Thứ Bảy, 12 tháng 6, 2021

Hội thứ II - 47. Phẩm "Chỉ Tướng"

 

PHẨM “CHỈ TƯỚNG”

 

Phần sau quyển 442 đến hết quyển 443, Hội thứ II, ĐBN.

(Phẩm này có chủ đề “Bát nhã Ba la mật lấy gì làm tướng”, tương đương

với phần sau phẩm “Phật Mẫu”, Q.306 trở đi, Hội thứ I, ĐBN)

 

Gợi ý:

Phẩm này đề cập đến hai vấn đề:  1. Bát Nhã lấy gì làm tướng?  2. Bát Nhã không thể nghĩ bàn. “Bát Nhã lấy gì làm tướng?” lại tương đương với phần sau phẩm “Phật Mẫu” và “Bát Nhã không thể nghĩ bàn” lại thuộc phẩm “Chẳng Nghĩ Bàn”, phần sau quyển 308 đến phần đầu quyển 310, Hội thứ I, ĐBN. Chúng tôi trình bày phẩm này cũng chia làm hai phần để tóm lược và luận giải.

 

Tóm lược:

 

(1. Bát Nhã Ba mật lấy gì làm tướng?)

 

Bấy giờ, Tam thiên đại thiên thế giới chư thiên cõi Dục, cõi Sắc đều đem các thứ hoa hương trời mầu nhiệm từ xa rải cúng dường Thế Tôn, rồi đi đến chỗ Phật đảnh lễ hai chân, lui đứng một bên, đồng thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật thẳm sâu lấy gì làm tướng?

Bấy giờ, Phật bảo chúng chư thiên rằng:

- Bát nhã Ba la mật thẳm sâu lấy không làm tướng, lấy vô tướng làm tướng, lấy vô nguyện làm tướng, lấy vô tác làm tướng. Bát Nhã thẳm sâu lấy vô sanh vô diệt làm tướng, lấy vô nhiễm vô tịnh làm tướng. Bát Nhã thẳm sâu lấy vô tánh vô tướng làm tướng, lấy vô y vô trụ làm tướng. Bát Nhã thẳm sâu lấy chẳng đoạn chẳng thường làm tướng, lấy chẳng một chẳng khác làm tướng, lấy vô khứ vô lai làm tướng, Bát Nhã thẳm sâu lấy hư không làm tướng. Bát Nhã thẳm sâu có vô lượng tướng.

Chư thiên phải biết: Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vì muốn nhiêu ích thế gian trời người A tu la nương thế tục, thi thiết diễn nói, chẳng nương thắng nghĩa.

Chư thiên phải biết: Các tướng Bát Nhã thẳm sâu như thế, thế gian trời người A tu la đều chẳng phá hoại được. Vì sao? Vì thế gian trời người A tu la cũng đều là tướng vậy.

Chư thiên phải biết: Các tướng chẳng năng phá hoại các tướng, các tướng chẳng năng biết các tướng. Các tướng chẳng năng phá hoại vô tướng, các tướng chẳng năng biết vô tướng. Vô tướng chẳng năng phá hoại các tướng, vô tướng chẳng năng biết các tướng. Vô tướng chẳng năng phá hoại vô tướng, vô tướng chẳng năng biết vô tướng. Vì sao? Hoặc tướng hoặc vô tướng, hoặc tướng vô tướng đều vô sở hữu. Năng phá năng biết, sở phá sở biết, kẻ phá kẻ biết bất khả đắc vậy. (Q.442, ĐBN)

Chư thiên phải biết: Các tướng như thế chẳng phải do sắc làm ra, chẳng phải do thọ tưởng hành thức làm ra. Chẳng phải do mười hai xứ, mười tám giới làm ra. Chẳng phải bố thí làm ra, chẳng phải tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật làm ra. Chẳng nội không cho đến vô tánh tự tánh không làm ra. Chẳng chơn như làm ra; chẳng pháp giới cho đến bất tư nghì giới làm ra. Chẳng tứ Thánh đế làm ra. Chẳng bốn tĩnh lự, vô lượng, bốn định vô sắc làm ra. Chẳng tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ làm ra. Chẳng phải ba mươi bảy pháp trợ đạo làm ra. Chẳng Tịnh quán địa làm ra; chẳng Chủng tánh địa, Đệ bát địa, Cụ kiến địa, Bạc địa, Ly dục địa, Dĩ biện địa, Độc giác địa, Bồ tát địa, Như Lai địa làm ra (Bồ tát thập vị cộng Tam thừa). Chẳng Cực hỷ địa làm ra; chẳng ly cấu địa, Phát quang địa, Diệm huệ địa, Cực nan thắng địa, Hiện tiền địa, Viễn hành địa, Bất động địa, Thiện huệ địa, Pháp vân địa làm ra (Bồ tát thập địa). Chẳng phải năm nhãn, sáu thần thông làm ra. Chẳng phải Như Lai mười lực làm ra; chẳng bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng làm ra. Chẳng phải ba mươi hai tướng Đại sĩ làm ra, chẳng tám mươi tùy hảo làm ra. Chẳng pháp vô vong thất làm ra, chẳng tánh hằng trụ xả làm ra. Chẳng phải tất cả Đà la ni, Tam ma địa môn làm ra. Chẳng phải Nhất thiết trí làm ra; chẳng phải Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí làm ra.

Chư thiên phải biết: Các tướng như thế chẳng phải trời làm ra, chẳng phải người làm ra, cũng chẳng phải cả hai làm ra. Chẳng phải trời có được, chẳng phải người có được, cũng chẳng phải cả hai có được. Chẳng phải hữu lậu chẳng phải vô lậu, chẳng phải thế gian chẳng phải xuất thế gian, chẳng hữu vi chẳng phải vô vi, không chỗ hệ thuộc chẳng thể tuyên nói.

Chư thiên phải biết: Bát Nhã thẳm sâu lìa các tướng, chẳng nên hỏi Bát Nhã thẳm sâu lấy gì làm tướng. Chư Thiên, các ông nghĩ sao? Nếu có người hỏi hư không tướng gì? Hỏi như thế có chánh đáng không?

Chư thiên đáp rằng:

- Bạch Thế Tôn! Chẳng chánh đáng! Bạch Thiện Thệ! Chẳng chánh đáng! Vì sao? Vì hư không vô thể vô tướng vô vi chẳng nên hỏi vậy.

Phật liền bảo:

- Bát Nhã thẳm sâu cũng lại như thế, chẳng nên hỏi. Tướng các pháp có Phật, không Phật, pháp giới, pháp trụ, đối với các tướng này Phật như thật biết, nên gọi là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác.

Khi ấy, chúng chư Thiên đồng thưa Phật rằng:

- Như Lai giác ngộ các tướng như thế rất thẳm sâu khó thấy, khó biết. Như Lai chứng đắc các tướng như thế nên đối với tất cả pháp dùng trí vô ngại để chuyển(1). Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trụ tướng như thế, vì các hữu tình nhóm tướng các pháp, dùng phương tiện khai thị làm cho họ đối với Bát nhã Ba la mật được trí vô ngại.

Bạch Thế Tôn! Hiếm có! Bát Nhã thẳm sâu là chỗ các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thường đã sẽ đang hành; tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hành chỗ này nên chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, vì các hữu tình phân biệt khai chỉ tướng tất cả pháp. Nghĩa là phân biệt khai chỉ tướng sắc, phân biệt khai chỉ tướng thọ tưởng hành thức. Phân biệt khai chỉ tướng mười hai xứ, mười tám giới. Phân biệt khai chỉ tướng nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ, phân biệt khai chỉ tướng nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ. Phân biệt khai chỉ tướng bố thí Ba la mật; phân biệt khai chỉ tướng tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật. Phân biệt khai chỉ tướng nội không cho đến vô tánh tự tánh không. Phân biệt khai chỉ tướng chơn như; phân biệt khai chỉ tướng pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới. Phân biệt khai chỉ tướng tứ Thánh đế cho đến ba mươi bảy pháp trợ đạo. Phân biệt khai chỉ tướng tám giải thoát; phân biệt khai chỉ tướng tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ cho đến phân biệt khai chỉ tướng Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. (Q.442, ĐBN)

Bấy giờ, Phật bảo chúng chư thiên rằng:

- Như vậy! Đúng như các ngươi đã nói! Chư thiên phải biết: Tướng tất cả pháp, Như Lai như thật biết là vô tướng. Nghĩa là biến ngại là tướng sắc, Như Lai như thật biết là vô tướng. Lãnh nạp là tướng thọ; lấy tượng là tướng tưởng; tạo tác là tướng hành; phân biệt là tướng thức, Như Lai như thật biết là vô tướng. Đống khổ não là tướng uẩn; cửa sanh trưởng là tướng xứ; nhiều độc hại là tướng giới, Như Lai như thật biết là vô tướng. Năng xả là tướng bố thí Ba la mật; không bức ngặt là tướng tịnh giới Ba la mật; chẳng sân hận là tướng an nhẫn Ba la mật; chẳng thể khuất phục là tướng tinh tấn Ba la mật; không tán loạn là tướng tĩnh lự Ba la mật; không chấp đắm là tướng Bát nhã Ba la mật, Như Lai như thật biết là vô tướng. Không có sở hữu là tướng nội không v.v…, Như Lai như thật biết là vô tướng. Chẳng điên đảo là tướng chơn như v.v…, Như Lai như thật biết là vô tướng. Chẳng hư dối là tướng bốn Thánh đế, Như lai như thật biết là vô tướng. Không ưu não là tướng bốn tĩnh lự; không hạn ngại là tướng bốn vô lượng, không ồn tạp là tướng bốn định vô sắc, Như Lai như thật biết là vô tướng. Không ràng buộc là tướng tám giải thoát; năng chế phục là tướng tám thắng xứ; năng vắng lặng là tướng chín định thứ lớp; không ngằn mé là tướng mười biến xứ, Như Lai như thật biết là vô tướng. Năng xuất ly là tướng ba mươi bảy Bồ đề phần pháp, Như Lai như thật biết là vô tướng. Năng xa lìa là tướng không giải thoát môn, không đắm lấy là tướng vô tướng giải thoát môn, không sở cầu là tướng vô nguyện giải thoát môn, Như Lai như thật biết là vô tướng. Nhiếp tịnh trụ là tướng Tam thừa thập địa, Như Lai như thật biết là vô tướng. Tới Đại giác là tướng Bồ tát thập địa, Như Lai như thật biết là vô tướng. Năng quán chiếu là tướng năm nhãn, Như Lai như thật biết là vô tướng. Không trệ ngại là tướng sáu thần thông, Như Lai như thật biết là vô tướng. Khó khuất phục là tướng Như Lai mười lực, không khiếp sợ là tướng bốn vô sở úy, không đoạn tuyệt là tướng bốn vô ngại giải, Như Lai như thật giác biết là vô tướng. Cho lợi vui là tướng đại từ, vớt suy khổ là tướng đại bi, mừng việc thiện là tướng đại hỷ, phủi sạch tất cả là tướng đại xả, Như Lai như thật giác biết là vô tướng. Không có phần là mười tám pháp Phật bất cộng, Như Lai như thật giác biết là vô tướng. Năng nghiêm sức là tướng tướng hảo, Như Lai như thật giác biết là vô tướng. Năng nhớ nghĩ là tướng pháp không quên mất, không sở chấp là tướng tánh hằng trụ xả, Như Lai như thật giác biết là vô tướng. Khắp nhiếp trì là tướng tất cả Đà la ni môn, khắp nhiếp thọ là tướng tất cả Tam ma địa môn, Như Lai như thật giác biết là vô tướng. Khéo thọ giáo là tướng bốn quả Sa môn, Như Lai như thật giác biết là vô tướng. Tự khai ngộ là tướng Độc giác Bồ đề, Như Lai như thật giác biết là vô tướng. Năng thành xong đại sự là tướng Bồ tát hạnh, Như Lai như thật giác biết là vô tướng. Đủ đại tác dụng là tướng chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, Như Lai như thật giác biết là vô tướng. Hiện Chánh đẳng giác là tướng Nhất thiết trí, khéo thông đạt là tướng Đạo tướng trí, hiện đẳng biệt giác là tướng Nhất thiết tướng trí, Như Lai như thật giác biết là vô tướng. (Q. 443, ĐBN)

Chư thiên phải biết: Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đối với hết thảy tướng của tất cả pháp như thế đều năng như thật giác biết là vô tướng. Vậy nên, Ta nói tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trí vô ngại không ai bằng.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo cụ thọ Thiện Hiện rằng:

- Thiện Hiện! Phải biết Bát Nhã thẳm sâu là mẹ chư Phật. Bát nhã Ba la mật thẳm sâu năng chỉ thật tướng các pháp thế gian(2). Vậy nên, Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác nương pháp mà trụ, cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen, nhiếp thọ hộ trì pháp sở y trụ. Pháp đây tức là Bát Nhã thẳm sâu. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, nương dựa Bát Nhã thẳm sâu, cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen, nhiếp thọ hộ trì. Vì sao? Vì Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, đều nhờ Bát Nhã như thế mà được sanh trưởng. Bát Nhã làm chỗ sở y cho các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, thường chỉ thật tướng các pháp thế gian. Thiện Hiện phải biết: Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác là kẻ biết ơn, kẻ năng đền ơn.

Thiện Hiện! Nếu có người hỏi rằng: Ai là kẻ biết ơn, kẻ năng đền ơn? Nên đáp ngay rằng: Phật là kẻ biết ơn năng đền ơn. Vì sao? Vì tất cả thế gian biết ơn đền ơn không ai hơn Phật.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Sao là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác biết ơn đền ơn?

Phật nói:

- Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác lái xe như vậy, trên con đường như vậy, đến được Vô thượng Bồ đề. Sau khi đắc đạo Bồ đề, luôn luôn cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen, nhiếp thọ, hộ trì xe ấy, đường ấy thường không dừng nghỉ. Nên biết xe ấy, đường ấy là Bát Nhã thẳm sâu. Thiện Hiện! Đây gọi là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác biết ơn và đền ơn.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác không những đều nương Bát Nhã thẳm sâu, giác biết tất cả pháp đều vô tác dụng, vì kẻ năng tác vô sở hữu. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác không những đều nương Bát Nhã thẳm sâu giác biết tất cả pháp đều vô sở thành xong (không thành tựu), vì bản chất bất khả đắc.

Thiện Hiện! Vì các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác nương Bát Nhã thẳm sâu như thế, giác biết tất cả pháp đều vô tác dụng, vô sở thành xong, với tất cả thời cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen, nhiếp thọ hộ trì từng không gián đoạn, nên gọi chơn thật biết ơn đền ơn.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác không những đều nương Bát Nhã thẳm sâu, đối tất cả pháp vô tác, vô thành, vô sanh trí chuyển; lại năng biết nhân duyên đây vô chuyển, vậy nên phải biết Bát Nhã thẳm sâu thường sanh chư Phật, cũng thường chỉ thật tướng các pháp (chư pháp thật tướng) thế gian.

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Như Lai thường nói tánh tất cả pháp không sanh, không khởi, không biết, không thấy, làm sao nói được Bát Nhã thẳm sâu thường sanh chư Phật, thường chỉ thật tướng các pháp thế gian?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Như vậy, đúng như ngươi đã nói! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác nói tất cả pháp không sanh không khởi, không biết không thấy, nương thế tục mà nói Bát Nhã thẳm sâu thường sanh chư Phật, cũng thường chỉ thật tướng các pháp thế gian.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Vì sao các pháp không sanh không khởi, không biết không thấy?

Phật nói:

- Thiện Hiện! Vì tất cả pháp đều chẳng tự tại, hư dối chẳng bền, nên tất cả pháp không sanh không khởi, không biết không thấy. Lại nữa, tánh tất cả pháp không chỗ nương dựa, không bị hệ thuộc. Bởi nhân duyên đây không sanh không khởi, không biết không thấy.

Thiện Hiện phải biết: Bát Nhã thẳm sâu tuy sanh chư Phật, cũng thường chỉ thật tướng thế gian mà không sở sanh, cũng không sở chỉ.

Thiện Hiện phải biết: Bát Nhã thẳm sâu chẳng thấy sắc, nên gọi chỉ tướng sắc; chẳng thấy thọ tưởng hành thức, nên gọi chỉ tướng thọ tưởng hành thức. Chẳng thấy mười hai xứ, nên gọi chỉ tướng mười hai xứ; chẳng thấy mười tám giới, nên gọi chỉ tướng mười tám giới. Chẳng thấy nhãn xúc, nên gọi chỉ tướng nhãn xúc; chẳng thấy nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc, nên gọi chỉ tướng nhỉ tỹ thiệt thân ý xúc. Chẳng thấy nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ, nên gọi chỉ tướng nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ; chẳng thấy nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ, nên gọi chỉ tướng nhỉ tỹ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ. Chẳng thấy địa giới, nên gọi chỉ tướng địa giới; chẳng thấy thủy hỏa phong không thức giới, nên gọi chỉ tướng thủy hỏa phong không thức giới. Chẳng thấy bố thí Ba la mật, nên gọi chỉ tướng bố thí Ba la mật; chẳng thấy tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật, nên gọi chỉ tướng tịnh giới cho đến Bát nhã Ba la mật. Chẳng thấy nội không, nên gọi chỉ tướng nội không; cho đến chẳng thấy vô tánh tự tánh không, nên gọi chỉ tướng vô tánh tự tánh không. Chẳng thấy chơn như, nên gọi chỉ tướng chơn như; chẳng thấy pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới, nên gọi chỉ tướng pháp giới cho đến bất tư nghì giới. Chẳng thấy tám giải thoát, nên gọi chỉ tướng tám giải thoát; chẳng thấy tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ, nên gọi chỉ tướng tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ. Chẳng thấy tứ Thánh đế, chẳng thấy ba mươi bảy pháp trợ đạo, nên gọi chỉ tướng tứ Thánh đế cho đến ba mươi bảy pháp trợ đạo. Chẳng thấy Như Lai mười lực, nên gọi chỉ tướng Như Lai mười lực; chẳng thấy bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, nên gọi chỉ tướng bốn vô sở úy cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Cho đến chẳng thấy Nhất thiết trí, nên gọi chỉ tướng Nhất thiết trí; chẳng thấy Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí, nên gọi chỉ tướng Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. (Q.443, ĐBN)

Thiện Hiện! Bởi nghĩa như thế nên nói Bát Nhã thẳm sâu thường chỉ thật tướng các pháp thế gian, nên gọi là mẹ chư Phật, thường sanh chư Phật.

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Vì sao Bát Nhã thẳm sâu như thế chẳng thấy sắc, nên gọi chỉ tướng sắc; chẳng thấy thọ tưởng hành thức, nên gọi chỉ tướng thọ tưởng hành thức? Như vậy, cho đến chẳng thấy Nhất thiết trí, nên gọi chỉ tướng Nhất thiết trí; chẳng thấy Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí, nên gọi chỉ tướng Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Bát nhã Ba la mật thẳm sâu bởi chẳng duyên sắc mà sanh thức, đấy là chẳng thấy sắc, nên gọi chỉ tướng sắc. Chẳng duyên thọ tưởng hành thức mà sanh thức, đấy là chẳng thấy thọ tưởng hành thức, nên gọi chỉ tướng thọ tưởng hành thức. Như vậy, cho đến bởi chẳng duyên Nhất thiết trí mà sanh thức, đấy là chẳng thấy Nhất thiết trí, nên gọi chỉ tướng Nhất thiết trí. Chẳng duyên Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí mà sanh thức, đấy gọi là chẳng thấy Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí, nên gọi chỉ tướng Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Thiện Hiện! Do nghĩa như thế, Bát Nhã thẳm sâu năng chỉ thật tướng các pháp thế gian, nên gọi là mẹ chư Phật, năng sanh chư Phật.

Lại nữa, Thiện Hiện! Bát Nhã thẳm sâu thường vì chư Phật hiển bày thế gian không, nên gọi là mẹ chư Phật, thường chỉ Như Lai thật tướng thế gian(3).

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Bát Nhã thẳm sâu thường vì chư Phật hiển bày thế gian không?

Phật nói:

- Thiện Hiện! Bát Nhã thẳm sâu thường vì chư Phật hiển bày sắc thế gian không, hiển bày thọ tưởng hành thức thế gian không. Hiển bày mười hai xứ, mười tám giới thế gian không. Hiển bày nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ thế gian không, hiển bày nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ thế gian không. Hiển bày địa giới thế gian không, hiển bày thủy, hỏa, phong, không, thức giới thế gian không. Hiển bày bố thí thế gian không, cho đến hiển bày Bát nhã Ba la mật thế gian không. Hiển bày nội không thế gian không, cho đến hiển bày vô tánh tự tánh không thế gian không. Hiển bày tất cả pháp Phật thế gian không. Thiện Hiện! Bởi nghĩa như thế, nên nói Bát Nhã thẳm sâu thường chỉ Như Lai thật tướng thế gian, gọi mẹ chư Phật, thường sanh chư Phật.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác nương Bát Nhã thẳm sâu thường vì thế gian hiển bày sắc thế gian không; hiển bày thọ, tưởng, hành, thức thế gian không; như vậy, cho đến hiển bày Nhất thiết trí thế gian không; hiển bày Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí thế gian không, làm cho các thế gian nhận biết thế gian không, tưởng thế gian không, nghĩ thế gian không, thấu rõ thế gian không. Thiện Hiện! Do nghĩa đó mà nói Bát Nhã thẳm sâu thường chỉ Như Lai thật tướng thế gian, nên gọi là mẹ chư Phật, thường sanh chư Phật. (Q.443, ĐBN)

Lại nữa, Thiện Hiện! Bát Nhã thẳm sâu thường khiến chư Phật thấy thế gian không. Thấy những gì thuộc thế gian không? Là thấy sắc thế gian không, thấy thọ tưởng hành thức thế gian không. Như vậy, cho đến thấy Nhất thiết trí thế gian không, thấy Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí thế gian không. Thiện Hiện! Bởi nghĩa như thế, Bát Nhã thẳm sâu thường chỉ Như Lai thật tướng thế gian, gọi là mẹ chư Phật, thường sanh chư Phật.

Lại nữa, Thiện Hiện! Bát Nhã thẳm sâu thường chỉ Như Lai tướng thế gian chẳng thể nghĩ bàn.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Sao là Bát Nhã thẳm sâu, thường chỉ Như Lai tướng thế gian chẳng thế nghĩ bàn?

Phật nói:

- Thiện Hiện! Bát Nhã thẳm sâu thường chỉ Như Lai tướng sắc thế gian chẳng thể nghĩ bàn, tướng thọ tưởng hành thức thế gian chẳng thể nghĩ bàn. Như vậy, cho đến tướng Nhất thiết trí thế gian chẳng thể nghĩ bàn, tướng Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí thế gian chẳng thể nghĩ bàn. Thiện Hiện! Bởi nghĩa như thế Bát Nhã thẳm sâu thường chỉ Như Lai thật tướng thế gian, gọi là mẹ chư Phật, thường sanh chư Phật.

Lại nữa, Thiện Hiện! Bát Nhã thẳm sâu thường chỉ Như Lai tướng thế gian xa lìa.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Sao là Bát Nhã thẳm sâu như thế thường chỉ Như Lai tướng thế gian xa lìa?

Phật nói:

- Thiện Hiện! Bát Nhã thẳm sâu thường chỉ Như Lai tướng sắc thế gian xa lìa, tướng thọ tưởng hành thức thế gian xa lìa. Như vậy, cho đến tướng Nhất thiết trí thế gian xa lìa, tướng Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí thế gian xa lìa. Thiện Hiện! Bởi nghĩa như thế Bát Nhã thẳm sâu thường chỉ Như Lai thật tướng thế gian, gọi là mẹ chư Phật, thường sanh chư Phật.

Lại nữa, Thiện Hiện! Bát Nhã thẳm sâu thường chỉ Như Lai tướng thế gian vắng lặng.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Sao là Bát Nhã thẳm sâu thường chỉ Như Lai tướng thế gian vắng lặng?

Phật nói:

- Thiện Hiện! Bát Nhã thẳm sâu thường chỉ Như Lai tướng sắc thế gian vắng lặng, tướng thọ tưởng hành thức thế gian vắng lặng. Như vậy, cho đến tướng Nhất thiết trí thế gian vắng lặng, tướng Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí thế gian vắng lặng. Thiện Hiện! Bởi nghĩa như thế, nên Bát Nhã thẳm sâu thường chỉ Như Lai thật tướng thế gian, gọi là mẹ chư Phật, thường sanh chư Phật.

Lại nữa, Thiện Hiện! Bát Nhã thẳm sâu thường chỉ Như Lai tướng thế gian rốt ráo không.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Sao là Bát Nhã thẳm sâu, thường chỉ Như Lai tướng thế gian rốt ráo không?

Phật nói:

- Thiện Hiện! Bát Nhã thẳm sâu thường chỉ Như Lai tướng sắc thế gian rốt ráo không, tướng thọ tưởng hành thức thế gian rốt ráo không. Như vậy, cho đến tướng Nhất thiết trí thế gian rốt ráo không, tướng Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí thế gian rốt ráo không. Thiện Hiện! Bởi nghĩa như thế, nên Bát Nhã thẳm sâu năng chỉ Như Lai thật tướng thế gian, gọi là mẹ chư Phật, thường sanh chư Phật.

Lại nữa, Thiện Hiện! Bát Nhã thẳm sâu thường chỉ Như Lai tướng thế gian vô tánh không.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Sao là Bát nhã Ba la mật như thế thường chỉ Như Lai tướng thế gian vô tánh không?

Phật nói:

- Thiện Hiện! Bát Nhã thẳm sâu thường chỉ Như Lai tướng sắc thế gian vô tánh không, tướng thọ tưởng hành thức thế gian vô tánh không. Như vậy, cho đến tướng Nhất thiết trí thế gian vô tánh không, tướng Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí thế gian vô tánh không. Thiện Hiện! Bởi nghĩ như thế, nên Bát Nhã thẳm sâu thường chỉ Như Lai thật tướng thế gian, gọi là mẹ chư Phật, thường sanh chư Phật.

Lại nữa, Thiện Hiện! Bát Nhã thẳm sâu thường chỉ Như Lai tướng thế gian tự tánh không.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Sao là Bát nhã Ba la mật như thế thường chỉ Như Lai tướng thế gian tự tánh không?

Phật nói:

- Thiện Hiện! Bát Nhã thẳm sâu thường chỉ Như Lai tướng sắc thế gian tự tánh không, tướng thọ tưởng hành thức thế gian tự tánh không. Như vậy, cho đến tướng Nhất thiết trí thế gian vô tánh tự tánh không, tướng Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí thế gian tự tánh không. Thiện Hiện! Bởi nghĩa như thế, nên Bát Nhã thẳm sâu thường chỉ Như Lai tướng thế gian, gọi là mẹ chư Phật, thường sanh chư Phật.

Lại nữa, Thiện Hiện! Bát Nhã thẳm sâu thường chỉ Như Lai tướng thế gian vô tánh tự tánh không.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Sao là Bát Nhã thẳm sâu như thế thường chỉ Như Lai tướng thế gian vô tánh tự tánh không?

Phật nói:

- Thiện Hiện! Bát Nhã thẳm sâu thường chỉ Như Lai tướng sắc thế gian vô tánh tự tánh không, tướng thọ tưởng hành thức thế gian vô tánh tự tánh không. Như vậy cho đến tướng Nhất thiết trí thế gian vô tánh tự tánh không, tướng Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí thế gian vô tánh tự tánh không. Thiện Hiện! Bởi nghĩa như thế, nên Bát Nhã thẳm sâu thường chỉ Như Lai thật tướng thế gian, gọi là mẹ chư Phật, thường sanh chư Phật. (Q. 443, ĐBN)

Lại nữa, Thiện Hiện! Bát nhã Ba la mật thẳm sâu thường chỉ Như Lai tướng thế gian thuần không.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Sao là Bát nhã Ba la mật như thế thường chỉ Như Lai tướng thế gian thuần không?

Phật nói:

- Thiện Hiện! Bát Nhã thẳm sâu thường chỉ Như Lai tướng sắc thế gian thuần không, tướng thọ tưởng hành thức thế gian thuần không. Như vậy, cho đến tướng Nhất thiết trí thế gian thuần không, tướng Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí thế gian thuần không. Thiện Hiện! Bởi nghĩa như thế, nên Bát Nhã thẳm sâu thường chỉ Như Lai thật tướng thế gian, gọi là mẹ chư Phật, thường sanh chư Phật.

(Nói tóm lại, Bát Nhã thẳm sâu thường chỉ Như Lai tướng hết thảy tất cả pháp thế gian thuần không, từ không nội, không ngoại, không nội ngoại… cho đến vô tánh tự tánh không. Bởi nghĩa như thế, nên Bát Nhã thẳm sâu thường chỉ Như Lai thật tướng thế gian, gọi là mẹ chư Phật, thường sanh chư Phật).

Lại nữa, Thiện Hiện! Bát nhã Ba la mật thường chỉ Như Lai tướng thế gian thuần vô tướng, vô nguyện.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Sao là Bát Nhã thẳm sâu thường chỉ Như Lai tướng thế gian thuần vô tướng, vô nguyện?

Phật nói:

- Thiện Hiện! Bát Nhã thẳm sâu thường chỉ Như Lai tướng sắc thế gian thuần vô tướng vô nguyện, tướng thọ tưởng hành thức thế gian thuần vô tướng vô nguyện. Như vậy, cho đến tướng Nhất thiết trí thế gian thuần vô tướng vô nguyện, tướng Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí thế gian thuần vô tướng vô nguyện. Thiện Hiện! Bởi nghĩa như thế, nên Bát nhã Ba la mật thẳm sâu thường chỉ Như Lai thật tướng thế gian, gọi là mẹ chư Phật, thường sanh chư Phật.

Lại nữa, Thiện Hiện! Bát nhã Ba la mật thẳm sâu thường chỉ Như Lai tướng thế gian vô ngã.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Sao là Bát Nhã thẳm sâu như thế thường chỉ Như Lai tướng thế gian vô ngã?

Phật nói:

- Thiện Hiện! Bát Nhã thẳm sâu thường chỉ Như Lai tướng sắc thế gian vô ngã, tướng thọ tưởng hành thức thế gian vô ngã. Như vậy, cho đến tướng Nhất thiết trí thế gian vô ngã, tướng Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí thế gian vô ngã. Thiện Hiện! Bởi nghĩa như thế, nên Bát Nhã thẳm sâu thường chỉ Như Lai thật tướng thế gian, gọi là mẹ chư Phật, thường sanh chư Phật.

Lại nữa, Thiện Hiện! Bát Nhã thẳm sâu thường chỉ Như Lai tướng thế gian ấy, nghĩa là chẳng cho khởi tưởng thế gian này, cũng chẳng cho khởi tưởng thế gian nọ. Sở dĩ như vậy là vì sao? Vì tất cả pháp đều vô sở hữu, thật bất khả đắc, không thể vin vào đó mà khởi tưởng thế gian này thế gian nọ.

(Rốt ráo, Bát Nhã thường chỉ Như Lai hết thảy tướng tất cả pháp thế gian là không vô tướng, vô nguyện, vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh, vô khởi, vô tận, vô vi, vô tác, vô tánh, thật tế. Vì sao? Vì tất cả pháp đều vô sở hữu, thật bất khả đắc, không thể vin vào đó mà khởi tưởng thế gian này thế gian nọ).

 

2. Bát Nhã bất khả tư nghì:

(Phần dưới đây tương đương với phẩm “Không Thể Nghĩ Bàn”,

phần cuối Q.308 đến phần đầu Q.310, Hội thứ I, ĐBN)

 

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng:

- Bát nhã Ba la mật thậm thậm vì đại sự nhân duyên nên xuất hiện thế gian; Bát Nhã vì việc chẳng thể nghĩ bàn mà xuất hiện thế gian; Bát Nhã vì việc chẳng thể xưng lường mà xuất hiện thế gian; Bát Nhã vì việc không có hạn lượng mà xuất hiện thế gian, Bát Nhã vì việc không gì sánh bằng mà xuất hiện thế gian.

Phật nói:

- Thiện Hiện! Như vậy, đúng như ngươi đã nói! Bát Nhã thẳm sâu, vì đại sự nhân duyên nên xuất hiện thế gian. Vì việc chẳng thể nghĩ bàn nên xuất hiện thế gian. Vì việc chẳng thể cân lường nên xuất hiện thế gian. Vì việc không số lượng nên xuất hiện thế gian. Vì việc không gì sánh bằng nên xuất hiện thế gian. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, lấy việc cứu độ khắp tất cả hữu tình không ngưng nghỉ làm đại sự mà xuất hiện thế gian.

Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác có bao Chánh đẳng giác tánh(4), Như Lai tánh(5), Tự nhiên giác tánh(6), Nhất thiết trí tánh đều là việc chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có hạn lượng, không có gì sánh bằng mà xuất hiện thế gian.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Chỉ có Chánh đẳng giác tánh, Như Lai tánh, Tự nhiên giác tánh, Nhất thiết trí tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể cân lường, không số lượng, không gì sánh bằng hay lại còn pháp nào khác nữa cũng lại như thế?

Phật nói:

- Chẳng phải chỉ có Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác có bao Chánh đẳng giác tánh, Như Lai tánh, Tự nhiên giác tánh, Nhất thiết trí tánh chẳng thể nghĩ bàn được, chẳng thể xưng lường được, không hạn lượng, không gì sánh bằng mà Sắc cũng chẳng nghĩ bàn được, chẳng xưng lường được, không hạn lượng, không gì sánh bằng. Thọ tưởng hành thức cũng chẳng nghĩ bàn được, chẳng xưng lường được, không hạn lượng, không gì sánh bằng. Như vậy, cho đến Nhất thiết trí cũng chẳng thể nghĩ bàn được, chẳng thể cân lường được, không hạn lượng, không gì sánh bằng. Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí cũng chẳng nghĩ bàn được, chẳng xưng lường được, không hạn lượng, không gì sánh bằng.

Thiện Hiện! Tất cả pháp cũng chẳng nghĩ bàn được, chẳng xưng lường được, không hạn lượng, không gì sánh bằng. Ở trong chơn pháp tánh, tâm và tâm sở chẳng thể nắm bắt được.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tánh sắc chẳng khá thi thiết, chẳng nghĩ bàn được, chẳng xưng lường được, không hạn lượng, không gì sánh bằng. Tánh thọ tưởng hành thức cũng chẳng nghĩ bàn được, chẳng xưng lường được, không hạn lượng, không gì sánh bằng. Như vậy, cho đến tánh Nhất thiết trí cũng chẳng nghĩ bàn được, chẳng xưng lường được, không hạn lượng, không gì sánh bằng. Tánh Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí cũng chẳng nghĩ bàn được, chẳng xưng lường được, không hạn lượng, không gì sánh bằng.

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Vì duyên cớ gì mà nói tánh sắc chẳng thể thi thiết, chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không hạn lượng, không gì sánh bằng. Tánh thọ tưởng hành thức cũng chẳng thể thi thiết, chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không hạn lượng, không gì sánh bằng? Duyên cớ gì mà nói tánh Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí cũng lại như thế?

Phật nói:

- Thiện Hiện! Vì tự tánh sắc chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không hạn lượng, không gì sánh bằng. Vì không có tự tánh, nên tánh sắc chẳng thể thi thiết, nghĩ bàn, xưng lường, hạn lượng, bình đẳng chẳng bình đẳng. Tự tánh thọ tưởng hành thức cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không hạn lượng, không gì sánh bằng. Vì không có tự tánh, nên tánh thọ tưởng hành thức chẳng thể thi thiết, nghĩ bàn, xưng lường, hạn lượng, bình đẳng chẳng bình đẳng. Như vậy, cho đến tự tánh Nhất thiết trí, tự tánh Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không hạn lượng, không gì sánh bằng. Vì vô tự tánh nên tánh Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí chẳng thể thi thiết, nghĩ bàn, xưng lường, hạn lượng, bình đẳng chẳng bình đẳng.

Lại nữa, Thiện Hiện! Sắc bất khả đắc nên chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không hạn lượng, không gì sánh bằng. Thọ tưởng hành thức cũng bất khả đắc nên chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không hạn lượng, không gì sánh bằng. Như vậy, cho đến Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí cũng bất khả đắc nên chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không hạn lượng, không gì sánh bằng.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Vì duyên cớ gì sắc, thọ, tưởng, hành, thức cho đến Nhất thiết tướng trí bất khả đắc nên chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không hạn lượng, không gì sánh bằng?

Phật nói:

- Thiện Hiện! Sắc không hạn lượng nên bất khả đắc. Bất khả đắc nên chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không hạn lượng, không gì sánh bằng. Thọ tưởng hành thức cũng không hạn lượng nên bất khả đắc. Bất khả đắc nên chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không hạn lượng, không gì sánh bằng. Như vậy, cho đến Nhất thiết tướng trí không hạn lượng nên bất khả đắc. Bất khả đắc nên chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không hạn lượng, không gì sánh bằng.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Vì duyên cớ gì nói sắc, thọ, tưởng, hành, thức cho đến Nhất thiết tướng trí không hạn lượng nên bất khả đắc?

Phật nói:

- Thiện Hiện! Tướng sắc chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không hạn lượng, không gì sánh bằng nên không hạn lượng. Tướng thọ tưởng hành thức cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không hạn lượng, không gì sánh bằng nên không hạn lượng. Như vậy, cho đến tướng Nhất thiết tướng trí chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không hạn lượng, không gì sánh bằng nên không hạn lượng. (Q. 443, ĐBN)

Phật hỏi:

- Này Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao: Trong cái chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không hạn lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh của sắc, sắc có thể nắm bắt được chăng? Trong cái chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không hạn lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh của thọ tưởng hành thức, thọ tưởng hành thức có thể nắm bắt được chăng? Trong cái chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không hạn lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh của Nhất thiết trí, cho đến Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí, ba trí này có thể nắm bắt được chăng?

Thiện Hiện đáp:

- Bạch Thế Tôn! Chẳng được! Bạch Thiện Thệ! Chẳng được!

Này Thiện Hiện! Vì tất cả pháp đều chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không hạn lượng, không gì sánh bằng nên Chánh đẳng giác pháp, Như Lai pháp, Tự nhiên giác pháp, Nhất thiết trí pháp của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không hạn lượng, không gì sánh bằng.

Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác có bao Chánh đẳng giác pháp, Như Lai pháp, Tự nhiên giác pháp, Nhất thiết trí pháp đều chẳng thể nghĩ bàn, vì dứt nghĩ bàn. Chẳng thể xưng lường, vì dứt xưng lường. Không hạn lượng, vì dứt so lường. Không gì sánh bằng, vì dứt so sánh hơn thua vậy. Do nhân duyên này nên nói tất cả pháp cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không hạn lượng, không gì sánh bằng.

Chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không hạn lượng, không gì sánh bằng là chỉ có trên phương diện ngôn thuyết. Tất cả đều giống như hư không. Vì hư không chẳng thể so sánh, xưng tán được: Chẳng thể nghĩ bàn là chẳng thể nghĩ bàn như hư không; chẳng thể xưng lường là chẳng thể xưng lường như hư không; không hạn lượng là không có giới hạn như hư không; không gì sánh bằng là không có gì có thể so sánh với hư không. (Q.443, ĐBN)

Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác có bao Chánh đẳng giác pháp, Như Lai pháp, Tự nhiên giác pháp, Nhất thiết trí pháp, Thanh văn, Độc giác, thế gian, trời, người, A tu la v.v… đều chẳng thể nghĩ bàn, xưng lường, hạn lượng, so sánh được. Do nhân duyên nầy nên nói tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác có bao Chánh đẳng giác pháp, Như Lai pháp, Tự nhiên giác pháp, Nhất thiết trí pháp đều chẳng thể nghĩ bàn, chẳng khá xưng lường, không hạn lượng, không gì sánh bằng.

Khi Phật thuyết phẩm Bất Khả Tư Nghì, Bất Khả Xứng Lượng, Vô Số Lượng, Vô Đẳng Đẳng như thế, trong chúng có năm trăm Tỳ kheo, hai trăm Tỳ kheo ni chẳng còn các lậu hoặc, tâm được giải thoát. Lại có sáu trăm cư sĩ nam, ba trăm cư sĩ nữ đối với các pháp xa trần lìa cấu, sanh tịnh pháp nhãn. Lại có hai ngàn đại Bồ tát được Vô sanh pháp nhẫn, ở trong Hiền kiếp sẽ được Phật thọ ký.

 

Thích nghĩa:

(1). Kinh nói “vì không bị tướng chuyển, nên có thể chuyển các tướng”.

(2). Năng chỉ thực tướng các pháp thế gian: năng thị thế gian chư pháp thật tướng. “Thực tướng các pháp” dịch từ chữ Hán “Chư pháp thực tướng”: (諸法實相) Chư pháp, hết thảy muôn pháp trong thế gian và xuất thế gian là các hiện tượng sai biệt, là các pháp tùy duyên - Thực tướng, thể tướng chân thực của các pháp là thực tại bình đẳng, là lý bất biến. Chư pháp thực tướng là một pháp ấn của Phật giáo Đại thừa, đối lại với ba pháp ấn của Tiểu thừa. Căn cứ theo Kinh Đại phẩm Bát Nhã quyển 17 phẩm Thâm áo và Kinh Pháp hoa quyển 1, phẩm Phương tiện nói, thì thực tướng của các pháp duy chỉ có Phật tự chứng biết chứ không thể diễn bày được bằng lời nói. Luận Đại trí độ quyển 18 bảo thực tướng của các pháp tức là Bát nhã Ba la mật. Nghĩa là thực tướng các pháp mà thế tục nói chỉ là yên nước giữ nhà, tuyệt chẳng phải chân thực - còn thực tướng của các pháp mà ngoại đạo nói đều rơi vào trong pháp tà kiến, tâm có đắm đuối, cho nên chẳng phải chân thực - trong pháp Thanh văn tuy lấy vô thường, khổ, không, vô ngã mà quán xét thực tướng của các pháp, nhưng họ chỉ tự cầu giải thoát khỏi những cái khổ già, bệnh, chết chứ chẳng vì hết thảy chúng sinh, không đầy đủ trí tuệ, cho nên chưa có thể cùng suốt thực tướng - duy chỉ có Bồ tát vào lúc mới phát tâm đã phát thệ nguyện rộng lớn, khởi đại từ bi cúng dường hết thảy chư Phật, dùng trí đại lợi, bỏ hết các pháp quán vọng kiến, như quán sạch, quán chẳng sạch, quán vui, quán khổ v.v... mà quán các pháp chẳng phải sạch, chẳng phải chẳng sạch, cho đến chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã, rồi lại bỏ các pháp quán như trên, mà đạt đến mức dứt đường nói năng, diệt chỗ tâm hành, đó mới là cùng suốt thực tướng của các pháp. Trung luận quyển 3 phẩm Quán pháp, luận Đại trí độ quyển 15, Tư duy lược yếu pháp v.v... cũng cho tách lìa những hí luận, như chẳng sinh, chẳng diệt, chẳng đoạn, chẳng thường, tâm hành xứ diệt, tức là thực tướng của các pháp. Đại sư Gia Tường thuộc tông Tam luận, trong Đại thừa huyền luận quyển 4, bảo thực tướng là cái mà thực trí Bát Nhã soi rọi. Ngài Trí Khải tông Thiên thai, trong Ma ha chỉ quán quyển 1 phần trên, bảo thực tướng là đối cảnh do Viên đốn chỉ quán quán xét. Trung luận và luận Đại trí độ đều nói Rốt ráo không là thực tướng các pháp, còn Ngài Trí Khải thì lại lấy Trung đạo làm thực tướng, đồng thời, trong Pháp hoa Kinh huyền nghĩa quyển 8 phần dưới, quyển 9 phần trên, có nêu lên mười hai tên gọi khác của thực tướng, như Diệu hữu, Như như, Hư không Phật tính, Phi hữu phi vô trung đạo v.v... Cho nên, sự giải thích của các tông về thực tướng của các pháp không nhất trí. Lại như tông Tịnh độ lấy danh hiệu của Phật A di đà làm thực tướng của các pháp, tông Chân ngôn thì lấy chữ A vốn chẳng sinh làm thực tướng các pháp, tông Hoa nghiêm lại lấy Nhất chân pháp giới làm thực tướng các pháp, tông Pháp tướng thì lấy tính viên thành thực làm thực tướng pháp giới, tông Thành thực lấy giai không làm thực tướng các pháp, còn Hữu bộ tông thì lấy khổ, không, vô thường, vô ngã làm thực tướng các pháp. Trong tư tưởng Đại thừa, thuyết có khả năng biểu hiện thực tướng các pháp một cách độc lập nhất, thì trước hết phải kể đến giáo nghĩa thuộc hệ thống Long Thụ, sau lại chia lập thành hai phái Trung luận và Đại trí độ luận. Nay lấy hai tông Tam luận và Thiên thai là các tông đã nối theo hai tư trào trên đây để thuyết minh: 1- Tông Tam luận, theo thuyết trong Kinh Bát Nhã, nhất là coi trọng văn tụng Bát bất trong Trung luận (Đại 30, 1 trung): Chẳng sinh cũng chẳng diệt, chẳng thường cũng chẳng đoạn, chẳng một cũng chẳng khác, chẳng đến cũng chẳng đi. Cho rằng cái không chẳng thể được là thực tướng của các pháp, đó là cái lý phủ định tuyệt đối bất khả tư nghị, siêu việt cả khẳng định và phủ định thông thường - cũng tức là cái chân lý chẳng thể được mà khi đã phá trừ hết tất cả mê vọng thì liền thấy. 2- Tông Thiên thai, về thực tướng các pháp, tông Thiên thai chia ra ba lớp để giải thích: 1/. Hết thảy hiện tượng (các pháp) nương vào nhân duyên mà sinh, chỉ là nhân duyên giả hiện chứ không có thực thể - vì bản chất của các pháp là lý không (thực tướng), cho nên gọi lý ấy là thực tướng của các pháp. 2/. Tất cả cái không và cái có gọi là các pháp, cái lý trung đạo (thực tướng) khẳng định tuyệt đối, siêu việt không và có, đó tức là thực tướng các pháp. 3/. Hết thảy sự sự vật trong thế giới hiện tượng khế hợp với lý thực tướng của ba đế Tức không, Tức giả, Tức trung, như vậy các pháp tức là thực tướng và đó chính là thực tướng của các pháp. Trên đây, hai lớp trước là thuộc Đại thừa thiên giáo (giáo chỉ thiên về một bên, chỉ cho Tiểu thừa và Quyền giáo trong Đại thừa) - lớp thứ ba thuộc Đại thừa viên giáo. Ngoài ra Thiền tông thì cho thực tướng của các pháp là cái Bản lai diện mục. (cái mặt mày thật) do chư Phật hoặc lịch đại Tổ sư đã ngộ đạo biểu hiện. [X. Kinh Đại bảo tích Q.78 phẩm Cụ thiện căn - Kinh Chư pháp vô hành - Kinh Phật tạng Q.thượng phẩm Chư pháp thực tướng - Kinh Tọa thiền tam muội Q.hạ - Đại nhật Kinh sớ Q.1 - Đại thừa nghĩa chương Q.trung - Chú Duy ma Kinh Q.2 - Pháp hoa nghĩa ký Q.2 - Tứ niệm xứ Q.3 - Tam luận huyền nghĩa - Tông kính lục Q.40].- Tự điển Phật Quang.

(3). Như Lai thế gian thực tướng dịch từ Hán ngữ Như Lai thế gian thật tướng”.

1- Thực tướng hay thật tướng (實相): Nói gọn là bản thể, thực thể, chân tướng, bản tính...; từ đó được khai triển để chỉ cho thể tướng chân thực bất hư của tất cả muôn pháp, hoặc lý pháp chân thực, lý bất biến, chân như, pháp tính.

2- Chư pháp thực tướng nói nôm na là thể tướng chân thực, bình đẳng, bất biến của tất cả pháp.

3- Như Lai thực tướng: Như Lai là thường trụ, chẳng biến đổi. Như vậy, Như lai tức là Thật tánh, là Chơn như.

Phải giải thích sự khác biệt giữa “chư pháp thực tướng” và “Như lai thực tướng” như thế nào? Các pháp là như như tướng, người thấy như như tướng thì gọi là Như Lai. Vậy, đứng về hình thức (tức ngoại biểu) mà nói sự khác biệt chỉ có trên ngôn từ. Các pháp không ngoài tâm và vật dầu là chư pháp hay Như Lai pháp. Vì các pháp cùng đồng một tướng, chỗ gọi là vô tướng, nên không hai không khác. Cách chuyển ngữ ở đây hết sức tế nhị, vì Kinh đôi khi nói về chư pháp thực tướng thế gian, đôi khi lại nói Như Lai thực tướng thế gian. Xem lại phẩm “Phật Mẫu”.

(4). Chánh đẳng giác tánh: Tánh giác biết các pháp không sai biệt.

(5). Như Lai tánh: Bản thể của tự tánh cùng khắp không gian, bất khứ bất lai, đúng như bổn lai nên gọi là Như lai.

(6). Tự nhiên giác tánh: Tánh tự nhiên giác ngộ bằng cách giữ lấy chân lý ngay nơi tâm mình.

Chánh đẳng giác tánh(4), Như Lai tánh(5), Tự nhiên giác tánh(6), Nhất thiết trí tánh như nhau, không hai không khác.

 

Sơ giải:

 

- Như phần gợi ý trên, phần đầu của phẩm “Chỉ Tướng” này tương đương với phần sau của phẩm “Phật Mẫu” của Hội thứ I. Phẩm “Phật Mẫu của Hội thứ I, chúng ta đã tụng qua, nên chúng ta không muốn lặp lại.

- Phần sau của phẩm “Chỉ Tướng” lại thuyết: Các pháp chẳng thể nghĩ bàn lại thuộc phẩm “Chẳng Nghĩ Bàn”, thuộc quyển 308 đến quyển 310, Hội thứ I, ĐBN. Phẩm “Chẳng Nghĩ Bàn” chúng ta cũng đã tụng qua rồi.

- Điểm đáng chú ý của phẩm này khi nói về tướng thế gian, Bát Nhã thường chỉ cho Như Lai hết thảy tướng tất cả pháp thế gian thuần là: Không (từ không nội, không ngoại, không nội ngoại… cho đến vô tánh tự tánh không). Bởi nghĩa như thế, nên Bát Nhã thẳm sâu thường chỉ Như Lai thật tướng thế gian, gọi là mẹ chư Phật, thường sanh chư Phật. Hơn nữa, Bát Nhã thường chỉ Như Lai hết thảy tướng tất cả pháp thế gian là vô tướng, vô nguyện, vô ngã, vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh, vô khởi, vô tận, vô vi, vô tác, vô tánh, thật tế. Vì sao? Vì tất cả pháp đều vô sở hữu, thật bất khả đắc, không thể vin vào đó mà khởi tưởng thế gian này thế gian nọ.

- Điểm chú ý khác nữa là: Tất cả pháp cũng chẳng nghĩ bàn được, chẳng xưng lường được, không hạn lượng, không gì sánh bằng. Ở trong chơn pháp tánh, tâm và tâm sở chẳng thể nắm bắt được.

Vậy, muốn nắm vững toàn bộ phẩm “Chỉ Tướng”, xin Quý vị đọc kỹ phần thích nghĩa hay quay lại tụng đọc lược giải của phần sau phẩm “Phật Mẫu” và phẩm “Chẳng Nghĩ Bàn” kế tiếp phẩm “Phật Mẫu”.

 

---o0o---