PHẨM “THẬT NGỮ”
Phần sau quyển 457 đến phần đầu quyển 458, Hội thứ II,
ĐBN.
(Tương đương với phẩm “Chúc Lụy”, phần sau quyển 346
cho đến phần đầu quyển 347, Hội thứ I, ĐBN)
Gợi
ý:
Phần đầu của phẩm này so sánh công đức của người an trụ Bát
nhã Ba la mật. Phần sau của phẩm này, Phật phó chúc cho Ngài A Nan thọ trì và
gìn giữ Bát nhã Ba la mật. Phật bảo: “Khánh Hỷ! Nay Ta nói thật với ngươi: Các hữu tình có lòng tin
trong sạch muốn không xả bỏ Phật, không xả bỏ Pháp, không xả bỏ Tăng, lại muốn
không xả bỏ quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề mà chư Phật quá khứ, vị lai, hiện
tại đã chứng đắc thì không nên xả bỏ Bát Nhã thẳm sâu. Đó chính là pháp mà chư
Phật chúng ta dạy dỗ truyền trao cho các đệ tử”. Đó là “thật ngữ”!
Tóm
lược:
Bấy giờ, Thiên Đế Thích thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Con nói như thế, khen như thế, ghi như
thế là thuận Thế Tôn thật ngữ pháp ngữ, đối với pháp tùy pháp thì có thể được
ghi nhận là chân chính hay không?
Khi ấy, Phật bảo rằng:
- Kiều Thi Ca! Ngươi nói như thế, khen như thế, ghi nhận như
thế là thật thuận Thế Tôn thật ngữ pháp ngữ, đối với pháp tùy pháp thật là chân
chính.
Lúc ấy, trời Đế Thích lại bạch Phật:
- Thật hiếm có thưa Thế Tôn! Đại đức Thiện Hiện có nói điều
gì cũng đều dựa vào pháp không, vô tướng, vô nguyện; dựa vào bốn niệm trụ cho
đến tám chi Thánh đạo; cũng dựa vào bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc;
dựa vào tám giải thoát cho đến mười biến xứ; cũng dựa vào Thánh đế khổ, tập,
diệt, đạo; dựa vào bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật, cũng dựa vào nội Không cho
đến vô tánh tự tánh không, dựa vào chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì, cũng
dựa vào thập địa Bồ tát; dựa vào pháp môn Đà la ni, pháp môn Tam ma địa; cũng
dựa vào năm loại mắt, sáu phép thần thông; dựa vào Như Lai mười lực cho đến
mười tám pháp Phật bất cộng; cũng dựa vào pháp không quên mất, tánh luôn luôn
xả; dựa vào Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí; cũng dựa vào
Bồ tát hạnh, dựa vào quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật.
Bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích:
- Kiều Thi Ca! Cụ thọ Thiện Hiện trụ ở pháp không, quán bố thí,
cho đến Bát nhã Ba la mật còn bất khả đắc huống gì người thực hành bố thí cho
đến Bát nhã Ba la mật làm sao có thể nắm bắt được; quán bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm
lực, bảy chi đẳng giác, tám chi Thánh đạo còn bất khả đắc, huống gì người tu
tập bốn niệm trụ, cho đến tám chi Thánh đạo làm sao có thể nắm bắt; quán bốn
tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc còn bất khả đắc huống gì người tu bốn
tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc làm sao có thể nắm bắt; quán tám giải
thoát cho đến mười biến xứ còn bất khả đắc, huống gì người tu tám giải thoát
cho đến mười biến xứ làm sao có thể nắm bắt; quán Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo
còn không thể nắm bắt huống gì người trụ nơi Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo làm
sao có thể nắm bắt; quán nội không cho đến vô tính tự tính không còn bất khả
đắc huống gì người trụ ở nội không cho đến vô tánh tự tánh không làm sao có thể
nắm bắt; quán chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì còn bất khả đắc, huống gì
người trụ ở chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì làm sao có thể nắm bắt; quán
tất cả pháp Phật còn bất khả đắc, huống chi người tu tất cả pháp Phật làm sao
có thể nắm bắt được; quán bánh xe chánh pháp còn bất khả đắc huống gì người có
thể quay bánh xe chánh pháp làm sao có thể nắm bắt; quán ba mươi hai tướng tốt
và tám mươi vẻ đẹp còn bất khả đắc, huống gì người dùng tướng hảo này để trang
nghiêm thân làm sao có thể nắm bắt; quán pháp không sanh, không diệt còn bất
khả đắc huống gì người có thể chứng pháp không sanh, không diệt làm sao có thể
nắm bắt. Vì sao? Vì đối với tất cả các pháp, cụ thọ Thiện Hiện trụ ở chỗ viễn
ly, trụ ở chỗ vắng lặng, trụ ở chỗ vô sở hữu, trụ ở chỗ vô sở đắc, trụ ở chỗ
rỗng không, trụ ở nơi vô tướng, trụ ở nơi vô nguyện.
Kiều Thi Ca! Đối với tất cả các pháp, cụ thọ Thiện Hiện trụ chỗ
rất thù thắng như vậy. Kiều Thi Ca! Việc trụ chỗ rất thù thắng của Thiện Hiện
so với chỗ trụ của đại Bồ tát đã thực hành Bát Nhã thẳm sâu thì không bằng một
phần trăm, không bằng một phần ngàn, không bằng một phần trăm ngàn, cho đến
không bằng một phần rất nhỏ. Vì sao? Kiều Thi Ca! Trừ chỗ trụ của Như Lai, đối
với chỗ trụ của Thanh văn và Độc giác thì chỗ trụ vào việc thực hành Bát Nhã
thẳm sâu của đại Bồ tát là hơn hết, là thù thắng, là tôn quý, là cao cả, là
diệu, là vi diệu, là trên hết, là vô thượng, là không gì sánh bằng. Vì sao?
Kiều Thi Ca! Đại Bồ tát nào muốn trụ trên tất cả hữu tình thì nên trụ chỗ thực
hành Bát Nhã thẳm sâu. Vì sao? Kiều Thi Ca! Các vị đại Bồ tát trụ chỗ này thì
hơn hẳn địa vị Thanh văn, Độc giác, chứng nhập Bồ tát Chánh tánh ly sanh, có
thể mau viên mãn tất cả pháp Phật, vĩnh viễn đoạn trừ tất cả tập khí phiền não
nối nhau mau chứng Nhất thiết trí trí, được gọi là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác,
thường làm lợi lạc tất cả hữu tình.
Bấy giờ trong chúng có vô lượng vô số trời Tam thập tam nghe
lời Phật dạy sanh vui mừng cực độ. Mỗi vị cầm hoa thơm vi diệu ở cõi trời rải
dâng lên Như Lai và các Tỳ kheo.
Lúc ấy sáu trăm Tỳ kheo ở trong pháp hội, từ chỗ ngồi đứng
dậy đảnh lễ sát chân Phật, che kín vai trái, quỳ gối phải sát đất, khom người
cung kính chấp tay hướng về phía Phật. Nhờ thần lực của Phật, trong lòng bàn
tay của mỗi vị tự nhiên đầy dẫy hoa thơm vi diệu. Các vị Tỳ kheo rất đỗi vui mừng vì gặp việc chưa từng
có. Họ liền đem hoa này rải lên dâng Phật và các Bồ tát.
Sau khi đã rải hoa, họ đều phát nguyện: Chúng con xin nhờ sức
thiện căn thù thắng này để được thường trụ vào việc thực hành Bát Nhã thẳm sâu
là chỗ mà nhị thừa không thể trụ được và mau đạt được quả vị Vô Thượng Chánh
Đẳng Bồ đề vượt hẳn địa vị Thanh văn, Độc giác.
Bấy giờ, biết ý hướng
thượng muốn đạt đại Bồ đề quyết không thối chuyển của các Tỳ kheo, đức
Thế Tôn liền mỉm cười. Như thường lệ của chư Phật, từ miệng Ngài phóng ra đủ
loại ánh sáng xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng, tím, bích, lục, vàng, bạc, pha lê
chiếu khắp Tam thiên đại thiên thế giới. Ánh sáng đó thu nhỏ lại, nhiễu quanh
thân Phật ba vòng rồi chui vào đảnh Phật.
Sau khi thấy điềm lành này, Khánh Hỷ vui mừng cực độ rời khỏi
chỗ ngồi đảnh lễ chân Phật và chấp tay thưa:
- Bạch đức Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Ngài mỉm cười, chư
Phật mỉm cười chẳng phải là không có nguyên do, cúi xin Như Lai thương xót nói
cho.
Phật bảo Khánh Hỷ:
- Trong kiếp Tinh Dụ ở đời vị lai, các Tỳ kheo này sẽ được làm Phật, có cùng hiệu là Tán Hoa Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc,
Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô
Thượng Sĩ, Điều Ngự trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn. Họ có tuổi thọ, chỗ ở, quốc độ và
các đệ tử Tỳ kheo tất cả đều giống nhau. Các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác này từ
lúc mới sanh đi xuất gia cho đến sau khi thành Phật dù ở chỗ nào, dù ngày hay
đêm cũng thường được rưới hoa
thơm vi diệu năm màu. Vì lý do này ta mỉm cười. Vì vậy, này Khánh Hỷ! Đại Bồ
tát nào muốn trụ nơi tối thắng thì phải thực hành Bát nhã Ba la mật.
Khánh Hỷ nên biết, thiện nam, thiện nữ nào siêng năng tu học Bát
Nhã thẳm sâu thì thiện nam, thiện nữ ấy vào đời trước hoặc từ trong loài người
qua đời mà sanh trở lại nơi đây, hoặc từ cõi trời Đỗ xử đa qua đời, sanh vào
loài người. Vào đời trước, hoặc ở trong loài người, hoặc ở trên trời, do đã
từng nghe giảng rộng Bát nhã Ba la mật nên vào đời này người ấy có thể siêng tu
học Bát Nhã thẳm sâu. Khánh Hỷ nên biết! Như Lai thấy thiện nam, thiện nữ nào
siêng năng tu học Bát Nhã thẳm sâu không đoái hoài thân mạng, tài sản thì đúng
là đại Bồ tát. (Q.457, ĐBN)
Khánh Hỷ nên biết! Thiện nam thiện nữ nào ưa thích lắng nghe
lời dạy Bát Nhã thẳm sâu như vậy, nghe xong thọ trì, đọc tụng thông suốt, siêng
năng tu học, tư duy đúng lý, tuyên thuyết, khai thị, dạy bảo, truyền trao cho
các thiện nam thiện nữ Bồ tát thừa thì nên biết người ấy đã từng gần gũi chư
Phật trong quá khứ. Người nào nghe nói Bát Nhã thẳm sâu này và nghe xong thọ
trì, đọc tụng thông suốt, siêng năng tu học, tư duy đúng lý thì người ấy cũng
đã từng tuyên thuyết, khai thị, dạy bảo, truyền trao cho người khác. (Q.458, ĐBN)
Khánh Hỷ nên biết! Thiện nam thiện nữ này đã từng trồng các
căn lành ở vô số cõi Phật trong quá khứ, cho nên đời này họ có thể làm được
việc này. Thiện nam thiện nữ này liền nghĩ: Trước đây Ta không theo Thanh văn,
Độc giác chỉ nghe nói Bát Nhã thẳm sâu này mà quyết chỉ theo Như Lai Ứng Chánh
Đẳng Giác để nghe dạy Bát Nhã thẳm sâu như vậy. Trước đây Ta không trồng căn
lành đối với Thanh văn, Độc giác mà quyết chỉ trồng các căn lành đối với Như
Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Nhờ nhân duyên đó, ngày nay Ta được nghe Bát Nhã thẳm
sâu này, ưa thích, thọ trì, đọc tụng thông suốt, siêng năng tu học, suy nghĩ
đúng lý, giảng rộng cho mọi người không có mệt mỏi nhàm chán.
Khánh Hỷ nên biết! Thiện nam thiện nữ nào ưa thích lắng nghe Bát
Nhã thẳm sâu, nghe xong thọ trì, đọc tụng thông suốt, siêng năng tu học, tư duy
đúng lý, hoặc nghĩa, hoặc văn, hoặc pháp, hoặc ý, hoặc giới luật, họ đều có thể
thông đạt thì thiện nam thiện nữ này hiện đang thấy tất cả Như Lai Ứng Chánh
Đẳng Giác.
Khánh Hỷ nên biết! Thiện nam thiện nữ nào nghe dạy nghĩa lý
sâu xa của Bát nhã Ba la mật liền sanh lòng tin hiểu trong sạch, không hủy
báng, không bị ngăn trở phá hoại thì các thiện nam, thiện nữ này đã từng cúng
dường vô lượng chư Phật phát nguyện rộng lớn, trồng các căn lành ở chỗ các đức
Phật và cũng được vô lượng thiện tri thức chơn chánh hộ trì.
Khánh Hỷ nên biết! Thiện nam thiện nữ nào có thể trồng các
căn lành vào ruộng phước thù thắng của Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, tuy chắc
chắn sẽ đạt được hoặc quả Thanh văn, hoặc quả Độc giác, hoặc quả Như Lai nhưng
muốn chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thì cần phải thông suốt nghĩa
lý Bát Nhã thẳm sâu, tu hành bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật; an trụ vào nội
Không cho đến vô tính tự tính Không; an trụ vào chơn như cho đến cảnh giới bất
tư nghì; an trụ vào Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo; tu hành bốn niệm trụ cho đến
tám chi Thánh đạo; tu hành bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; tu hành
tám giải thoát cho đến mười biến xứ; tu hành pháp môn giải thoát không, pháp
môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; tu hành Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa; tu
hành pháp môn Đà la ni, pháp môn Tam ma địa; tu hành năm loại mắt, sáu phép
thần thông; tu hành Như Lai mười lực
cho đến mười tám pháp Phật bất cộng; tu hành pháp không quên mất, tánh
luôn luôn xả; tu hành Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí cho
được viên mãn.
Khánh Hỷ nên biết! Đại Bồ tát nào khéo thông suốt nghĩa
lý Bát Nhã thẳm sâu, tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh
lự, Bát nhã Ba la mật cho được viên mãn, như vậy cho đến tu hành Nhất thiết
trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí cho được viên mãn. Đại Bồ tát này chỉ
trụ ở địa vị Thanh văn hoặc Độc giác mà không chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh
Đẳng Bồ đề thì không có việc đó. Vì vậy, các đại Bồ tát nào muốn chứng quả vị
Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thì phải khéo thông đạt nghĩa lý sâu xa của Bát nhã
Ba la mật, tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la
mật làm cho được viên mãn, như vậy cho đến tu hành Nhất thiết trí, Đạo tướng
trí, Nhất thiết tướng trí cũng làm cho được viên mãn.
Vì thế, này Khánh Hỷ! Ta đem Bát nhã Ba la mật giao phó cho
ngươi, ngươi nên thọ trì, đọc tụng thông suốt, đừng để quên mất.
Khánh Hỷ nên biết! Trừ Kinh điển Bát Nhã thẳm sâu này, nếu ai
thọ trì các Kinh khác mà Ta đã giảng dạy, giả sử họ có quên mất thì tội ấy còn
nhẹ, nhưng đối với Kinh điển Bát nhã Ba la mật này, nếu không thọ trì trọn vẹn
cho đến quên mất một câu thì tội ấy rất nặng.
Khánh Hỷ nên biết! Đối với Kinh điển Bát Nhã thẳm sâu, người
nào có thể thọ trì cho đến một câu không để quên mất thì thu được vô lượng
phước đức. Còn nếu đối với Kinh điển Bát Nhã thẳm sâu, người nào không thọ trì
trọn vẹn cho đến quên mất một câu thì mắc tội rất nặng ngang với phước nói
trước. Vì thế, này Khánh Hỷ, Ta đem Kinh điển Bát Nhã thẳm sâu, ân cần giao phó
cho ngươi. Ngươi phải thọ trì, đọc tụng cho thông suốt và chính xác, tư duy
đúng lý và giảng rộng cho người khác nghe, phân biệt, khai thị giúp cho người
nghe hoàn toàn hiểu rõ ý nghĩa của nó, để họ có thể diễn giải đúng lý cho người
khác nghe. Khánh Hỷ nên biết! Đối với Kinh điển Bát Nhã thẳm sâu, thiện nam,
thiện nữ nào thọ trì, đọc tụng hoàn toàn thông suốt, tư duy đúng lý, giảng rộng
cho người khác nghe thì chính là thọ trì nắm giữ quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ
đề mà tất cả các vị Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trong quá khứ, hiện tại, vị lai
đã chứng đắc.
Khánh Hỷ nên biết! Thiện nam, thiện nữ nào phát sanh tâm
thanh tịnh, hiện đến chỗ Ta và muốn dâng đủ loại vòng hoa vi diệu, hương xoa,
hương bột, y phục, anh lạc, tràng phan, lộng báu, âm nhạc, đèn sáng cúng dường,
cung kính, tôn trọng khen ngợi không hề nhàm chán, không hề mệt mỏi thì đối với
Kinh điển Bát Nhã thẳm sâu người ấy phải hết lòng lắng nghe, thọ trì, đọc tụng
hoàn toàn thông suốt, tư duy đúng lý, giảng rộng cho người khác, hoặc lại biên
chép, trang điểm bằng châu báu, thường dùng đủ loại vòng hoa vi diệu, hương
xoa, hương bột, y phục, anh lạc, tràng phan, lộng báu, âm nhạc, đèn sáng để
cúng dường, cung kính, tôn trọng khen ngợi không được biếng nhác.
Khánh Hỷ nên biết! Thiện nam, thiện nữ nào cúng dường, cung
kính, tôn trọng, ca ngợi Bát Nhã thẳm sâu thì chính là cúng dường, cung kính,
tôn trọng, ca ngợi Ta, cũng là cúng dường, cung kính, tôn trọng, ca ngợi tất cả
Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hiện đang thuyết pháp ở mười phương thế giới và
cũng là cúng dường, cung kính, tôn trọng, ca ngợi chư Phật ở quá khứ, vị lai.
Khánh Hỷ nên biết! Thiện nam, thiện nữ nào nghe nói Bát Nhã
thẳm sâu như vậy, phát sanh lòng tin trong sạch, cung kính tôn trọng thì chính
là đem lòng tin trong sạch, cung kính tôn trọng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ
đề mà tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trong quá khứ, vị lai, hiện tại đã
chứng đắc.
Khánh Hỷ! Nếu ngươi cung kính, tôn trọng và tin tưởng ở Ta
thì phải chí thành tha thiết cung kính, tôn trọng, tin tưởng Bát nhã Ba la mật
cho đến một câu cũng đừng để quên mất.
Khánh Hỷ! Việc giao phó Bát Nhã thẳm sâu này cho ngươi, tuy có vô lượng lý do nhưng Ta
chỉ nói tóm gọn. Như Ta đã là đại Sư của các ngươi thì phải biết Bát Nhã thẳm sâu cũng là đại Sư của các ngươi. Nếu các ngươi cùng trời, người cung kính, tôn trọng
Ta thì cũng phải cung kính, tôn trọng Bát Nhã thẳm sâu. (Q.458, ĐBN)
Vì vậy, này Khánh Hỷ! Ta dùng vô số phương tiện thiện xảo
giao phó Kinh điển Bát Nhã thẳm sâu cho ngươi, ngươi phải
thọ trì đừng để quên mất. Nay ở trước trời, người, A tu la và vô số đại chúng,
Ta đem Bát Nhã thẳm sâu này giao phó cho ngươi.
Khánh Hỷ! Nay Ta nói thật với ngươi: Các hữu tình có lòng tin trong sạch
muốn không xả bỏ Phật, không xả bỏ Pháp, không xả bỏ Tăng, lại muốn không xả bỏ
quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề mà chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại đã
chứng đắc thì không nên xả bỏ Bát Nhã thẳm sâu. Đó chính là pháp mà chư Phật
chúng ta dạy dỗ truyền trao cho các đệ tử.
Khánh Hỷ nên biết! Thiện nam thiện nữ nào ưa thích lắng nghe Bát
Nhã thẳm sâu, thọ trì, đọc tụng hoàn toàn thông suốt, tư duy đúng lý, đem vô
lượng pháp môn giảng rộng cho người khác, phân biệt, khai thị, chỉ bày, an lập
giúp họ hiểu rõ và siêng năng tu học thì thiện nam thiện nữ này mau chứng quả
vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề và gần được viên mãn Nhất thiết trí trí. Vì sao?
Khánh Hỷ! Quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề mà tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng
Giác đã chứng đắc đều dựa vào Bát Nhã thẳm sâu này mà được thành tựu.
Khánh Hỷ nên biết! Chư Phật đời quá khứ, vị lai, hiện tại đều
dựa vào Bát Nhã thẳm sâu này để thành tựu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì
thế, này Khánh Hỷ! Đại Bồ tát nào muốn chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ
đề thì cần phải siêng năng tu học Bát Nhã thẳm sâu này. Vì sao? Vì Bát Nhã thẳm
sâu là mẹ của các đại Bồ tát, đã sanh ra các vị đại Bồ tát.
Khánh Hỷ nên biết! Đại Bồ tát nào siêng năng tu học bố thí,
tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật thì mau chứng quả vị
Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì thế, này Khánh Hỷ! Ta đem sáu pháp Ba la mật
giao phó cho ngươi, ngươi phải thọ trì cho đúng đừng để
quên mất. Vì sao? Vì sáu pháp Ba la mật này là kho pháp vô tận của các vị
Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, tất cả Pháp Phật đều được sanh ra từ đó.
Khánh Hỷ nên biết! Pháp yếu mà chư Phật hiện tại, quá khứ,
vị lai đã nói đều lưu xuất từ kho pháp vô tận là sáu pháp Ba la mật này.
Khánh Hỷ nên biết! Chư Phật đời quá khứ, hiện tại và vị lai
đều nương vào kho pháp vô tận là dựa vào sáu pháp Ba la mật để chứng đắc quả vị
Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Khánh Hỷ nên biết! Chư Phật và chúng Thanh văn đời hiện tại,
quá khứ, vị lai đều dựa vào kho pháp vô tận là sáu pháp Ba la mật siêng năng tu
học mới nhập diệt cõi Vô dư y Niết bàn.
Lại nữa Khánh Hỷ! Giả sử các ngươi nói pháp Thanh văn cho các chúng sanh
thuộc Thanh văn thừa và nhờ pháp này mà tất cả hữu tình ở Tam thiên đại thiên
thế giới đều chứng quả A la hán,
thì chưa phải là vì Ta mà làm những việc Phật tử cần làm. Nếu các ông có thể
giảng nói một câu pháp tương ưng với Ba la mật cho các chúng sanh thuộc Bồ tát
thừa nghe, thì mới chính là
vì Ta mà làm công việc Phật tử cần
làm và Ta rất tùy hỷ đối với việc này, hơn là việc các ngươi giáo
hóa tất cả hữu tình trong Tam thiên đại thiên thế giới để cho họ đều đắc quả A
la hán.
Lại nữa Khánh Hỷ! Giả sử tất cả hữu tình ở Tam thiên đại
thiên thế giới nhờ người khác chỉ dạy, nên đồng thời đều được thân người và đều chứng đắc quả A la hán;
Các A la hán này có bao phước nghiệp thí tánh, phước nghiệp giới tánh, phước
nghiệp tu tánh thù thắng. Ý ngươi
nghĩ sao? Các phước nghiệp kia có nhiều không?
Khánh Hỷ thưa:
- Rất nhiều thưa Thế Tôn. Phước nghiệp ấy là vô lượng, vô số.
Phật bảo Khánh Hỷ:
- Nếu có đệ tử Thanh văn nào có thể vì Bồ tát giảng nói pháp
tương ưng Bát Nhã thẳm sâu trải qua một ngày đêm, thì thu được lượng phước đức nhiều hơn phước kia rất nhiều.
Khánh Hỷ nên biết! Không cần đến một ngày đêm chỉ cần một
ngày, lại không cần đến một ngày, chỉ cần nửa ngày, không cần đến nửa ngày, chỉ
cần một giờ, không cần đến một giờ chỉ cần qua một bữa ăn, hoặc chỉ cần thoáng
một bữa ăn, hoặc chỉ cần trong khoảnh khắc, hay trong nháy mắt, Thanh văn nào
có thể giảng nói pháp tương ưng Bát nhã Ba la mật cho các Bồ tát nghe chỗ được
nhóm phước rất nhiều hơn trước. Vì sao? Vì phước đức mà Thanh văn này thu được
hơn hẳn công đức của tất cả Thanh văn, Độc giác.
Lại nữa Khánh Hỷ! Nếu đại Bồ tát giảng nói pháp Thanh văn cho
các chúng sanh thuộc Thanh văn thừa, giả sử nhờ pháp này tất cả hữu tình trong
tam thiên đại thiên thế giới đều chứng đắc quả A la hán, đều đầy đủ các loại
công đức thù thắng thì theo ý ngươi nhờ
nhân duyên này đại Bồ tát đó thu được nhiều phước đức không?
Khánh Hỷ thưa:
- Rất nhiều, thưa Thế Tôn, phước đức mà đại Bồ tát này thu
được là vô lượng vô biên.
Phật bảo Khánh Hỷ:
- Đại Bồ tát nào giảng nói pháp tương ưng Bát Nhã thẳm sâu
cho các thiện nam thiện nữ thuộc Thanh văn thừa, Độc giác thừa hoặc Vô thượng
thừa suốt một ngày đêm thì thu được lượng phước đức hơn phước nói ở trước rất
nhiều.
Khánh Hỷ nên biết! Không cần đến một ngày một đêm… chỉ cần
trong nháy mắt, Đại Bồ tát này có thể giảng nói pháp tương ưng Bát Nhã thẳm sâu
cho các thiện nam thiện nữ thuộc ba thừa thì thu được phước đức hơn phước đức
trước vô lượng vô số. Vì sao? Vì pháp thí tương ưng Bát nhã Ba la mật hơn hẳn
tất cả pháp thí tương ưng với Thanh văn, Độc giác và các công đức của nhị thừa.
Vì sao? Vì đại Bồ tát này tự cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, cũng đem
pháp tương ưng với đại thừa để khai thị, dạy dỗ và khích lệ giúp các hữu tình
không còn thối lui đối với quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Khánh Hỷ nên biết! Đại Bồ tát này tự tu bố thí cho đến Bát
nhã Ba la mật, cũng dạy người khác tu bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật; tự tu
bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo, cũng dạy người khác tu bốn niệm trụ cho
đến tám chi Thánh đạo; tự an trụ vào nội không cho đến vô tánh tự tánh không,
cũng dạy người khác trụ vào nội không cho đến vô tánh tự tánh không; tự an trụ
vào chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì, cũng dạy người khác an trụ vào chơn
như cho đến cảnh giới bất tư nghì; nói rộng ra, tự an trụ tất cả pháp Phật cũng
dạy người khác an trụ tất cả pháp Phật.
Bấy giờ, bốn chúng vây quanh Như Lai, chứng kiến Thế Tôn khen ngợi Bát nhã Ba la
mật và phó chúc cho Tôn giả Khánh Hỷ thọ trì Bát Nhã trước tất cả hội chúng
lớn: Trời, rồng, dạ xoa, cho đến nhơn và phi nhơn… Như Lai liền hiện thần thông
khiến cho họ đều thấy ở cõi nước trang nghiêm của đức Như Lai Bất Động(1), có
các Thanh văn, Bồ tát vây quanh đang nghe Ngài giảng nói pháp vi diệu. Chúng
Thanh văn Tăng ở cõi ấy đều là A la hán các lậu đã hết, không còn phiền não,
được chơn tự tại, tâm khéo giải thoát, huệ khéo giải thoát, như tập ngựa khôn,
cũng như rồng lớn, đã làm việc cần làm, đã hoàn tất việc đáng hoàn tất, bỏ các
gánh nặng, đã được lợi mình, dứt
sạch các kiết sử, chính trí giải thoát, tâm được tự tại, rốt ráo đệ nhất. Chúng Bồ tát
Tăng ở cõi ấy đều đạt được Đà la ni và có công đức trí huệ biện tài vô ngại
giống như biển lớn. Sau đó, Thế Tôn liền thu thần lực lại làm cho cả hội chúng
trời, rồng, dạ xoa cho đến nhơn và phi nhơn… không còn thấy Như Lai Bất Động,
cùng Thanh văn, Bồ tát và các đại chúng khác ở cõi Phật trang nghiêm kia. Vì
chúng hội và cõi nước trang nghiêm của đức Phật ấy chẳng phải là đối tượng của
nhãn căn ở cõi này. Vì sao? Vì Phật thu thần lực nên không còn duyên để thấy
viễn cảnh ấy nữa.
Khi ấy, Phật bảo cụ thọ Khánh Hỷ:
- Ngươi có
còn thấy cõi nước và chúng hội của Như Lai Bất Động nữa không?
Khánh Hỷ đáp:
- Con không còn thấy cảnh giới ấy nữa vì chẳng phải sở hành của nhãn căn đây.
Phật bảo:
- Khánh Hỷ! Như Như Lai chúng hội cõi nước kia đều chẳng phải
cảnh giới sở hành nhãn căn cõi này, phải biết các pháp cũng lại như thế,
chẳng phải cảnh giới sở hành nhãn căn. Pháp chẳng hành pháp, pháp chẳng thấy
pháp, pháp chẳng biết pháp, pháp chẳng chứng pháp.
Khánh Hỷ phải biết: Tất cả pháp tánh không kẻ năng chứng,
không kẻ năng kiến, không kẻ năng tri, không động không tác. Vì sao? Vì tất cả
pháp đều như hư không, không có tác dụng, vì năng lấy bị lấy tánh viễn ly vậy.
Vì tất cả pháp chẳng thể nghĩ bàn, vì năng sở nghĩ bàn tánh xa lìa vậy. Vì tất
cả pháp đều như huyễn như
mộng..., nhiều duyên hòa hợp giả có. Vì tất cả pháp không kẻ tác thọ,
vọng hiện như có, nhưng không bền chắc vậy(2).
Khánh Hỷ nên biết! Đại Bồ tát nào có thể thực hành như
vậy, có thể thấy như vậy, có thể biết như vậy, có thể chứng như vậy là thực
hành Bát nhã Ba la mật và cũng không chấp trước tướng các pháp.
Khánh Hỷ nên biết! Đại Bồ tát nào học như vậy là học Bát
nhã Ba la mật. Khánh Hỷ nên biết! Đại Bồ tát nào muốn chứng đắc tất cả Ba la
mật, muốn mau được viên mãn thì phải học Bát Nhã. Vì sao? Vì trong các môn học,
môn học này là hơn hết, là thù thắng, là tôn quí, là cao cả, là diệu, là vi
diệu, là tối thượng, là vô thượng, vô đẳng, vô đẳng đẳng, làm lợi ích an lạc
tất cả hữu tình, làm nơi trông cậy cho tất cả hữu tình không nơi trông cậy, là
nơi quay về nương tựa cho tất cả hữu tình không nơi quay về, là nơi hướng đến
cho những người không chỗ hướng đến, là nhà cửa cho người không nhà cửa, là nơi
cứu giúp cho những người không ai cứu giúp; chư Phật Thế Tôn khai mở, ca ngợi
việc tu học Bát nhã Ba la mật.
Khánh Hỷ nên biết! Nếu các đại Bồ tát và chư Như Lai Ứng
Chánh Đẳng Giác an trụ trong pháp này thì có thể dùng một ngón tay, hoặc ngón
chân nhấc Tam thiên đại thiên thế giới đặt ở phương khác, hoặc đem về chỗ cũ mà
các hữu tình ở trong đó chẳng hay chẳng biết, không tổn không sợ. Vì sao? Vì
oai lực công đức của Bát Nhã thẳm sâu không thể nghĩ bàn. Khánh Hỷ nên biết!
Chư Phật và các chúng đại Bồ tát trong quá khứ, hiện tại, vị lai nhờ học Bát
Nhã nên đều đạt được sự hiểu biết vô ngại. Vì vậy, này Khánh Hỷ! Trong các môn
học, Ta nói môn học Bát Nhã thẳm sâu là hơn hết, là thù thắng, là tôn quí, là
cao cả, là diệu, là vi diệu, là tối thượng, là vô thượng, vô đẳng, vô đẳng
đẳng.
Khánh Hỷ nên biết! Các hữu tình nào muốn nắm bắt hạn lượng bờ
mé của Bát Nhã thẳm sâu thì cũng như người vô trí muốn nắm bắt hạn lượng bờ mé
hư không. Vì sao? Vì công đức của Bát Nhã thẳm sâu là vô lượng, vô biên.
Khánh Hỷ nên biết! Ta quyết không diễn tả công đức thù thắng
của Bát nhã Ba la mật bằng danh từ “hạn lượng, bờ mé”. Vì sao? Vì tất cả danh
từ, văn cú là pháp có hạn, còn công đức thù thắng của Bát Nhã thẳm sâu chẳng
phải là pháp có hạn lượng, chẳng phải danh từ, văn cú có thể đo lường công đức
thù thắng của Bát Nhã, cũng chẳng phải công đức thù thắng của Bát Nhã là thứ pháp có thể đo lường. (Q.458, ĐBN)
Khi ấy, Khánh Hỷ bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Vì sao nói Bát Nhã thẳm là vô lượng?
Phật bảo Khánh Hỷ:
- Vì tánh của Bát Nhã thẳm sâu là vô tận nên Ta nói là vô
lượng, vì tánh xa lìa nên Ta nói là vô lượng, vì tánh tịch tịnh nên Ta nói là
vô lượng, vì như thật tế nên
nói là vô lượng, vì như hư không
nên nói là vô lượng.
Khánh Hỷ nên biết! Tất cả chư Phật Thế Tôn ở quá khứ, vị lai,
hiện tại đều học Bát nhã Ba la mật hoàn toàn viên mãn, chứng đắc quả vị Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, giảng giải khai thị cho các hữu tình nhưng Bát Nhã
thẳm sâu này vẫn vô cùng tận. Vì sao? Vì Bát Nhã thẳm sâu cũng giống như
hư không, là vô tận vậy. Hữu tình nào muốn biết hạn lượng bờ mé Bát Nhã thẳm sâu tức là muốn biết hạn
lượng bờ mé của hư không. Khánh Hỷ nên biết! Bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật
chẳng phải đã cùng tận, chẳng phải đang cùng tận, chẳng phải sẽ cùng tận; nội
không cho đến vô tính tự tính không chẳng phải đã cùng tận, chẳng phải đang
cùng tận, chẳng phải sẽ cùng tận; chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì chẳng
phải đã cùng tận, chẳng phải đang cùng tận, chẳng phải sẽ cùng tận; tất cả pháp
Phật chẳng phải đã cùng tận, chẳng phải đang cùng tận, chẳng phải sẽ cùng tận.
Vì sao? Các pháp như thế không sanh không diệt, cũng không trụ, không đổi
không dời, làm sao thi thiết có trụ có tận.
Bấy giờ, Thế Tôn hiện ra tướng lưỡi dài rộng che khắp khuôn
mặt, sau đó thu hồi, rồi bảo Khánh Hỷ:
- Nếu người nào có tướng lưỡi như vậy thì có nói lời hư dối
không?
Khánh Hỷ đáp:
- Bạch Thế Tôn! Không!
Phật bảo Khánh Hỷ:
- Từ nay trở đi ngươi hãy vì bốn chúng giảng rộng Bát Nhã thẳm sâu này, phân biệt,
khai thị, chỉ bày, an lập giúp họ dễ hiểu.
Khánh Hỷ nên biết! Trong Kinh Bát Nhã thẳm sâu này rộng giảng
tất cả Bồ đề phần pháp và các pháp tướng. Vì vậy, tất cả các chúng sanh cầu
Thanh văn thừa, Độc giác thừa và cầu Vô thượng thừa đều dựa vào pháp môn Bát
Nhã thẳm sâu đã được dạy thường siêng tu học, chớ sanh nhàm chán, mệt mỏi. Ai thường siêng tu học như vậy thì sẽ mau
chứng đắc pháp mà mình mong cầu.
Lại nữa, này Khánh Hỷ! Bát Nhã thâm sâu có thể ngộ nhập vào
tất cả pháp môn, có thể ngộ nhập vào tất cả văn tự, có thể ngộ nhập vào pháp
môn Đà la ni. Các đại Bồ tát đối với pháp môn Đà la ni phải siêng năng tinh tấn
tu học. Nếu đại Bồ tát thọ trì pháp môn Đà la ni như vậy thì mau chứng đắc tất
cả biện tài, các hiểu biết vô ngại.
Khánh Hỷ nên biết! Kinh điển Bát Nhã thẳm sâu này chính là
kho pháp vô tận của chư Phật Thế Tôn đời quá khứ, vị lai, hiện tại. Vì vậy, Ta
bảo ngươi một cách rõ ràng:
Người nào thọ trì đọc tụng, hoàn toàn thông suốt Bát Nhã thẳm sâu này và tư duy
đúng lý tức là thọ trì quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của tất cả chư Phật ở
quá khứ, vị lai, hiện tại.
Này Khánh Hỷ! Ta nói Bát Nhã Bát Nhã thẳm sâu là đôi chân
kiên cố có khả năng đi đến đạo Bồ đề, cũng là đại Đà la ni của tất cả Phật pháp
vô thượng. Nếu các ông có khả năng thọ trì các Đà la ni Bát Nhã thẳm sâu như
thế, tức là nắm giữ tất cả Phật pháp, khiến không mất, cùng các hữu tình tận
đời vị lai làm đại nhiêu ích cho tất cả chúng sanh.
Thích nghĩa:
(1). Như Lai Bất động hay còn gọi là Bất động Phật, Vô
động Phật, Vô nộ Phật, Vô sân Phật, A súc Bất động Như Lai, Diệu Sắc Thân Như
Lai… Đây là cõi Tịnh độ Phương Đông.
(2). Đây có thể xem như một định nghĩa chân xác và
gãy gọn nhất về tất cả pháp tánh.
Sơ
giải:
Phẩm “Thật Ngữ” của Hội thứ II này tương đương với phẩm
“Chúc Lụy”, phần sau quyển 346 cho đến phần đầu quyển 347, Hội thứ I, ĐBN. Đức
Thích Ca Mâu Ni đem Bát nhã Ba la mật giao lại cho Thị giả là Ngài A Nan với
lời phó chúc thống thiết như sau:
“Khánh Hỷ nên biết! Thiện nam, thiện nữ nào cúng dường, cung
kính, tôn trọng, ca ngợi Bát Nhã thẳm sâu thì chính là cúng dường, cung kính,
tôn trọng, ca ngợi Ta, cũng là cúng dường, cung kính, tôn trọng, ca ngợi tất cả
Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hiện đang thuyết pháp ở mười phương thế giới và
cũng là cúng dường, cung kính, tôn trọng, ca ngợi chư Phật ở quá khứ, vị lai.
Khánh Hỷ nên biết! Thiện nam, thiện nữ nào nghe nói Bát Nhã
thẳm sâu như vậy, phát sanh lòng tin trong sạch, cung kính tôn trọng thì chính
là đem lòng tin trong sạch, cung kính tôn trọng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ
đề mà tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trong quá khứ, vị lai, hiện tại đã chứng
đắc.
Khánh Hỷ! Nếu ngươi cung kính, tôn trọng và tin tưởng ở Ta
thì phải chí thành tha thiết cung kính, tôn trọng, tin tưởng Bát nhã Ba la mật
cho đến một câu cũng đừng để quên mất.
Khánh Hỷ! Việc giao phó Bát Nhã thẳm sâu này cho ngươi, tuy có vô lượng lý do nhưng Ta
chỉ nói tóm gọn. Như Ta đã là đại Sư của các ngươi thì phải biết Bát Nhã thẳm sâu cũng là đại sư của các ngươi. Nếu các ngươi cùng trời, người cung kính, tôn trọng
Ta thì cũng phải cung kính, tôn trọng Bát Nhã thẳm sâu. (Q.458, ĐBN)
Vì vậy, này Khánh Hỷ! Ta dùng vô số phương tiện thiện xảo
giao phó Kinh điển Bát Nhã thẳm sâu cho ngươi, ngươi phải
thọ trì đừng để quên mất. Nay ở trước trời, người, A tu la và vô số đại chúng,
Ta đem Bát Nhã thẳm sâu này giao phó cho ngươi.
Khánh Hỷ! Nay Ta nói thật với ngươi: Các hữu tình có lòng tin trong sạch
muốn không xả bỏ Phật, không xả bỏ Pháp, không xả bỏ Tăng, lại muốn không xả bỏ
quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề mà chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại đã
chứng đắc thì không nên xả bỏ Bát Nhã thẳm sâu. Đó chính là pháp mà chư Phật
chúng ta dạy dỗ truyền trao cho các đệ tử”.
Đó là phó chúc nồng nàn nhất của Thế Tôn đối với Bát nhã
Ba la mật vì sao? Vì:
“Vì trong các môn học, môn học này là hơn hết, là thù
thắng, là tôn quí, là cao cả, là diệu, là vi diệu, là tối thượng, là vô thượng,
vô đẳng, vô đẳng đẳng, làm lợi ích an lạc tất cả hữu tình, làm nơi trông cậy
cho tất cả hữu tình không nơi trông cậy, là nơi quay về nương tựa cho tất cả
hữu tình không nơi quay về, là nơi hướng đến cho những người không chỗ hướng
đến, là nhà cửa cho người không nhà cửa, là nơi cứu giúp cho những người không
ai cứu giúp; chư Phật Thế Tôn khai mở, ca ngợi việc tu học Bát nhã Ba la mật”.
Cứ y như vậy chấp hành thì sẽ có vô vàn công đức. Đó là
thật ngữ của Phật, không còn nghi ngờ gì nữa!
---o0o---