VIII. PHẨM
“THANH TỊNH”
Phần đầu
quyển 545, Hội thứ IV, TBBN.
Gợi ý:
Chỉ có phần
đầu của phẩm này và phần đối chất giữa Xá lợi Tử và Phật là thuyết về thanh
tịnh. Phần sau của phẩm này lại thuyết nhiều về học và hành Bát nhã Ba la mật
mà chấp thủ tướng. Mỗi khi chấp tướng thì xa lìa Bát nhã Ba la mật, nên không
thể tu Bát nhã Ba la mật. Nên Kinh nói: “Như Lai chứng biết thật tánh các
pháp không tạo không tác”. Nếu biết các
pháp không tạo không tác, không còn chấp trước nữa, tu như hư không thì mau
viên mãn Bát nhã Ba la mật.
Tóm lược:
Quyển thứ
545
(Thế nào là thanh tịnh?)
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch
Phật:
- Bạch Thế Tôn! Những người ngu si
chẳng siêng năng tinh tấn, đủ các ác hạnh, căn lành cạn mỏng, ám độn vô cầu, ít
nghe kém tuệ, bị ác tri thức khống chế, chẳng phụng sự bạn lành, chẳng ưa thỉnh
hỏi, chẳng siêng năng tu học những điều thắng thiện nên nghe Phật thuyết Bát
nhã Ba la mật sâu xa thật khó tin hiểu. (Q.545,
TBBN)
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như
lời ngươi nói!
Bấy giờ, Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật
thâm sâu như thế nào mà khó tin khó hiểu?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Sắc chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì
sao? Vì sắc lấy vô tánh làm tự tánh. Thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải buộc,
chẳng phải mở. Vì sao? Vì thọ, tưởng, hành, thức lấy vô tánh làm tự tánh.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Khoảng
trước(tiền tế)của sắc chẳng phải
buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì khoảng trước của sắc lấy vô tánh làm tự tánh. Khoảng sau(hậu tế)của sắc chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì khoảng
sau của sắc lấy vô tánh làm tự tánh. Khoảng giữa(trung tế)của sắc chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì khoảng
giữa của sắc lấy vô tánh làm tự tánh.
Khoảng trước của thọ, tưởng, hành,
thức chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì khoảng trước của thọ, tưởng,
hành, thức lấy vô tánh làm tự tánh. Khoảng sau của thọ, tưởng, hành, thức chẳng
phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì khoảng sau của thọ, tưởng, hành, thức lấy
vô tánh làm tự tánh. Khoảng giữa của thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải buộc,
chẳng phải mở. Vì sao? khoảng giữa của thọ, tưởng, hành, thức lấy vô tánh làm
tự tánh. (Q.545, TBBN)
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã sâu xa rất khó tin hiểu. Bát Nhã sâu xa cực khó
tin hiểu?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như
lời ngươi nói. Vì sao? Thiện Hiện! Vì
sắc thanh tịnh tức quả thanh tịnh. Quả thanh tịnh tức sắc thanh tịnh. Vì
sao? Vì sắc đây thanh tịnh và quả thanh tịnh này không hai, không khác, không
đoạn, không hoại. Thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh tức quả thanh tịnh. Quả
thanh tịnh tức thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh. Vì sao? Vì thọ, tưởng, hành,
thức và quả thanh tịnh không hai, không khác, không đoạn, không hoại.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Sắc thanh tịnh tức là
Nhất thiết trí thanh tịnh; Nhất thiết trí thanh tịnh tức là sắc thanh tịnh. Vì
sao? Vì sắc thanh tịnh và Nhất thiết trí thanh tịnh không hai, không khác,
không đoạn, không hoại. Thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh tức là Nhất thiết trí
thanh tịnh; Nhất thiết trí thanh tịnh tức là thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh.
Vì sao? Vì thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh và Nhất thiết trí thanh tịnh này
không hai, không khác, không đoạn, không hoại.
Bấy giờ, Xá lợi Tử bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Như vậy Bát nhã Ba
la mật rất là thâm sâu?
Phật dạy:
- Đúng vậy! Vì rất thanh tịnh.
Xá lợi Tử thưa:
- Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật
này có thể chiếu soi?
Phật dạy:
- Bạch Thế Tôn! Đúng vậy! Vì hết sức
thanh tịnh.
Xá lợi Tử thưa:
- Bạch Thế Tôn! Như vậy Bát nhã Ba
la mật là ánh sáng lớn?
Phật dạy:
- Đúng vậy! Vì thanh tịnh vô cùng.
Xá lợi Tử thưa:
- Bạch Thế Tôn! Như vậy Bát nhã Ba
la mật vĩnh viễn chẳng tương tục?
Phật dạy:
- Đúng vậy! Vì rất thanh tịnh.
Xá lợi Tử thưa:
- Bạch Thế Tôn! Như vậy Bát nhã Ba
la mật không tạp nhiễm?
Phật dạy:
- Đúng vậy! Vì thanh tịnh vô cùng.
Xá lợi Tử thưa:
- Bạch Thế Tôn! Như vậy Bát nhã Ba
la mật không chứng đắc, không hiện quán?
Phật dạy:
- Đúng vậy! Vì rất thanh tịnh.
Xá lợi Tử thưa:
- Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật không
có chỗ sanh khởi?
Phật dạy:
- Đúng vậy! Vì rất thanh tịnh.
Xá lợi Tử thưa:
- Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật
này rốt ráo không sanh?
Phật dạy:
- Đúng vậy! Vì rất thanh tịnh.
Xá lợi Tử thưa:
- Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật
này không sanh ở Dục giới, không sanh ở Sắc giới, không sanh ở Vô sắc giới?
Phật dạy:
- Đúng vậy! Vì rất thanh tịnh.
Xá lợi Tử thưa:
- Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật
này không biết, không xác định?
Phật dạy:
- Đúng vậy! Vì rất thanh tịnh.
Xá lợi Tử thưa:
- Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật
này không hiểu, không xác định những pháp nào?
Phật dạy:
- Không hiểu, không xác định sắc. Vì
sao? Vì rất thanh tịnh. Không biết không hiểu thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao?
Vì rất thanh tịnh.
Xá lợi Tử thưa:
- Bạch Thế Tôn! Như vậy Bát nhã Ba
la mật đối với Niết bàn không tổn, không lợi?
Phật dạy:
- Đúng vậy! Vì rất thanh tịnh.
Xá lợi Tử thưa:
- Bạch Thế Tôn! Như vậy Bát nhã Ba
la mật không lấy, không bỏ tất cả pháp?
Phật dạy:
- Đúng vậy! Vì rất thanh tịnh.
Bấy giờ, Thiện Hiện cũng bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Vì ngã thanh tịnh
nên sắc thanh tịnh?
Phật dạy:
- Đúng vậy! Vì rốt ráo thanh tịnh.
Thiện Hiện lại thưa:
- Bạch Thế Tôn! Vì ngã thanh tịnh
nên thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh?
Phật dạy:
- Đúng vậy! Vì rốt ráo tịnh.
Thiện Hiện lại thưa:
- Vì ngã thanh tịnh nên quả thanh
tịnh?
Phật dạy:
- Đúng vậy! Vì rốt ráo tịnh.
Thiện Hiện lại thưa:
- Bạch Thế Tôn! Vì ngã thanh tịnh
nên Nhất thiết trí thanh tịnh?
Phật dạy:
- Đúng vậy! Vì rốt ráo tịnh.
Thiện Hiện lại thưa:
- Bạch Thế Tôn! Vì ngã thanh tịnh
nên không chứng đắc, không hiện quán?
Phật dạy:
- Đúng vậy! Vì rốt ráo tịnh.
Thiện Hiện lại thưa:
- Bạch Thế Tôn! Vì ngã vô biên nên
sắc vô biên?
Phật dạy:
- Đúng vậy! Vì rốt ráo tịnh.
Thiện Hiện lại thưa:
- Bạch Thế Tôn! Vì ngã vô biên nên
thọ, tưởng, hành, thức vô biên?
Phật dạy:
- Đúng vậy! Vì rốt ráo tịnh.
Thiện Hiện lại thưa:
- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ tát có thể
hiểu thế này: Đây là Bát nhã Ba la mật?
Phật dạy:
- Đúng vậy! Vì rốt ráo tịnh.
Thiện Hiện lại thưa:
- Bạch Thế Tôn! Như vậy Bát nhã Ba la mật chẳng phải bờ này, chẳng phải
bờ kia, chẳng phải giữa dòng?
Phật dạy:
- Đúng vậy!
Vì rốt ráo tịnh. (Q.545, TBBN)
(Có xác nhận là có chấp, nên xa lìa Bát Nhã)
Thiện Hiện lại thưa:
- Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ tát khởi
lên tư tưởng là xả bỏ Bát nhã Ba la mật, thì xa lìa Bát nhã Ba la mật?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì sao?
Vì đại Bồ tát này chấp trước danh, chấp
trước tướng.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Thật kỳ lạ! Bạch
Thiện Thệ! Thật hiếm có! Ngài đã khéo vì chúng đại Bồ tát khai thị, phân biệt
rốt ráo chấp tướng đối với Bát Nhã
sâu xa.
Khi ấy, Xá lợi Tử hỏi Thiện Hiện:
- Thế nào là đại Bồ tát khởi lên sự
chấp tướng đối với Bát Nhã sâu xa?
Thiện Hiện đáp:
- Nếu đại Bồ
tát đối với sắc cho là Không rồi khởi lên tư tưởng chấp trước cái Không ấy. Đối
với thọ, tưởng, hành, thức cho là Không rồi khởi lên chấp trước tưởng Không ấy.
Đối với pháp quá khứ cho là pháp quá khứ, rồi khởi lên chấp trước tưởng pháp
quá khứ. Đối với pháp vị lai cho là pháp vị lai, rồi khởi lên chấp trước tưởng
pháp vị lai. Đối với pháp hiện tại cho là pháp hiện tại, rồi khởi lên chấp
trước tưởng pháp hiện tại. Nghĩa là các thiện nam thiện nữ trụ Bồ tát thừa khi
mới phát tâm đã khởi lên tưởng như vậy gọi là chấp tướng.
Khi ấy, trời Đế Thích hỏi Thiện
Hiện:
- Dựa vào đâu mà gọi như vậy là chấp
tướng?
Thiện Hiện đáp:
- Nếu bảo đây là tâm đại Bồ đề, hoặc
chấp đây là tâm Bồ đề bắt đầu hồi hướng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, thì
gọi là chấp tướng.
Này Kiều thi ca! Tâm vốn tánh Không,
không thể hồi hướng. Các thiện nam thiện nữ trụ Bồ tát thừa, nếu khởi chấp: Ta
hướng tới Đại thừa. Tất cả như vậy gọi là chấp tướng.
Vì vậy, đối với quả vị Vô Thượng
Chánh Đẳng Bồ đề, các chúng đại Bồ tát muốn thị hiện, khuyến khích, hướng dẫn,
khen ngợi các hữu tình hướng tới Đại thừa nên tùy theo thật tướng mà thị hiện,
khuyến khích, hướng dẫn, khen ngợi các hữu tình kia. Nếu có thể thị hiện,
khuyến khích, hướng dẫn, khen ngợi hữu tình kia đối với chính họ không bị tổn
hại, cũng chẳng làm tổn hại kẻ khác. Đây là điều đã được chư Như Lai hứa khả.
Này Kiều thi ca! Các thiện nam thiện
nữ an trụ Đại thừa, nếu có thể thị hiện, khuyến khích, hướng dẫn, khen ngợi các
hữu tình hướng tới Bồ tát thừa như vậy thì liền xa lìa được tất cả chấp trước.
Bấy giờ, Thế Tôn khen Thiện Hiện:
- Hay thay! Nay ngươi vì các Bồ tát
thuyết một cách khéo léo về tướng chấp trước, làm cho các Bồ tát giác ngộ, xa
lìa. Lại có những chấp trước vi tế
khác nữa, Ta sẽ vì ngươi mà nói. Ngươi nên lắng nghe cho kỹ, suy nghĩ cho sâu.
Thiện Hiện bạch:
- Xin Thế Tôn nói, chúng con rất muốn
nghe.
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Các thiện nam
thiện nữ an trụ Đại thừa muốn đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, đối với
chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác phải đem lòng tin thanh tịnh, giữ lấy tướng để
nhớ nghĩ, tùy theo sự thủ tướng nên gọi là chấp trước. Vì sao? Vì chấp thủ tướng đều gọi là chấp trước.
Nếu đối với các pháp vô lậu, tất cả
Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trong quá khứ, hiện tại, vị lai đều rất tùy hỷ. Lại
đem căn lành của sự tùy hỷ này ban cho các hữu tình một cách bình đẳng, cùng
nhau hồi hướng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, cũng gọi là chấp trước. Vì
sao? Vì thật tánh các pháp chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải
hiện tại, xa lìa ba đời. Chẳng phải lìa pháp ba đời có thể hồi hướng được. Lìa ba đời thì không thể giữ lấy tướng,
không thể duyên theo, cũng không thấy nghe hiểu biết sự việc. (Q.545, TBBN)
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Thật tánh các pháp
rất thâm sâu?
Phật dạy:
- Đúng vậy! Vì bản tánh xa lìa.
Thiện Hiện lại thưa:
- Bạch Thế Tôn! Như vậy Bát nhã Ba
la mật bản tánh thâm sâu?
Phật dạy:
- Đúng vậy! Vì bản tánh thanh tịnh.
Thiện Hiện lại thưa:
- Bạch Thế Tôn! Như vậy Bát nhã Ba
la mật bản tánh thanh tịnh?
Phật dạy:
- Đúng vậy! Vì bản tánh xa lìa.
Thiện Hiện lại thưa:
- Bạch Thế Tôn! Như vậy Bát nhã Ba la
mật đều nên kính lễ?
Phật dạy:
- Đúng vậy! Vì tất cả bản tánh của
pháp xa lìa.
Thiện Hiện nên biết! Nếu bản tánh
của tất cả pháp là xa lìa thì tức là Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Vì Như Lai chứng biết thật tánh các pháp không
tạo không tác.
Thiện Hiện lại thưa:
- Bạch Thế Tôn! Vậy Như Lai Ứng
Chánh Đẳng Giác không có sự chứng đắc đối với tất cả pháp nên gọi là hiện Đẳng
giác?
Phật dạy:
- Đúng vậy! Vì tất cả pháp đồng một
tánh chẳng phải hai.
Thiện Hiện
nên biết! Các pháp nhất tánh tức là vô tánh. Các pháp vô tánh tức là nhất tánh.
Như vậy, các pháp nhất tánh hay vô tánh đều vốn thật tánh. Tánh vốn thật này
tức là nhất tướng, chỗ gọi là vô tướng.
Vì vậy, này Thiện Hiện! Đối với tất
cả pháp, tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác không có sự chứng đắc nên gọi là hiện
Đẳng giác. Vì sao? Vì bản tánh các pháp chỉ có một không hai.
Thiện Hiện
nên biết: Bản tánh các pháp tức là phi bản tánh. Phi bản tánh đây tức là bản
tánh. Biết được như vậy thì có thể xa lìa tất cả sự chấp trước. (Q.545, TBBN)
(Không có
pháp nào có tự tánh riêng của chính nó, vì không tự sanh nên gọi là không hay
không có bản tánh hay phi bản tánh. Tất cả pháp đều do duyên hợp. Nếu biết rõ
như vậy thì có thể xa lìa chấp trước).
Thiện Hiện lại thưa:
- Bạch Thế Tôn! Như vậy Bát nhã Ba
la mật khó có thể hiểu biết?
Phật dạy:
- Đúng vậy! Vì không có người hiểu
biết.
Thiện Hiện lại thưa:
- Bạch Thế Tôn! Như vậy Bát nhã Ba
la mật không thể nghĩ bàn?
Phật dạy:
- Đúng vậy! Chẳng phải tất cả tâm
đều có thể biết rõ được.
Thiện Hiện lại thưa:
- Như vậy, Bát nhã Ba la mật không
có sự tạo tác?
Phật dạy:
- Đúng vậy! Vì những sự tạo tác ấy
bất khả đắc.
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại bạch
Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ tát nên hành Bát
nhã Ba la mật như thế nào?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát hoặc chẳng hành sắc là hành Bát
nhã Ba la mật; hoặc chẳng hành thọ, tưởng, hành, thức là hành Bát nhã Ba la mật.
Lại nữa, này
Thiện Hiện! Các đại Bồ tát chẳng hành sắc Không, là hành Bát nhã Ba la mật;
hoặc chẳng hành thọ, tưởng, hành, thức Không, là hành Bát nhã Ba la mật.
Lại nữa, này
Thiện Hiện! Các đại Bồ tát nếu chẳng hành sắc tướng, là hành Bát nhã Ba la mật.
Nếu chẳng hành thọ, tưởng, hành, thức tướng là hành Bát nhã Ba la mật. Vì sao?
Vì sắc không viên mãn tức là chẳng phải sắc. Thọ, tưởng, hành, thức không viên
mãn tức là chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức. Nếu không hành như vậy là hành Bát
nhã Ba la mật. (Q.545, TBBN)
Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Thật hi hữu! Bạch
Thiện Thệ! Thật kỳ lạ! Ở trong những sự chấp trước mà nói tướng không chấp
trước.
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát
hoặc chẳng hành sắc không chấp tướng là hành Bát nhã Ba la mật. Hoặc chẳng hành
thọ, tưởng, hành, thức không chấp tướng là hành Bát nhã Ba la mật.
Thiện Hiện nên biết! Các đại Bồ tát
nếu thường hành sâu Bát nhã Ba la mật như vậy thì đối với sắc chẳng sanh chấp
trước; đối với thọ, tưởng, hành, thức chẳng sanh chấp trước. Đối với quả Dự lưu
chẳng sanh chấp trước; đối với quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán chẳng sanh chấp
trước. Đối với Độc giác Bồ đề chẳng sanh chấp trước. Đối với quả vị Vô Thượng
Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật chẳng sanh chấp trước. Đối với Nhất thiết trí
cũng chẳng sanh chấp trước. Vì sao? Vì
không chấp trước, không trói buộc, vượt qua tất cả gọi là Nhất thiết trí.
Như vậy, này Thiện Hiện! Các đại Bồ
tát vượt qua tất cả chấp trước để hành Bát nhã Ba la mật thâm sâu.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Thật hi hữu! Bạch
Thiện Thệ! Thật kỳ lạ! Như vậy, sự chứng pháp tánh của Bát nhã Ba la mật rất là
sâu xa. Nếu nói hay chẳng nói đều không tăng giảm.
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như
lời ngươi nói. Thí như hư không, giả sử hết thọ lượng của chư Phật hoặc khen
hoặc chê thì hư không kia cũng không tăng, không giảm. Pháp tánh sâu xa cũng
lại như vậy, hoặc nói hoặc chẳng nói đều không tăng, không giảm.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Thí như hóa
nhân đối với sự khen chê đều không vui, không buồn, không tăng, không giảm.
Pháp tánh sâu xa cũng lại như vậy, hoặc nói hoặc chẳng nói đều như vậy vốn
không thay đổi.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ tát hành
Bát Nhã sâu xa là việc rất khó. Nghĩa là Bát Nhã sâu xa tu hoặc chẳng tu, không
tăng, không giảm, không tiến, không thối. Các
đại Bồ tát tu hành Bát nhã Ba la mật như tu hư không đều không có sở hữu;
nghĩa là trong ấy không có pháp có thể nắm bắt mà siêng năng tu học cho đến quả
vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thường không có sự thối chuyển.
Bạch Thế Tôn! Hàng hữu tình chúng
con đều phải kính lễ các đại Bồ tát, vì là bậc mặc áo giáp đại công đức như
vậy. Vì sao? Vì các đại Bồ tát độ hữu tình nên mặc áo giáp công đức. Ví như
muốn chiến đấu với hư không phải mặc áo giáp kiên cố.
Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ tát vì độ
hữu tình nên mặc áo giáp công đức, như vị tướng hùng dũng muốn đem hư không để
chỗ cao hơn.
Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ tát rất là
hùng dũng, mặc áo giáp công đức, vì các hữu tình như hư không, pháp giới, pháp
tánh, nên muốn đạt đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ tát đạt
được đại tinh tấn Ba la mật, vì tất cả pháp như hư không nên mặc áo giáp công
đức.
Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ tát rất là
hiếm có, vì các loài hữu tình như hư không, giải thoát khổ sanh tử như hư
không, được Niết bàn an lạc như hư không, nên mặc áo giáp công đức. (Q.545, TBBN)
Bấy giờ, trong hội có một vị Bí sô
chắp tay hướng về Phật thưa:
- Bạch Thế Tôn! Con phải kính lễ Bát
Nhã sâu xa. Nghĩa là Bát nhã Ba la mật này không pháp nào có thể sanh, không
pháp nào có thể diệt.
Khi ấy, trời Đế Thích hỏi Thiện
Hiện:
- Nếu đại Bồ tát muốn học Bát nhã Ba la mật phải
học như thế nào?
Thiện Hiện đáp:
- Nếu đại Bồ
tát muốn học Bát nhã Ba la mật phải như hư không tinh tấn tu học.
Trời Đế Thích liền bạch Phật:
- Đối với Bát Nhã sâu xa, nếu các
thiện nam, thiện nữ chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh tấn tu học, tư
duy đúng lý, biên chép, thuyết giảng, truyền bá rộng rãi, thì con sẽ hộ trì
không để vị ấy tổn hại buồn phiền.
Bấy giờ, Thiện Hiện bảo Đế Thích:
- Ông thấy có pháp nào để hộ trì
không?
Trời Đế Thích nói:
- Thưa Đại đức! Không thấy. Tôi
không thấy có pháp để hộ trì.
Thiện Hiện bảo:
- Nếu đại Bồ tát trụ như Bát Nhã sâu xa đã nói tức là hộ trì. Còn ai lìa Bát
nhã Ba la mật, là bị người chẳng phải người làm hại ngay.
Này Kiều thi ca! Nếu muốn hộ trì các
Bồ tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, chẳng khác gì có người phát khởi sự siêng
năng tinh tấn hộ trì hư không. Nếu muốn hộ trì các Bồ tát hành sâu Bát nhã Ba
la mật, luống uổng nhọc nhằn hoàn toàn không ích gì.
Này Kiều thi ca! Ý ông thế nào? Có
ai có thể giữ được tiếng vang không?
Trời Đế Thích nói:
- Thưa Đại đức! Không.
Thiện Hiện bảo:
- Này Kiều thi ca! Nếu muốn hộ trì
các Bồ tát hành sâu Bát nhã Ba la mật cũng lại như vậy, luống uổng nhọc nhằn
hoàn toàn không có ích gì.
Này Kiều thi ca! Các đại Bồ tát hành
sâu Bát nhã Ba la mật, dù biết các pháp đều như tiếng vang nhưng không xem
thấy, cũng chẳng chỉ rõ. Vì tất cả pháp hoàn toàn vô sở hữu và bất khả đắc. Nếu
đại Bồ tát trụ được như vậy là hành Bát nhã Ba la mật.
Bấy giờ, do sức oai thần của Thế Tôn
nên khiến cho trời Bốn Đại thiên vương và trời Đế Thích, Đại Phạm vương và tất
cả chúng trời trong Tam thiên đại thiên thế giới này đi đến chỗ Phật, đảnh lễ sát
chân Ngài rồi đứng qua một bên. Nhờ thần lực của Phật nên khắp mười phương thế
giới, đều thấy
được ngàn đức Phật thuyết giảng Bát nhã Ba la mật, nghĩa phẩm danh tự đều đồng
nơi đây. Vị đứng đầu chúng Bí sô thỉnh thuyết Bát nhã Ba la mật đều tên Thiện
Hiện. Vị đứng đầu các chúng trời vấn nạn Bát nhã Ba la mật đều tên Đế Thích.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo Thiện Hiện:
- Từ Thị Bồ tát sẽ chứng quả vị Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, tức khi ấy lấy danh hiệu này, cùng ở chỗ này thuyết
giảng Bát nhã Ba la mật. Trong Hiền kiếp chư Phật đời vị lai sẽ lấy danh hiệu
này cũng ở chỗ này tuyên thuyết Bát nhã Ba la mật. (Q.545, TBBN)
Lược giải:
1. Thế nào là thanh tịnh?
“Vì sắc thanh tịnh tức quả thanh
tịnh. Quả thanh tịnh tức sắc thanh tịnh. Vì sao? Vì sắc đây thanh tịnh và quả
thanh tịnh này không hai, không khác, không đoạn, không hoại. Thọ, tưởng, hành,
thức thanh tịnh tức quả thanh tịnh. Quả thanh tịnh tức thọ, tưởng, hành, thức
thanh tịnh. Vì sao? Vì thọ, tưởng, hành, thức và quả thanh tịnh không hai,
không khác, không đoạn, không hoại.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Sắc thanh tịnh tức là
Nhất thiết trí thanh tịnh; Nhất thiết trí thanh tịnh tức là sắc thanh tịnh. Vì
sao? Vì sắc thanh tịnh và Nhất thiết trí thanh tịnh không hai, không khác,
không đoạn, không hoại. Thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh tức là Nhất thiết trí
thanh tịnh; Nhất thiết trí thanh tịnh tức là thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh.
Vì sao? Vì thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh và Nhất thiết trí thanh tịnh này
không hai, không khác, không đoạn, không hoại”.
Vì thấy tất
cả pháp có chuyển có lai, có dời có động, có nhiễm có tịnh... nên tâm chuyển.
Nếu biết tất cả pháp là xa lìa, là viễn ly, không tạo không tác thì tâm như như
bất động. Tâm như như bất động tức có cái thấy biết bình đẳng. Có cái thấy biết
bình đẳng như vậy thì tâm mới lặng. Tâm lặng thì tất cả trần cảnh đều thanh
tịnh: Thân nghiệp,
ngữ nghiệp, ý nghiệp cũng đều thanh tịnh. Do nghiệp thanh tịnh nên lìa các
chướng ngại. Do lìa chướng ngại nên tâm thường hoan hỷ. Do tâm hoan hỷ nên
siêng năng tinh tấn. Do siêng năng tinh tấn nên tâm nguyện viên mãn. Do tâm
nguyện viên mãn nên sanh trí tuệ.
2. Tất cả đều do phân biệt chấp đắm:
Nguyên do
của cái lao xao không phải ở trần cảnh mà do phân biệt chấp tướng, nên sanh
tâm. Như lai biết
tất cả pháp nhất tánh tức là vô tánh. Các pháp vô tánh tức là nhất tánh. Như
vậy, các pháp nhất tánh, vô tánh này vốn thật tánh. Tánh vốn thật tức là nhất
tướng, chỗ gọi là vô tướng.
Vì thấy vô
tướng nên không phân biệt chấp đắm nữa. Nếu không phân biệt chấp đắm thì không
còn thi vi tạo tác. Không thi vi tạo tác tức không chấp, không dính mắc, không
trói buộc thì gọi là giải thoát. Vượt qua tất cả thì được thanh tịnh nên phát
tuệ mà đạt Nhất thiết trí trí.
Vì vậy, Kinh
khuyên muốn học Bát nhã Ba la mật phải như hư không tinh tấn tu học.
3. Thay lời
lược giải về phẩm “Thanh Tịnh” này, xin Quý vị độc giả kiên nhẫn thọ trì các
đoạn Kinh trích dẫn sau đây:
1- Tất cả
pháp không thể nắm bắt được nên nói rốt ráo thanh tịnh:
-
“Phẩm Biện Đại Thừa” quyển 56, Hội thứ I, ĐBN:
“Thiện Hiện! Tánh vô sanh vô diệt, vô nhiễm vô tịnh,
vô tướng vô vi bất khả đắc, nên nói vô sanh vô diệt, vô nhiễm vô tịnh, vô tướng
vô vi bất khả đắc. Vì cớ sao? Vì tánh vô
sanh vô diệt, vô nhiễm vô tịnh, vô tướng vô vi chẳng phải đã khả đắc, chẳng
phải sẽ khả đắc, chẳng phải hiện khả đắc, rốt ráo tịnh vậy”.
Vì vậy, Phật bảo Thiện Hiện: “Các đại Bồ
tát, khi tu hành Bát nhã Ba la mật, tuy
quán tất cả pháp đều bất khả đắc vô sở hữu, rốt ráo thanh tịnh, nên không
nương vào Đại thừa mà xuất hiện và đến đi, nhưng lấy vô sở đắc làm phương tiện,
nương vào Đại thừa ra khỏi sanh tử ba cõi, đến Nhất thiết trí trí, lợi ích, an
ổn tất cả hữu tình, đến tận cùng đời vị lai, thường không dừng nghỉ”.
- Phẩm “Bát
Nhã Hành Tướng” quyển 38 trở đi, Hội thứ I, ĐBN:
Xá Lợi Tử bạch: Bạch Thế Tôn! Cái gọi là rốt ráo thanh tịnh, nghĩa là
thế nào?
Phật dạy: Các pháp chẳng xuất
hiện, chẳng sanh ra, chẳng mất đi, chẳng diệt tận, vô nhiễm vô tịnh, vô đắc vô
vi. Như vậy gọi là cái nghĩa rốt ráo thanh tịnh”.
Tất cả pháp thanh tịnh hay không là
do con người. Các pháp vốn chẳng đến chẳng đi, chẳng sanh chẳng diệt, vô nhiễm
vô tịnh, vô đắc vô vi. Bởi con người thấy pháp rồi sanh ý thức cảm thọ, nên nói
thế nầy thế khác. Các pháp tự nó vốn tịnh. Pháp không sanh pháp, pháp không
thấy các pháp, pháp không tự biết pháp, nó như vậy, ngàn năm vẫn như vậy. Động tịnh, cảm thọ là do con người không phải
do pháp.
2- Một thanh
tịnh mười phương đồng thanh tịnh:
Phẩm “Khó Tin Hiểu” là một phẩm có
thể coi là dài nhất trong Đại Bát Nhã (gồm 102 quyển, từ quyển 182 cho đến hết
quyển 284). Phẩm này xoay quanh chủ đề
thanh tịnh: Các chủ thể từ ngã, hữu tình, mạng
giả, sanh giả, dưỡng giả, tác giả, thọ giả, tri giả, kiến giả… cho tới các
uẩn xứ giới và tất cả pháp Phật đều có cùng liên hệ nhân quả mật thiết với
nhau. Tất cả các pháp này (uẩn xứ giới cho đến tất cả pháp Phật) quấn quýt với
nhau, tự xoay và cùng xoay quanh một cái trục mà chủ thể tiêu biểu là thanh
tịnh, giống như các hành tinh, vệ tinh trong thái dương hệ mà trong đó mặt trời
đứng chính giữa và các hành tinh tự xoay quanh chính nó và xoay quanh mặt trời
trên quỹ đạo của nó. Tất cả chủ thể đồng vận chuyển trong tương quan vô ngại
trong một cơ chế đặc biệt như là một liên hệ nhân quả được áp đặt bởi một quyền
năng. Như Kinh nói “Ngã thanh tịnh, nên sắc thanh tịnh, sắc thanh tịnh nên Nhất
thiết trí thanh tịnh v.v…”.
- Quyển 190,
của phẩm “Khó Tin Hiểu” sau đây được rút ra làm thí dụ:
“Phật bảo: Thiện Hiện! Ngã
thanh tịnh tức là sắc thanh tịnh; sắc thanh
tịnh tức là ngã thanh tịnh. Vì sao? Vì ngã thanh tịnh ấy cùng với sắc thanh
tịnh không hai, không khác, không đoạn, không hoại; ngã thanh tịnh tức là thọ,
tưởng, hành, thức thanh tịnh; thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh tức là ngã
thanh tịnh. Vì sao? Vì ngã thanh tịnh ấy cùng với thọ, tưởng, hành, thức thanh
tịnh không hai, không khác, không đoạn, không hoại”.
Bắt đầu Kinh nói về ngã, Kinh đề cập
ngay đến sắc thọ tưởng hành thức (tức năm uẩn), kế đến Kinh nhắc tới sắc xứ,
nhãn xứ…(mười hai xứ), rồi đến nhãn giới, thân giới, ý giới…(mười tám giới),
thập nhị nhân duyên, lục Ba la mật, mười tám pháp không, chơn như, Tứ đế, ba
mươi bảy pháp trợ đạo, tam giải thoát môn, Bồ tát thập địa, năm loại mắt, sáu
phép thần thông, Phật mười lực v.v…cho đến quả vị Giác ngộ tối cao (nói chung
là tất cả pháp Phật) thanh tịnh nên ngã thanh tịnh. Ở đây Kinh nói tất cả pháp
Phật đối với ngã.
Đoạn kế tiếp Kinh nói về hữu tình,
mạng giả, sanh giả, tác giả, thọ giả, tri giả, kiến
giả…(18 tướng thuộc về ngã) thanh tịnh, nên uẩn xứ giới và tất cả pháp Phật
thanh tịnh.
Các đoạn Kinh kế tiếp thay vì Kinh
nói về ngã và sắc thanh tịnh, Phật thêm vào một yếu tố thứ ba là Nhất thiết trí
trí thanh tịnh, 18 tướng thuộc về ngã xoay quanh chủ đề Nhất thiết trí trí:
“Phật bảo Thiện Hiện: Ngã thanh tịnh nên sắc thanh tịnh, sắc thanh tịnh nên
Nhất thiết trí trí thanh tịnh. Vì cớ sao? Hoặc ngã thanh tịnh
hoặc sắc thanh tịnh, hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh không
hai, không khác, không đoạn, không hoại.
Ngã thanh tịnh nên thọ tưởng hành thức thanh tịnh, thọ tưởng hành
thức thanh tịnh nên Nhất thiết trí trí thanh tịnh. Vì cớ sao? Hoặc
ngã thanh tịnh, hoặc thọ tưởng hành thức thanh tịnh, hoặc Nhất thiết
trí trí thanh tịnh không hai, không khác, không đoạn, không hoại.
(…)Thiện Hiện! Hữu
tình thanh tịnh nên sắc
xứ thanh tịnh, sắc xứ thanh tịnh nên Nhất thiết trí
trí thanh tịnh. Vì cớ sao? Hoặc hữu
tình thanh tịnh, hoặc sắc xứ thanh tịnh, hoặc Nhất thiết trí
trí thanh tịnh không hai, không khác, không đoạn, không hoại. Hữu tình thanh tịnh nên thanh hương vị xúc pháp
xứ thanh tịnh; thanh hương vị xúc pháp xứ thanh tịnh nên Nhất thiết
trí trí thanh tịnh. Vì cớ sao? Hoặc hữu tình thanh tịnh, hoặc thanh
hương vị xúc pháp xứ thanh tịnh, hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh
không hai, không khác, không đoạn, không hoại.
(…) Thiện Hiện! Mạng
giả thanh tịnh nên nhãn giới thanh tịnh, nhãn giới thanh
tịnh nên Nhất thiết trí trí thanh tịnh. Vì
cớ sao? Hoặc mạng giả thanh tịnh, hoặc nhãn giới thanh tịnh, hoặc
Nhất thiết trí trí thanh tịnh không hai, không khác, không đoạn,
không hoại. Mạng giả thanh tịnh nên sắc giới,
nhãn thức giới và nhãn xúc, nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ thanh tịnh;
sắc giới cho đến nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ thanh tịnh nên Nhất
thiết trí trí thanh tinh. Vì cớ sao? Hoặc mạng giả thanh tịnh, hoặc
sắc giới cho đến nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ thanh tịnh, hoặc Nhất
thiết trí trí thanh tịnh không hai, không khác, không đoạn, không
hoại.
(...)Thiện Hiện! Tri
giả thanh tịnh nên bốn tĩnh lự thanh tịnh, bốn tĩnh lự thanh tịnh
nên Nhất
thiết trí trí thanh tịnh. Vì cớ sao? Hoặc tri giả thanh tịnh, hoặc bốn
tĩnh lự thanh tịnh, hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh không hai,
không khác, không đoạn, không hoại. Tri giả thanh
tịnh nên bốn vô lượng, bốn vô sắc định thanh tịnh; bốn vô lượng, bốn vô
sắc định thanh tịnh nên Nhất thiết trí trí thanh tịnh. Vì cớ sao?
Hoặc tri giả thanh tịnh, hoặc bốn vô lượng, bốn vô sắc định thanh
tịnh, hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh không hai, không khác,
không đoạn, không hoại.
(…)Thiện Hiện ! Kiến
giả thanh tịnh nên khổ Thánh đế thanh tịnh, khổ Thánh đế thanh tịnh nên
Nhất thiết trí trí thanh tịnh. Vì cớ sao? Hoặc kiến giả thanh tịnh, hoặc khổ
Thánh đế thanh tịnh, hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh. không hai, không khác,
không đoạn, không hoại. Kiến giả thanh tịnh nên tập diệt đạo Thánh đế thanh
tịnh, tập diệt đạo Thánh đế thanh tịnh nên Nhất thiết trí trí thanh tịnh.
Vì cớ sao? Hoặc kiến giả thanh tịnh, hoặc tập diệt đạo Thánh đế thanh tịnh,
hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh không hai, không khác, không đoạn, không
hoại v.v… và v.v...”
Trước hết Kinh nói ngã thanh tịnh nên sắc cho đến quả vị
Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thanh tịnh. Kế đến, Kinh nói, hữu tình thanh
tịnh nên sắc xứ thanh tịnh, sắc xứ thanh tịnh nên Nhất thiết trí
trí thanh tịnh. Cứ một
pháp thanh tịnh lại lôi cuốn một pháp khác thanh tịnh: Ngã thanh tịnh, nên sắc
thanh tịnh, sắc thanh tịnh nên Nhất thiết trí thanh tịnh. Cứ thế mà tiếp nối
v.v... và v.v…
Chủ đề tiếp tục với tam độc tham sân
si: Một khi tham sân si hết hoành hành (thanh tịnh) thì các uẩn xứ giới và tất
cả pháp Phật trở nên vắng lặng (thanh tịnh). Các uẩn vì quá náo nhiệt nên giác
tâm mới lăng xăng! Một khi uẩn thanh tịnh thì các thứ khác đồng thanh tịnh,
hoặc nói rộng ra một pháp thanh tịnh thì mười phương thế giới như cát sông Hằng
đồng thanh tịnh.
- “Khó Tin Hiểu” kết luận: “Này Thiện
Hiện! Vì Nhất thiết trí trí thanh tịnh nên tất cả Bồ tát hạnh thanh tịnh; vì
tất cả Bồ tát hạnh thanh tịnh nên quả vị Giác ngộ tối cao của chư Phật thanh
tịnh. Vì sao? Vì hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh, hoặc tất cả Bồ tát hạnh
thanh tịnh, hoặc quả vị Giác ngộ tối cao của chư Phật thanh tịnh đều không hai,
không khác, không đoạn, không hoại.
Lại nữa, Thiện Hiện! Vì hữu vi thanh tịnh nên vô vi thanh tịnh; vì vô vi
thanh tịnh nên hữu vi thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc hữu vi thanh tịnh, hoặc vô vi
thanh tịnh đều không hai, không khác, không đoạn, không hoại.
Lại nữa, Thiện Hiện! Vì quá khứ thanh tịnh nên vị lai, hiện tại thanh
tịnh; vì vị lai, hiện tại thanh tịnh nên quá khứ thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc
quá khứ thanh tịnh, hoặc vị lai, hiện tại thanh tịnh đều không hai, không khác,
không đoạn, không hoại v.v…”
Ta có thể thấy bất cứ quyển nào
trong 102 quyển thuộc phẩm “Khó Tin Hiểu”, đều có một liên hệ nhân quả giữa các
pháp từ căn, trần, xứ, giới cho đến tất cả pháp Phật. Một pháp thanh tịnh thì
mười phương thế giới như cát sông Hằng đều thanh tịnh.
Thanh tịnh nầy
được coi là sâu, rất sáng, thanh tịnh nầy lại vô cấu, vô đắc, vô trước, thanh
tịnh nầy lại vô sanh, vô tri…Vì sao? Vì tất cả các pháp tự tánh rỗng không, bất
khả đắc vậy.
Một tâm
thanh tịnh thì toàn thể quốc độ đều thanh tịnh. Toàn cõi quốc độ thanh tịnh thì
mười phương thế giới như cát sông Hằng đều thanh tịnh. Đạo Phật được coi là
Thanh-Tịnh-Đạo là vì vậy, nếu hành giả của đạo này biết giữ thân tâm thanh
tịnh.
Kết luận:
(chung cho phẩm “Thanh Tịnh”)
Ta có thể
lấy cuộc đối thoại giữa Phật và Tu Bồ Đề ở phẩm “Thuyết Tướng Bát Nhã”, quyển
292, Hội thứ I, ĐBN, để
làm kết luận cho phần này:
“Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật
rằng:
- Bạch Thế Tôn! Di Lặc Bồ tát Ma ha
tát khi được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề chứng
những pháp nào? Và nói những pháp
nào?
Phật nói:
- Thiện Hiện! Di Lặc Bồ tát ma ha
tát khi được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề chứng
pháp sắc rốt ráo tịnh, nói pháp sắc
rốt ráo tịnh. Chứng pháp thọ tưởng hành thức rốt ráo tịnh, nói pháp thọ
tưởng hành thức rốt ráo tịnh. Chứng pháp thập nhị xứ rốt ráo tịnh, nói pháp
thập nhị xứ rốt ráo tịnh. Chứng pháp thập bát giới rốt ráo tịnh, nói pháp thập
bát giới rốt ráo tịnh. Chứng tất cả pháp Phật rốt ráo tịnh, nói tất cả pháp
Phật rốt ráo tịnh.
Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Làm sao Bát nhã Ba
la mật được thanh tịnh?
Phật nói: Thiện Hiện! Sắc thanh tịnh
nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh, thọ tưởng hành thức thanh tịnh nên Bát nhã Ba
la mật thanh tịnh.
Bạch Thế Tôn! Vì sao sắc thanh tịnh
nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh? Thọ tưởng hành thức thanh tịnh nên Bát nhã Ba
la mật thanh tịnh?
Thiện Hiện! Sắc vô sanh vô diệt, vô nhiễm vô tịnh nên thanh tịnh; sắc thanh tịnh
nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh. Thọ tưởng hành thức vô sanh vô diệt, vô nhiễm
vô tịnh nên thanh tịnh; thọ tưởng hành thức thanh tịnh nên Bát nhã Ba la mật
thanh tịnh. Các xứ giới và tất cả pháp Phật vô sanh vô diệt, vô nhiễm vô tịnh
nên thanh tịnh; các xứ giới và tất cả pháp Phật thanh tịnh nên Bát nhã Ba la
mật thanh tịnh. Thiện Hiện! Hư không thanh tịnh nên Bát nhã Ba la mật thanh
tịnh.
Bạch Thế Tôn! Vì sao hư không thanh
tịnh nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh?
Thiện Hiện! Hư không vô sanh vô
diệt, vô nhiễm vô tịnh nên thanh tịnh. Hư không thanh tịnh nên Bát nhã Ba la
mật thanh tịnh.
Lại nữa, Thiện Hiện! Sắc không nhiễm ô nên Bát nhã Ba la mật
thanh tịnh, thọ tưởng hành thức không nhiễm ô nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh.
Bạch Thế Tôn! Vì sao sắc không nhiễm
ô nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh? Thọ tưởng hành thức không nhiễm ô nên Bát
nhã Ba la mật thanh tịnh?
Thiện Hiện! Sắc bất khả đắc nên không nhiễm ô, sắc không nhiễm ô nên Bát nhã Ba la
mật thanh tịnh. Thọ tưởng hành thức bất khả đắc nên không nhiễm ô, thọ tưởng
hành thức không nhiễm ô nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh. Các xứ giới và tất cả
pháp Phật không nhiễm ô nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh. Thiện Hiện! Vì các xứ
giới và tất cả pháp Phật bất khả đắc nên không nhiễm ô; các xứ giới và tất cả
pháp Phật không nhiễm ô nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh.
Thiện Hiện! Hư không không nhiễm ô
nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh.
Bạch Thế Tôn! Vì sao hư không không
nhiễm ô nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh?
Thiện Hiện! Hư không bất khả đắc nên
không nhiễm ô, hư không không nhiễm ô nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh.
Lại nữa, Thiện Hiện! Sắc chỉ là giả nói nên Bát nhã Ba la mật-đa
thanh tịnh, thọ tưởng hành thức chỉ là giả nói nên Bát nhã Ba la mật thanh
tịnh.
Bạch Thế Tôn! Vì sao sắc chỉ là giả
nói nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh? Thọ tưởng hành thức chỉ là giả nói nên Bát
nhã Ba la mật thanh tịnh?
Thiện Hiện! Như hai tiếng vang nương hư không hiện, sắc cho
đến thức cũng lại như vậy, chỉ có giả nói. Sắc cho đến thức chỉ là giả nói nên Bát
nhã Ba la mật thanh tịnh. Các xứ giới và tất cả pháp Phật cũng lại như thế.
Thiện Hiện! Hư không chỉ là giả nói
nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh.
Bạch Thế Tôn! Vì sao hư không chỉ là
giả nói nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh?
Thiện Hiện! Như hai tiếng vang nương
hư không hiện, hư không cũng lại như vậy, chỉ có giả nói nên Bát nhã Ba la mật
thanh tịnh.
Lại nữa, Thiện Hiện! Sắc chẳng thể diễn đạt nên Bát nhã Ba la
mật thanh tịnh, thọ tưởng hành thức chẳng thể diễn đạt nên Bát nhã Ba la mật
thanh tịnh.
Bạch Thế Tôn! Vì sao sắc chẳng thể
diễn đạt nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh? Thọ tưởng hành thức chẳng diễn đạt
nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh?
Thiện Hiện! Sắc là pháp không thể
diễn đạt nên chẳng thể diễn đạt, thọ tưởng hành thức là pháp không diễn đạt nên
chẳng thể diễn đạt. Do đấy nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh. Các xứ giới và tất
cả pháp Phật cũng lại như thế.
Thiện Hiện! Hư không chẳng thể diễn
đạt nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh.
Bạch Thế Tôn! Vì sao hư không chẳng
thể diễn đạt nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh?
Thiện Hiện! Hư không là pháp không
thể diễn đạt nên chẳng khá diễn đạt. Do đấy nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh.
Thiện Hiện! Sắc chẳng khá được (bất khả đắc)
nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh, thọ tưởng hành thức chẳng khá được nên Bát
nhã Ba la mật thanh tịnh.
Bạch Thế Tôn! Vì sao sắc chẳng khá
được nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh? Thọ tưởng hành thức chẳng khá được nên Bát
nhã Ba la mật thanh tịnh?
Thiện Hiện! Sắc là pháp bất khả đắc
nên chẳng khá được, thọ tưởng hành thức là pháp bất khả đắc nên chẳng khá được.
Do đấy, Bát nhã Ba la mật thanh tịnh. Các xứ giới và tất cả pháp Phật cũng lại
như thế.
Thiện Hiện! Hư không chẳng khá được
nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh.
Bạch Thế Tôn! Vì sao hư không chẳng
khá được nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh?
Thiện Hiện! Hư không là pháp bất khả
đắc nên chẳng khá được. Do đấy, Bát nhã Ba la mật thanh tịnh.
Lại nữa, Thiện Hiện! Sắc chẳng sanh chẳng diệt, chẳng nhiễm
chẳng tịnh nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh; thọ tưởng hành thức chẳng sanh
chẳng diệt, chẳng nhiễm chẳng tịnh nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh.
Bạch Thế Tôn! Vì sao sắc chẳng sanh
chẳng diệt, chẳng nhiễm chẳng tịnh nên Bát nhã Ba la mật-đa thanh tịnh. Thọ
tưởng hành thức chẳng sanh chẳng diệt, chẳng nhiễm chẳng tịnh nên Bát nhã Ba la
mật thanh tịnh?
Thiện Hiện! Sắc rốt ráo không nên chẳng sanh chẳng diệt, chẳng nhiễm chẳng
tịnh; thọ tưởng hành thức rốt ráo không nên chẳng sanh chẳng diệt, chẳng nhiễm
chẳng tịnh. Do đấy, Bát nhã Ba la mật thanh tịnh. Các xứ giới và tất cả pháp
Phật cũng lại như thế.
Thiện Hiện! Hư không chẳng sanh chẳng diệt, chẳng nhiễm chẳng tịnh nên Bát nhã
Ba la mật thanh tịnh.
Bạch Thế Tôn! Vì sao hư không chẳng
sanh chẳng diệt, chẳng nhiễm chẳng tịnh nên Bát nhã Ba la mật-đa thanh tịnh?
Thiện Hiện! Hư không rốt ráo không, nên chẳng sanh chẳng diệt, chẳng nhiễm
chẳng tịnh. Do đấy, Bát nhã Ba la mật thanh tịnh”.
Rốt ráo
thanh tịnh có nghĩa là đối với uẩn xứ giới và tất cả pháp “tâm như như bất
động”. Tâm như như bất động là đối với trần cảnh không có sở đắc, không phân
biệt, nên không cảm thọ, không trụ, không chấp. Có trụ, có chấp... là có dính
mắc, có phiền não. Khi tâm không còn phân biệt, vô sở đắc, vô sở trụ... đó là tâm
không hay còn gọi là vô thức, vô niệm, vô tâm. Bát nhã Ba la mật còn gọi là
Tánh Không, chủ trương tâm không (tức dùng diệu quán “vô sở đắc”, diệu huệ
“vô sở trụ” làm phương tiện) mục đích quét sạch tất cả những dây mơ rễ má,
những thói quen, tập tục còn vướng bận trong tâm thức con người để con người
được rỗng rang tự tại.
Khi đạt đến
trình độ này (nhà Thiền diễn tả giống như một cái thùng thủng đáy) thì tâm thể
hoàn toàn vắng lặng. Lúc đó không có nghĩa là người tu biến thành gỗ đá. Thiền
sư Khuê Phong tức tôn giả Tông Mật nói: “Tâm có lặng thì linh chi mới mở”. Khi tâm thể tuyệt đối vắng lặng, người ta
tin tưởng là huệ xuất hiện, một thứ ánh sáng vi diệu chiếu soi sau cái “trống
không” đó, gọi là “diệu hữu chân không”, sẽ soi rọi suốt cõi đời vô tận.
Có lẽ chúng
tôi quá tham lam khi trích dẫn khá nhiều đoạn Kinh nói về thanh tịnh. Thay vì,
đem lại thanh tịnh cho độc giả, chúng tôi lại quấy rối độc giả thêm. Nhưng
thanh tịnh là một tiêu đề vĩ đại, nó là tôn chỉ của Tịnh độ tông nói riêng và
cũng là tôn chỉ của Phật đạo nói chung. Không có thanh tịnh không có Phật đạo.
Vì vậy, nên phải nói nhiều!
Một phút tư duy:
Tuần tự Bát
Nhã đưa chúng ta từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Ngạc nhiên vì những
điều mà chúng ta nghĩ tưởng đúng sai, phải quấy... đều phải chui qua cái lưới
của thức vọng phân biệt. Lưới này gạn lọc và chỉ cho qua những gì hợp với nó và
ngăn chận những gì trái với nó. Lưới này hầu như giăng sẵn trước mắt tai mũi
lưỡi… của chúng ta. Nó, bất cứ lúc nào cũng hiện diện và còn tỏ ra khôn ngoan,
mau mắn nữa!
Còn Phật
không nhìn vạn hữu bằng thức vọng, nhưng nhìn bằng Bát Nhã Trí, bằng Vô chướng
ngại trí, bằng Vô phân biệt trí, bằng Vô trước trí... nên Phật nói tất cả pháp
là như huyễn như mộng, tất cả chỉ là giả danh, không thật, vô sở hữu, bất khả
đắc. “Bản tánh các pháp tức là phi bản tánh. Phi bản tánh đây tức là bản
tánh” (1). Phật lại nói: “Các pháp nhất tánh tức
là vô tánh. Các pháp vô tánh tức là nhất tánh. Như vậy, các pháp nhất tánh hay
vô tánh đều vốn thật tánh. Tánh vốn thật này tức là nhất tướng, chỗ gọi là vô
tướng” (2). Đi xa hơn nữa Phật nói: “Các pháp bản tánh như vậy là như
vậy”(3). Các pháp như này chính là bình
đẳng, bình đẳng nên nói là thanh tịnh.
Và khi đạt
tới giới xứ cuối cùng đó tức đạt tới biên tế thật sự của các pháp, nên có thể
xa lìa chấp trước. Do đó, nên thấy đâu đâu cũng toàn là một màu xanh thanh
tịnh. Đó chính là chỗ cao tột của Bát Nhã cũng là chỗ cao tột của Phật Đạo. Vì
vậy, Phật Đạo mới được gọi là Thanh-Tịnh-Đạo.
Ngũ uẩn
thanh tịnh nên xứ giới thanh tịnh, xứ giới thanh tịnh nên tất cả pháp thanh
tịnh. Tất cả chỗ, tất cả thời thanh tịnh, nên mười phương thế giới như cát sông
Hằng đều thanh tịnh! Tịnh độ tông có câu “Tâm tịnh thì thế giới tịnh, tâm bình
thì thế giới bình”.
Thích nghĩa cho phần lược giải này:
(1). và (2).
Trích dẫn trong phẩm “Thanh Tịnh”, quyển 545, Hội thứ IV, TBBN.
(3). Trích
trong phẩm “Vô Sở Đắc” quyển 68, Hội thứ I, ĐBN.
---o0o---