XVII. PHẨM “TƯỚNG
BẤT THỐI CHUYỂN”
Giữa quyển
549, Hội thứ IV, TBBN.
Tóm lược:
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch
Phật:
- Chúng con nên dùng tướng trạng nào
để biết đại Bồ tát Bất thối chuyển?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát có
thể như thật biết hoặc địa vị phàm phu, hoặc địa vị Thanh văn, hoặc địa vị Độc
giác, hoặc địa vị Bồ tát, hoặc địa vị Như Lai. Các địa vị như vậy tuy nói có
khác nhưng trong tánh chơn như của các
pháp không đổi khác, không phân biệt, đều không có hai, không hai phần. Đại
Bồ tát đó tuy thật ngộ nhập chơn như của các pháp, cũng thật an trụ chơn như
của các pháp nhưng không có sự phân biệt, vì lấy vô sở đắc làm phương tiện.
Đại Bồ tát này đã thật ngộ nhập chơn
như của các pháp, mặc dù nghe chơn như cùng tất cả pháp không hai, không khác
nhưng không nghi ngờ, vướng mắc.
Đại Bồ tát đó đã thật an trụ vào
chơn như của các pháp; ra khỏi chơn như rồi, tuy nghe các pháp có nhiều tướng
loại khác nhau nhưng ở trong ấy không có sự chấp trước, cũng không nghi ngờ,
vướng mắc và không nghĩ như vầy: Việc này như thật, việc này không như thật.
Mặc dù không nghĩ như vậy nhưng đối với các pháp có thể biết như thật.
Đại Bồ tát này không bao giờ phát ra
lời nói vu vơ. Tất cả những gì họ nói đều đưa đến lợi ích, nếu không có lợi ích
thì họ không bao giờ nói. Đại Bồ tát này không bao giờ xét thấy sự hay dở, tốt
xấu của người khác, có tâm bình đẳng, thương xót. Nếu đại Bồ tát thành tựu các
tướng như vậy thì nhất định đối với quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề chẳng còn
thối chuyển.
Này Thiện Hiện! Tất cả các đại Bồ
tát Bất thối chuyển không bao giờ muốn thấy hình tướng ngôn từ của những ngoại
đạo, Sa môn, Bà la môn v.v... Không tin các Sa môn, Bà la môn v.v... đó đối với
pháp sở tri như thật biết, thật thấy, hoặc có thể trình bày chánh kiến, điều
này không thể có. Đại Bồ tát này không bao giờ lễ kính các thiên thần khác, như
các ngoại đạo của thế gian đã thờ phụng, cũng không bao giờ đem các vòng hoa,
các thứ hương bột, y phục, ngọc báu, tràng phan, bảo cái, âm nhạc, đèn sáng
v.v… để cúng dường thiên thần và các ngoại đạo. Đại Bồ tát nào thành tựu các
tướng trạng như vậy chắc chắn đối với quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề chẳng
còn thối chuyển.
Này Thiện Hiện! Tất cả Đại Bồ tát
Bất thối chuyển không rơi vào các nẻo ác, không làm thân người nữ, cũng không
sanh nơi dòng họ thấp hèn; ngoại trừ vì muốn độ thoát những loại hữu tình đó
nên hiện sanh cùng loài để dùng phương tiện hóa độ.
Đại Bồ tát này thường ưa thọ trì mười
thiện nghiệp đạo. Tự thân xa lìa sự sát hại chúng sanh cho đến tà kiến, khuyên
người khác xa lìa sự sát hại chúng sanh cho đến tà kiến. Tự thọ trì và hành
mười thiện nghiệp đạo, khuyên người khác thọ trì và hành mười thiện nghiệp đạo,
chỉ bày, thể hiện, khuyến khích, khen ngợi, vui mừng, giáo hóa hữu tình làm cho
họ được vững bền.
Đại Bồ tát ấy cho đến trong mộng
cũng chẳng thấy làm mười ác nghiệp đạo, cũng chẳng hiện khởi tâm ác bất thiện;
cho đến trong mộng cũng thường thọ học mười thiện nghiệp đạo. Đại Bồ tát nào
thành tựu các tướng trạng như vậy chắc chắn đối với quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng
Bồ đề chẳng còn thối chuyển.
Này Thiện Hiện! Các thứ Kinh điển mà
tất cả đại Bồ tát Bất thối chuyển thọ trì, tư duy, đọc tụng được thông suốt đều
vì lợi ích an vui cho tất cả hữu tình. Các vị ấy thường suy nghĩ: Ta đem pháp
này vì các hữu tình giảng nói, chỉ bày, sẽ làm cho tất cả phát nguyện được viên
mãn. Và đem căn lành pháp thí này ban cho các hữu tình một cách bình đẳng, cùng
nhau hồi hướng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Đại Bồ tát nào thành tựu các
tướng trạng như vậy chắc chắn đối với quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề chẳng
còn thối chuyển.
Này Thiện Hiện! Tất cả đại Bồ tát
Bất thối chuyển đối với pháp môn thâm sâu đức Phật đã dạy, không bao giờ sanh
tâm nghi ngờ, do dự, cũng không mê muội mà hoan hỷ tín thọ. Những điều nói ra
đều vì lợi ích, biết lượng mà nói những ngôn từ hòa nhã, thức ngủ đều được nhẹ
nhàng, không phát sanh phiền não, ra vào đến đi tâm luôn tỉnh thức, luôn luôn
an trụ nơi chánh niệm, chánh tri. Đi đứng nằm ngồi với hành động có oai nghi,
nhấc chân cất bước cũng như vậy. Chân bước đến đâu đều nhìn dưới đất, an nhiên
chánh niệm nhìn thẳng mà đi. Cử động nói năng thường không thô bạo. Những sự
thọ dụng như y phục, giường nằm đều luôn thơm sạch, thích sạch sẽ, thường không
bệnh tật, không có những hôi hám dơ bẩn, rận rệp, các thứ trùng. Trong thân
không có tám vạn hộ trùng. Vì sao? Vì các đại Bồ tát này căn lành tăng thượng,
vượt khỏi thế gian. Căn lành như như dần dần tăng trưởng, như vậy, thân tâm
thanh tịnh. Do nhân duyên này, thân tâm của các Bồ tát này kiên cố giống như
kim cương, không bị nghịch duyên làm thương tổn.
Đại Bồ tát nào thành tựu các tướng
trạng như vậy, chắc chắn đối với quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề chẳng còn
thối chuyển.
Khi ấy, Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Thế nào là các đại
Bồ tát nên biết tâm thường thanh tịnh?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Đại Bồ tát ấy căn
lành như như dần dần tăng trưởng. Trong tâm như vậy, như vậy, tất cả những
quanh co, dối trá đều không bao giờ hiện hành. Do nhân duyên này, bao nhiêu
phiền não và pháp bất thiện đều vĩnh viễn dập tắt, cũng vượt khỏi Thanh văn,
Độc giác địa, nhanh chóng tiến đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Cho nên
phải biết tâm thường thanh tịnh.
Này Thiện Hiện! Tất cả đại Bồ tát
Bất thối chuyển chẳng trọng lợi dưỡng, chẳng màng tiếng khen, tâm xa lìa ganh
ghét, tham lam, thân không lầm lỗi. Đối với các thức ăn, nước uống, y phục, đồ
nằm, thuốc thang, tài sản, của cải v.v… không tham đắm. Nghe pháp thâm sâu tâm
chẳng mê lầm, trí tuệ sâu bền, cung kính tín thọ. Tùy sự nghe nhận, đều hội
nhập Bát nhã Ba la mật sâu xa. Những sự nghiệp tạo tác ở thế gian cũng nương
vào phương tiện thiện xảo của Bát nhã Ba la mật hội nhập pháp tánh, không thấy một sự kiện nào ra khỏi pháp tánh.
Giả sử có pháp nào không tương ưng với pháp tánh thì cũng dùng phương tiện hội
nhập nghĩa lý thâm sâu của Bát nhã Ba la mật. Do đó không thấy pháp nào ngoài
pháp tánh. Đại Bồ tát nào thành tựu các tướng trạng như vậy, chắc chắn đối với
quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề chẳng còn thối chuyển.
Này Thiện Hiện! Giả sử có ác ma hóa
hiện trước mặt tất cả các đại Bồ tát Bất thối chuyển tám địa ngục lớn; ở trong
mỗi một địa ngục lớn đó hóa ra vô lượng trăm ngàn Bồ tát đều bị lửa dữ xen nhau
đốt cháy, chịu nhiều đau khổ chua xót, độc hại khổ sở vô cùng. Ác ma hóa ra như
vậy, bảo các Bồ tát Bất thối chuyển:
“Các Bồ tát này đều được thọ ký quả
vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề Bất thối chuyển, nên bị đọa trong địa ngục lớn
như vậy, thường chịu những đau khổ dữ dội như vậy. Bồ tát các ông đã nhận thọ
ký quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề Bất thối chuyển cũng sẽ đọa trong địa ngục
lớn này, và chịu những đau khổ dữ dội. Phật thọ ký cho các ông chịu khổ cùng
cực trong địa ngục lớn, chứ chẳng phải thọ ký các ông quả vị Vô Thượng Chánh
Đẳng Bồ đề Bất thối chuyển. Thế nên, các ông hãy mau vứt bỏ tâm đại Bồ đề, may
ra được thoát khỏi nổi khổ địa ngục đây. Tương lai sanh lên cõi trời hoặc sanh
trong loài người, hưởng thụ những vui sướng tuyệt vời”.
Khi ấy, các đại Bồ tát Bất thối
chuyển nghe thấy những điều như vậy, tâm họ vẫn không lay động, không nghi ngờ,
sợ hãi, mà chỉ suy nghĩ: Đại Bồ tát được thọ ký Bất thối chuyển, nếu đọa vào
cảnh giới ác, chịu các khổ não không thể thoát ra, nhất định việc này không thể
có. Những điều nghe thấy hôm nay chắc là ác ma làm ra. Những điều ác ma nói
hoàn toàn không thật có. Đại Bồ tát nào thành tựu các tướng trạng như vậy, chắc
chắn đối với quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề chẳng còn thối chuyển.
Này Thiện Hiện! Giả sử có ác ma hóa
làm hình tướng Sa môn đi đến chỗ các đại Bồ tát Bất thối chuyển, nói như vầy:
“Trước kia ông đã nghe, thọ trì, đọc tụng Kinh điển tương ưng Bát nhã Ba la mật
sâu xa đều là tà thuyết, hãy mau vứt bỏ, chớ nghĩ đó là chơn thật. Nếu các ông
có thể vứt bỏ nhanh chóng, ta sẽ dạy cho các ông pháp Phật chơn tịnh, để cho
ông mau chứng Vô thượng Bồ đề. Những gì ông đã nghe trước đây không đúng là của
Phật, đó là văn tụng dối trá do người soạn tập. Những lời ta nói mới đúng là
lời Phật”.
Thiện Hiện nên biết: Đại Bồ tát nào
nghe nói như vậy mà thân tâm dao động, nghi ngờ, sợ hãi, nên biết đó là Bồ tát
chưa được thọ ký Bất thối chuyển.
Đại Bồ tát nào nghe nói như vậy mà
thân tâm chẳng dao động, nghi ngờ, sợ hãi, chỉ an trụ theo pháp tánh vô tác, vô
tướng, vô sanh. Đại Bồ tát này có làm việc gì cũng không tin lời người khác,
chẳng theo lời dạy của người khác mà bị lay chuyển. Như A la hán có làm việc gì
chẳng tin lời người khác, hiện chứng pháp tánh, không mê hoặc, không nghi ngờ,
tất cả ác ma không thể khuynh đảo được. Đại Bồ tát Bất thối chuyển này không bị
tất cả Thanh văn, Độc giác, ngoại đạo, các ác ma v.v... có thể phá hoại, làm
cho lui sụt tâm Bồ đề. Đại Bồ tát nào thành tựu các tướng trạng như vậy, chắc
chắn đối với quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề chẳng còn thối chuyển.
Này Thiện Hiện! Giả sử có ác ma giả
hiện bạn thân đi đến chỗ các đại Bồ tát Bất thối chuyển, nói như vầy: “Những gì
các ông thực hành là pháp sanh tử, chẳng phải hạnh Bồ tát. Nay các ông nên tu
đạo hết khổ, mau hết các khổ, đắc Bát Niết bàn”.
Lúc đó, ác ma liền nói đạo pháp
tương tợ đạo sanh tử cho các Bồ tát và bảo: “Đây là chơn đạo, ông tu đạo này
sớm chấm dứt tất cả sanh, lão, bệnh, tử, được vào Niết bàn. Thân khổ hiện tại
còn nên chán bỏ, huống lại cầu thọ thân khổ nơi đời sau. Hãy tự suy nghĩ cẩn
thận để bỏ những gì đã tin từ trước”.
Khi đại Bồ tát nghe người đó nói,
thân tâm không dao động, không nghi ngờ, sợ hãi, mà chỉ suy nghĩ: Người nói lời
như vậy chính là ác ma.
Khi ấy, ác ma kia bảo Bồ tát: “Ông
muốn nghe hạnh vô ích của Bồ tát à? Nghĩa là các Bồ tát trải qua hằng hà sa số
đại kiếp, đem vô lượng thứ đồ cúng tốt đẹp nhất để cúng dường chư Phật. Lại ở
hằng hà sa số chỗ Phật tu vô lượng thứ hạnh khổ khó làm, thân cận vâng thờ hằng
hà sa số chư Phật Thế Tôn. Thỉnh hỏi đạo nên tu nơi vô lượng, vô biên của Bồ
tát và hằng hà sa số chư Phật Thế Tôn. Theo lời thỉnh hỏi thứ lớp được chỉ dạy.
Các chúng đại Bồ tát đó như lời Phật dạy, tinh tấn tu học trải qua vô lượng
kiếp còn không thể chứng đắc sự mong cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề;
huống gì hôm nay các ông có thể chứng đắc”.
Khi ấy, Bồ tát tuy nghe nói như vậy
nhưng thân tâm không dao động, không sợ hãi, nghi ngờ. Ác ma kia vội đến nơi
hóa làm vô lượng hình tướng Bí sô, bảo Bồ tát: “Các Bí sô này đều ở thời quá
khứ, trải qua vô số kiếp tu vô lượng các hạnh khổ khó làm mà vẫn không thể đắc
Vô thượng Bồ đề, nay đều lui trụ nơi quả A la hán. Làm sao các ông có thể chứng
đắc Bồ đề?” Các Bồ tát ấy nghe thấy vậy suy nghĩ: Nhất định là ác ma, vì muốn
khuấy rối ta nên làm những việc như vậy. Chắc chắn không có Bồ tát tu hành Bát
nhã Ba la mật đến quả vị viên mãn mà không chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ
đề, lui trụ nơi các địa vị Thanh văn, Độc giác.
Bồ tát lại suy nghĩ: Nếu các Bồ tát
như lời Phật dạy, tu hạnh Bồ tát mà không chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ
đề, việc này chắc chắn không thể xảy ra. Nên biết những điều đã thấy, đã nghe
hôm nay nhất định là do ác ma đã làm, đã nói.
Đại Bồ tát nào thành tựu các tướng
trạng như vậy, chắc chắn đối với quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề chẳng còn
thối chuyển.
Này Thiện Hiện! Tất cả đại Bồ tát
Bất thối chuyển, nếu có ác ma giả hình tướng Bí sô đi đến nơi Bồ tát muốn làm
cho chán bỏ Vô thượng Bồ đề, nói như vầy: “Nhất thiết trí trí ngang bằng hư
không, lấy vô tánh làm tánh, tự tướng vốn Không. Các pháp cũng vậy, ngang bằng
hư không, lấy vô tánh làm tánh. Trong tự tướng Không ấy, không có một pháp nào
có thể gọi là năng chứng, không có một pháp nào có thể gọi là sở chứng, nơi
chứng, thời chứng, và do đây chứng cũng bất khả đắc. Tất cả pháp đã ngang bằng
hư không, lấy vô tánh làm tánh, tự tướng vốn Không. Vì sao các ông phải chịu
khổ nhọc một cách uổng phí cầu chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề? Trước
kia, ngươi đã nghe các chúng Bồ tát nên cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề,
đều là ma nói chứ chẳng phải lời chơn thật của Phật. Các ông nên bỏ tâm mong
cầu chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, chớ nên vì các hữu tình ngày đêm
tự chịu gian khổ. Mặc dù làm vô số những việc khổ hạnh khó làm, mong cầu giác
ngộ nhưng không bao giờ đạt được.
Đại Bồ tát này khi nghe nói lời can
ngăn, quở trách như vậy, quán sát kỹ những việc của ác ma muốn làm lụn bại tâm
Bồ đề lớn của ta. Nay ta không nên tin nhận lời chúng nói mà đánh mất tâm Bồ đề
lớn đã phát nguyện. Ta phải kiên trì hơn, quyết không bao giờ lay chuyển. Đại
Bồ tát nào thành tựu các tướng trạng như vậy, chắc chắn đối với quả vị Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề chẳng còn thối chuyển.
Này Thiện Hiện! Tất cả Đại Bồ tát
Bất thối chuyển, muốn vào sơ tịnh lự cho đến tịnh lự thứ tư, thì có thể vào tùy
ý. Đại Bồ tát này tuy vào tịnh lự thứ tư nhưng không thọ quả đó. Vì muốn lợi
ích an vui các hữu tình nên tùy sự giáo hóa mà thọ thân, tức tùy theo sở nguyện
đều có thể giáo hóa. Sau khi làm những việc cần làm rồi thì xả bỏ ngay. Thế
nên, tuy có thể vào các tịnh lự nhưng không theo thế lực đó để thọ sanh. Vì hóa
độ các hữu tình nên sanh trở lại cõi Dục, tuy sanh nơi cõi Dục nhưng không bị
nhiễm dục. Đại Bồ tát nào thành tựu các tướng trạng như vậy, chắc chắn đối với
quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề chẳng còn thối chuyển.
Này Thiện Hiện! Tất cả đại Bồ tát
Bất thối chuyển, chẳng quí danh tiếng, không đắm trước tiếng khen. Đối với các
hữu tình tâm không sân giận, luôn giúp họ được lợi ích an vui. Đến đi ra vào
tâm không tán loạn, oai nghi tiến dừng thường trụ chánh niệm. Vì các hữu tình nên
mặc dù Bồ tát ở tại nhà nhưng trong ấy tâm không tham đắm. Tuy hiện thọ dục
nhưng tâm chán sợ. Tuy có ăn uống mà lòng lo sợ chẳng yên, chỉ nghĩ lúc nào cho
ra khỏi hiểm nạn này. Tuy hiện thọ dụng các thứ của cải nhưng ở nơi đó không
sanh tham ái, không tự muôi sống bằng việc phi pháp, bất chánh. Thà tự hy sinh
chứ không hại người khác.
Vì sao? Vì các Bồ tát thực hành Bát
nhã Ba la mật sâu xa là bậc tôn thượng trong loài người, thiện sĩ trong loài
người, quí tộc trong loài người, trâu chúa trong loài người, hoa sen trong loài
người, voi chúa trong loài người, sư tử trong loài người, hùng mạnh trong loài
người, điều ngự trong loài người, anh kiệt trong loài người. Vốn vì lợi ích an
vui cho tất cả hữu tình nên hiện ở thế gian để dùng phương tiện làm lợi ích, đâu
vì đời sống của chính mình mà xâm phạm phương hại đến người khác. Vì sao? Các
Bồ tát này đã nắm giữ phương tiện thiện xảo của Bát nhã Ba la mật sâu xa.
Đại Bồ tát nào thành tựu các tướng
trạng như vậy, chắc chắn đối với quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề chẳng còn
thối chuyển.
Này Thiện Hiện! Tất cả đại Bồ tát
Bất thối chuyển, có Thần vương Dược xoa cầm kim cương thường theo hộ vệ nghiêm
mật hai bên, không để cho những người chẳng phải người v.v... dùng oai lực tà
mị làm tổn hại thân tâm họ. Nhờ nhân duyên này, nên các Bồ tát từ lúc tu cho
đến lúc đạt được quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thân tâm thư thái, thường
không rối loạn, đủ tướng trượng phu, các căn viên mãn, tâm hành điều thiện,
thường tu tịnh mạng. Không hành huyễn thuật, xem tướng tốt xấu, chú cấm quỷ thần, pha chế
thuốc thang, dụ gạt người thấp hèn, kết thân với người giàu sang, khinh ngạo
Thánh hiền, thân cận nam nữ. Không vì danh lợi mà khen mình chê người. Không vì
tâm nhiễm ô mà liếc ngó giỡn cười. Giữ giới thanh tịnh, chí tánh thuần hậu ngay
thẳng.
Đại Bồ tát nào thành tựu các tướng
trạng như vậy, chắc chắn đối với quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề chẳng còn
thối chuyển.
Này Thiện Hiện! Tất cả đại Bồ tát
Bất thối chuyển, đối với văn chương, kỹ nghệ của các thế gian, tuy được tài ba
lỗi lạc nhưng không tham đắm, vì đều là hàm chứa lời tạp uế, tà mạn, đạt tất cả
pháp bất khả đắc. Đối với những sách luận bàn về thế tục ngoại đạo, tuy cũng
biết giỏi nhưng không say đắm, vì đạt được bản tánh Không của tất cả pháp. Các
sách luận của ngoại đạo thế tục bàn nói nhiều sự lý có thêm bớt, còn đạo của Bồ
tát không như vậy.
Đại Bồ tát nào thành tựu các tướng
trạng như vậy, chắc chắn đối với quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề chẳng còn
thối chuyển.
Này Thiện Hiện! Tất cả đại Bồ tát
Bất thối chuyển còn có các tướng trạng khác nữa, Ta sẽ phân tích giảng nói cho
ông rõ. Nghĩa là Bồ tát đó thực hành Bát nhã Ba la mật sâu xa, đạt các pháp đều
Không, nên chẳng ưa quán sát luận bàn các việc như: Việc vua, việc giặc, việc
quân trận, việc chiến đấu, thành ấp, xóm làng, các loại xe ngựa, voi, y phục,
ăn uống, giường nằm, hương hoa, nam nữ, xấu đẹp, vườn rừng, ao hồ, núi biển
v.v...
Bồ tát chẳng ưa quán sát luận bàn
việc của Dược xoa, La sát bà v.v... các việc của quỷ thần. Chẳng ưa quán sát
luận bàn việc đường sá, chợ quán, lầu gác, buôn bán v.v... Chẳng ưa quán sát
luận bàn việc múa hát, âm nhạc, điệu bộ, giỡn cười v.v... Chẳng ưa quán sát
luận bàn việc cồn đảo, cầu cống, thuyền bè, vàng ngọc v.v... Chẳng ưa quán sát
luận bàn việc trăng sao, mưa gió, lạnh nóng, tốt xấu v.v... Chẳng ưa quán sát
luận bàn việc những loại pháp nghĩa trái nhau, văn tụng v.v... Chẳng ưa quán
sát luận bàn việc tương ưng phàm phu, Thanh văn, Độc giác. Chỉ ưa quán sát luận
bàn việc tương ưng Bát nhã Ba la mật.
Thiện Hiện nên biết: Đại Bồ tát này
thường không xa lìa tác ý tương ưng với Bát nhã Ba la mật sâu xa, thường không
xa lìa tâm Nhất thiết trí trí. Chẳng ưa chống trái hòa vui với sự tranh tụng.
Thường mong Chánh pháp, không thích phi pháp. Thường mến mộ bạn lành, chẳng ưa
bạn ác. Thích phát ra lời Chánh pháp, xa lìa lời phi pháp. Muốn thấy đức Như
Lai, vui mừng chúng xuất gia. Trong cõi nước mười phương có đức Phật Thế Tôn
giảng nói pháp chánh yếu, Bồ tát nguyện sanh thế giới đó để gần gũi cúng dường,
lắng nghe Chánh pháp.
Thiện Hiện nên biết: Đại Bồ tát này
đa phần từ trời cõi Dục, cõi Sắc chết đi sanh vào loài người. Ở châu Thiệm bộ,
giỏi các môn kỹ nghệ, chú thuật, Kinh thư, địa lý, thiên văn và các pháp nghĩa.
Hoặc sanh vào biên địa nơi thành lớn, nước lớn, làm lợi ích lớn cho các hữu tình.
Thiện Hiện nên biết: Đại Bồ tát này
không bao giờ nghi rằng ta bị thối chuyển hay không thối chuyển. Đối với pháp
tự địa cũng không sanh nghi là có hay không. Đối với các việc ma biết một cách
chính xác, rõ ràng. Như hàng Dự lưu đối với pháp tự địa không bao giờ sanh
nghi. Giả sử có ác ma làm những việc rối loạn, mê hoặc vẫn không thể làm khuynh
động được. Đại Bồ tát Bất thối chuyển này đối với pháp tự địa chắc chắn không
sanh nghi, biết rõ việc ma, chẳng theo ma lực.
Như có người tạo tác nghiệp không gián
đoạn, tâm tạo nghiệp liên tục này mãi mãi đi theo như bóng không rời hình, cho
đến lúc qua đời không thể rời xa, nếu sanh tâm khác cũng không thể ngăn dẹp.
Các Bồ tát này cũng như vậy, tâm không thối chuyển, mãi mãi đi theo an trụ nơi
bật Bất thối chuyển của Bồ tát; trời, người, A tu la v.v... của thế gian không
thể làm lay động, phá hoại pháp đã tự đắc. Đối với các nghiệp ma khéo biết rõ
ràng, với pháp đã chứng thường không nghi hoặc. Tuy sanh đời khác cũng chẳng
phát khởi tâm tương ưng Thanh văn, Độc giác và chẳng tự nghi ta ở đời sau có
thể chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề chăng? An trụ tự địa chẳng theo
duyên khác. Đối với pháp tự địa không thể hủy hoại. Vì sao? Vì các Bồ tát này
thành tựu trí không dao động, không thối chuyển, tất cả ác duyên không thể
khuynh động, tâm ấy kiên cố hơn cả kim cương.
Giả sử có ác ma giả hình tượng Phật
đến chỗ Bồ tát nói như vầy: “Nay ông nên cầu quả A la hán, chấm dứt các lậu,
vào Bát Niết bàn. Ông chưa kham nhận thọ ký đại Bồ đề, cũng chưa chứng đắc Vô
sanh pháp nhẫn. Nay ông chưa có các tướng trạng Bất thối chuyển nên Như Lai
không thể thọ ký quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề cho ông”.
Khi đại Bồ tát này nghe những lời
như vậy, tâm không biến động, chẳng lui, chẳng mất, không kinh khiếp, không sợ
hãi, chỉ suy nghĩ: Đây nhất định là ác ma hoặc quyến thuộc của chúng hóa làm ra
hình tướng Phật để đến chỗ ta nói những lời như vậy. Nếu đúng là Phật nói thì
không như thế.
Thiện Hiện nên biết: Nếu khi đại Bồ
tát nghe kẻ đó nói mà có thể quán sát nhớ nghĩ như vầy: Chắc chắn đây là ác ma
hóa làm hình tướng Phật, muốn ta xa lìa Bát Bát nhã Ba la mật sâu xa, muốn ta
buông bỏ sự mong cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, vì thế không nên nghe
theo lời kẻ đó nói. Lúc đó ma Kinh sợ biến mất ngay.
Đại Bồ tát này nhất định đã an trụ
bậc Bất thối chuyển. Từ lâu đã được chư Phật quá khứ thọ ký đại Bồ đề. Vì sao?
Vì Đại Bồ tát này thành tựu đầy đủ các tướng trạng của bậc Bất thối chuyển, có
thể biết rõ việc làm của ác ma, làm cho chúng ẩn mất, không thể hiện lại được.
Đại Bồ tát nào thành tựu các tướng trạng như vậy, chắc chắn đối với quả vị Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề chẳng còn thối chuyển.
Này Thiện Hiện! Có các đại Bồ tát
Bất thối chuyển, hành Bát nhã Ba la mật sâu xa, bảo vệ Chánh pháp, chẳng tiếc
thân mạng, huống gì của cải, bạn bè, bà con. Vì bảo vệ Chánh pháp nên dõng mãnh
tinh tấn, thường nghĩ thế này: Chánh pháp này tức là Pháp thân thanh tịnh của
chư Phật, tất cả Như Lai cung kính cúng dường. Nay ta ủng hộ pháp Phật quá khứ,
hiện tại, vị lai tức là ủng hộ pháp Thân thanh tịnh của chư Phật ba đời. Vậy
nay ta chẳng nên tiếc thân mạng, của cải, bạn bè để ủng hộ Chánh pháp.
Lại suy nghĩ: Chánh pháp này thông
thuộc chư Phật Thế Tôn ba đời, ta cũng rơi vào số Phật vị lai, đức Phật đã thọ
ký đạo quả giác ngộ cho ta. Do nhân duyên này, Chánh pháp chư Phật tức là pháp
của ta, ta nên bảo vệ chẳng tiếc thân mạng, của cải, bạn bè. Vào thời tương lai
ta được làm Phật cũng vì hữu tình giảng nói pháp này. Đại Bồ tát này thấy việc
lợi ích như vậy, nên ủng hộ Chánh pháp Như Lai đã dạy, chẳng tiếc thân mạng,
cho đến Bồ đề thường không lười mỏi.
Đại Bồ tát nào thành tựu các tướng
trạng như vậy, chắc chắn đối với quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề chẳng còn
thối chuyển.
Này Thiện Hiện! Có các đại Bồ tát
Bất thối chuyển nghe chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thuyết Chánh pháp không
nghi, không ngờ. Nghe rồi thọ trì chẳng quên mất, cho đến quả vị Vô Thượng
Chánh Đẳng Bồ đề, vì đã đạt văn trì Đà la ni.
Khi ấy, Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát này chỉ
nghe đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thuyết Chánh pháp mà không nghi, không
ngờ, cho đến Bồ đề thường chẳng quên mất, hay nghe Bồ tát và các Thanh văn,
trời, rồng, Dược xoa, người chẳng phải người v.v... thuyết Chánh pháp cũng có
thể đối với họ không nghi, không ngờ, cho đến Bồ đề thường chẳng quên mất?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Đại Bồ tát này
nghe khắp tất cả âm thanh, ngôn ngữ của hữu tình, có thể thông đạt văn tự nghĩa
lý, không nghi, không ngờ, thường chẳng quên mất. Vì sao? Vì đại Bồ tát này ở
trong các pháp đắc Vô sanh nhẫn, đã khéo thông suốt thật tánh các pháp, nên
nghe pháp đều tùy thuận và không nghi, không ngờ. Lại được văn trì Đà la ni nên
thường có khả năng nhớ nghĩ không bao giờ quên mất.
Đại Bồ tát nào thành tựu các tướng
trạng như vậy, chắc chắn đối với quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề chẳng còn
thối chuyển.
Thiện Hiện nên biết: Đây là các
tướng trạng của đại Bồ tát Bất thối chuyển.
Lược giải:
Bồ tát
thường “mai danh ẩn tích”, không để lộ hành tung của mình trong việc hóa độ
chúng sanh, nên thế gian khó nhận biết. Vì vậy, Kinh bảo là phải qua hình trạng tướng mạo của các Ngài
mới có thể đoán biết ai là Bồ tát bất thối
chuyển:
- Thường
những ai chẳng sanh nơi nhà hạ tiện, nhẫn đến chẳng sanh chỗ bát nạn, chẳng thọ
thân bán nam bán nữ hay thân nữ. Do những hình trạng tướng mạo nầy mà đoán
biết đó là bậc đại Bồ Tát bất thối chuyển.
- Do đức từ mà thân, khẩu, ý thành tựu. Nên thân khẩu ý người nầy lúc nào
cũng thanh tịnh: Ôn nhu hòa nhã. Do đây mà biết là bậc Bồ Tát bất thối chuyển.
- Người nầy chẳng chung cùng với ngũ cái: Dâm dục, sân khuể, thùy miên,
điệu hối và nghi. Do hình trạng tướng mạo nầy mà biết
là bậc Bồ tát bất thối chuyển.
- Với tất cả chỗ, tất cả thời người nầy đều không ái trước. Lúc nằm ngồi
đi đứng, cất bước, hạ chân, thân tâm luôn an ổn, thường tự chánh niệm, nhất tâm
nhìn đất mà bước. Do những hình trạng tướng mạo nầy mà biết là bậc đại Bồ Tát bất thối chuyển.
- Y phục, đồ nằm của người nầy không dơ bẩn hôi hám, thân thể không có hộ
trùng, nên ít bệnh tật. Vì công đức của người nầy vượt ngoài thế gian mà được
thân thanh tịnh, tâm thanh tịnh. Do những hình trạng tướng mạo đây mà đoán
biết là bậc Bồ Tát bất thối chuyển.
- Lại nữa, vì lợi ích cho chúng sanh mà người nầy thực hành Bố thí, nhẫn đến Bát
nhã Ba la mật. Đây gọi là bậc bất thối chuyển Bồ Tát. Người nầy thọ trì, đọc
tụng, giảng thuyết, chánh ức niệm tất cả mười hai bộ Kinh, từ khế Kinh đến luận
nghị, lại đem các pháp ấy làm pháp thí cho tất cả chúng sanh, rồi cùng hồi
hướng công đức Vô thượng Bồ đề. Đây gọi là bậc Bồ Tát bất thối
chuyển.
- Người nầy chẳng quý lợi dưỡng. Dầu thực hành mười hai hạnh Đầu đà mà
chẳng quý hạnh Đầu Đà. Người nầy chẳng phát sanh tâm xan tham, tật đố, ngu si,
thường chẳng phát sanh tâm phá giới, sân động, giải đãi, tán loạn. Do những
hình trạng tướng mạo đây mà biết là bậc đại Bồ Tát bất thối chuyển.
- Người nầy tuệ giác kiên cố, có khả năng ngộ nhập sâu xa chánh
pháp, tùy theo pháp thế gian và xuất thế đã nghe, đều có khả năng dùng phương
tiện hội nhập nghĩa thú Bát nhã Ba la mật. Nếu thành tựu các hành, trạng, tướng
mạo như thế, thì nên biết đó là Bồ tát Bất thối chuyển.
- Nếu ác ma hóa hiện tám đại Địa ngục, trong đó có ngàn ức vạn Bồ Tát
đang bị đốt nấu thống khổ. Ác ma bảo đại Bồ Tát nầy rằng: Những người trong Địa
ngục đây toàn là bậc đại Bồ Tát bất thối chuyển đã được đức Phật thọ ký mà đọa
vào đây, nếu Ngài được đức Phật thọ ký bậc bất thối chuyển cũng sẽ đọa vào đại
Địa ngục nầy. Chi bằng xả bỏ tâm Bồ Tát thì chẳng bị đọa mà sẽ được sanh lên
cõi Trời. Dầu thấy nghe như vậy, Bồ Tát nầy vẫn chẳng nao núng, chẳng nghi, chẳng
sợ, chẳng thối. Dầu cho ác ma trấn áp, dẫn dụ, khuynh đảo bằng cách nầy hay
cách khác, Bồ tát ấy cũng không bị lung lạc, suy thối. Nếu thành tựu các hình trạng tướng mạo như thế,
thì nên biết đó là bậc bất thối chuyển.
- Người nầy thường hành Bát nhã Ba la mật, luôn luôn nghĩ: Nếu đại
Bồ tát theo lời Phật dạy, tinh cần tu học thường chẳng xa lìa diệu hạnh đã
nhiếp thọ là bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật;
thường chẳng xa lìa tác ý tương ưng với Nhất thiết trí trí; thường dùng phương
tiện khuyên các hữu tình tinh cần tu học lục Ba la mật. Đại Bồ tát ấy quyết
định chẳng từ bỏ lục Ba la mật; quyết định chẳng từ bỏ 18 pháp không; chẳng từ
bỏ chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác,
tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không,
cảnh giới bất tư nghì; chẳng từ bỏ 37 pháp trợ đạo, chẳng từ bỏ Tứ Thánh đế;
chẳng từ bỏ Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí... cho đến
quyết định chẳng từ bỏ quả vị Giác ngộ tối cao. Nếu thành tựu các hình trạng tướng mạo như thế,
thì nên biết đó là đại Bồ tát bất thối chuyển.
- Người nầy thường hành Bát nhã Ba la mật và luôn nghĩ: Nếu đại Bồ
tát hiểu biết việc ma, chẳng theo việc ma; hiểu biết bạn ác, chẳng nghe lời bạn
ác; hiểu biết cảnh giới, chẳng chuyển theo cảnh giới; đại Bồ tát ấy quyết định
chẳng từ bỏ lục Ba la mật; quyết định chẳng từ bỏ 18 pháp không; chẳng từ bỏ
chơn như pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác v.v… cho
đến chẳng bỏ quả vị Giác ngộ tối cao. Nếu thành tựu các hình, trạng, tướng mạo
như thế, thì nên biết đó là đại Bồ tát bất thối chuyển.
- Người nầy khi nghe pháp yếu mà chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác
đã nói, thâm tâm hoan hỷ, cung kính tín thọ, khéo hiểu nghĩa thú; lại có tâm kiên
cố như kim cương chẳng thể lay chuyển, chẳng thể lung lạc, thường siêng tu học
lục Ba la mật, cũng khuyên các hữu tình tinh cần tu học lục Ba la mật. Nếu
thành tựu các hình, trạng, tướng mạo như thế, thì nên biết đó là đại Bồ tát bất
thối chuyển.
Ở đây, không
phải Kinh muốn chỉ bày tông tích của các Bồ tát bất thối chuyển để tán tụng các
Ngài mà ở đây Kinh muốn nhận chân giá trị cuộc sống của các Ngài để hành động
theo hạnh của các Ngài làm sao cho phù hợp với tinh thần Bồ tát đạo.
Kinh đã diễn
tả quá chi ly nên không cần trình bày thêm nữa. Điểm quan trong đối với kẻ tu
hành chân chánh là tự mình phải thúc liễm thân tâm, sống trong chánh định để
làm mẫu mực, làm thân giáo cho các kẻ khác! Thân giáo là giáo pháp bố thí cao nhất. Bồ tát chân chánh là những
bậc thượng tôn, gương mẫu trong thiên hạ, là tấm gương sáng chỉ đạo cho những
ai lập chí, lập nguyện để thực thi một đời đáng sống, sống không phải vì mình
mà vì kẻ khác!
---o0o---