển lộ. Không nên trụ vào quả
Độc giác Bồ đề hoặc vô vi hiển lộ; không nên trụ vào quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng
Bồ đề của chư Phật hoặc vô vi hiển lộ. Không nên trụ vào quả Dự lưu là chơn ruộng
phước đáng thọ sự cúng dường; không nên trụ vào quả Dự lưu còn bảy lần sanh trở
lại mới vào Niết bàn. Không nên trụ vào quả Nhất lai là chơn ruộng phước đáng
thọ sự cúng dường; không nên trụ vào quả Nhất lai chưa được rốt ráo, còn một lần
sanh trở lại chịu khổ biên tế. Không nên trụ vào quả Bất hoàn là chơn ruộng phước
đáng thọ sự cúng dường; không nên trụ vào quả Bất hoàn sau khi diệt độ chẳng
còn sanh trở lại. Không nên trụ vào quả A la hán là chơn ruộng phước đáng thọ sự
cúng dường; không nên trụ vào quả A la hán nhất định đời này nhập vào Vô dư Niết
bàn. Không nên trụ quả Độc giác là chơn ruộng phước đáng thọ sự cúng dường;
không nên trụ quả Độc giác vượt hơn địa vị Thanh văn, thẳng đến địa vị Phật mà
nhập Niết bàn. Không nên trụ quả Phật là chơn ruộng phước đáng thọ sự cúng dường;
không nên trụ quả Phật vượt qua địa vị phàm phu, vượt qua địa vị Thanh văn, vượt
qua địa vị Độc giác, vượt qua địa vị Bồ tát, an trụ vào địa vị Phật, làm lợi
ích an vui cho vô lượng, vô số, vô biên hữu tình, được nhập vào cảnh giới Vô dư
y bát Niết bàn. Không nên trụ quả Phật độ thoát vô lượng vô số vô biên hữu tình
khiến đối Tam thừa đều được quyết định, làm các Phật sự như thế thảy rồi vào
cõi Vô dư y bát Niết bàn. (Q.539, TBBN)
Khi ấy, Xá lợi Tử
suy nghĩ: Đại Bồ tát nào khi hành Bát nhã Ba la mật sâu xa thì không nên trụ vào quả Phật, an trụ quả
Phật làm lợi ích an vui cho vô lượng, vô số, vô biên hữu tình được nhập vào cảnh
giới Vô dư y bát Niết bàn. Không nên trụ quả Phật độ thoát vô lượng, vô biên hữu
tình đối với Tam thừa đều được quyết định, làm các Phật sự như vậy rồi nhập vào
cảnh giới Vô dư y bát Niết bàn. Cũng không nên trụ vào các pháp khác, chúng đại
Bồ tát này phải trụ ở đâu?
Cụ thọ Thiện Hiện
nhờ oai thần của Phật, biết tâm niệm của Xá Lợi Tử, liền bảo:
- Ý Tôn giả thế
nào? Tâm của các đức Như Lai nên an trụ chỗ nào?
Khi đó, Xá Lợi Tử
bảo Thiện Hiện:
-
Tâm của các đức Như Lai đều không chỗ trụ. Vì sao? Vì tâm không chỗ trụ nên gọi
là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Nghĩa là không trụ cõi hữu vi, cũng không trụ
cõi vô vi, cũng chẳng phải không trụ cõi hữu vi, vô vi.
Khi ấy, cụ thọ
Thiện Hiện bảo Xá Lợi Tử:
- Các đại Bồ tát
khi hành sâu Bát nhã Ba la mật cũng lại như vậy. Như chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng
Giác đối với tất cả pháp tâm không chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ.
Này Xá Lợi Tử! Các đại Bồ tát đối với Bát nhã Ba la mật
sâu xa như chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, lấy vô sở đắc làm phương tiện, nên
trụ như vậy, nên học như vậy.
Bấy giờ, trong
chúng có các Thiên tử suy nghĩ: Như câu thần chú, các lời nói khác nhau của những
Dược xoa, tuy là ẩn mật, kín đáo nhưng chúng ta còn có thể hiểu được. Đại đức
Thiện Hiện đối với Bát nhã Ba la mật sâu xa tuy đã dùng nhiều lời lẽ để chỉ rõ,
nhưng tất cả chúng ta vẫn không thể hiểu được gì cả.
Cụ thọ Thiện Hiện
biết tâm niệm của các Thiên tử, liền bảo:
- Này các Thiên
tử! Những lời tôi nói, các ông không hiểu sao?
Các Thiên tử
thưa:
- Đúng vậy! Đại
đức đã nói ý nghĩa của Bát nhã Ba la mật sâu xa, chúng tôi đều không hiểu được
gì cả.
Cụ thọ Thiện Hiện
bảo:
- Tôi đã từng đối
với ý nghĩa tương ưng với Bát nhã Ba la mật sâu xa này không nói, không chỉ bày, các ông không nghe thì hiểu cái gì. Vì
sao? Này các Thiên tử! Vì trong ý nghĩa tương ưng với Bát nhã Ba la mật sâu xa
đều lìa văn tự, lời nói.
Khi ấy, các
Thiên tử lại nghĩ: Đại đức Thiện Hiện ở trong nghĩa Bát nhã Ba la mật sâu xa
này, tuy lại đem các thứ phương tiện để nói rõ, muốn làm cho dễ hiểu, nhưng
nghĩa lý ấy lại càng quá sâu xa, lại quá vi tế, khó có thể so lường.
Cụ thọ Thiện Hiện
biết tâm của các Thiên tử, liền bảo:
- Thiên tử nên
biết! Sắc không sâu xa, không vi tế; thọ, tưởng, hành, thức không sâu xa, không
vi tế. Quả Dự lưu không sâu xa, không vi tế; quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán
không sâu xa, không vi tế. Độc giác Bồ đề không sâu xa, không vi tế. Quả vị Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật không sâu xa, không vi tế. Vì sao?
Này các Thiên tử!
Vì tất cả pháp sâu xa, vi tế, người nói, người nghe đều bất khả đắc. Bởi vậy, các ông đối với pháp đã nói nên tu hạnh nhẫn bền chắc.
Thiên tử nên biết!
Những người nào muốn chứng, muốn trụ quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán,
Độc giác Bồ đề đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, cần phải nương vào hạnh
nhẫn này mới có thể chứng trụ được.
(Hữu tình như huyễn, vì
người như huyễn, nói pháp như huyễn)
Khi đó các Thiên
tử suy nghĩ: Đại đức Thiện Hiện muốn vì hữu tình nào, thuyết những pháp nào?
Cụ thọ Thiện Hiện
biết tâm niệm của các Thiên tử, liền bảo:
- Thiên tử nên
biết! Nay tôi muốn vì hữu tình như huyễn,
như hóa, như mộng, cũng lại giảng thuyết
pháp như huyễn, như hóa, như mộng. Vì sao? Này các Thiên tử! Như vậy, người
nghe pháp đã nói, không nghe, không hiểu, không chỗ tu chứng.
Khi ấy, các
Thiên tử hỏi Thiện Hiện:
- Người nói, người
nghe và pháp được nói ra đều như huyễn, như hóa, như mộng đã thấy chăng?
Thiện Hiện đáp:
- Đúng vậy! Hữu tình như huyễn, vì người như huyễn, nói
pháp như huyễn. Hữu tình như hóa, vì người như hóa, nói pháp như hóa. Hữu tình
như mộng, vì người như mộng, nói pháp như mộng. Tất cả hữu tình và tất cả pháp
đều như cảnh huyễn hóa, như mộng, vì tất cả pháp, tất cả hữu tình cũng huyễn
hóa, cũng như mộng, không hai, không khác.
Thiên tử nên biết!
Những bậc Dự lưu và quả Dự lưu, hoặc bậc Nhất lai và quả Nhất lai, hoặc bậc Bất
hoàn và quả Bất hoàn, hoặc A la hán và quả A la hán, hoặc các Độc giác và Độc
giác Bồ đề, hoặc chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng
Bồ đề của chư Phật đều như cảnh huyễn hóa, như mộng.
Khi ấy, các
Thiên tử hỏi Thiện Hiện:
- Lẽ nào chư Như
Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật cũng
như huyễn hóa, như mộng đã thấy sao?
Thiện Hiện đáp:
- Đúng vậy! Cho
đến Niết bàn ta cũng nói là như huyễn hóa, như mộng.
Khi ấy, các
Thiên tử hỏi Thiện Hiện:
- Không lẽ Niết
bàn cũng như huyễn hóa, như mộng?
Thiện Hiện đáp:
- Giả sử lại có
pháp nào cao hơn Niết bàn, tôi cũng nói là như huyễn hóa, như mộng. Vì sao? Vì
cảnh huyễn hóa, như mộng cùng tất cả pháp, cho đến Niết bàn không hai, không
khác, đều bất khả đắc, bất khả thuyết.
(Q.539, TBBN)
Bấy giờ, Xá lợi
Tử, Chấp Đại Tạng, Mãn Từ Tử, Đại Ẩm Quang v.v… cùng hỏi Thiện Hiện:
- Đại đức đã nói
Bát nhã Ba la mật sâu xa như vậy có người nào có thể tín thọ được không?
Cụ thọ Khánh Hỷ
(A nan đà) thưa cùng các đại Thanh văn và Xá lợi Tử:
- Có các đại Bồ
tát Bất thối chuyển đối với Bát nhã Ba la mật này có thể tin hiểu sâu xa được.
Lại có vô lượng đại A la hán đầy đủ chánh kiến, đoạn tận các lậu, đối với Bát
nhã Ba la mật này cũng có thể tín thọ được. Nhưng, cụ thọ Thiện Hiện đã nói Bát
nhã Ba la mật sâu xa như vậy không ai tín thọ được. Cụ thọ Thiện Hiện nói như vầy:
Đã nói Bát nhã Ba la mật sâu thẳm như thế
không ai tín thọ được. Vì sao? Vì trong đây không pháp khá rõ, khá chỉ và khá
thi thiết. Đã thật không pháp khá rõ, khá chỉ và khá thi thiết, nên kẻ tín thọ
cũng chẳng khá được.
Khi ấy, trời Đế
Thích suy nghĩ: Đại đức Thiện Hiện rưới trận mưa pháp, ta nên hóa ra các đóa
hoa nhiệm mầu dâng rải cúng dường.
Suy nghĩ như vậy
rồi, liền hóa ra các đóa hoa nhiệm mầu rải lên Thiện Hiện.
Cụ thọ Thiện Hiện
suy nghĩ: Những đóa hoa này chưa từng thấy ở chỗ chư thiên. Hoa nhiệm mầu này
nhất định chẳng phải do đất nước, cỏ cây sanh ra, mà do tâm chư thiên hóa sanh.
Khi ấy, trời Đế
Thích biết tâm niệm của Thiện Hiện, liền nói:
- Hoa đã rải này
thật chẳng phải do đất nước, cỏ cây sanh ra, cũng chẳng phải do tâm chư thiên
hóa sanh. Vì sao? Vì hoa đã rải này tánh
vốn vô sanh.
Bấy giờ, Thiện
Hiện bảo Đế Thích:
- Hoa này không
sanh, tức chẳng phải hoa.
Khi ấy, trời Đế
Thích thầm nghĩ: Trí tuệ của Đại đức Thiện Hiện thật là sâu xa, chẳng hoại giả
danh mà nói thật nghĩa. Nghĩ như vậy rồi, liền thưa Thiện Hiện:
- Đúng vậy! Như
Tôn giả đã dạy, các đại Bồ tát đối với các pháp đều nên theo sở thuyết của Tôn
giả mà học.
Cụ thọ Thiện Hiện
bảo Đế Thích:
- Đúng vậy! Đúng
như lời ông nói! Các đại Bồ tát đối với các pháp nên theo sở thuyết của ta mà học.
Này Kiều Thi Ca!
Khi các đại Bồ tát học như thế, chẳng học đối sắc, chẳng học đối thọ tưởng hành
thức. Chẳng học đối quả Dự lưu; chẳng học đối quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán,
chẳng học đối Độc giác Bồ đề. Chẳng học đối chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Nếu chẳng đối các bậc này mà học, đấy gọi học Phật Nhất thiết trí trí. Nếu học
được Phật Nhất thiết trí trí, thời học vô lượng vô biên Phật pháp.
Nếu học vô lượng
vô biên Phật pháp, thời chẳng học sắc có tăng có giảm, cũng chẳng học thọ tưởng
hành thức có tăng có giảm. Nếu chẳng học sắc có tăng có giảm, cũng chẳng học thọ tưởng hành thức có tăng có giảm,
thời chẳng học sắc có lấy có bỏ,
cũng chẳng học thọ tưởng hành thức có lấy có bỏ. Nếu chẳng học sắc có lấy có bỏ,
cũng chẳng học thọ tưởng hành thức có lấy có bỏ, thời chẳng học tất cả pháp có
lấy có bỏ. Nếu chẳng học tất cả pháp có lấy có bỏ, thời chẳng học các pháp có thể nhiếp thọ, có thể diệt hoại. Nếu
chẳng học các pháp có thể nhiếp thọ có thể diệt hoại, thời chẳng học Nhất thiết
trí trí có thể nhiếp thọ có thể diệt hoại.
Khi các đại Bồ
tát học như thế gọi là chơn học Nhất thiết trí trí, chóng năng chứng được Nhất
thiết trí trí.
Khi ấy, Xá lợi Tử
hỏi Thiện Hiện:
- Đại Bồ tát nào
chẳng học các pháp có thể hộ trì, có thể diệt hoại; cũng chẳng học Nhất thiết
trí trí có thể hộ trì, có thể diệt hoại thì khi đại Bồ tát này học như vậy gọi
là học Nhất thiết trí trí một cách chơn chánh, có thể mau chứng đắc Nhất thiết
trí trí không?
Thiện Hiện đáp:
- Đại Bồ tát nào
chẳng học các pháp có thể hộ trì, có thể diệt hoại, cũng chẳng học Nhất thiết
trí trí có thể hộ trì, có thể diệt hoại thì khi đại Bồ tát này học như vậy gọi
là học Nhất thiết trí trí một cách chơn chánh, có thể mau chứng đắc Nhất thiết
trí trí, vì đem vô sở đắc làm phương tiện.
(Q.539, TBBN)
Bấy giờ, trời Đế
Thích hỏi Xá lợi Tử:
- Sở học (1) Bát nhã Ba la mật của
các đại Bồ tát phải cầu ở đâu?
Xá lợi Tử đáp:
- Sở học Bát nhã Ba la mật của các đại Bồ tát
nên y theo sở thuyết của Thiện Hiện đã nói mà cầu.
Trời Đế Thích hỏi
Xá lợi Tử:
- Nhờ thần lực của
ai hỗ trợ để cho Tôn giả nói lời như vậy?
Xá lợi Tử đáp:
- Nhờ thần lực của
Như Lai hỗ trợ nên ta nói lời này.
Khi ấy, trời Đế
Thích lại hỏi cụ thọ Xá lợi Tử:
- Nhờ thần lực của
ai hỗ trợ nên Tôn giả Thiện Hiện có thể nói Bát nhã Ba la mật?
Xá lợi Tử đáp:
- Nhờ thần lực của
Như Lai hỗ trợ nên cụ thọ Thiện Hiện có thể nói Bát nhã Ba la mật.
Bấy giờ, Thiện
Hiện bảo trời Đế Thích:
- Ông hỏi nhờ thần
lực ai hỗ trợ làm cho tôi có thể nói Bát nhã Ba la mật. Này Kiều thi ca! Ông
nên biết, nhất định là nhờ thần lực của Như Lai hỗ trợ nên Thiện Hiện tôi có thể
nói Bát nhã Ba la mật.
Này Kiều thi ca!
Ông đã hỏi, sở học Bát nhã Ba la mật của các đại Bồ tát phải cầu ở đâu? Này Kiều
thi ca! Sở học Bát nhã Ba la mật của các đại Bồ tát chẳng cầu ở sắc, cũng chẳng
nên lìa sắc để cầu. Chẳng nên cầu ở thọ, tưởng, hành, thức, cũng chẳng nên lìa
thọ, tưởng, hành, thức để cầu. Vì sao? Vì
sắc chẳng phải Bát nhã Ba la mật, cũng không lìa sắc mà có Bát nhã Ba la mật.
Thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng phải Bát nhã Ba la mật, cũng không lìa thọ,
tưởng, hành, thức mà có Bát nhã Ba la mật. (Q.539, TBBN)
Khi ấy, trời Đế
Thích thưa Thiện Hiện:
- Có phải sở học
Bát nhã Ba la mật của các Bồ tát là đại Ba la mật, là vô lượng Ba la mật, là vô
biên Ba la mật không?
Thiện Hiện đáp:
- Đúng vậy! Này
Kiều thi ca! Sở học Bát nhã Ba la mật của các Bồ tát là đại Ba la mật, là vô lượng
Ba la mật, là vô biên Ba la mật.
Vì sao? Này Kiều
thi ca! Vì sắc đại nên biết Bát nhã Ba la mật cũng đại; vì thọ, tưởng, hành, thức
đại nên biết Bát nhã Ba la mật cũng đại.
Này Kiều thi ca!
Sắc vô lượng nên biết Bát nhã Ba la mật cũng vô lượng; thọ, tưởng, hành, thức
vô lượng nên biết Bát nhã Ba la mật cũng vô lượng.
Này Kiều thi ca!
Sắc vô biên nên biết Bát nhã Ba la mật cũng vô biên; thọ, tưởng, hành, thức vô
biên nên biết Bát nhã Ba la mật cũng vô biên.
Lại nữa, này Kiều
thi ca! Sở duyên vô biên nên biết Bát nhã Ba la mật cũng vô biên.
Này Kiều thi ca!
Sở duyên vô biên nên biết Bát nhã Ba la mật cũng vô biên là như thế nào? Nghĩa
là tiền tế, trung tế, hậu tế của tất cả pháp đều bất khả đắc, nên gọi là vô
biên. Vì pháp vô biên nên sở duyên cũng vô biên. Bởi Bát nhã Ba la mật đây vô
biên nên ta nói sở duyên vô biên nên biết Bát nhã Ba la mật cũng vô biên.
Lại nữa, này Kiều
thi ca! Tất cả pháp vô biên nên biết Bát nhã Ba la mật cũng vô biên.
Này Kiều thi ca!
Tất cả pháp vô biên nên biết Bát nhã Ba la mật cũng vô biên là sao? Nghĩa là
biên tế của tất cả pháp bất khả đắc. Vì sao? Vì tiền tế, trung tế, hậu tế của tất
cả sắc đều bất khả đắc. Biên tế trước, sau, giữa của tất cả thọ, tưởng, hành,
thức đều bất khả đắc. Bởi biên tế trước, sau, giữa của Bát nhã Ba la mật cũng bất
khả đắc nên ta nói tất cả pháp vô biên, nên biết Bát nhã Ba la mật cũng vô
biên.
Lại nữa, này Kiều
thi ca! Tất cả hữu tình vô biên nên biết Bát nhã Ba la mật cũng vô biên. Vì
sao? Vì biên tế tất cả hữu tình bất khả đắc nên ta nói tất cả hữu tình vô biên,
nên biết Bát nhã Ba la mật cũng vô biên. (Q.539,
TBBN)
Khi ấy, trời Đế
Thích hỏi Thiện Hiện:
- Bạch Đại đức!
Tất cả hữu tình vô biên nên biết Bát nhã Ba la mật cũng vô biên là sao?
Thiện Hiện đáp:
- Này Kiều thi
ca! Không thể tính đếm vô số loài hữu tình vì bất khả đắc, nên nói là: Tất cả hữu
tình vô biên nên biết Bát nhã Ba la mật cũng vô biên.
Trời Đế Thích
thưa:
- Vì nghĩa gì
nên nói như vậy?
Thiện Hiện đáp:
- Này Kiều thi
ca! Nay tôi hỏi ông, tùy ý ông đáp. Ý ông thế nào? Nói hữu tình, hữu tình ấy có
thêm nghĩa cho pháp nào?
Trời Đế Thích
thưa:
- Hữu tình, hữu
tình ấy chẳng phải tăng nghĩa cho pháp cũng chẳng phải chẳng tăng nghĩa cho
pháp. Chỉ là giả lập khách danh, thuộc về tên gọi tạm thời, thuộc về tên gọi
không thật, thuộc về tên gọi không có nhân duyên(2).
Thiện Hiện bảo:
- Này Kiều thi
ca! Ý ông thế nào? Ở trong Kinh Bát nhã Ba la mật sâu xa này, vì hiển bày thật
có hữu tình không?
Trời Đế Thích
thưa:
- Thưa Đại đức!
Không thật.
Thiện Hiện bảo:
- Trong Kinh Bát
nhã Ba la mật sâu xa này đã chẳng hiển bày thật có hữu tình nên nói vô biên, vì
trong ấy biên tế cũng bất khả đắc.
Này Kiều thi ca!
Ý ông thế nào? Nếu chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trải qua hằng hà sa số đại
kiếp, đem vô biên lời để nói vô lượng danh tự loài hữu tình, thì trong ấy thật
có hữu tình có sanh có diệt không?
Trời Đế Thích
thưa:
- Thưa Đại đức!
Không thật. Vì sao? Vì các hữu tình bản tánh vốn tịnh, xưa nay vô sở hữu, chẳng
phải vô sở hữu có sanh diệt.
Thiện Hiện bảo:
- Do nghĩa này
nên tôi nói là tất cả hữu tình vô biên nên biết Bát nhã Ba la mật cũng vô biên.
Này Kiều thi ca!
Do đây nên biết sở học Bát nhã Ba la mật của các đại Bồ tát nói là lớn, vô lượng,
vô biên. (Q.539, TBBN)
Bấy giờ, trong hội
trời Đế Thích, các Phạm thiên vương cõi Dục, chư Thiên cõi Sắc và Thần tiên
Thiên nữ cõi Đại tự tại vô cùng hoan hỷ, đồng thời ba lần hô lớn rằng:
- Hay thay! Vì
có Phật ra đời nên Tôn giả Thiện Hiện nhờ oai thần của Phật giảng thuyết, khai
thị pháp tánh vi diệu nhiệm mầu cho chúng tôi. Pháp Bát nhã Ba la mật làm cho
trời, người, A tu la v.v... đều được lợi ích lớn. Nếu đại Bồ tát có thể đối với
Bát nhã Ba la mật sâu xa như vậy tu hành đúng như lời nói, luôn không xa lìa
thì chúng tôi đối với các vị ấy sẽ cung kính cúng dường như Phật Thế Tôn.
Bấy giờ, Phật bảo
chư Thiên:
- Đúng vậy! Nếu
đại Bồ tát nào đối với Bát nhã Ba la mật này đem vô sở đắc làm phương tiện có
thể tu hành đúng như lời nói, luôn không xa lìa, thì chư thiên các ông đều nên
cúng dường như Phật Thế Tôn.
Chư Thiên nên biết:
Xưa kia Ta đối với Phật Nhiên Đăng, lúc ấy ở nơi ngã tư thuộc vương đô Liên
Hoa, ta gặp đức Phật Nhiên Đăng, liền dâng năm cành hoa sen, trải tóc che bùn,
cần cầu nghe Chánh pháp, đem vô sở đắc làm phương tiện, luôn không xa lìa Bát
Nhã sâu xa và vô lượng, vô biên Phật pháp khác.
Bấy giờ, Phật
Nhiên Đăng liền thọ ký cho Ta được quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, nói như vầy:
“Này thiện nam tử! Ở đời sau, trải qua vô số kiếp, trong thế giới Hiền kiếp này
ông sẽ được làm Phật hiệu là Năng Tịch Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, nói rộng
cho đến Phật Thế Tôn, giảng thuyết Kinh điển Bát Nhã sâu xa, độ vô lượng chúng”.
Khi ấy, chư
Thiên đồng bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Bát
nhã Ba la mật này thật là hi hữu, làm cho chúng đại Bồ tát có thể mau chóng đến
Nhất thiết trí trí, ở tận đời vị lai làm lợi ích an vui cho loài hữu tình.
Thích nghĩa:
(1).
Trong Tiểu Bản Bát Nhã, Hội thứ IV, các Thiên tử hỏi Xá lợi Phất:
-
“Sở học Bát nhã Ba la mật của các đại Bồ tát phải cầu ở đâu?”
Kinh
TBBN dùng từ “sở học”, trong khi các Hội khác dùng từ “sở hành”. Học là còn nằm
trong tư tưởng nghĩa là để bồi dưỡng, mở mang kiến thức; nhưng hành là thực
hành hay còn gọi là tạo tác. Có học mới có kiến thức để hành. Hành mà không học
là “hành mù”, học mà không hành như cái đãi đựng sách. Cả hai hỗ trợ cho nhau.
Tuy nhiên, hành được xem quan trọng, chính cái hành mới đem đến chứng ngộ!
(2).
Dịch câu chữ Hán: “Chỉ là đã nhiếp giả lập khách danh, đã nhiếp danh vô sự, đã
nhiếp danh vô chủ, đã nhiếp danh vô duyên”.
Lược giải:
1. Chỗ trụ:
Trời
Đế Thích (Kiều Thi Ca) thỉnh cụ thọ Thiện Hiện giảng thuyết, khai thị Bát nhã
Ba la mật cho các đại Bồ tát: Làm sao an trụ trong Bát Nhã chóng được viên mãn?
Cụ
thọ Thiện Hiện bảo Đế Thích: Các ông nên đem “tướng không an trụ” Bát
nhã Ba la mật mà trụ sắc, mà trụ thọ, tưởng, hành, thức. Nghĩa là không nên trụ
sắc hoặc thường hoặc vô thường; không nên trụ thọ, tưởng, hành, thức hoặc thường
hoặc vô thường; không nên trụ ngũ uẩn hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã,
hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc Không hoặc bất Không; không nên trụ vào các quả
tiểu thừa, trung thừa hay đại thừa làm chơn ruộng phước đáng thọ sự cúng dường;
không nên trụ quả Phật độ thoát vô lượng, vô số, vô biên hữu tình làm các Phật
sự như vậy rồi nhập vào cảnh giới Vô dư y Niết bàn.
Câu
hỏi được đặt ra là: Nếu không trụ vào ngũ uẩn thường hay vô thường, ngã hay vô
ngã, tịnh hay bất tịnh, không trụ vào các quả vị tam thừa, cũng không trụ vào bất
cứ các pháp nào… thì Bồ tát trụ ở đâu để làm Phật sự?
Kinh
đáp: “Các Đại Bồ tát khi hành Bát Nhã sâu xa
cũng như tâm của Như Lai không có chỗ trụ. Chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đối
với tất cả tâm pháp đều không chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ. Các đại Bồ
tát đối với Bát Nhã sâu xa như chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, lấy vô sở đắc làm phương tiện, nên trụ
như vậy, nên học như vậy”.
Trụ ở chỗ không có sở
trụ là trụ trong Tánh Không, lấy vô đắc, vô thủ, vô chấp…làm phương tiện. Đó là
giáo nghĩa vô sở trụ của Bát Nhã. Nên học, nên trụ như vậy.
2. Cái khó hiểu của Bát
nhã Ba la mật là người nói,
người nghe đều bất khả
đắc.
“Khi ấy, các
Thiên tử hỏi Thiện Hiện:
- Người nói, người
nghe và pháp được nói ra đều như huyễn, như hóa, như mộng?
Thiện Hiện đáp:
- Đúng vậy! Hữu
tình như huyễn, vì người như huyễn, nói pháp như huyễn. Hữu tình như hóa, vì
người như hóa, nói pháp như hóa. Hữu tình như mộng, vì người như mộng, nói pháp
như mộng. Tất cả hữu tình và tất cả pháp đều như cảnh huyễn hóa, như mộng, vì tất
cả pháp, tất cả hữu tình cũng huyễn hóa, cũng như mộng, không hai, không khác.
Thiên tử nên biết!
Những bậc Dự lưu và quả Dự lưu, hoặc bậc Nhất lai và quả Nhất lai, hoặc bậc Bất
hoàn và quả Bất hoàn, hoặc A la hán và quả A la hán, hoặc các Độc giác và Độc
giác Bồ đề, hoặc chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng
Bồ đề của chư Phật đều như cảnh huyễn hóa, như mộng.
Khi ấy, các
Thiên tử hỏi Thiện Hiện:
- Lẽ nào chư Như
Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật cũng
như huyễn hóa, như mộng sao?
Thiện Hiện đáp:
- Đúng vậy! Cho
đến Niết bàn ta cũng nói là như huyễn hóa, như mộng.
Khi ấy, các
Thiên tử hỏi Thiện Hiện:
- Không lẽ Niết
bàn cũng như huyễn hóa, như mộng?
Thiện Hiện đáp:
- Giả sử lại có
pháp nào cao hơn Niết bàn, ta cũng nói là như huyễn hóa, như mộng. Vì sao? Vì cảnh
huyễn hóa, như mộng cùng tất cả pháp, cho đến Niết bàn không hai, không khác, đều
bất khả đắc, bất khả thuyết”.
Chỗ
cao nhất mà người tu hành muốn đạt là Niết bàn cũng đều huyễn hóa, mộng mỵ… thì
nói chi tất cả các pháp khác. Tất cả đều vô sở hữu, bất khả đắc. Học Bát Nhã là
học không, như hư không mà học, trong đó không có chứng, không có đắc, không
năng sở chủ khách, không bờ này bờ kia hay giữa dòng… Có trụ dù là trụ bất cứ
đâu kể cả trong tánh Không đều có trở ngại, có dính mắc, trói buộc làm cho con
người không còn tự do trong tri thức, đạo đức hay tâm linh.
Vì vậy Bát Nhã lúc nào và ở đâu cũng chủ trương vô sở trụ! Trụ vô sở trụ mới là
chân trụ!
Kết luận:
(có
trụ hay không trụ)
Những
đoạn
Kinh của
phẩm “Nhiếp Thọ” quyển 101, Hội thứ I, ĐBN và các kiến giải sau đây có thể thay lời
kết luận cho hai phẩm “Diệu Hạnh” và phẩm “Đế Thích”:
1. Trụ:
“Kiều Thi Ca! Đại Bồ tát ấy tự an trụ pháp
chơn như, dạy người khác an trụ pháp chơn
như, khen ngợi pháp chơn như, vui vẻ khen ngợi người an trụ pháp chơn như.
Tự an trụ pháp giới, dạy người khác
an trụ pháp giới, khen ngợi pháp giới, vui vẻ khen ngợi người an trụ pháp giới.
Tự an trụ pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định,
pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không,
cảnh giới bất tư nghì, dạy người
khác an trụ pháp tánh cho đến cảnh giới bất tư nghì, khen ngợi pháp tánh cho đến
cảnh giới bất tư nghì, vui vẻ khen ngợi người an trụ pháp tánh cho đến cảnh giới
bất tư nghì”.
Đại
Bồ tát ấy không những tự an trụ tứ Thánh đế, dạy người khác an trụ pháp tứ
Thánh đế, khen ngợi pháp tứ Thánh đế, vui vẻ khen ngợi người an trụ pháp tứ
Thánh đế mà còn tự an trụ tất cả pháp Phật, dạy người khác an trụ tất cả pháp
Phật, khen ngợi tất cả pháp Phật, vui vẻ khen ngợi người an trụ tất cả pháp Phật
.
2. Trụ nhưng không chấp
ngã và ngã sở:
Đoạn
Kinh tiếp theo cũng cùng một phẩm, nhưng nói:
“Bạch Thế Tôn! Đại
Bồ tát khi an trụ chơn như, nếu nghĩ: Ta có khả năng an trụ chơn như thì đại Bồ
tát ấy, vì do chấp ngã và ngã sở làm nhiễu
loạn sự an trụ chơn như, liền khởi tâm tự cao, nên chẳng có khả năng hồi hướng
Nhất thiết trí.
Đại Bồ tát khi
an trụ pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình
đẳng, tánh ly sanh, định pháp, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới
bất tư nghì, nếu nghĩ: Ta có khả năng an trụ pháp giới cho đến cảnh giới bất tư
nghì thì đại Bồ tát ấy vì do chấp ngã và ngã sở làm nhiễu loạn sự an trụ pháp
giới cho đến cảnh giới bất tư nghì, liền khởi tâm tự cao, nên chẳng có khả năng
hồi hướng Nhất thiết trí”.
Cũng
vậy, Đại Bồ tát khi an trụ tứ Thánh đế, nếu nghĩ: Ta có khả năng an trụ tứ
Thánh đế thì đại Bồ tát ấy, vì bị sự chấp ngã và ngã sở làm nhiễu loạn sự an trụ
tứ Thánh đế, liền khởi tâm tự cao, nên chẳng có khả năng hồi hướng Nhất thiết
trí. Đại Bồ tát khi an trụ tất cả pháp Phật nếu nghĩ: Ta có khả năng an trụ tất
cả pháp Phật thì đại Bồ tát ấy vì do chấp ngã và ngã sở làm nhiễu loạn sự an trụ
tất cả pháp Phật, liền khởi tâm tự cao, nên chẳng có khả năng hồi hướng Nhất
thiết trí.
Vì
vậy, nên Kinh nói: Chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ.
3. Chẳng trụ chẳng phải
chẳng trụ.
Phẩm “Vô Trụ” quyển 37,
Hội thứ I,
ĐBN, cụ thọ bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn! Đối
với ngã, hữu tình, cho đến cái biết, cái thấy, con chẳng đắc, chẳng thấy, hoặc
tập hợp, hoặc phân tán, thì tại sao có thể nói đây là ngã, hữu tình, cho đến
đây là cái biết, cái thấy? Bạch Thế Tôn! Cái danh ngã ấy v.v... đều không có chỗ
trụ, cũng chẳng phải chẳng có chỗ trụ. Vì sao? Vì cái nghĩa của danh ngã v.v...
đã vô sở hữu, nên cái danh ngã v.v... đều không có chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng
có chỗ trụ”.
Đoạn
Kinh này nói cái nghĩa của danh ngã đều
không có chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng
có chỗ trụ.
Phẩm “Biện Đại Thừa” quyển 54, Hội thứ I,
ĐBN. Phật bảo:
“Lại
nữa, Thiện Hiện! Ngươi hỏi Đại thừa như vậy là trụ chỗ nào? Thiện Hiện! Đại thừa
như vậy đều không có chỗ trụ. Vì sao? Vì tất cả pháp đều không có chỗ trụ. Vì
sao? Vì chỗ trụ của các pháp bất khả đắc
vậy. Thiện Hiện! Nhưng Đại thừa đây trụ vô sở trụ!
Thiện
Hiện! Như tánh chơn như chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ. Đại thừa cũng vậy, chẳng
trụ chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh chơn như không trụ không chỗ nào chẳng
trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Tánh chơn như, chơn như tánh không. Thiện Hiện! Như
tánh pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh,
ly sanh tánh, bất tư nghì giới, hư không giới, đoạn giới, ly giới, diệt giới,
vô tánh giới, vô tướng giới, vô tác giới, vô vi giới, an ẩn giới, tịch tĩnh giới,
pháp định, pháp trụ, bổn vô, thật tế chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ. Đại thừa
cũng vậy, chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh pháp giới cho đến
tánh thật tế, không trụ không chỗ nào chẳng trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Tánh pháp
giới, pháp giới tánh không, cho đến tánh thật tế, thật tế tánh không vậy.
(…) Thiện
Hiện! Như tánh danh tự giả tưởng thi thiết lời nói chẳng trụ chẳng phải chẳng
trụ. Đại thừa cũng vậy, chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh danh tự
giả tưởng thi thiết lời nói, không trụ không chỗ nào chẳng trụ. Vì cớ sao? Thiện
Hiện! Tánh danh tự giả tưởng thi thiết lời nói, danh tự giả tưởng thi thiết lời
nói tánh không vậy.
Thiện
Hiện! Như tánh vô sanh vô diệt, vô nhiễm vô tịnh, vô tướng vô vi chẳng trụ chẳng
phải chẳng trụ. Đại thừa cũng vậy, chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì
tánh vô sanh vô diệt, vô nhiễm vô tịnh, vô tướng vô vi, không trụ không chỗ nào
chẳng trụ. Vì cớ sao? Thiện Hiện! Tánh vô sanh vô diệt, vô nhiễm vô tịnh, vô tướng
vô vi; vô sanh vô diệt, vô nhiễm vô tịnh, vô tướng vô vi tánh không vậy.
Thiện
Hiện! Do những duyên cớ này, nên Đại thừa như vậy, tuy đều không có chỗ trụ, mà
trụ nơi vô sở trụ”.
Đoạn Kinh này nói: Đại thừa như vậy đều không có chỗ trụ, nhưng Đại
thừa đây trụ vô sở trụ!
Đoạn
Kinh trên 1. chỉ “chỗ an trụ” của Bồ tát. Đoạn Kinh kế tiếp cùng một phẩm nói về
“trụ” nhưng dưới điều kiện là “không được chấp ngã và ngã sở”. Đoạn Kinh 2.
trong phẩm “Vô Trụ”, quyển 37 và phẩm “Biện Đại Thừa”, quyển 54 đều nói “chẳng
trụ chẳng phải chẳng trụ”. Nếu không trụ vào tất cả pháp Phật thì làm sao hoàn
thành sự nghiệp mà hóa độ chúng sanh. Như vậy là có trụ nhưng đừng chấp mình trụ
(ngã) mình chứng (pháp), vì tất cả pháp đều giả danh, giả pháp, không thật nên
gọi là không. Nên đoạn Kinh 3. nói “Đại
thừa tuy đều không có chỗ trụ mà trụ nơi vô sở trụ”. Kết luận đó chính là
chỗ tự hội của Lục tổ Huệ Năng khi nghe câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” (đừng
khởi tâm trụ chấp nơi nào)
mà đại ngộ. Có trụ là có quái ngại, tu tất cả pháp nhưng chẳng trụ ở bất cứ
pháp nào. Tuy không trụ ở bất cứ pháp nào nhưng Bồ tát vẫn có khả năng hoàn
thành sự nghiệp. Không trụ tất cả chỗ là trụ vô sở trụ. Trụ vô sở trụ đây mới
được coi là chân trụ!
Thiền sư D.T. Suzuki
trong Thiền luận III kết luận cho vấn đề trụ hay chẳng trụ như sau:
---o0o---
người thuyết,
không có pháp được thuyết cũng không có người nghe thuyết”.
---o0o---