PHẨM “HỌC TẤT CẢ hay BIỂN HỌC”(1)
Phần cuối quyển 464 đến phần đầu
quyển 465, Hội thứ II, ĐBN.
(Tương đương phẩm “Học Đạo Khắp”,
phần cuối Q.366
cho đến phần đầu Q.372, Hội thứ I,
ĐBN)
Tóm lược:
(Quán tứ cú là Hý luận)
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại bạch
Phật:
- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ tát thành
tựu trí huệ tối thắng như vậy, tuy có thể thọ nhận và thực hành pháp sâu xa
thanh tịnh nhưng không nắm giữ thắng báo.
Phật bảo Thiện Hiện:
- Đúng vậy! Đúng như lời ngươi nói!
Các đại Bồ tát thành tựu trí huệ tối thắng như vậy, tuy có thể nhận và thực
hành pháp sâu xa thanh tịnh nhưng không nắm giữ thắng báo. Vì sao? Vì đại Bồ
tát này đối với các pháp tự tánh chẳng động.
Cụ thọ Thiện Hiện thưa:
- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ tát này có
thể đối với những pháp nào tự tánh chẳng động?
Phật bảo Thiện Hiện:
- Đại Bồ tát này có thể đối pháp vô
tánh tự tánh chẳng động.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Đại Bồ tát này có thể đối với pháp
vô tánh tự tánh nào chẳng động?
Phật bảo Thiện Hiện:
- Đại Bồ tát này có thể đối với tự
tánh của sắc chẳng động, có thể đối với tự tánh của thọ, tưởng, hành, thức
chẳng động; có thể đối với tự tánh của mười hai xứ cho đến mười tám giới chẳng
động; có thể đối với tự tánh của nhãn xúc cho đến ý xúc chẳng động, có thể đối
với tự tánh của các cảm thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các cảm thọ
do ý xúc làm duyên sanh ra chẳng động; có thể đối với tự tánh của bố thí cho
đến Bát nhã Ba la mật chẳng động; có thể đối với tự tánh của bốn tịnh lự, bốn
vô lượng, bốn định vô sắc chẳng động; có thể đối với tự tánh của bốn niệm trụ
cho đến tám chi Thánh đạo chẳng động; có thể đối với tự tánh của ba pháp môn
giải thoát, tám giải thoát, chín định thứ đệ chẳng động; có thể đối với tự tánh
của Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng chẳng động. Như vậy,
cho đến có thể đối với tự tánh của Nhất thiết trí trí chẳng động, có thể đối
với tự tánh của tất cả cảnh giới hữu vi, cảnh giới vô vi chẳng động. Vì sao? Vì
các pháp ấy là vô tánh, các đại Bồ tát đối với tự tánh của vô tánh này chẳng
động, vì vô tánh không thể chứng ngộ vô tánh.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Pháp hữu tánh có thể
chứng ngộ pháp hữu tánh được không?
Phật dạy:
- Không được!
- Bạch Thế Tôn! Pháp vô tánh có thể
chứng ngộ pháp hữu tánh được không?
Phật dạy:
- Không được!
- Bạch Thế Tôn! Pháp hữu tánh có thể
chứng ngộ pháp vô tánh được không?
Phật dạy:
- Không được!
- Bạch Thế Tôn! Pháp vô tánh có thể
chứng ngộ pháp vô tánh được không?
Phật dạy:
- Không được!
- Bạch Thế Tôn! Nếu vậy, thì đúng ra
pháp hữu tánh không thể hiện quán pháp hữu tánh, pháp vô tánh không thể hiện
quán pháp hữu tánh, pháp hữu tánh không thể hiện quán pháp vô tánh, pháp vô
tánh không thể hiện quán pháp vô tánh, như vậy làm sao Thế Tôn có thể đắc và có
thể hiện quán được?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Tuy có đắc, có hiện
quán, nhưng lìa tứ cú (bốn câu)(2).
- Bạch Thế Tôn! Làm sao lìa tứ cú mà
có đắc, có hiện quán?
- Thiện Hiện! Hoặc đắc hoặc quán,
chẳng phải có chẳng phải không, dứt hết hý luận. Vậy nên, Ta nói có đắc
có quán, nhưng lìa tứ cú.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Tại sao gọi đại Bồ tát hý luận?
Phật bảo Thiện Hiện:
- Các đại Bồ tát quán sắc
cho đến thức hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc
vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc không vắng lặng, hoặc viễn
ly hoặc không viễn ly, đó là hý luận. Quán mười hai xứ cho đến mười tám giới
hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh
hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc không vắng lặng, hoặc viễn ly hoặc không
viễn ly, đó là hý luận. Quán nhãn xúc cho đến ý xúc hoặc thường hoặc vô thường,
hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng
lặng hoặc không vắng lặng, hoặc viễn ly hoặc không viễn ly, đó là hý luận. Quán
các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh
ra hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc
tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc không vắng lặng, hoặc viễn ly hoặc
không viễn ly, đó là hý luận. Quán địa giới cho đến ý thức giới hoặc thường
hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất
tịnh, hoặc vắng lặng hoặc không vắng lặng, hoặc viễn ly hoặc không viễn ly, đó
là hý luận. Quán nhân duyên cho đến tăng thượng duyên hoặc thường hoặc vô
thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc
vắng lặng hoặc không vắng lặng, hoặc viễn ly hoặc không viễn ly, đó là hý luận.
Quán vô minh cho đến lão tử hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc
ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc không vắng lặng,
hoặc viễn ly hoặc không viễn ly, đó là hý luận. Quán bố thí cho đến Bát nhã Ba
la mật hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã,
hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc không vắng lặng, hoặc viễn ly hoặc
không viễn ly, đó là hý luận. Quán pháp nội không cho đến pháp vô tính tự tính
không hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc
tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc không vắng lặng, hoặc viễn ly hoặc
không viễn ly, đó là hý luận. Quán chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì hoặc
thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc
bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc không vắng lặng, hoặc viễn ly hoặc không viễn ly,
đó là hý luận. Nói rộng ra, quán tất cả pháp Phật hoặc thường hoặc vô thường,
hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng
lặng hoặc không vắng lặng, hoặc viễn ly hoặc không viễn ly, đó là hý luận.
Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ tát nào
nghĩ: Thánh đế khổ ta phải biết, Thánh đế tập ta phải trừ, Thánh đế diệt
ta phải chứng, Thánh đế đạo ta phải tu, đó là hý luận. Hoặc nghĩ: Ta phải tu
tập bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, đó là hý luận. Hoặc nghĩ: Phải
tu bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo, đó là hý luận. Hoặc nghĩ: Phải tu
pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện, đó là hý luận. Hoặc nghĩ: Phải
tu tám giải thoát, tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ, đó là hý luận.
Hoặc nghĩ: Phải vượt khỏi quả Dự lưu cho đến Độc giác Bồ đề, đó là hý luận.
Hoặc nghĩ: Phải thực hành bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật, đó là hý luận. Hoặc
nghĩ: Phải trụ vào pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không, đó là hý
luận. Hoặc nghĩ: Phải trụ vào chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì, đó là hý
luận. Hoặc nghĩ: Phải nhập vào Bồ tát Chánh tánh ly sanh, đó là hý luận. Hoặc
nghĩ: Phải viên mãn thập địa Bồ tát, đó là hý luận. Hoặc nghĩ: Phải làm phát
sanh năm loại mắt, sáu phép thần thông, đó là hý luận. Hoặc nghĩ: Phải phát
sanh Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, đó là hý luận. Hoặc
nghĩ: Phải viên mãn ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của bậc Đại sĩ, đó
là hý luận. Hoặc nghĩ: Phải làm phát sanh pháp không quên mất, tánh luôn luôn
xả, đó là hý luận. Hoặc nghĩ: Phải làm phát sanh Nhất thiết, Đạo tướng trí,
Nhất thiết tướng trí, đó là hý luận. Hoặc nghĩ: Phải thực hành tất cả Bồ tát
hạnh, đó là hý luận. Hoặc nghĩ: Phải chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề,
đó là hý luận. Hoặc nghĩ: Ta phải trang nghiêm cõi Phật, thành thục hữu tình,
đó là hý luận. Hoặc nghĩ: Ta phải chứng đắc Nhất thiết trí trí, đó là hý luận.
Hoặc nghĩ: Ta phải vĩnh viễn đoạn trừ tất cả tập khí phiền não nối nhau, đó là
hý luận.
Thiện Hiện! Đại Bồ tát nắm lấy đủ
loại phân biệt như vậy là hý luận.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu khi thực
hành Bát Nhã thẳm sâu, các đại Bồ tát không quán sắc cho đến thức là
thường hoặc vô thường, không quán sắc là vui hoặc khổ cho đến không quán
sắc là viễn ly hoặc không viễn ly là không hý luận. Như vậy, cho đến không quán
Nhất thiết trí trí hoặc chứng đắc, hoặc không chứng đắc, là không hý luận. Không
quán tất cả các tập khí phiền não nối nhau hoặc phải vĩnh viễn đoạn trừ, hoặc
không cần phải vĩnh viễn đoạn trừ là không hý luận. Vì sao? Vì tất cả pháp và
các hữu tình, hữu tánh chẳng năng hý luận hữu tánh, hữu tánh chẳng năng hý luận
vô tánh, vô tánh chẳng năng hý luận vô tánh, vô tánh chẳng năng hý luận hữu
tánh. Lìa tánh hữu vô, hoặc năng hý luận, hoặc sở hý luận, hoặc xứ hý luận,
hoặc thời hý luận, đều bất khả đắc. (Q.
464, ĐBN)
Vậy nên, Thiện Hiện! Sắc không hý
luận, thọ tưởng hành thức cũng không lý luận. Như vậy, cho đến Nhất thiết trí
trí không hý luận, dứt hẳn phiền não tập khí nối nhau cũng không hý luận. Như
vậy là các đại Bồ tát thực hành Bát Nhã thẳm sâu không hý luận.
Cụ thọ Thiện Hiện thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ tát khi
thực hành Bát Nhã
thẳm sâu, làm sao quán sắc thọ tưởng hành thức cho đến Nhất thiết trí trí, dứt
hẳn phiền não tập khí nối nhau mà chẳng rơi vào hý luận?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Các đại Bồ tát khi
thực hành Bát Nhã thẳm sâu nên quán sắc vô tự tánh, thọ tưởng hành thức
cũng nên vô tự tánh. Như vậy, cho đến nên quán Nhất thiết trí trí vô tự tánh,
dứt hẳn phiền não tập khí nối nhau cũng vô tự tánh. Nếu pháp vô tự tánh thời
không thể hý luận.
Vậy nên, Thiện Hiện! Sắc thọ tưởng
hành thức chẳng thể hý luận, nên các đại Bồ tát chẳng nên hý luận.
Thiện Hiện! Các đại Bồ tát nếu năng
đối tất cả pháp lìa các hý luận như thế, thực hành Bát Nhã
thẳm sâu phương tiện thiện xảo, bèn vào Bồ Tát Chánh tánh ly sanh. Nếu đã được
vào Bồ Tát Chánh tánh ly sanh, thì mau chứng Nhất thiết trí trí. (Q. 464, ĐBN)
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại bạch
Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp đều
không có tự tánh, lìa hý luận và bất khả đắc thì nhờ những đạo gì mà đại Bồ tát
chứng đắc Bồ tát Chánh tánh ly sanh, đó là đạo Thanh văn, Độc giác hay đạo Như
Lai?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Các đại Bồ tát không
nhờ đạo Thanh văn, không nhờ đạo Độc giác, không nhờ đạo Như Lai được vào Bồ
tát Chánh tánh ly sanh. Nhưng sau khi đã học đầy đủ các đạo, nhờ đạo Bồ tát
vị ấy được nhập Bồ tát Chánh tánh ly sanh. Giống như Bồ tát ở địa vị thứ tám,
trước tiên phải học các đạo, sau nhờ đạo của mình nên được nhập vào Chánh tánh
ly sanh của thừa(địa) mình; cho đến khi chưa viên mãn đạo quả thì vị ấy
chưa thể chứng đắc quả cao nhất của thừa mình. Cũng vậy, các đại Bồ tát trước
tiên phải học viên mãn tất cả các đạo, sau đó nhờ đạo mình mới được nhập vào Bồ
tát Chánh tánh ly sanh; cho đến khi chưa phát sanh định Kim cương dụ thì vẫn
chưa thể chứng đắc Nhất thiết trí trí. Nếu phát sanh định này tương ưng với Bát
Nhã trong một sát na mới có thể chứng đắc Nhất thiết trí trí.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Nếu trước tiên đại Bồ tát đã học
đầy đủ tất cả các đạo, sau đó nhờ đạo mình mới được nhập vào Bồ tát Chánh tánh
ly sanh. Bạch Thế Tôn! Há chẳng phải các hướng và quả của đệ bát Dự lưu, Nhất
lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác, Như Lai, mỗi đạo ấy đều khác nhau sao? Bạch
Thế Tôn! Nếu các đạo đã khác nhau như vậy thì vì sao trước tiên đại Bồ tát phải
học đầy đủ tất cả các đạo, sau đó nhờ đạo mình mới được nhập vào Bồ tát Chánh
tánh ly sanh. Nghĩa là: Các đại Bồ tát phải phát khởi đạo đệ bát mới thành đệ
bát, hoặc phát khởi đạo Cụ kiến mới thành Dự lưu, phát khởi đạo Tiến tu mới
thành Nhất lai, Bất hoàn, phát khởi đạo Vô học mới thành A la hán, phát khởi
đạo Độc giác mới thành Độc giác?
Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ tát thành
tựu đệ bát nói rộng cho đến thành tựu Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc
giác rồi, năng vào Bồ Tát Chánh tánh ly sanh, tất không lẽ ấy. Chẳng vào Bồ Tát
Chánh tánh ly sanh mà năng chứng được Nhất thiết trí trí, cũng không lẽ ấy.
Bạch Thế Tôn! Làm sao khiến con như
thật rõ biết các đại Bồ tát cần đối các đạo khắp học đủ rồi, mới vào Bồ
Tát Chánh tánh ly sanh mà chẳng trái lẽ?
Phật bảo Thiện Hiện:
- Đúng vậy! Đúng như lời ông nói!
Đại Bồ tát nào sau khi thành tựu đệ bát rồi nói rộng cho đến thành tựu Độc giác
mà có thể nhập vào Bồ tát Chánh tánh ly sanh thì thật phi lý; không nhập Bồ tát
Chánh tánh ly sanh mà có thể chứng đắc Nhất thiết trí trí thì cũng thật phi lý.
Cụ thọ Thiện Hiện thưa:
- Bạch Thế Tôn! Nếu vậy thì tại sao
trước tiên các đại Bồ tát phải học đầy đủ các đạo, sau đó nhờ đạo mình mới được
nhập vào Bồ tát Chánh tánh ly sanh; sau khi nhập vào Bồ tát Chánh tánh ly sanh
rồi, vị ấy tuần tự chứng đắc Nhất thiết trí trí, vĩnh viễn đoạn trừ tất cả tập
khí phiền não nối tiếp.
Phật bảo Thiện Hiện:
- Từ lúc mới phát tâm các đại Bồ tát
siêng năng tinh tấn tu hành sáu Ba la mật, dùng trí tuệ thù thắng vượt qua tám
địa, là Tịnh quán địa cho đến Độc giác địa; tuy tu tất cả tám địa vừa kể nhưng
vị ấy dùng trí tuệ thù thắng để vượt qua. Nhờ Đạo tướng trí vị ấy được nhập vào
Bồ tát Chánh tánh ly sanh. Sau khi đã nhập Bồ tát Chánh tánh ly sanh, tuần tự
lại nhờ Nhất thiết tướng trí, vị ấy chứng đắc hoàn toàn Nhất thiết trí trí,
đoạn trừ vĩnh viễn tất cả tập khí phiền não nối nhau.
Thiện Hiện! Ngươi nên biết, trí của
đệ bát tức là nhẫn của đại Bồ tát, trí hoặc đoạn của Dự lưu, Nhất lai, Bất
hoàn, A la hán và Độc giác cũng là nhẫn của đại Bồ tát. Như vậy, này Thiện
Hiện! Các đại Bồ tát trước hết phải học đầy đủ tất cả các đạo, sau đó nhờ đạo
của mình mới được nhập vào Bồ tát Chánh tánh ly sanh. Sau khi đã nhập vào Bồ
tát Chánh tánh ly sanh, vị ấy tuần tự chứng đắc Nhất thiết trí trí. Sau khi đã
chứng đắc Nhất thiết trí trí, vị ấy mới đem kết quả đó làm lợi ích cho tất cả hữu
tình.
Bấy giờ, Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch
Phật:
- Bạch Thế Tôn! Như đã nói, các đại
Bồ tát nên học để biết tướng của tất cả đạo như là đạo Thanh văn, hoặc đạo Độc
giác, hoặc đạo Bồ tát, hoặc đạo Như Lai. Trí biết tất cả loại tướng của
những đạo này gọi là Đạo tướng trí. Các đại Bồ tát làm cách nào để phát
sanh Đạo tướng trí này?
Phật bảo Thiện Hiện:
- Các hành, trạng, tướng có thể hiển
bày Đạo tướng trí là đối với tất cả các hành, trạng, tướng như vậy, các đại Bồ
tát đều hiện chứng Đẳng Giác. Sau khi đã hiện chứng Đẳng Giác, họ như thật
giảng nói, khai thị, tạo dựng, kiến lập cho người khác, làm cho các hữu tình
được hiểu biết không điên đảo và tùy ý đạt được những lợi ích mà họ mong cầu.
Đối với tất cả âm thanh, ngôn ngữ, đại Bồ tát này đều được pháp môn Đà la ni
thiện xảo. Nhờ pháp môn Đà la ni thiện xảo này, vị ấy phát sanh đủ loại âm
thanh ngôn ngữ, giảng nói chánh pháp cho hết thảy các loài hữu tình khắp Tam
thiên đại thiên thế giới, làm cho họ biết âm thanh được nghe đều như tiếng
vang. Do đó, tuy có hiểu nhưng họ không chấp trước. Thiện Hiện! Do nhân duyên
này các đại Bồ tát nên học viên mãn các Đạo tướng trí. Sau khi đã học viên mãn
Đạo tướng trí, vị ấy biết như thật về các loại ý thích và tùy miên khác nhau
của tất cả các loài hữu tình. Hãy làm lợi ích an lạc theo ý thích của họ nghĩa
là biết như thật ý thích tùy miên của các hữu tình ở địa ngục và nhân quả của
nó, biết rồi tìm cách ngăn lấp đường đó; cũng biết như thật về ý thích tùy miên
của các hữu tình thuộc bàng sanh và nhân quả của nó, biết rồi tìm cách ngăn lấp
đường đó; cũng biết như thật về ý thích tùy miên của các hữu tình thuộc cõi quỷ
và nhân quả của nó, biết rồi tìm cách ngăn lấp đường ấy; cũng biết như thật về
ý thích tùy miên của rồng, Dạ xoa, A tu la và nhân quả của nó, biết rồi tìm cách
ngăn lấp đường ấy; cũng biết như thật về ý thích tùy miên của người và chư
thiên cõi Dục và nhân quả của họ, biết rồi tìm cách ngăn che đường ấy; cũng
biết như thật về ý thích tùy miên của trời Phạm chúng cho đến trời Sắc cứu
cánh, trời Không vô biên xứ cho đến trời Phi tưởng phi phi tưởng xứ và nhân quả
của họ, biết rồi tìm cách ngăn che đường ấy; cũng biết như thật về bốn niệm trụ
cho đến tám chi Thánh đạo, cũng biết như thật về bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn
định vô sắc và nhân quả của nó; cũng biết như thật về tám giải thoát, tám thắng
xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ và nhân quả của nó; cũng biết như thật về
Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo và nhân quả của nó; cũng biết như thật về bố thí
cho đến Bát nhã Ba la mật và nhân quả của nó; cũng biết như thật về pháp nội
không cho đến pháp vô tính tự tính không và nhân quả của nó; cũng biết như thật
về chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì và nhân quả của nó; nói rộng ra, cũng
biết như thật về tất cả pháp Phật và nhân quả của chúng.
Thiện Hiện! Sau khi biết như thật về
tất cả pháp Phật và nhân quả của chúng rồi, tùy theo căn của họ, các đại Bồ tát
giúp các hữu tình đứng vững nơi đạo ba thừa, làm cho họ siêng năng tu học đạt
được cứu cánh.
Thiện Hiện! Các đại Bồ tát nên phát
sanh các Đạo tướng trí như vậy. Đại Bồ tát nào có thể học các Đạo tướng trí này
thì có thể biết được các loại giới tánh, ý thích và tùy miên của các hữu tình.
Sau khi đã biết, vị ấy tùy theo căn cơ mà giảng nói chánh pháp giúp cho họ đạt
được thắng báo mà họ mong cầu, quyết không bị tổn hại. Vì sao? Vì đại Bồ tát
này hoàn toàn thông đạt căn cơ hơn kém của hữu tình, hiểu rõ như thật tâm sở
sai biệt và sự qua lại sanh tử của các hữu tình nên pháp họ nói ra không làm
tổn hại hữu tình.
Thiện Hiện! Các đại Bồ tát nên thực
hành đạo Bát nhã Ba la mật này. Vì sao? Vì tất cả pháp Bồ đề phần và đạo Thanh
văn, Độc giác, mà Bồ tát học đều lệ thuộc vào Bát Nhã thẳm sâu, tất cả Thanh
văn, Độc giác, Bồ tát học pháp này đều đạt được cứu cánh. (Q.465, ĐBN)
Bấy giờ, Cụ thọ Thiện Hiện bạch
Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả Bồ đề
phần pháp cho đến Bồ đề, tất cả pháp như vậy, chẳng hợp, chẳng tan, vô sắc, vô
kiến, vô đối, nhất tướng chỗ gọi vô tướng thì vì sao Bồ đề phần pháp như vậy có
thể nắm giữ Bồ đề? Bạch Thế Tôn! Tất cả chẳng hợp, chẳng tan, vô sắc, vô kiến, vô
đối, nhất tướng chỗ gọi là vô tướng, chẳng thủ, chẳng xả đối với pháp khác.
Giống như hư không, không thủ, không xả, đối với tất cả pháp vì tự tánh là
không. Cũng vậy, các pháp đều tự tánh là không nên không có thủ, xả đối với
pháp khác thì vì sao nói Bồ đề phần pháp như bốn niệm trụ v.v… có thể nắm giữ
Bồ đề?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như
lời ông nói! Do tự tánh của tất cả các pháp đều không, không thủ, không xả
nhưng các hữu tình không thể hiểu rằng tự tánh của tất cả pháp không, vì vậy để
làm lợi ích cho họ, Ta phương tiện giảng nói Bồ đề phần pháp có thể nắm bắt Bồ
đề.
Lại nữa, Thiện Hiện! Hoặc sắc thọ
tưởng hành thức. Hoặc nhãn xứ cho đến pháp xứ. Hoặc sắc xứ cho đến pháp xứ.
Hoặc nhãn giới cho đến ý giới. Hoặc sắc giới cho đến pháp giới. Hoặc nhãn thức
giới cho đến ý thức giới. Hoặc nhãn xúc cho đến ý xúc. Hoặc các thọ do nhãn xúc
làm duyên sanh ra cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra. Hoặc địa giới cho
đến thức giới. Hoặc nhân duyên cho đến tăng thượng duyên. Hoặc vô minh cho đến lão
tử. Hoặc bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Hoặc pháp nội không cho đến pháp vô
tánh tự tánh không. Hoặc chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì. Hoặc Thánh đế
khổ, tập, diệt, đạo. Hoặc bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo. Hoặc bốn tịnh
lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Hoặc ba pháp môn giải thoát. Hoặc tám giải
thoát cho đến mười biến xứ. Hoặc Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa. Hoặc Cực hỷ
địa cho đến Pháp vân địa. Hoặc tất cả pháp môn Đà la ni, pháp môn Tam ma địa.
Hoặc năm loại mắt, sáu phép thần thông. Hoặc Như Lai mười lực cho đến mười tám
pháp Phật bất cộng. Hoặc ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của bậc Đại sĩ.
Hoặc pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả. Hoặc Nhất thiết trí, Đạo tướng
trí, Nhất thiết tướng trí. Hoặc quả Dự lưu cho đến Độc giác Bồ đề. Hoặc tất cả
Bồ tát hạnh. Hoặc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Hoặc đoạn trừ tất cả phiền
não tập khí nối nhau, hoặc Nhất thiết trí trí (Tất cả pháp Phật).
Tất cả những pháp này đều ở trong
Thánh pháp Tỳ nại da chẳng hợp, chẳng tan, vô sắc, vô kiến, vô đối, nhất tướng
chỗ gọi vô tướng. Để làm lợi ích các loài hữu tình, giúp họ hiểu đúng và nhập
vào thật tướng các pháp, nên Như Lai dựa vào thế tục để giảng nói, không dựa
vào thắng nghĩa.
Thiện Hiện nên biết: Các đại Bồ tát
nên học để hiểu biết tất cả pháp. Sau khi học và hiểu biết rồi, vị ấy thông
suốt như thật các pháp như thế, đáng thọ dụng hay không đáng thọ dụng.
Cụ thọ Thiện Hiện liền bạch Phật:
- Các đại Bồ tát phải học và hiểu
những pháp gì mới có thể thông suốt như thật pháp đáng thọ dụng hay không đáng
thọ dụng?
Phật bảo Thiện Hiện:
- Các đại Bồ tát phải học và hiểu
biết pháp Thanh văn và Độc giác rồi mới thông suốt như thật, không nên thọ
dụng, phải học và hiểu biết tất cả pháp tương ưng với Nhất thiết trí trí, mới
thông suốt như thật tất cả các loại chủng tướng nên thọ dụng.
Thiện Hiện! Các đại Bồ tát đối với
Thánh pháp Tỳ nại da đây, nên học Bát Nhã thẳm sâu như thế.
(Học pháp Vô tướng)
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Thế Tôn đã thuyết
Thánh pháp Tỳ nại da. Vậy, thế nào là Thánh pháp Tỳ nại da?
Phật bảo Thiện Hiện:
- Hoặc Thanh văn, hoặc Độc giác,
hoặc Bồ tát, hoặc chư vị Như Lai đối với tham, sân, si chẳng hợp, chẳng tan.
Đối với ngũ phần thuận hạ kiết sử chẳng hợp, chẳng tan. Đối với ngũ phần thuận
thượng kiết sử chẳng hợp, chẳng tan. Đối với bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn
định vô sắc chẳng hợp, chẳng tan. Đối với bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh
đạo chẳng hợp, chẳng tan. Đối với Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo chẳng hợp, chẳng
tan. Đối với ba pháp môn giải thoát chẳng hợp, chẳng tan. Đối với tám giải
thoát cho đến mười biến xứ chẳng hợp, chẳng tan. Đối với Tịnh quán địa cho đến
Như Lai địa chẳng hợp, chẳng tan. Đối với năm loại mắt, sáu phép thần thông
chẳng hợp, chẳng tan. Đối với bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật chẳng hợp, chẳng
tan. Đối với pháp nội Không cho đến pháp vô tánh tự tánh Không chẳng hợp, chẳng
tan. Đối với chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì chẳng hợp, chẳng tan. Nói
rộng ra, cho đến tất cả pháp Phật chẳng hợp, chẳng tan.
Thiện Hiện! Kia gọi là Thánh giả,
đây là Tỳ nại da pháp thiện trị của Thánh giả kia, vậy nên gọi Thánh pháp Tỳ
nại da. Vì sao? Tất cả pháp đây vô sắc, vô kiến, vô đối, nhất tướng chỗ gọi vô
tướng, các Thánh giả kia như thật hiện thấy.
Thiện Hiện! Phải biết pháp vô sắc
cùng pháp vô sắc chẳng hợp chẳng tan, pháp vô kiến cùng pháp vô kiến chẳng hợp
chẳng tan, pháp vô đối cùng pháp vô đối chẳng hợp chẳng tan, pháp nhất tướng
cùng pháp nhất tướng chẳng hợp chẳng tan, pháp vô tướng cùng pháp vô tướng
chẳng hợp chẳng tan.
Thiện Hiện! Các Bồ tát đối Bát Nhã
thẳm sâu vô sắc, vô kiến, vô đối, nhất tướng, vô tướng đây thường nên tu học.
Học rồi chẳng nắm lấy tướng tất cả pháp.
Bấy giờ, Cụ thọ Thiện Hiện bạch
Phật:
- Bạch Thế Tôn! Lẽ nào các đại Bồ
tát không nên học tướng của sắc cho đến tướng của thức? Lẽ nào không nên học
tướng của mười hai xứ cho đến mười tám giới. Lẽ nào không nên học tướng của
nhãn xúc cho đến tướng của ý xúc. Lẽ nào không nên học tướng của các thọ do
nhãn xúc làm duyên sanh ra cho đến tướng của các thọ do ý xúc làm duyên sanh
ra. Lẽ nào không nên học tướng của địa giới cho đến tướng của thức giới. Lẽ nào
không nên học tướng của nhân duyên cho đến tướng của tăng thượng duyên. Lẽ nào
không nên học tướng của vô minh cho đến tướng của lão tử. Lẽ nào không nên học
tướng của bố thí cho đến tướng của Bát nhã Ba la mật. Lẽ nào không nên học
tướng của pháp nội không cho đến tướng của pháp vô tánh tự tánh không. Lẽ nào
không nên học tướng của chơn như cho đến tướng của cảnh giới bất tư nghì. Nói
rộng ra, lẽ nào không nên học tướng của tất cả pháp Phật. Lẽ nào không nên học
tướng của việc dứt hẳn tất cả phiền não tập khí nối nhau và lẽ nào không học
tướng của Nhất thiết trí trí. Lẽ nào không nên học tướng của việc biết khổ, dứt
trừ nguyên nhân của khổ, chứng đắc Niết bàn và tu đạo. Lẽ nào không nên học
tướng của việc quán duyên khởi theo chiều thuận nghịch. Lẽ nào không nên học
tướng Thánh pháp của tất cả bậc Thánh. Lẽ nào không nên học tướng của cảnh giới
hữu vi và cảnh giới vô vi?
Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ tát không
học các pháp tướng và các hành tướng thì làm sao có thể vượt qua địa vị của tất
cả Thanh văn, Độc giác. Nếu không thể vượt qua địa vị của tất cả Thanh văn, Độc
giác thì làm sao có thể nhập vào Bồ tát Chánh tánh ly sanh. Nếu không thể nhập
vào Bồ tát Chánh tánh ly sanh thì làm sao có thể chứng đắc Nhất thiết trí trí.
Nếu không thể chứng đắc Nhất thiết trí trí thì làm sao có thể chuyển pháp luân
vi diệu. Nếu không thể chuyển pháp luân vi diệu thì làm sao có thể dùng chánh
pháp ba thừa để an lập hữu tình giúp họ vượt qua biển khổ sanh tử không bờ mé?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Nếu tất cả pháp có
thật tướng thì các đại Bồ tát nên học các pháp đó; do tất cả các pháp không có
thật tướng nên các đại Bồ tát không học tướng của nó, cũng không học pháp vô
tướng. Vì sao? Vì dù Phật có xuất thế hay không xuất thế thì pháp giới là
thường trụ và các pháp chỉ có một tướng là vô tướng. Vô tướng như vậy đã chẳng
có tướng, cũng chẳng vô tướng, nên không thể học được.
Bấy giờ, Cụ thọ Thiện Hiện bạch
Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả các pháp
đều chẳng có tướng, cũng chẳng không(tướng) thì làm sao đại Bồ tát có
thể tu Bát Nhã. Bạch Thế Tôn! Đại Bồ tát nào không tu Bát Nhã thì không thể
vượt qua địa vị Thanh văn, Độc giác. Nếu không thể vượt qua địa vị Thanh văn,
Độc giác thì không thể nhập vào Bồ tát Chánh tánh ly sanh. Nếu không thể nhập
vào bồ tát Chánh tánh ly sanh thì không thể phát sanh Bồ tát Vô sanh pháp nhẫn.
Nếu không thể phát sanh Vô sanh pháp nhẫn thì không thể phát sanh thần thông
thắng diệu của Bồ tát. Nếu không thể phát sanh thần thông thắng diệu thì không
thể trang nghiêm cõi Phật, thành thục hữu tình. Nếu không thể trang nghiêm cõi
Phật, thành thục hữu tình thì không thể chứng đắc Nhất thiết trí trí. Nếu không
thể chứng đắc Nhất thiết trí trí thì không thể chuyển pháp luân vi diệu. Nếu
không thể chuyển pháp luân vi diệu thì không thể an lập hữu tình, giúp họ trụ
nơi quả Dự lưu, hoặc quả Nhất hoàn, hoặc quả Bất hoàn, hoặc quả A la hán, hoặc
Độc giác Bồ đề, hoặc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, cũng không thể an lập
hữu tình giúp họ trụ vào phước nghiệp của tánh bố thí, hoặc phước nghiệp của
tánh trì giới, hoặc phước nghiệp của tánh tu tập để được giàu có, vui sướng tự
tại trong trời người?
Phật bảo Thiện Hiện:
- Đúng vậy! Đúng như lời ngươi nói!
Tất cả pháp chẳng có tướng, chẳng vô tướng. Đại Bồ tát nào biết tất cả pháp
hoặc có tướng, hoặc vô tướng, hoặc đồng một tướng chỗ gọi vô tướng. Tu vô tướng
này tức là tu Bát nhã Ba la mật.
(Tu khiển và tu trừ khiển )
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ tát tu
vô tướng này là tu Bát Nhã?
Phật bảo Thiện Hiện:
- Đại Bồ tát nào tu trừ khiển tất cả
pháp là tu Bát Nhã.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ tát tu
trừ khiển tất cả pháp là tu Bát Nhã?
Phật bảo Thiện Hiện:
- Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát tu
trừ khiển sắc, cũng trừ khiển tu đây, gọi là tu Bát nhã Ba la mật. Tu trừ khiển
thọ, tưởng, hành, thức, cũng trừ khiển tu đây, gọi là tu Bát nhã Ba la mật. Tu
trừ khiển mười hai xứ cho đến mười tám giới, cũng trừ
khiển tu đây, gọi là tu Bát nhã Ba la mật. Tu trừ khiển nhãn xúc cho đến ý xúc,
cũng trừ khiển tu đây, gọi là tu Bát nhã Ba la mật. Tu trừ khiển các thọ do
nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra, cũng
trừ khiển tu đây, gọi là tu Bát nhã Ba la mật. Tu trừ khiển địa giới cho đến
thức giới, cũng trừ khiển tu đây, gọi là tu Bát nhã Ba la mật. Tu trừ khiển
nhân duyên cho đến tăng thượng duyên, cũng trừ khiển tu đây, gọi là tu Bát nhã
Ba la mật. Tu trừ khiển vô minh cho đến lão tử, cũng trừ khiển tu đây, gọi là
tu Bát nhã Ba la mật. Tu trừ khiển bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc,
cũng trừ khiển tu đây, gọi là tu Bát nhã Ba la mật. Tu trừ khiển niệm Phật cho
đến niệm hơi thở, cũng trừ khiển tu đây, gọi là tu Bát nhã Ba la mật. Tu trừ
khiển tưởng vô thường cho đến tưởng diệt, cũng trừ khiển tu đây, gọi là tu Bát
nhã Ba la mật. Tu trừ khiển tưởng ngã cho đến tưởng kiến giả, cũng trừ khiển tu
đây, gọi là tu Bát nhã Ba la mật. Tu trừ khiển tưởng duyên khởi và tưởng phi
duyên khởi, cũng trừ khiển tu đây, gọi là tu Bát nhã Ba la mật. Tu trừ khiển
tưởng thường, lạc, ngã, tịnh và tưởng vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh, cũng
trừ khiển tu đây, gọi là tu Bát nhã Ba la mật. Tu trừ khiển bốn niệm trụ cho
đến tám chi Thánh đạo, cũng trừ khiển tu đây, gọi là tu Bát nhã Ba la mật. Tu
trừ khiển pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện, cũng trừ khiển tu
đây, gọi là tu Bát nhã Ba la mật. Tu trừ khiển tám giải thoát cho đến mười biến
xứ, cũng trừ khiển tu đây, gọi là tu Bát nhã Ba la mật.
Tu trừ khiển tưởng Thánh đế và tưởng
phi Thánh đế, cũng trừ khiển tu đây, gọi là tu Bát nhã Ba la mật. Tu trừ khiển
Tam ma địa có tầm, có tứ, Tam ma địa không tầm có tứ, Tam ma địa không tầm,
không tứ, cũng trừ khiển tu đây, gọi là tu Bát nhã Ba la mật. Tu trừ khiển
Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo, cũng trừ khiển tu đây, gọi là tu Bát nhã Ba la
mật. Tu từ khiển khổ trí cho đến như thuyết trí, cũng trừ khiển tu đây, gọi là
tu Bát nhã Ba la mật. Tu trừ khiển bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật, cũng trừ
khiển tu đây, gọi là tu Bát nhã Ba la mật. Tu trừ khiển pháp nội không cho đến
pháp vô tính tự tính không, cũng trừ khiển tu đây, gọi là tu Bát nhã Ba la mật.
Tu trừ khiển chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì, cũng trừ khiển tu đây, gọi
là tu Bát nhã Ba la mật. Nói rộng ra, tu trừ khiển tất cả pháp Phật cũng trừ
khiển tu đây, gọi là tu Bát nhã Ba la mật. Tu trừ khiển vĩnh viễn các tập khí
phiền não nối nhau, cũng trừ khiển tu đây, gọi là tu Bát nhã Ba la mật. Tu trừ
khiển Nhất thiết trí trí, cũng trừ khiển tu đây, gọi là tu Bát nhã Ba la mật.
Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là đại
Bồ tát tu trừ khiển sắc, cũng trừ khiển tu đây, gọi là tu Bát nhã Ba la mật? Tu
trừ khiển thọ, tưởng, hành, thức, cũng trừ khiển tu đây, gọi là tu Bát nhã Ba
la mật? Nói rộng cho đến trừ khiển vĩnh viễn các tập khí phiền não nối nhau,
cũng trừ khiển tu đây, gọi là tu Bát nhã Ba la mật? Tu trừ khiển Nhất thiết trí
trí, cũng trừ khiển tu đây, gọi là tu Bát nhã Ba la mật?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát
khi tu hành Bát Nhã sâu xa này, nếu nghĩ có sắc và có sự tu này thì chẳng phải
trừ khiển sắc, chẳng phải tu Bát nhã Ba la mật. Nếu nghĩ có thọ, tưởng,
hành, thức và có sự tu này, thì chẳng phải trừ khiển thọ, tưởng, hành, thức,
chẳng phải tu Bát nhã Ba la mật. Nói rộng, cho đến nếu nghĩ có đoạn trừ vĩnh
viễn các tập khí phiền não nối nhau và có sự tu này, thì chẳng phải trừ
khiển vĩnh viễn các tập khí phiền não nối nhau, thì chẳng phải tu Bát nhã Ba la
mật. Nếu nghĩ có Nhất thiết trí trí và có sự tu này, thì chẳng phải trừ khiển
Nhất thiết trí trí, chẳng phải tu Bát nhã Ba la mật.
Nhưng khi tu hành Bát Nhã sâu xa
này, các đại Bồ tát chẳng nhớ sắc và nghĩ tu đây thì đó là trừ
khiển sắc, là tu Bát nhã Ba la mật. Chẳng nhớ thọ, tưởng,
hành, thức và nghĩ tu đây là trừ khiển thọ, tưởng, hành, thức, là tu Bát nhã Ba
la mật. Nói rộng, cho đến chẳng nhớ đoạn trừ vĩnh viễn các tập khí phiền
não nối nhau và nghĩ tu
đây là trừ khiển vĩnh viễn các tập khí phiền não nối nhau, là tu Bát nhã Ba la
mật. Chẳng nhớ Nhất thiết trí trí và nghĩ tu đây là trừ khiển Nhất thiết
trí trí, là tu Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Vì chẳng phải do tưởng đoạn trừ sự
trói buộc tùy miên, tham, sân, si, mà có thể tu Bát nhã Ba la mật. Vì vậy, này
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát tu trừ khiển sắc, cũng trừ khiển tu đây, thì gọi là
tu Bát nhã Ba la mật. Tu trừ khiển thọ, tưởng, hành, thức, cũng trừ khiển tu
đây gọi là tu Bát nhã Ba la mật. Nói rộng, cho đến tu trừ khiển vĩnh viễn các
tập khí phiền não nối nhau và trừ khiển tu đây, gọi là tu Bát nhã Ba la mật. Tu
trừ khiển Nhất thiết trí trí và trừ khiển tu đây, gọi là tu Bát nhã Ba la mật.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Người nào
quán tưởng có, thì chẳng thể tu bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Nói rộng, cho
đến người quán tưởng có, chẳng thể đoạn trừ vĩnh viễn các tập khí phiền não nối
nhau, cũng chẳng thể tu Nhất thiết trí trí. Vì sao? Vì người quán tưởng có, còn
chấp có ngã và ngã sở, bởi còn chấp nên còn mắc hai bên. Vì mắc hai bên nên
nhất định không được giải thoát sanh tử, không đạo, không Niết bàn, làm sao có
thể như thật tu sáu pháp Ba la mật, nói rộng cho đến đoạn trừ vĩnh viễn tập khí
phiền não nối nhau và có thể tu tập Nhất thiết trí trí.
(Pháp môn bất nhị)
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Những gì là có, những gì là chẳng
có?
Phật bảo Thiện Hiện:
- Hai là có, không hai là chẳng
có.
Thiện Hiện lại hỏi:
- Thế nào là hai? Thế nào là không
hai?
Phật bảo:
- Tưởng sắc cho đến tưởng thức là
hai, tưởng sắc không cho đến tưởng thức không là không hai. Tưởng nhãn xứ cho
đến tưởng ý xứ là hai; tưởng nhãn xứ không cho đến tưởng ý xứ không là không
hai. Tưởng sắc xứ cho đến tưởng pháp xứ là hai; tưởng sắc xứ không cho đến
tưởng pháp xứ không là không hai. Tưởng nhãn giới cho đến tưởng ý giới là hai;
tưởng nhãn giới không cho đến tưởng ý giới không là không hai. Tưởng sắc giới
cho đến tưởng pháp giới là hai; tưởng sắc giới không cho đến tưởng pháp giới
không là không hai. Tưởng nhãn thức giới cho đến tưởng ý thức giới là hai;
tưởng nhãn thức giới không cho đến tưởng ý thức giới không là không hai. Tưởng
nhãn xúc cho đến tưởng ý xúc là hai; tưởng nhãn xúc không cho đến tưởng ý xúc
không là không hai. Tưởng về các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến
tưởng về các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là hai; tưởng về các thọ do nhãn
xúc làm duyên sanh ra không, cho đến tưởng về các thọ do ý xúc làm duyên
sanh ra không là không hai. Tưởng địa giới cho đến tưởng thức giới là hai;
tưởng địa giới không cho đến tưởng thức giới không là không hai. Tưởng nhân
duyên cho đến tưởng tăng thượng duyên là hai; tưởng nhân duyên không cho đến
tưởng tăng thượng duyên không là không hai. Tưởng vô minh cho đến tưởng lão, tử
là hai; tưởng vô minh không cho đến tưởng lão, tử không là không hai; tưởng bố
thí cho đến tưởng Bát nhã Ba la mật là hai; tưởng bố thí không cho đến tưởng Bát
nhã Ba la mật không là không hai. Tưởng pháp nội không cho đến tưởng pháp vô
tánh tự tánh không là hai; tưởng pháp nội không không cho đến tưởng pháp vô
tánh tự tánh không không là không hai. Tưởng chơn như cho đến tưởng cảnh giới
bất tư nghì là hai; tưởng chơn như không cho đến tưởng cảnh giới bất tư nghì
không là không hai. Nói rộng ra, tưởng tất cả pháp Phật từ Thánh đế khổ, tập,
diệt, đạo là hai. Cho đến tưởng tất cả Bồ tát hạnh và quả vị Vô Thượng Chánh
Đẳng Bồ đề là hai; tưởng tất cả Bồ tát hạnh và quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ
đề không là không hai. Tưởng cảnh giới hữu vi, cảnh giới vô vi là hai; tưởng
cảnh giới hữu vi, cảnh giới vô vi không là không hai. (Q.465, ĐBN)
Thiện Hiện! Cho đến tất cả tưởng đều
là hai, cho đến tất cả hai đều là có, cho đến tất cả có đều là sanh tử. Đã sanh
tử thì không thể giải thoát sanh, lão, bệnh, tử, sầu than, lo, buồn, khổ não.
Không các tưởng đều là không hai. Các pháp không hai đều là chẳng có. Các pháp
chẳng có đều không sanh tử. Người không sanh tử thì có thể giải thoát sanh,
lão, bệnh, tử v.v...
Thiện Hiện! Do nhân nguyên đây nên
biết: Đối với kẻ tưởng có hai thì chắc chắn không bố thí cho đến Bát nhã Ba la
mật, không đạo không đắc, cũng không hiện quán. Cho đến thấp nhất là thuận nhẫn
(3)còn chẳng có, huống là biết rõ về sắc, nói rộng cho đến Nhất thiết trí trí. Kẻ
ấy còn không thể tu các Thánh đạo, huống là có thể đạt quả Dự lưu cho đến Độc
giác Bồ đề, đoạn trừ vĩnh viễn các tập khí phiền não tiếp nhau, chứng đắc quả
vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, vận chuyển pháp luân vi diệu, độ thoát các loài
hữu tình.
Thích nghĩa:
(1). Phẩm này của hai hội:
Hội thứ II và Hội thứ III cùng một nội dung. Nhưng Hội thứ III có phẩm
tựa rất hay là “Huệ Đến Bờ Kia”. Nội dung phẩm này rất phong phú, nghĩa thú
thâm trầm giống như Tâm Kinh Bát nhã Ba la mật.
(2). Tứ cú hay “bốn câu” có, không,
chẳng có chẳng không, cũng chẳng có cũng không. Tất cả tri kiến thế tục đều
chẳng ngoài bốn câu này. Vì vậy, Phật cho là hý luận!
(3). Thuận nhẫn: Giai đoạn thứ ba
trong năm giai đoạn nhẫn nhục của Bồ Tát.
Sơ giải:
Phẩm “Học Tất Cả hay Biển Học” của
Hội thứ II và phẩm “Học Đạo Khắp”, phần cuối quyển 366 cho đến phần đầu
quyển 372, Hội thứ I, ĐBN giống nhau như hai anh em sanh đôi. Hội thứ I đã
thích nghĩa và chiết giải rồi, nên ở đây không lặp lại nữa. Quý vị có thể quay
lại tụng phẩm “Học Đạo Khắp”, nếu muốn. Tuy nhiên, phẩm này có một pháp môn tuy
không được phổ thông lắm nhưng rất quan trọng trong việc tu hành nhất là tu Bát
nhã Ba la mật, nên chúng tôi trình bày ra đây để Quý vị tham cứu: Đó là “tu
khiển và tu trừ khiển”. Hai cụm từ này có vẻ lạ tai, nên phải chiết tự để dễ
nắm vững vấn đề:
1. Khiển: Có nghĩa
là sai bảo như điều binh, khiển tướng. Khiển còn có nghĩa quở mắng, khiển trách
hay trách móc. Nếu người bị khiển trách hay trách móc thì sẽ bị phiền nhiễu, ê
chề.
2. Trừ khiển: Có nghĩa
không nên khiển trách hay mắng nhiếc nữa để được êm thắm!
Hãy đọc kỹ một lần nữa đoạn kinh
này:
“Phật bảo Thiện Hiện:
- Đại Bồ tát nào tu trừ khiển tất cả
pháp là tu Bát Nhã.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ tát tu
trừ khiển tất cả pháp là tu Bát Nhã?
Phật bảo Thiện Hiện:
- Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát tu
trừ khiển sắc, cũng trừ khiển tu đây, gọi là tu Bát nhã Ba la mật. Tu trừ khiển
thọ, tưởng, hành, thức, cũng trừ khiển tu đây, gọi là tu Bát nhã Ba la mật. Tu
trừ khiển mười hai xứ cho đến mười tám giới, cũng trừ
khiển tu đây, gọi là tu Bát nhã Ba la mật. Tu trừ khiển nhãn xúc cho đến ý xúc,
cũng trừ khiển tu đây, gọi là tu Bát nhã Ba la mật. Tu trừ khiển các thọ do
nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra, cũng
trừ khiển tu đây, gọi là tu Bát nhã Ba la mật. Tu trừ khiển địa giới cho đến
thức giới, cũng trừ khiển tu đây, gọi là tu Bát nhã Ba la mật. Tu trừ khiển
nhân duyên cho đến tăng thượng duyên, cũng trừ khiển tu đây, gọi là tu Bát nhã
Ba la mật. Tu trừ khiển vô minh cho đến lão tử, cũng trừ khiển tu đây, gọi là
tu Bát nhã Ba la mật v.v… Nói rộng ra, tu trừ khiển tất cả pháp Phật cũng trừ
khiển tu đây, gọi là tu Bát nhã Ba la mật. Tu trừ khiển vĩnh viễn các tập khí
phiền não nối nhau, cũng trừ khiển tu đây, gọi là tu Bát nhã Ba la mật. Tu trừ
khiển Nhất thiết trí trí, cũng trừ khiển tu đây, gọi là tu Bát nhã Ba la mật.
Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là đại
Bồ tát tu trừ khiển sắc, cũng trừ khiển tu đây, gọi là tu Bát nhã Ba la mật? Tu
trừ khiển thọ, tưởng, hành, thức, cũng trừ khiển tu đây, gọi là tu Bát nhã Ba
la mật? Nói rộng cho đến trừ khiển vĩnh viễn các tập khí phiền não nối nhau,
cũng trừ khiển tu đây, gọi là tu Bát nhã Ba la mật? Tu trừ khiển Nhất thiết trí
trí, cũng trừ khiển tu đây, gọi là tu Bát nhã Ba la mật?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát
khi tu hành Bát Nhã sâu xa này, nếu nghĩ có sắc và có sự tu này thì chẳng phải
trừ khiển sắc, chẳng phải tu Bát nhã Ba la mật. Nếu nghĩ có thọ, tưởng, hành,
thức và có sự tu này, thì chẳng phải trừ khiển thọ, tưởng, hành, thức, chẳng
phải tu Bát nhã Ba la mật. Nói rộng, cho đến nếu nghĩ có đoạn trừ vĩnh viễn các
tập khí phiền não nối nhau và có sự tu này, thì chẳng phải trừ khiển vĩnh viễn
các tập khí phiền não nối nhau, thì chẳng phải tu Bát nhã Ba la mật. Nếu nghĩ
có Nhất thiết trí trí và có sự tu này, thì chẳng phải trừ khiển Nhất thiết trí
trí, chẳng phải tu Bát nhã Ba la mật.
Nhưng khi tu hành Bát Nhã sâu xa
này, các đại Bồ tát chẳng nhớ sắc và nghĩ tu đây thì đó là trừ
khiển sắc, là tu Bát nhã Ba la mật. Chẳng nhớ thọ, tưởng,
hành, thức và nghĩ tu đây là trừ khiển thọ, tưởng, hành, thức, là tu Bát nhã Ba
la mật. Nói rộng, cho đến chẳng nhớ đoạn trừ vĩnh viễn các tập khí phiền
não nối nhau và nghĩ tu
đây là trừ khiển vĩnh viễn các tập khí phiền não nối nhau, là tu Bát nhã Ba la
mật. Chẳng nhớ Nhất thiết trí trí và nghĩ tu đây là trừ khiển Nhất
thiết trí trí, là tu Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Vì chẳng phải do tưởng đoạn trừ
sự trói buộc tùy miên, tham, sân, si, mà có thể tu Bát nhã Ba la mật. Vì vậy,
này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát tu trừ khiển sắc, cũng trừ khiển tu đây, thì gọi
là tu Bát nhã Ba la mật. Tu trừ khiển thọ, tưởng, hành, thức, cũng trừ khiển tu
đây gọi là tu Bát nhã Ba la mật. Nói rộng, cho đến tu trừ khiển vĩnh viễn các
tập khí phiền não nối nhau và trừ khiển tu đây, gọi là tu Bát nhã Ba la mật. Tu
trừ khiển Nhất thiết trí trí và trừ khiển tu đây, gọi là tu Bát nhã Ba la mật.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Người nào
quán tưởng có, thì chẳng thể tu bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Nói rộng, cho
đến người quán tưởng có, chẳng thể đoạn trừ vĩnh viễn các tập khí phiền não nối
nhau, cũng chẳng thể tu Nhất thiết trí trí. Vì sao? Vì người quán tưởng có, còn
chấp có ngã và ngã sở, bởi còn chấp nên còn mắc hai bên. Vì mắc hai bên nên
nhất định không được giải thoát sanh tử, không đạo, không Niết bàn, làm sao có
thể như thật tu sáu pháp Ba la mật, nói rộng cho đến đoạn trừ vĩnh viễn tập khí
phiền não nối nhau và có thể tu tập Nhất thiết trí trí”.
Thí dụ nói Sắc là cái biến động đổi
dời, là hư vọng, không chắc thật, không tự tại mà Phật
thường bảo: “Biến ngại là tướng của Sắc”(1) và Phật cũng thường
bảo “Tu Bát Nhã không nên nương tựa Sắc hay không nên trụ Sắc v.v… ”. Như
vậy, có nghĩa Sắc là một thứ trong “ngũ uẩn hay ngũ che” làm che mờ căn tánh.
Vậy, tu Bát Nhã phải xa lìa sắc uẩn. Điều đó có nghĩa là phải khiển Sắc để tu Bát
Nhã.
Nhưng một khi có khiển tức vọng
sanh, đó là động niệm. Có động thì tâm không còn như như nữa tức là trái với
lối tu tịch lặng. Thói thường cái gì “trái lòng nghịch ý” thì người ta hay
khiển hay trách. Nhưng không biết rằng đó là cái mất mát của tâm. Như
vậy tu khiển là không tốt. Vậy phải trừ khiển, mà trừ khiển lại rơi vào cái
động niệm khác. Tránh “vỏ dưa lại gặp vỏ dừa”. Vì vậy, Tổ Tăng Xán mới bảo
rằng: Ngăn động mà cầu tịnh thì tịnh cũng thành động, tức động càng động thêm.
Giải pháp của “Tâm Kinh” trở thành
mầu nhiệm. Tất cả Tổ Sư trong các am tự chùa miếu hay các thiền viện đều đọc
tụng Tâm kinh vào các buổi lễ hội hay mỗi thời kinh để đem lại tịnh tâm cũng
như để khai ngộ cho tất cả Tăng và Tục. Kinh thuyết rằng:
“Ngài Bồ Tát Quán Tự Tại khi hành
thâm Bát nhã Ba la mật-đa , soi thấy năm uẩn đều không, liền vượt qua mọi
khổ ách.
Nầy Xá Lợi Tử, sắc chẳng khác gì
không, không chẳng khác gì sắc, sắc chính là không, không chính là sắc, thọ
tưởng hành thức cũng lại như thế. Nầy Xá Lợi Tử, tướng không của các pháp ấy
chẳng sinh chẳng diệt, chẳng nhơ chẳng sạch, chẳng thêm chẳng bớt. Cho nên
trong cái không đó, không có sắc, không thọ tưởng hành thức. Không có mắt, tai,
mũi, lưỡi, thân ý. Không có sắc, thanh, hương vị, xúc pháp. Không có nhãn giới
cho đến không có ý thức giới. Không có vô minh cũng không có hết vô minh. Không
có già chết, mà cũng không có hết già chết. Không có khổ, tập, diệt, đạo. Không
có trí tuệ cũng không có đắc, vì không có sở đắc. Nên Bồ Tát y theo Bát Nhã-Ba
la mật-đa tâm không còn chướng ngại, vì tâm không chướng ngại nên không còn sợ
hãi, xa lìa mộng tưởng điên đảo, đạt tới cứu cánh Niết Bàn”.
Ngài Quán Âm không dạy Xá Lợi Tử là
khiển hay trừ khiển, mà chỉ dạy Xá Lợi Tử quán không. Và chữ không này có kết
quả là dứt trừ tất cả mộng tưởng điên đảo mà chứng được Niết bàn. Ở đây, không
cần khiển, không cần trừ khiển mà quán không hóa giải tất cả khổ ách mà được Niết
bàn. Vì vậy, khiển cũng bỏ mà trừ khiển cũng bỏ thì được tự tại!
Thích nghĩa cho phần lược giải này:
(1). Phẩm “Phật Mẫu”, quyển 306, Hội
thứ I, ĐBN.
---o0o---