LUẬN #5. THẾ NÀO GỌI LÀ BÁT NHÃ BA LA
MẬT?
Từ lúc mở đầu cho tới đây chúng ta
chỉ mới đi vòng ngoài. Trọng tâm của chúng ta là nói về Bát Nhã hay Tánh không
trong việc thành tựu Giác ngộ. Tánh không là Bát Nhã và Bát Nhã tức Tánh không
hay Bản tánh không. Hơn nữa Bản tánh không chính là Phật. Kinh nói “nhất định không có Như Lai Ứng
Chánh Đẳng Chánh giác nào lìa Bản tánh không mà có thể xuất hiện ở đời”. Vì những lý do đó, nhà Thiền thường nói
“Không giác ngộ không phải là Bát Nhã” hay nói khác “Chỉ thành tựu giác ngộ
trong Bát Nhã hay ngược lại”.
Đây không phải là câu nói phô trương
phù phiếm hay lời khích lệ dành cho hành giả Bát nhã Ba la mật. Lịch sử Phật
đạo có kể giai thoại về một chàng tiều phu trẻ tuổi nghèo khổ, chỉ nghe câu
“Ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm” mà hoát nhiên đại ngộ rồi trở thành Tổ thứ sáu
truyền thừa từ thời đức Phật(1). Bát Nhã có đầy đủ diệu dụng như thế, nên đệ tử
tục gia hay xuất gia rất ngưỡng mộ, đều muốn qui hướng.
1- Khái lược về Bát nhã Ba la mật:
1/. Cái gì gọi là Bát Nhã?
Muốn tu để đạt Ngộ, đắc Chánh giác
và Nhất thiết trí trí thì phải biết Bát Nhã là gì? Có hiểu biết mới có thể tín
thọ(tin tưởng). Có tín thọ thì mới có thể phụng hành (học hành). Vậy, ta phải
hiểu Bát Nhã như thế nào đây trước khi dấn thân vào cuộc hành trì bất tận này?
Bát Nhã:
Hạt châu trong chéo áo:
Kinh Pháp Hoa nói về “Khai thị ngộ
nhập trong tri kiến Như Lai” như sau: “Khai” là mở ra, “thị” là chỉ cho thấy,
“ngộ’ là giác biết, “nhập” là đi vào chân lý. Một khi ngộ nhập được chân lý
rồi, chân lý chính là ông và ông là chân lý. Chủ đích của Kinh Pháp Hoa nhằm
chỉ cho chúng sanh mỗi người đều có tri
kiến Như Lai hay Phật Trí. Nhưng vì vọng động tầm cầu những cái từ bên
ngoài nên quên đi cái sẵn có nơi mình như chàng cùng tử có sẵn hạt châu trong
chéo áo mà không biết, nên phải lang thang khắp đầu đường xó chợ, rày đây mai
đó kiếm ăn. Nhưng may mắn cùng tử gặp người có trí chỉ cho biết hạt châu trong
chéo áo. Rồi từ đó nhờ bán hạt châu mà chàng ta trở thành người giàu sang sung
sướng. Hạt châu ở đây chính là trí kiến Như Lai, Phật Trí hay Bát Nhã Trí sẵn
có trong mỗi chúng ta và người trí ở đây tức Phật chỉ cho chúng ta mỗi người
đều có Phật Trí hay Bát Nhã Trí.
Bồ tát Thường Bất Khinh, một nhân
vật trong Kinh Pháp Hoa, trên đường hành cước đó đây, bất cứ gặp ai cũng lớn
tiếng xướng rằng: “Ta không giám khinh mạn các Ngài, các Ngài là Phật sẽ
thành”. Những người qua đường tưởng ông
là kẻ điên khùng, nhảm nhí, lấy gậy cây ngói đá đánh đuổi. Nhưng mọi người nào
biết chính mình đã có sẵn trí tuệ Phật, chỉ cần tôi luyện sẽ thành.
Bồ tát Thường Đề hay Bồ tát Thường
khóc, một nhân vật khác trong Kinh ĐBN, người tầm cầu trí tuệ Phật, phải chẻ
xương bán tủy. Nhưng trí đó ở đâu mà cầu? Trí tuệ đó chính là tri kiến hay còn
gọi là trí tuệ giác tánh của chính ông, do tư duy trì niệm và thực hành lục Ba
la mật nói riêng và tất cả pháp Phật nói chung mà hiển lộ.
Những điều trình bày trên cốt trả
lời câu hỏi cái gì gọi là Bát Nhã? “Như Lai trí tuệ giác tánh”, là câu trả lời.
Nhưng đó chỉ là câu trả lời thuộc về danh tướng. Vậy, nội dung của Bát Nhã là
gì? Đó chính là chủ đề mà những người tầm cầu Thánh trí và Giác ngộ muốn biết.
Phải nghiền ngẫm tụng đọc, thọ trì toàn bộ hơn bảy ngàn trang sách đánh máy khổ
lớn, phải thực hành không những trong một kiếp mà trong nhiều đời nhiều kiếp
mới có hy vọng nói lên chính xác nội dung pháp nghĩa của bộ Đại tùng thư này và
cũng tùy theo căn cơ hay phước đức trí tuệ. Đó là điều khó và khó hơn cả là
phải thông đạt nắm bắt đúng Bát Nhã mới có thể làm nổi!
Một bộ Kinh mà chúng tôi rất ngưỡng
mộ và tán dương được trình bày ở đây gọi là “Tâm Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa”.
Nói là “bộ” thì không đúng lắm, vì Kinh vỏn vẹn chỉ có 262 chữ. Tuy nhiên, nó
có thể “trình bày” một cách khái quát cốt tủy của Bát Nhã. Tâm Kinh được giới
thiệu ở đây không phải là một khái lược tổng quát mà là một “tối sơ lược” về
Bát Nhã, mặc dầu Kinh ngắn nhưng rất xúc tích. Tuy nhiên, Quý vị không thể nín
cười khi tôi lấy một bộ kinh vỏn vẹn chỉ có 262 chữ để “làm công việc sơ lược”
cho một Đại tùng thư như Đại Bát Nhã Ba La Mật, hơn 5 triệu chữ (2), là một
điều cực kỳ phi lý phải không?
Nhưng, phải nói đoạn đầu của Tâm
Kinh có thể thức tỉnh giác quan nội tại của chúng ta qua tác dụng của lối phủ
định vô địch của Tánh không, có thể đưa hành giả Bát Nhã đến vô niệm vô tâm,
nên được chúng tôi giới thiệu ở đây thay vì tóm lược nội dung của Đại Bát Nhã.
Để nắm vững Tâm Kinh, chúng tôi
trích dẫn Lược bản Tâm Kinh bằng tiếng Anh của Thiền sư D.T. Suzuki đăng trong
Thiền luận quyển hạ và Ngài Tuệ Sĩ Việt dịch như sau:
Khi Bồ tát Quán Tự tại (Avalokitésvara)thực hành tu tập Bát nhã Ba la
mật sâu thẳm, trực nhận rằng, có năm uẩn (skandha); và thấy năm uẩn đó không có
tự tính trong chúng.
“Này Xá lợi phất (Śāriputra), sắc ở đây là không, không là sắc; sắc
không khác không, không không khác sắc; sắc tức thị là không, không tức thị là
sắc. Thọ, tưởng, hành và thức cũng vậy.”
“Này Xá lợi phất, hết thảy các pháp ở đây có đặc tướng là không: Chúng
không sinh, không diệt; không cấu nhiễm, không không cấu nhiễm; không tăng,
không giảm. Vì vậy, này Xá lợi phất, trong tính Không không có sắc, không có
thọ, tưởng, hành, thức, không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; không có sắc,
thanh, hương, vị, xúc, pháp; không có nhãn giới, cho đến không có ý
thức giới; không có minh, không có vô minh, không có sự diệt tận của minh,
không có sự diệt tận vô minh cho đến không có tuổi già và sự chết, không có sự
diệt tận của tuổi già và sự chết; không có khổ, tập, diệt, đạo; không có trí,
không có đắc, và không có chứng, bởi vì không có đắc. Không có những chướng
ngại trong tâm của Bồ tát an trụ do y chỉ trên Bát nhã Ba la mật; và
bởi vì không có những chướng ngại trong tâm mình, Ngài không có sợ hãi, và vượt
ngoài những tà kiến điên đảo, đạt đến Niết bàn. Hết thảy chư Phật trong quá
khứ, hiện tại, và vị lai, do y trên Bát nhã Ba la mật, mà chứng đắc giác ngộ
viên mãn tối thượng.”
“Vì vậy, nên biết Bát nhã Ba la mật là đại thần chú(mantra), là chú của
đại minh huệ, là thần chú cao tuyệt, thần chú vô giá, có thể trừ diệt hết mọi
khổ đau; đó là chân lý vì không sai lầm; đây là thần chú được công bố trong
kinh Bát nhã Ba la mật:
Gate, gate,
pāragate, pārasaṅgate,bodhi, svāhā!”
(Này Bodhi, đi qua, đi qua, qua bờ bên kia, qua đến bờ
bên kia, Svāha!).(3)
Nhiều đoạn Kinh trong ĐBN cũng có ý
nghĩa tương tự như Tâm Kinh, thí dụ phẩm “Tương Ưng”, quyển 04, Hội
thứ I, ĐBN hay quyển 403, phẩm “Quán Chiếu”, Hội thứ II, ĐBN. Nhưng thay vì Bồ tát Quán Âm bảo Xá Lợi Phất
thì ở đây Phật bảo Xá Lợi Phất:
“Xá
Lợi Tử! Không có một pháp nhỏ nhiệm nào hiệp với một pháp nhỏ nhiệm nào, vì bản
tánh là không. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì cái không của các sắc, nó chẳng phải là
sắc; các cái không của thọ, tưởng, hành, thức, chúng chẳng phải là thọ, tưởng,
hành, thức. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì cái không của các sắc, nó chẳng phải là tướng
biến đổi, ngăn ngại; cái không của thọ, nó chẳng phải là tướng lãnh nạp; cái
không của các tưởng, nó chẳng phải là tướng nắm bắt hình tượng; cái không của
các hành, nó chẳng phải là tướng tạo tác; cái không của các thức, nó chẳng phải
là tướng liễu biệt. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì sắc chẳng khác không, không chẳng
khác sắc; sắc tức là không, không tức là sắc; thọ, tưởng, hành, thức chẳng khác
không, không chẳng khác thọ, tưởng, hành, thức; thọ, tưởng, hành, thức tức là
không, không tức là thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì tướng không
của các pháp ấy chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh, chẳng tăng,
chẳng giảm, chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại.
Xá
Lợi Tử! Như vậy, trong cái không, không có sắc, không có thọ, tưởng, hành,
thức; không có 12 xứ, 18 giới; không có sự sanh khởi của vô minh, không có sự
diệt tận của vô minh; không có sự sanh khởi của hành, thức, danh sắc, lục nhập,
xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử…; không có sự diệt tận của hành cho đến
lão tử…; không có khổ Thánh đế, không có tập, diệt, đạo Thánh đế; không có đắc,
không có hiện quán; không có Dự lưu, không có quả Dự lưu, không có Nhất lai,
không có quả Nhất lai, không có Bất hoàn, không có quả Bất hoàn, không có A la
hán, không có quả A la hán, không có Độc giác, không có quả vị Độc giác, không
có Bồ tát, không có hạnh Bồ tát, không có Phật, không có quả vị Phật”.
Tâm Kinh hay đoạn Kinh ngắn của
quyển 04 của phẩm “Tương Ưng” nói trên, có thể xem như là khái lược ngắn gọn về
Tánh không. Riêng Tâm Kinh đã đáp ứng được vai trò này với những phủ định liên
hồi của nó. Tâm kinh phủ định vai trò của ngũ uẩn, 12 xứ, 18 giới, phủ định
luôn Tứ đế, Thập nhị nhân duyên, phủ định luôn cả sự chứng đắc các Thánh quả, để cuối
cùng không còn gì có thể phủ định được nữa, lúc đó sẽ đối diện với Không. Khi
tâm thể được gột rửa tận cùng như thế, thì sẽ không còn quái ngại nữa, mới có
thể xa lìa mộng tưởng điên đảo mà đạt đến cảnh giới Niết bàn rốt ráo.
Ở đây chúng tôi không đề cập đến cái
thần bí ẩn mật của Mantra hay Đà la ni trong câu chú “Yết-đế, yết-đế, ba-la-yết-đế,
ba-la-tăng-yết-đế, bồ-đề, tăng sa-bà-ha”. Chúng tôi chỉ bàn về Bát Nhã Tánh
không với những nguyên tắc chỉ đạo của nó.
Tuy nhiên, nói cho cùng nội dung của Tâm Kinh
quá nhỏ hẹp không đủ tầm vóc để đáp ứng với những vấn đề quá phức tạp đa dạng
của Bát nhã Ba la mật. Ở đây hơn bảy ngàn trang giấy đánh máy khổ lớn, trên 5
triệu chữ được gọi là một Đại tùng thư, chắc chắn Kinh Đại Bát Nhã có thể đáp
ứng một số câu hỏi lớn mà người tầm cầu Thánh trí hay Giác ngộ muốn biết.
2/. Sao gọi là Ba la mật?
Tu Bát Nhã để làm gì? Và kết quả ra
sao? Câu trả lời giản dị là tu Bát Nhã để đạt huệ. Đạt huệ để làm gì? Để được
giải thoát! Giải thoát đi đâu? Đi qua bờ bên kia! Vậy tu Bát Nhã là nhân để đạt
huệ và đạt huệ để sang được bờ bên kia, là quả. Muốn nhân tròn quả mãn thì phải
tu hành Bát nhã Ba la mật, kết quả chắc chắn sẽ sang được bờ kia.
Nhưng muốn gặt hái được kết quả tốt
đẹp đó thì phải làm sao? Câu trả lời giản dị là phải có phương tiện. Nhưng đối
với Bát Nhã, tất cả đều không: Nội không, ngoại không, nội ngoại không, cho
đến... vô pháp hữu pháp không, rốt ráo đều không. Như
vậy, phương tiện cũng không, nên nói phương tiện phi phương tiện. Hay nói khác
tất cả đều bất khả đắc. Và chính bất khả đắc này cũng không nốt, nên nói là
“bất khả đắc không”. Và khi hiểu ra như thế thì thấu hiểu Bát Nhã, thấu hiểu Ba
la mật. Thấu hiểu nhân (Bát Nhã), thấu hiểu quả (Ba la mật) thì có thể sang
được bờ kia. Phẩm “Ba la mật”,
quyển 296 và 297, Hội thứ I, ĐBN. Nói:
“Bát
nhã Ba la mật là Ba la mật vô biên
vì không có ngằn mé; là Ba la mật không
có dấu vết vì không có danh thể; là
viễn ly vì rốt ráo không; là vô hành
vì tất cả pháp không đến không đi; là Ba la mật vô tri vì các sự hiểu biết chẳng thể nắm bắt được; là Ba la mật chẳng sanh diệt vì tất cả pháp không
sanh diệt; là không tạo tác vì các
sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được; là
không dời đổi vì sự sanh tử bất
khả đắc, không hư mất vì tất cả pháp
không biến hoại; là Ba la mật vô nhị vì
xa lìa nhị biên (hai bên); là không sở đắc, không hý luận, không nhiễm,
không tịnh; là Ba la mật không kiêu
mạn, không tham dục, không sân nhuế, không ngu si, không phiền não; là Ba
la mật không đoạn, không hoại, không
chấp trước, không phân biệt, không so lường, không khởi đẳng cấp; là Ba la
mật bình đẳng, xa lìa nhiễm trước, vô
cùng tĩnh lặng, như hư không…
Bát
nhã Ba la mật như vậy là Ba la mật như
mộng vì tất cả pháp như chiêm bao, chẳng thể nắm bắt được; là Ba la mật như tiếng vang vì năng, sở, văn, thuyết
đều chẳng thể nắm bắt được; là Ba la mật như
ảnh tượng vì các pháp đều như ảnh
hiện trong gương, chẳng thể nắm bắt được; là Ba la mật như bóng nắng, như ảo ảnh
vì tất cả pháp như tướng trạng của
dòng nước, chẳng thể nắm bắt được; là Ba la mật như biến hóa vì các pháp đều như
ảo thuật; là Ba la mật như ảo thành
vì các pháp đều như thành bằng hương
khói.
Bát nhã Ba la mật như vậy là Ba la
mật khổ, Ba la mật không, Ba la mật vô thường, Ba la mật vô ngã, Ba la mật vô tướng, vì có khả năng vĩnh viễn đoạn trừ các vọng
niệm chấp trước.
Bát
nhã Ba la mật như vậy là Ba la mật thập
bát pháp không (18 pháp không) vì
các pháp chẳng thể nắm bắt được. Bát nhã Ba la mật như vậy là Ba la mật chơn như, là Ba la mật pháp giới, là Ba la mật pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến
dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không
giới, bất tư nghì giới. Bát nhã Ba la mật như vậy là Ba la mật bốn Thánh đế, là 37 pháp trợ đạo.
Bát
nhã Ba la mật như vậy là Ba la mật không
giải thoát môn, là vô tướng giải thoát môn, là vô nguyện giải thoát môn.
Bát nhã Ba la mật như vậy là Ba la mật tám
giải thoát, là Ba la mật tám thắng xứ, là chín thứ đệ định, là mười biến xứ v.v…
Bát nhã Ba la mật như vậy là Ba la mật
Nhất thiết trí, là Ba la mật Đạo tướng trí, là Ba la mật Nhất thiết tướng trí.
Bát nhã Ba la mật như vậy là Ba la mật tất
cả Bồ tát hạnh, là quả vị Giác ngộ tối cao. Bát nhã Ba la mật như vậy là Ba la mật Như Lai. Bát nhã Ba la mật
như vậy là Ba la mật tự nhiên vì đối
với tất cả pháp được tự tại. Bát nhã Ba la mật như vậy là Ba la mật Chánh Đẳng Giác vì đối với tất cả pháp có khả năng giác ngộ
chơn chánh bình đẳng tất cả tướng”.
Đoạn Kinh này cho chúng ta hiểu: Bát
nhã Ba la mật nhiếp thọ tất cả pháp nhất là pháp Phật. Vì học tất cả pháp này
thành đạt thì có thể sang được bờ kia. Vì vậy, mới nói tất cả pháp Phật là Ba
la mật. Hơn nữa, tu tất cả pháp Phật này thì Giác ngộ trở thành Như Lai Chánh
Đẳng Chánh giác và đắc Nhất thiết trí trí thì có thể sang bờ kia.
Cũng cùng một tư tưởng như vậy, phẩm “Ca Gợi Trăm Ba La Mật”, thứ 44, Kinh MHBNBLMĐ, Tu Bồ Đề bạch Phật:
“Bạch
đức Thế Tôn! Vô biên Ba la mật là
Bát nhã Ba la mật?”
Đức
Phật nói: “Vì như hư không vô biên vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bình đẳng Ba la mật
là Bát nhã Ba la mật?”
Đức
Phật nói: “Vì các pháp bình đẳng vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Ly (viễn ly) Ba la
mật là Bát nhã Ba la mật?”
Đức
Phật nói: “Vì rốt ráo rỗng không vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bất hoại Ba la mật
là Bát nhã Ba la mật?”
Đức
Phật nói: “Vì tất cả pháp bất khả đắc vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Không bỉ ngạn Ba la
mật là Bát nhã Ba la mật?”
Đức
Phật nói: “Vì không danh, không thân vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Không đại chủng Ba la mật là Bát nhã Ba la mật?”
Đức
Phật nói: “Vì thở ra, thở vào bất khả đắc vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bất khả thuyết Ba la
mật là Bát nhã Ba la mật?”
Đức
Phật nói: “Vì giác quán bất khả đắc vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Vô danh Ba la mật là
Bát nhã Ba la mật?”
Đức
Phật nói: “Vì thọ, tưởng, hành, thức bất khả đắc vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bất khứ Ba la mật là
Bát nhã Ba la mật?”
Đức
Phật nói: “Vì tất cả pháp bất lai vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Không di chuyển Ba la
mật là Bát nhã Ba la mật?”
Đức
Phật nói: “Vì tất cả pháp không thể nép phục vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Tận Ba la mật là Bát
nhã Ba la mật?”
Đức
Phật nói: “Vì tất cả pháp rốt ráo tận vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bất sanh Ba la mật
là Bát nhã Ba la mật?”
Đức
Phật nói: “Vì tất cả pháp bất diệt vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bất diệt Ba la mật
là Bát nhã Ba la mật?”
Đức
Phật nói: “Vì tất cả pháp bất sanh vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Vô tác Ba la mật là
Bát nhã Ba la mật?”
Đức
Phật nói: “Vì tác giả bất khả đắc vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Vô tri Ba la mật là
Bát nhã Ba la mật?”
Đức
Phật nói: “Vì tri giả bất khả đắc vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bất đáo Ba la mật là
Bát nhã Ba la mật?”
Đức
Phật nói: “Vì sanh tử bất khả đắc vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bất thất Ba la mật
là Bát nhã Ba la mật?”
Đức
Phật nói: “Vì tất cả pháp chẳng mất vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Mộng Ba la mật là
Bát nhã Ba la mật?”
Đức
Phật nói: “Vì nhẫn đến những sự thấy trong mộng đều bất khả đắc vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Hưởng Ba la mật là
Bát nhã Ba la mật?”
Đức
Phật nói: “Vì người nghe tiếng bất khả đắc vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Ảnh Ba la mật là Bát
nhã Ba la mật?”
Đức
Phật nói: “Vì bóng mặt trong gương
bất khả đắc vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Dương diệm Ba la mật
là Bát nhã Ba la mật?”
Đức
Phật nói: “Vì dòng nước bất khả đắc vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Ảo Ba la mật là Bát
nhã Ba la mật?”
Đức
Phật nói: “Vì sự ảo thuật bất khả đắc vậy”. ( nói về trò ảo thuật)
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bất cấu Ba la mật là
Bát nhã Ba la mật?”
Đức
Phật nói: “Vì các phiền não bất khả đắc vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Vô tịnh Ba la mật là
Bát nhã Ba la mật?”
Đức
Phật nói: “Vì các phiền não hư dối vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bất ô Ba la mật là
Bát nhã Ba la mật?”
Đức
Phật nói: “Vì xứ sở bất khả đắc vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bất hí luận Ba la mật
là Bát nhã Ba la mật?”
Đức
Phật nói: “Vì tất cả hí luận phá hoại vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bất niệm Ba la mật
là Bát nhã Ba la mật?”
Đức
Phật nói: “Vì tất cả niệm phá hoại vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bất động Ba la mật
là Bát nhã Ba la mật?”
Đức
Phật nói: “Vì pháp tánh thường trụ vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Vô nhiễm Ba la mật
là Bát nhã Ba la mật?”
Đức
Phật nói: “Vì biết tất cả pháp vọng giải vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bất khởi Ba la mật
là Bát nhã Ba la mật?”
Đức
Phật nói: “Vì tất cả pháp vô phân biệt vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Tịch diệt Ba la mật
là Bát nhã Ba la mật?”
Đức
Phật nói: “Vì tất cả pháp tướng bất khả đắc vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Vô dục Ba la mật là
Bát nhã Ba la mật?”
Đức
Phật nói: “Vì dục bất khả đắc vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Vô sân Ba la mật là
Bát nhã Ba la mật?”
Đức
Phật nói: “Vì sân khuể bất khả đắc vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Vô si Ba la mật là
Bát nhã Ba la mật?”
Đức
Phật nói: “Vì vô minh hắc ám dứt diệt vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Vô phiền não Ba la
mật là Bát nhã Ba la mật?”
Đức
Phật nói: “Vì phân biệt ức tưởng hư vọng vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Vô chúng sanh Ba la
mật là Bát nhã Ba la mật?”
Đức
Phật nói: “Vì chúng sanh vô sở hữu vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Vô đoạn Ba la mật là
Bát nhã Ba la mật?”
Đức
Phật nói: “Vì các pháp chẳng sanh khởi vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Vô nhị biên Ba la mật là Bát nhã Ba la mật?”
Đức
Phật nói: “Vì không nhị biên vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bất phá Ba la mật là
Bát nhã Ba la mật?”
Đức
Phật nói: “Vì tất cả pháp chẳng rời lìa nhau vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bất thủ Ba la mật là
Bát nhã Ba la mật?”
Đức
Phật nói: “Vì vượt hơn bực Thanh văn, Bích Chi Phật vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bất phân biệt Ba la
mật là Bát nhã Ba la mật?”
Đức
Phật nói: “Vì các vọng tưởng bất khả đắc vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Vô lượng Ba la mật
là Bát nhã Ba la mật?”
Đức
Phật nói: “Vì các pháp hạn lượng bất khả đắc vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Hư không Ba la mật
là Bát nhã Ba la mật?”
Đức
Phật nói: “Vì tất cả pháp vô sở hữu vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Vô thường Ba la mật
là Bát nhã Ba la mật?”
Đức
Phật nói: “Vì tất cả pháp bất khả đắc vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Vô tướng Ba la mật
là Bát nhã Ba la mật?”
Đức
Phật nói: “Vì tất cả pháp chẳng sanh vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Nội không Ba la mật
là Bát nhã Ba la mật?”
Đức
Phật nói: “Vì nội pháp bất khả đắc vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Ngoại không Ba la
mật là Bát nhã Ba la mật?”
Đức
Phật nói: “Vì ngoại pháp bất khả đắc vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Nội ngoại không Ba
la mật là Bát nhã Ba la mật?”
Đức
Phật nói: “Vì nội ngoại pháp bất khả đắc vậy".
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Không không Ba la
mật là Bát nhã Ba la mật?"
Đức
Phật nói: “Vì pháp không không bất khả đắc vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Đại không Ba la mật
là Bát nhã Ba la mật?”
Đức
Phật nói: “Vì tất cả pháp bất khả đắc vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Đệ nhứt nghĩa không
Ba la mật là Bát nhã Ba la mật?”
Đức
Phật nói: “Vì Niết Bàn bất khả đắc vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Hữu vi không Ba la
mật là Bát nhã Ba la mật?”
Đức
Phật nói: “Vì pháp hữu vi bất khả đắc vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Vô vi không Ba la
mật là Bát nhã Ba la mật?”
Đức
Phật nói: “vì pháp vô vi bất khả đắc vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Tất cánh không Ba la
mật là Bát nhã Ba la mật?”
Đức
Phật nói: “Vì các pháp rốt ráo bất khả đắc vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Vô thỉ không Ba la
mật là Bát nhã Ba la mật?”
Đức
Phật nói: “Vì các pháp vô thỉ bất khả đắc vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Tán không Ba la mật
là Bát nhã Ba la mật?”
Đức
Phật nói: “Vì tán pháp bất khả đắc vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Tánh không Ba la mật
là Bát nhã Ba la mật?”
Đức
Phật nói: “Vì hữu vi vô vi tánh bất khả đắc vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Chư pháp không Ba la
mật là Bát nhã Ba la mật?”
Đức
Phật nói: “Vì tất cả pháp bất khả đắc vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Vô sở đắc không Ba
la mật là Bát nhã Ba la mật?”
Đức
Phật nói: “Vì vô sở hữu vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Tự tướng không Ba la
mật là Bát nhã Ba la mật?”
Đức
Phật nói: “Vì vô pháp bất khả đắc vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “hữu pháp không Ba la
mật là Bát nhã Ba la mật?”
Đức
Phật nói: “Vì hữu pháp bất khả đắc vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Vô pháp hữu pháp
không là Bát nhã Ba la mật?”
Đức
Phật nói: “Vì vô pháp và hữu pháp đều bất khả đắc vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Niệm xứ Ba la mật là
Bát nhã Ba la mật?”
Đức
Phật nói: “Vì thân, thọ, tâm và pháp bất khả đắc vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Chánh cần Ba la mật
là Bát nhã Ba la mật?”
Đức
Phật nói: “Vì pháp thiện và pháp bất thiện bất khả đắc vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Như ý túc Ba la mật
là Bát nhã Ba la mật?”
Đức
Phật nói: “Vì bốn như ý túc bất khả đắc vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Căn Ba la mật là Bát
nhã Ba la mật?”
Đức
Phật nói: “Vì ngũ căn bất khả đắc vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Lực Ba la mật là Bát
nhã Ba la mật?”
Đức
Phật nói: “Vì ngũ lực bất khả đắc vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Giác Ba la mật là
Bát nhã Ba la mật?”
Đức
Phật nói: “Vì thất giác phần bất khả đắc vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Đạo Ba la mật là Bát
nhã Ba la mật?”
Đức
Phật nói: “Vì bát Thánh đạo phần bất khả đắc vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Vô tác Ba la mật là
Bát nhã Ba la mật?”
Đức
Phật nói: “Vì vô tác bất khả đắc vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Không Ba la mật là
Bát nhã Ba la mật?”
Đức
Phật nói: “Vì không tướng bất khả đắc vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Vô tướng Ba la mật
là Bát nhã Ba la mật?”
Đức
Phật nói: “Vì tướng tịch diệt bất khả đắc vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bội xả Ba la mật là
Bát nhã Ba la mật?”
Đức
Phật nói: “Vì bất bội xả bất khả đắc vậy”
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Định Ba la mật là
Bát nhã Ba la mật?”
Đức
Phật nói: “Vì cửu thứ đệ định bất khả đắc vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Đàn na Ba la mật là
Bát nhã Ba la mật?”
Đức
Phật nói: “Vì xan tham bất khả đắc vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Thi la Ba la mật là
Bát nhã Ba la mật?”
Đức
Phật nói: “Vì phá giới bất khả đắc vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Sằn đề Ba la mật là
Bát nhã Ba la mật?”
Đức
Phật nói: “Vì nhẫn và chẳng nhẫn đều bất khả đắc vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Tỳ lê gia Ba la mật
là Bát nhã Ba la mật?”
Đức
Phật nói: “Vì giải đãi và tinh tấn đều bất khả đắc vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Thiền na Ba la mật
là Bát nhã Ba la mật?”
Đức
Phật nói: “Vì định và loạn đều Ba la mật là Bát nhã Ba la mật.”
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Bát nhã Ba la mật là
Bát nhã Ba la mật?”
Đức
Phật nói: “Vì ngu si và trí huệ đều bất khả đắc vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Thập lực Ba la mật
là Bát nhã Ba la mật?”
Đức
Phật nói: “Vì tất cả pháp chẳng thể khuất phục vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Tứ vô sở úy Ba la
mật là Bát nhã Ba la mật?”
Đức
Phật nói: “Vì đạo chủng trí chẳng mất vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Vô ngại trí Ba la
mật là Bát nhã Ba la mật?”
Đức
Phật nói: “Vì tất cả pháp không chướng, không ngại vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Phật pháp Ba la mật
là Bát nhã Ba la mật?”
Đức
Phật nói: “Vì vượt hơn tất cả pháp vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Như thật thuyết Ba
la mật là Bát nhã Ba la mật?”
Đức
Phật nói: “Vì tất cả lời nói đều như thật vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Tự nhiên Ba la mật
là Bát nhã Ba la mật?”
Đức
Phật nói: “Vì tự tại trong tất cả pháp vậy”.
Ngài
Tu Bồ Đề thưa: “Phật Ba la mật là
Bát nhã Ba la mật?”
Đức
Phật nói: “Vì biết Nhất thiết chủng trí vậy”.
Vì các Ba la mật này quan trọng đối
với người tu hành nên chúng tôi ghi ra đây tuy có dài dòng, nhưng rất cần
thiết. Có hàng trăm Ba la mật như thế đều nhiếp thu vào Bát Nhã, nếu biết khắp
như thế thì có thể sang được bờ kia. Có lẽ chúng ta phải “học thuộc lòng và
phải thực hành thông suốt” các Ba la mật này. Ngày nào thành đạo chính các Ba
la mật này sẽ là máu mủ, xương tủy của chính ông thì không cần phải học nữa.
Bát nhã Ba la mật sẽ tự nẩy sanh diệu dụng, trong mỗi lời nói, mỗi cử chỉ, mỗi
thái độ hay hành động của các ông.
Chúng ta đã lược nói hai thành phần
riêng rẽ của Bát nhã Ba la mật: 1. Bát Nhã và 2. Ba la mật. Mục tiêu của Luận
#5 này là thảo luận “Thế nào là Bát nhã Ba la mật?”. Bây giờ, nhập 2 thành phần
này lại với nhau, để trả lời câu hỏi đó:
3/. Sao
gọi là Bát nhã Ba la mật?
1). Ghép hai vế Bát Nhã và Ba la mật với nhau để có cụm từ Bát
nhã Ba la mật thì ý nghĩa của nó ra sao? Phẩm “Quán Hạnh”, quyển 71, Hội thứ I,
ĐBN. Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện:
-
“Sao gọi là Bát nhã Ba la mật?
Thiện
Hiện trả lời:
-
Có trí tuệ thắng diệu thì biết chỗ cần
phải xa lìa, nên gọi là Bát nhã Ba la mật.
Xá
lợi Tử hỏi:
-
Trí này đối với pháp nào mà được vĩnh viễn xa lìa?
Thiện
Hiện đáp:
-
Trí này đối với tất cả phiền não, kiến, thú được vĩnh viễn xa lìa; trí này đối
với sáu cõi, bốn loài được vĩnh viễn xa lìa; trí này đối với tất cả uẩn, xứ,
giới v.v… được vĩnh viễn xa lìa, nên gọi là Bát nhã Ba la mật”.
Đây là lời giải thích trực tiếp giản
dị và thực tế nhất tuy không đầy đủ, nhưng có thể cho chúng ta hiểu cái thực
dụng của Bát nhã Ba la mật mà áp dụng vào việc tu tập, học và hành. Có trí
thắng diệu tức có Bát Nhã Trí thì có thể xa lìa. Xa lìa cái gì? Xa lìa phiền
não, kiến, thú; xa lìa ác đạo; xa lìa 4 loài thấp sanh, noãn sanh, thai sanh
hay hóa sanh; cũng xa lìa luôn các lôi cuốn của ngũ dục lục trần... Nếu có thể
xa lìa được như vậy gọi là giải thoát. Giải thoát đi đâu? Giải thoát có nghĩa
lìa trói lìa buộc của các hệ lụy nói trên.
Cũng cùng
đoạn Kinh trên, Cụ thọ bảo tiếp:
“Lại
nữa, Xá lợi Tử! Có trí tuệ thắng diệu thì biết
chỗ đạt đến, nên gọi là Bát nhã Ba la mật.
Xá
lợi Tử lại hỏi:
-
Trí này đối với pháp nào được vĩnh viễn đạt đến?
Thiện
Hiện đáp:
-
Trí này đối với thật tánh của sắc được vĩnh viễn đạt đến; đối với
thật tánh của thọ, tưởng, hành, thức được vĩnh viễn đạt đến, nên gọi là Bát nhã
Ba la mật. Trí này đối với thật tánh của mười hai xứ, mười tám giới được vĩnh viễn đạt đến. Trí này đối
với tứ Thánh đế, mười hai nhân duyên, mười tám pháp không v.v… được vĩnh viễn
đạt đến. Hay nói rộng, Trí này đối với
thật tánh của tất cả pháp Phật được vĩnh viễn đạt đến. Như vậy, nên gọi là Bát
nhã Ba la mật”.
Trí Bát Nhã này có thể vĩnh viễn đạt
đến thật tánh của tất cả pháp tức hiểu được chơn như thật tánh của tất cả pháp,
thì Giác ngộ hay giải thoát.
Vậy, xa
lìa vĩnh viễn các tập khí phiền não tương tục, đồng thời vĩnh viễn biết được
chơn như thật tánh của tất cả pháp thì được gọi là Giác ngộ hay đắc Bát Nhã Trí.
Thật là một đoạn Kinh quá ngắn,
nhưng cụ thể cho những ai tìm sở ngộ, cho những ai hành trì Bát nhã Ba la mật
theo các chỉ dẫn giản dị và thiết thực như trên. Đó chỉ là lối diễn tả thông
thường để trả lời câu hỏi “Sao gọi là Bát nhã Ba la mật”. Nhưng câu trả lời đó
chỉ là một khía cạnh nhỏ, cục bộ.
2). Phẩm “Tham Hành”,
quyển 562, Hội thứ V, Phật bảo: “... Nghĩa xứ tương ưng với Bát Nhã
sâu thẳm, đó là không, vô tướng, vô nguyện, vô tác, vô sanh, vô diệt, chẳng
phải có, tịch tĩnh, lìa nhiễm, Niết bàn, là pháp nghĩa hiển hiện”.
Đoạn kinh này không giải thích tính
cách thực dụng của Bát nhã Ba la mật mà chỉ nói pháp nghĩa hiển hiện của nó.
Chúng ta không thể đào xới pháp nghĩa này để hiểu thế nào gọi là Bát nhã Ba la
mật với đoạn kinh trên. Phật thường nói Bát nhã Ba la mật sâu xa vượt trên danh
ngôn thế tục, không thể thư tả hay giảng nói, chỉ tùy theo sự hiểu biết của thế
tục mà nói. Nên mới có các đoạn Kinh thậm thâm sau đây:
4/. Sao gọi là Bát Nhã thậm thâm?
Phần “Bát
Nhã Ba La Mật”, quyển 593, Hội thứ XVI, ĐBN. Phật bảo Bồ tát Thiện Dũng Mãnh:
“...
Sao gọi là Bát nhã Ba la mật? Các
ngươi nên biết! Thật chẳng có chút pháp nào có thể gọi là Bát nhã Ba la mật.
Bát nhã Ba la mật sâu xa vượt qua tất cả con đường danh ngôn. Vì sao? Thiện
Dũng Mãnh! Vì Bát nhã Ba la mật sâu xa thật không thể nói đây là Bát nhã Ba la
mật, cũng không thể nói Bát nhã Ba la mật thuộc kia, không thể nói Bát nhã Ba
la mật do kia, cũng không thể nói Bát nhã Ba la mật từ kia. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh! Vì trí tuệ có thể thấu đạt thật tánh các
pháp, nên gọi là Bát nhã Ba la mật. Trí tuệ của Như Lai còn không thể đắc,
huống chi đắc Bát nhã Ba la mật.
Thiện Dũng Mãnh! Bát Nhã ấy nghĩa là
hiểu các pháp và biết các pháp nên gọi là Bát Nhã.
Thiện
Dũng Mãnh! Bát Nhã hiểu các pháp ra sao?
Nghĩa
là các pháp khác nhau, nên danh ngôn cũng khác nhau, nhưng tất cả pháp không
lìa danh ngôn. Nếu hiểu các pháp hoặc biết các pháp đều bất khả thuyết, nhưng
theo sự hiểu biết của hữu tình mà nói, nên gọi là Bát Nhã.
Thiện
Dũng Mãnh! Bát Nhã ấy nghĩa là giả thi
thiết. Do giả thi thiết nên gọi là Bát Nhã. Nhưng tất cả pháp chẳng thể
thiết lập, không thể động chuyển, không thể giảng nói, không thể trình bày,
biết như vậy gọi là như thật biết.
Thiện
Dũng Mãnh! Bát Nhã đó không phải là biết, không phải không biết, không phải
đây, không phải kia, nên gọi là Bát Nhã.
Này
Thiện Dũng Mãnh! Bát Nhã ấy là sở hành của trí, sở hành phi trí, chẳng phải
cảnh trí cùng cảnh phi trí, vì trí xa lìa tất cả cảnh.
Nếu
trí là cảnh tức là phi trí, không từ phi trí mà được có trí.
Cũng
không từ trí mà có phi trí, không từ phi trí mà có phi trí.
Cũng
không từ trí mà được có trí, không do phi trí mà gọi là trí.
Cũng
không do trí mà gọi là phi trí, không do phi trí mà gọi là phi trí.
Cũng
không do trí mà gọi là trí, tức phi trí gọi là trí. Do đây tức trí gọi là phi
trí. Trong đây, trí không thể hiển thị nên gọi là trí, không thể hiển thị thuộc
về trí này, không thể hiển thị nguyên do của trí này, không thể hiển thị từ trí
này, nên trong trí không có thật tánh trí, cũng không có thật trí trụ trong
tánh trí.
Trí
và tánh trí đều bất khả đắc, phi trí cùng tánh cũng lại như vậy, chắc chắn
không do phi trí gọi là trí.
Nếu
do phi trí gọi là trí thì tất cả phàm phu đều có trí.
Nếu
có như thật đối với trí, phi trí đều không thể đắc (若nhược
有hữu
如như
實thật
於ư
智trí
非phi
智trí
俱câu 無vô 所sở 得đắc). Đối với trí, phi trí như thật biết khắp, đây gọi là trí. Nhưng thật tánh trí chẳng phải như đã nói.
Vì sao? Vì thật tánh trí lìa ngôn ngữ. Trí chẳng phải cảnh của trí, chẳng phải
cảnh phi trí. Vì trí vượt khỏi tất cả cảnh, không thể nói đây là cảnh của trí
hay phi trí.
Thiện
Dũng Mãnh! Đây gọi là như thật giảng nói tướng trí. Như vậy, tướng trí thật
không thể nói, không thể hiển bày, nhưng theo sự hiểu biết của hữu tình mà trình
bày. Kẻ trí cũng bất khả thuyết. Cảnh trí còn không có huống có kẻ trí. Nếu có
thể như thật biết, như thật tùy ngộ thì
gọi là Bát Nhã.
Này
Thiện Dũng Mãnh! Nếu có thể hiện quán tác chứng được như thế, thì gọi là Bát
Nhã xuất thế. Bát Nhã xuất thế đã nói như vậy cũng bất khả thuyết. Vì sao? Vì
thế gian còn không có huống là có xuất thế gian. Sự xuất còn không có huống chi
là người xuất. Do đây, Bát Nhã xuất thế cũng không có. Vì sao? Vì hoàn toàn
không đắc thế gian, xuất thế gian, người xuất và sự xuất, nên gọi là Bát Nhã
xuất thế. Nếu có sở đắc thì không gọi là Bát Nhã xuất thế. Tánh của Bát Nhã này
cũng bất khả đắc, vì xa lìa tánh khả đắc của hữu và vô.
Này
Thiện Dũng Mãnh! Thế gian gọi là giả lập,
không thể dựa vào thế gian giả lập mà thật có xuất thế. Nhưng vì ra khỏi các sự
giả lập nên gọi xuất thế. Xuất thế đối với thế gian chẳng thật có xuất hay
không xuất. Vì sao? Vì trong này hoàn toàn không có pháp xuất hay có thể xuất,
nên gọi xuất thế. Xuất thế ấy không có
thế gian và xuất thế gian. Không xuất không phải không xuất nên gọi xuất
thế. Nếu như thật biết rõ như vậy gọi là Bát Nhã xuất thế. Như vậy, Bát Nhã
chẳng phải như đã nói.
Vì
sao? Vì Bát Nhã xuất thế vượt khỏi ngôn
ngữ, tuy gọi xuất thế mà không có sự xuất, tuy gọi Bát Nhã mà không có sự biết.
Sự xuất, sự biết bất khả đắc hay xuất hay biết cũng bất khả đắc. Như thật biết
như vậy gọi là Bát Nhã xuất thế. Do đây nên Bát Nhã vuợt qua tất cả. Thế nên
gọi là Bát Nhã xuất thế”.
Thế ra là vậy! Bát nhã Ba la mật
vượt qua danh ngôn thế tục, không thể nói đây là Bát Nhã, cũng không thể nói
thuộc kia; cũng không thể nói do đây hay từ đây, do kia hay từ kia mà có Bát
nhã Ba la mật. Trí tuệ có thể hiểu và biết các pháp thì gọi là Bát nhã Ba la
mật. Vì sao? Vì do tu luyện tất cả các thiện pháp, các pháp mầu Phật đạo nhất
là lục độ vạn hạnh đến một lúc nào đó chín mùi nứt vỡ, Nhất thiết trí trí, vô
trước trí, tự nhiên trí, vô đẳng đẳng trí, vô thượng trí, hậu đắc trí, vô tận
trí, vô sư trí... tự nhiên xuất hiện. Trí
này cho phép hiểu
và biết thật tánh của tất cả các pháp. Nhưng
các pháp khác nhau, nên danh ngôn cũng khác, nhưng tùy theo sự hiểu biết của
hữu tình mà nói, nên gọi là Bát nhã Ba la mật.
Vậy, Bát nhã Ba la mật cũng chỉ là giả thiết. Do giả thiết nên gọi là
Bát Nhã, cái gì không thể nói thẳng, chỉ thẳng thì phải giả thi thiết. Nhưng
tất cả pháp chẳng thể thiết lập, không thể giảng nói, không thể trình bày, biết
như vậy gọi là như thật biết.
Tiếp theo đó là một tràng thuyết
giảng về thực chứng về trí này để nói lên chỗ tùy ngộ của chư Phật. Tùy ngộ có nghĩa đối với trí, phi trí như
thật biết khắp, đây gọi là trí. Ở đây không phải lý luận mà ở đây nói lên
sở ngộ, chỗ ngộ, chỗ chứng biết khắp. Đó là chỗ thâm sâu siêu xuất, không thể
dùng ngôn ngữ thế gian diễn nói được. Vì ngôn ngữ bị giới hạn, không thể diễn
nói trí này, nên phải nói vòng vòng, phải nói vòng quanh. Trí Bát Nhã chỉ có
người đã ngộ nhập, thông đạt hay tự chứng mới có thể thi thiết diễn nói, còn
phàm phu không thể nghĩ bàn, không thể suy lường, bất khả tư nghị…Đó là những
từ dùng để diễn nói cái không thể diễn nói về Phật trí. Trí này không thể nắm
giữ cũng không phải không thể nắm giữ, không sanh diệt tạo tác, cũng không phải
là hư vô, cũng không thường hằng, xấu tốt, đây kia… không có gì so sánh, đẳng
đẳng không tướng mạo. Đó gọi là bất khả tư nghị. Cái thấy biết như thế, Kinh
nói là chánh trí, hay gọi là bất tư nghị trí. Có như thế Kinh mới
bảo Trí Bát Nhã là thậm thâm!
Bát Nhã là
không, bổn tánh là không thể tức là
không vật. Nếu không vật là không nơi chốn, không nơi nương gá, không chỗ
an trụ. Không nương tựa, không an trụ tức là không chỗ đình trú. Như vậy, trí
năng thường tục làm sao có thể nói năng luận bàn. Nói như vậy nhưng không phải vậy. Mặc dù
không thể nói năng luận bàn, nhưng nhờ thi thiết mà chúng ta hiểu cái gì Phật
muốn nói. Chúng ta tạm thời có thể trả lời câu hỏi thế nào là Bát nhã Ba la mật
là: “Trí tuệ có thể thấu đạt thật tánh các pháp, nên gọi là Bát nhã Ba la
mật”.
Sau khi biết
Bát nhã Ba la mật là như thế rồi, câu hỏi kế tiếp là làm thế nào bắt đúng Bát
Nhã?
2- Phải
nắm bắt Bát Nhã như thế nào?
Buông bỏ nắm
bắt là đặc tánh cố hữu của người thế gian. Thói đời là vậy, nên mất mát đau khổ
là “chuyện thường”. Nhưng tu hành mà nói đến nắm bắt buông bỏ là chuyện khó
nghe. Nhưng Kinh có nói đến, có đề cập, nên chúng ta “phụ hợ” nói theo.
Cả ba Kinh:
1. Kinh “Văn Thù Sở Thuyết Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật” do Ngài Mạn Đà La Tìên
dịch, 2. Kinh “Mạn Thù Thất Lợi Sở Thuyết Bát Nhã Ba La Mật” do Ngài
Tăng Già Ba la dịch hay 3. Phần “Mạn Thù Thất Lợi”, Hội thứ VII, ĐBN” do Ngài
Huyền Trang dịch. Cả ba Kinh này đều thuyết, muốn thể nhập Bát Nhã thì:
“… không bỏ pháp phàm phu nhưng cũng không
nắm bắt pháp Thánh hiền. Vì sao? Vì
trụ Bát nhã Ba la mật không thấy pháp nào có thể nắm được hay buông bỏ. Tu Bát
nhã Ba la mật cũng không thấy Niết Bàn đáng ưa thích, sanh tử nên nhàm chán. Vì
sao? Vì đã không thấy có sanh tử thì tại sao lại nhàm chán được. Đã không thấy
có Niết Bàn làm sao còn thích ưa nữa. Nếu
tu Bát nhã Ba la mật như thế sẽ không thấy phiền não nhơ nhớp đáng bỏ, công đức
thanh tịnh nên cầu, đối với tất cả pháp tâm không lay động, đeo đuổi hay trốn
chạy. Tại sao? Vì không thấy pháp giới có tăng hay giảm, thuận hay nghịch.
Nếu được như vậy mới gọi là tu Bát nhã Ba la mật.
“Không thấy pháp có sanh có diệt là tu Bát nhã Ba la
mật. Không thấy các pháp có tăng có giảm tâm không mong cầu; không thấy pháp
tướng nên tầm cầu, không thấy tốt đẹp hay xấu xa, không cho là cao thượng hay
hạ tiện, không nắm giữ không buông bỏ. Tại sao? Pháp không có tốt đẹp hay xấu xa vì lìa hết các tướng. Pháp không có
cao thượng hoặc hạ tiện vì đồng đẳng với pháp tánh. Pháp không nên nắm giữ hay
buông bỏ vì trụ thật tế. Đó là tu Bát nhã Ba la mật”.
“… Khi tu
Bát nhã Ba la mật không thấy pháp nào nên trụ, cũng không thấy cảnh giới nào
nên nắm giữ hay buông bỏ. Tại sao? Vì các đức Như Lai không thấy tướng trạng
cảnh giới chư Phật thì làm gì lại nắm giữ cảnh giới Thanh văn, Độc giác, phàm
phu. Không ghi giữ tướng nghĩ lường, cũng không giữ tướng không thể nghĩ lường
được, tự chứng pháp không ngoài lãnh vực trí thức không thấy các
pháp có chừng ấy tướng trạng. Hàng đại Bồ tát tu tập được như vậy là đã từng
cúng dường vô lượng trăm ngàn muôn ức các đức Phật, vun trồng các căn lành nên
mới đủ khả năng lãnh hội pháp Bát nhã Ba la mật thậm thâm mà không sanh tâm sợ
hãi”.
Đoạn Kinh
này rất thực tế, quá hay! Phật nói pháp không đẹp xấu, cao thượng hay hạ tiện,
mình lại nói là quá hay. Đó là thói quen, tập khí của phàm phu tục tử. Cái thấy
biết bằng cảm quan và thức vọng lúc nào cũng giăng trước mắt tai mũi lưỡi nên
dễ nắm bắt hay buông bỏ, nhàm chán hay ưa thích. Nếu thấy ưa thích thì ôm lấy,
nếu thấy nhàm chán thì buông bỏ. Đó là thói đời! Còn nắm bắt hay buông bỏ, còn
nhàm chán hay ưa thích, là còn đam mê chấp ngã, không thể hiểu thật tướng các
pháp, không thể liễu đạo. Vậy, những thảo luận tiếp theo sẽ cho chúng ta cách
tiếp thu mới trong việc học hỏi cũng như thông đạt Bát Nhã.
Bát Nhã cái gì cũng không, không
tên, không tướng, không bờ, không bến, không chỗ về nương, chẳng phải cảnh nghĩ
lường, không tội, không phước, không uế, không tịnh...! Bát Nhã(trí) vượt trên
danh ngôn thế tục, vượt trên hữu và vô, vượt trên tất cả như hư không và chơn
pháp giới, tất cả đều bất khả đắc. Vậy, rốt ráo phải nắm bắt Bát Nhã như thế
nào đây?
Không ai có thể khoanh vùng hay khu
định nổi phạm trù của Bát Nhã. Phạm trù này không biên giới, như hư không(5),
không thể xác định một cách cụ thể bằng cân lường, đối chiếu, so sánh hay kiểm
chứng bằng ống nghiệm để có thể chỉ rõ được, cái gọi là bất khả đắc, bất khả tư
nghì. Nên khó có thể nắm bắt Bát Nhã một cách cụ thể. Chỗ tự hội là mảnh đất
phì nhiêu chỉ dành cho những ai đã dày công đào xới, mới có thể gặt hái những
bông hoa tươi đẹp trên đó.
- Phẩm “So Lường Công
Đức”, quyển 127, Hội thứ I, ĐBN sau đây hy vọng đáp ứng phần nào chăng?
“Xá
Lợi Tử bảo với trời Đế Thích:
-
Này Kiều Thi Ca! Bát nhã Ba la mật như thế đã chẳng khá nắm lấy, vì vô sắc, vô kiến, vô đối, nhất tướng, chỗ gọi
vô tướng; làm sao ngươi nắm lấy được! Vì sao? Vì Bát nhã Ba la mật như thế vô
thủ vô xả, vô tăng vô giảm, vô trụ vô tán, vô ích vô tổn, vô nhiễm vô tịnh. Bát nhã Ba la mật như thế chẳng cùng pháp
chư Phật; chẳng cùng pháp Bồ tát; chẳng cùng pháp Độc giác; chẳng cùng pháp
Thanh văn, chẳng bỏ pháp phàm phu;
chẳng cùng cảnh giới vô vi, chẳng bỏ cảnh
giới hữu vi. Bát nhã Ba la mật như thế chẳng cùng bố thí Ba la mật, chẳng
cùng tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật. Bát nhã Ba la
mật như thế chẳng cùng pháp không nội, chẳng cùng pháp không ngoại, pháp không
nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không
hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp
không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự
tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm
bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự
tánh. Bát nhã Ba la mật như thế chẳng cùng chơn như, chẳng cùng pháp giới, pháp
tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, bình đẳng tánh, ly sanh tánh,
định pháp, trụ pháp, thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới. Bát nhã Ba la
mật như thế chẳng cùng Thánh đế khổ, chẳng cùng Thánh đế tập, diệt, đạo. Bát
nhã Ba la mật như thế chẳng cùng bốn tịnh lự, chẳng cùng bốn vô lượng, bốn định
vô sắc. Bát nhã Ba la mật như thế chẳng cùng tám giải thoát, chẳng cùng tám
thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ. Bát nhã Ba la mật như thế chẳng cùng
bốn niệm trụ, chẳng cùng bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy
chi đẳng giác, tám chi Thánh đạo. Bát nhã Ba la mật như thế chẳng cùng pháp môn
giải thoát không, chẳng cùng pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện. Bát Nhã
Ba mật như thế chẳng cùng năm loại mắt, chẳng cùng sáu phép thần thông. Bát nhã
Ba la mật như thế chẳng cùng Phật mười lực, chẳng cùng bốn điều không sợ, bốn
sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất
cộng. Bát nhã Ba la mật như thế chẳng cùng pháp không quên mất, chẳng cùng tánh
luôn luôn xả. Bát nhã Ba la mật như thế chẳng cùng Nhất thiết trí, chẳng cùng
Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Bát nhã Ba la mật như thế chẳng cùng tất
cả pháp môn Đà la ni, chẳng cùng tất cả pháp môn Tam ma địa. Bát nhã Ba la mật
như thế chẳng cùng Dự lưu quả, chẳng cùng Nhất lai, Bất hoàn, A la hán quả. Bát
nhã Ba la mật như thế chẳng cùng quả vị Độc giác. Bát nhã Ba la mật như thế
chẳng cùng Bồ tát hạnh. Bát nhã Ba la mật như thế chẳng cùng quả vị Giác ngộ
tối cao.
Lúc
bấy giờ, trời Đế Thích đáp lại Xá Lợi Tử:
-
Bạch Đại đức! Đúng vậy! Đúng như lời Ngài nói. Bạch Đại đức! Bát nhã Ba la mật như thế thật chẳng khá
nắm, vì vô sắc, vô kiến, vô đối, nhất tướng, chỗ gọi vô tướng. Bạch Đại
đức! Bát nhã Ba la mật như thế vô thủ vô xả, vô tăng vô giảm, vô tụ vô tán, vô
ích vô tổn, vô nhiễm vô tịnh. Bạch Đại đức! Bát nhã Ba la mật như thế, chẳng cùng pháp chư Phật, chẳng bỏ pháp phàm phu; chẳng cùng pháp
Bồ tát, chẳng bỏ pháp phàm phu; chẳng cùng pháp Độc giác, chẳng bỏ pháp phàm
phu; chẳng cùng pháp Thanh văn, chẳng bỏ pháp phàm phu; chẳng cùng cảnh giới vô
vi, chẳng bỏ cảnh giới hữu vi. Bạch Đại đức! Bát nhã Ba la mật như thế chẳng
cùng sáu pháp Ba la mật. Bạch Đại đức! Bát nhã Ba la mật như thế chẳng cùng 18
pháp không. Bạch Đại đức! Bát nhã Ba la mật như thế chẳng cùng chơn như, chẳng
cùng pháp giới, pháp tánh... cho đến cảnh giới bất tư nghì. Bạch Đại đức! Bát
nhã Ba la mật như thế chẳng cùng bốn Thánh đế khổ. Bạch Đại đức! Bát nhã Ba la
mật như thế chẳng cùng bốn tịnh lự, chẳng cùng bốn vô lượng, bốn định vô sắc.
Bạch Đại đức! Bát nhã Ba la mật như thế chẳng cùng tám giải thoát, chẳng cùng
tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ... cho đến quả vị Giác ngộ tối cao.
Bạch
Đại đức! Nếu đối với Bát nhã Ba la mật
có khả năng biết như thế, thì nắm bắt đúng Bát nhã Ba la mật thậm thâm, cũng tu
hành đúng Bát nhã Ba la mật thậm thâm. Vì sao? Vì Bát nhã Ba la mật thậm
thâm chẳng theo hai bên, không có hai
tướng. Như vậy tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật cũng
chẳng theo hai bên, không có hai tướng.
Lúc
bấy giờ, Phật khen trời Đế Thích:
-
Hay thay! Như ông đã nói. Bát nhã Ba la mật thậm thâm chẳng theo hai bên. Vì
sao? Vì Bát nhã Ba la mật thậm thâm không có hai tướng. Như vậy, tịnh lự, tinh
tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật cũng chẳng theo hai bên. Vì sao? Vì
tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật ấy cũng không có hai
tướng.
Này
Kiều Thi Ca! Có những kẻ muốn khiến Bát
nhã Ba la mật thậm thâm có hai tướng, tức là muốn khiến chơn như cũng có hai
tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát nhã Ba la mật thậm thâm cùng với chơn như
không hai, không hai phần”.
Bát nhã Ba la mật là vô sắc, vô
kiến, vô đối,
vô thủ, vô xả, không tăng không giảm,
không tụ không tán, không ích không tổn, không nhiễm không tịnh v.v... Bát nhã
Ba la mật như thế chẳng cùng pháp chư Phật, chẳng bỏ pháp phàm phu, chẳng cùng
pháp vô vi, chẳng bỏ pháp hữu vi. Bát Nhã là rỗng không, trong suốt, chẳng có
gì được biểu lộ, chỉ rõ trong cái “vô chiêu” đó. Nên “chẳng
khá nắm lấy”. Nhưng biết Bát Nhã là
vô kiến vô đối vô thủ vô xả, biết Bát Nhã là chẳng cùng tất cả pháp Phật, chẳng
bỏ pháp phàm phu, chẳng cùng pháp vô vi, chẳng bỏ pháp hữu vi v.v... “Nếu đối với Bát nhã Ba la mật có khả năng
biết như thế, thì nắm bắt đúng Bát nhã Ba la mật thậm thâm, cũng tu hành đúng
Bát nhã Ba la mật thậm thâm”.
Vậy, Kinh xác định có thể nắm bắt
đúng và tu hành đúng Bát nhã Ba la mật với các điều kiện đã nói đó, có nghĩa là
phải biết Bát Nhã là vô kiến, vô đối cho đến không lấy pháp vô vi, không bỏ
pháp hữu vi. Và cuối cùng Phật lại bảo: Rốt
ráo Bát Nhã không theo hai bên, không có
hai tướng. Những kẻ muốn khiến Bát nhã Ba la mật thậm thâm có hai tướng,
tức là muốn khiến chơn như cũng có hai tướng. Vì Bát nhã Ba la mật thậm thâm
cùng với chơn như không hai, không hai phần.
- Phần
“Bát Nhã Ba La Mật”, quyển 594, Hội thứ XVI, ĐBN. Phật bảo:
“Này
Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ tát không thấy Bồ đề có xa có gần, thì biết những
vị ấy đã gần Vô thượng Bồ đề, cũng gọi là người chơn phát tâm Bồ đề. Ta nương nghĩa này mật ý nói rằng, nếu ai
có thể tự biết có tướng không hai thì họ biết như thật tất cả pháp Phật. Vì
sao? Vì họ có thể chứng biết ngã và hữu
tình đều không có tự tánh, tức có
thể biết khắp các pháp không hai. Do có thể biết khắp các pháp không hai,
nên nhất định thấu suốt được ngã và hữu tình, cùng tất cả pháp đều lấy vô tánh
làm tự tánh, lý không sai khác. Nếu biết khắp các pháp không hai, tức có thể
biết khắp tất cả pháp Phật. Hoặc có thể biết khắp ngã, tức biết khắp ba cõi.
Này
Thiện Dũng Mãnh! Nếu biết khắp ngã họ
liền đến được bờ kia của các pháp. Vì sao gọi là bờ kia của các pháp? Nghĩa là tất cả pháp thật tánh bình đẳng,
không đắc pháp này, cũng không chấp pháp này. Hoặc không đắc bờ kia, cũng không
chấp bờ kia, đó gọi là người biết khắp đến bờ kia. Tuy nói như vậy mà như
không nói”.
Bồ đề không có xa có gần. Như vậy có
nghĩa là Bồ đề nằm trong tầm tay nếu những ai tự biết tướng không hai? Phật
cũng nói xa nói gần tức là nói phân hai, nhưng Phật không phân biệt, không
chấp. Nên, tới đây Phật “bật mí” chỉ rõ: “... nếu
ai có thể tự biết có tướng không hai thì họ biết như thật tất cả pháp Phật”.
Pháp không hai hay pháp không hai
tướng là pháp bất nhị, pháp không đối đãi, không mâu thuẫn hay chống đối nhau.
Có chống đối, có mâu thuẫn mới sanh chướng. Pháp chướng đạo bắt nguồn từ ngã và
ngã sở của hữu tình. Vì vậy, Phật bảo tất cả pháp đều không sai khác, lấy vô
tánh làm tự tánh mà vô tánh là Không, Bản tánh không. Vô tánh cũng là tự tánh Bát Nhã cho đến vô tánh là tự tánh của pháp ở
bên trong, ở bên ngoài hay ở giữa hai(4), vô tánh cũng là tánh Phật. Biết như vậy liền đến bờ kia của các
pháp.
Vậy, trả lời câu hỏi “Làm sao nắm
bắt Bát nhã Ba la mật?” Phật bảo hiểu và biết tất cả pháp như thật thì gọi là
Bát nhã Ba la mật. Nhưng thế nào gọi là hiểu tất cả pháp như thật? Nghĩa là hiểu biết tất cả pháp bình đẳng không hai,
nhưng phải lìa ngã, ngã sở đồng thời chẳng thủ chẳng chấp pháp này hay nghĩ
tưởng đến bờ nọ bờ kia, mới có hy vọng nắm bắt đúng Bát nhã Ba la mật.
Nhưng thật sự tất cả những dẫn chứng
trên chỉ là câu trả lời có điều kiện cho câu hỏi làm sao nắm bắt đúng Bát Nhã
mặc dù Phật bảo rõ: Thấy các pháp không hai là thấy thật tướng hay chơn như
tất cả pháp. Thấy như vậy là có thể nắm bắt đúng Bát Nhã. Tuy nhiên phải lấy
tâm tương ưng Nhất thiết trí trí, lấy vô sở đắc làm phương tiện để tư duy quán
tưởng các pháp là bình đẳng. Đúng vậy! Vì nắm đúng Bát Nhã phải là sự phối hợp
của nhiều yếu tố, không có bất cứ yếu tố đơn côi nào có thể đem lại thành tựu
Bát Nhã để bất cứ ai cũng có thể nắm bắt được. Vì vậy, mới có đoạn Kinh kế
tiếp:
3- Muốn
nắm bắt đúng Bát Nhã thì phải tư duy quán tưởng như thế nào?
- Phẩm
“Thiên Đế”, quyển 77, Hội thứ I, ĐBN. Phật bảo:
“Kiều
Thi Ca! Ông hỏi cái gì là Bát nhã Ba la
mật của đại Bồ tát? Hãy lắng nghe! Ta sẽ vì ông mà nói. Kiều Thi Ca! Nếu
đại Bồ tát lấy tâm tương ưng Nhất thiết trí trí, dùng vô sở đắc làm phương tiện
tư duy sắc là vô thường, tư duy thọ,
tưởng, hành, thức là vô thường; tư duy sắc là khổ, tư duy thọ, tưởng, hành, thức là khổ; tư duy sắc là vô ngã, tư duy thọ, tưởng, hành, thức
là vô ngã; tư duy sắc là bất tịnh,
tư duy thọ, tưởng, hành, thức là bất tịnh; tư duy sắc là không, tư duy thọ, tưởng, hành, thức là không; tư duy sắc là vô tướng, tư duy thọ, tưởng, hành, thức
là vô tướng; tư duy sắc là vô nguyện,
tư duy thọ, tưởng, hành, thức là vô nguyện; tư duy sắc là tịch tịnh, tư duy thọ, tưởng, hành, thức là tịch tịnh; tư duy sắc
là viễn ly, tư duy thọ, tưởng, hành,
thức là viễn ly;”
Đó là những tư duy quán tưởng thanh tịnh đối với năm thủ uẩn.
- Cùng
đoạn Kinh trên Phật bảo:
“(phải)... tư duy sắc như bịnh, tư duy thọ, tưởng, hành, thức
như bịnh; tư duy sắc như ung thư, tư
duy thọ, tưởng, hành, thức như ung thư; tư duy sắc như tên đâm, tư duy thọ, tưởng, hành, thức như tên đâm; tư duy sắc
như mụt nhọt, tư duy thọ, tưởng,
hành, thức như mụt nhọt; tư duy sắc là nóng
bức, tư duy thọ, tưởng, hành, thức là nóng bức; tư duy sắc là bức ngặt, tư duy thọ, tưởng, hành, thức
là bức ngặt; tư duy sắc là bại hoại,
tư duy thọ, tưởng, hành, thức là bại hoại; tư duy sắc là suy hư, tư duy thọ, tưởng, hành, thức là suy hư; tư duy sắc là biến động, tư duy thọ, tưởng, hành,
thức là biến động; tư duy sắc là chóng
diệt, tư duy thọ, tưởng, hành, thức là chóng diệt; tư duy sắc là đáng sợ, tư duy thọ, tưởng, hành, thức
là đáng sợ; tư duy sắc là đáng nhàm,
tư duy thọ, tưởng, hành, thức là đáng nhàm; tư duy sắc là tai ương, tư duy thọ, tưởng, hành, thức là tai ương; tư duy sắc là tai họa, tư duy thọ, tưởng, hành, thức
là tai họa; tư duy sắc là ôn dịch,
tư duy thọ, tưởng, hành, thức là ôn dịch; tư duy sắc là phong hủi, tư duy thọ, tưởng, hành, thức là phong hủi; tư duy sắc
tánh của là chẳng an ổn, tư duy tánh
của thọ, tưởng, hành, thức là chẳng an ổn; tư duy sắc chẳng đáng tin cậy, tư duy thọ, tưởng, hành, thức chẳng đáng tin
cậy;”
Đó là những tư duy về cái đen tối về ngũ uẩn.
- Cũng
cùng đoạn Kinh trên, Phật bảo tiếp:
“(phải)... tư duy sắc là vô sanh vô diệt, tư duy thọ, tưởng,
hành, thức là vô sanh vô diệt; tư duy sắc là vô nhiễm vô tịnh, tư duy thọ, tưởng, hành, thức là vô nhiễm vô
tịnh; tư duy sắc là vô tác vô vi, tư
duy thọ, tưởng, hành, thức vô vi vô tác, thì Kiều Thi Ca, đó là Bát nhã Ba la
mật của đại Bồ tát.
Bồ tát lấy tâm tương ưng Nhất thiết
trí trí, dùng vô sở đắc làm phương tiện tư duy uẩn xứ giới và tất cả pháp Phật
cũng như trên”.
Phần cuối của đoạn Kinh này Phật bảo
là phải tư duy quán tưởng ngũ uẩn là vô sanh vô diệt, vô nhiễm vô tịnh, vô vi
vô tác... nghĩa là phải tư duy quán
tưởng vượt trên nhị nguyên đối đãi, phải tư duy quán tưởng như đệ nhất nghĩa
đế.
Tóm lại, điều kiện tiên quyết là
phải lấy tâm tương ưng với Nhất thiết trí trí, lấy vô sở đắc làm phương tiện để
tư duy quán tưởng ngũ uẩn là vô thường, khổ, vô ngã, là không, vô tướng, vô
nguyện, là tịch tịnh, viễn ly... Tất cả những tư duy quán tưởng về ngũ uẩn như
vậy có tánh cách thanh tịnh. Nhưng
tư duy như vậy vẫn còn thiếu sót, phải tư duy ngũ uẩn như bệnh hoạn, như ung
thư, như tên đâm, như bứt ngặt, như tai ương, đáng nhàm chán… Tất cả những tư
duy quán tưởng về ngũ uẩn như vậy có
tính cách đen tối. Cuối cùng Phật khuyên phải tư duy quán tưởng ngũ uẩn như
vô sanh vô diệt, vô nhiễm vô tịnh, vô vi vô tát. Điều này có nghĩa là phải tư duy, quán tưởng vượt trên tất cả.
Vậy, Phật dạy đừng nghĩ tốt, đừng nghĩ xấu mà nghĩ ngũ uẩn là vô nhiễm vô tịnh,
vô vi vô tác. Tư duy, quán tưởng tất cả pháp đều như thế thì sạch trong, sạch
ngoài mới thấy được chân như, Phật tánh hay mới thấy được chân diện mục. Khi
thấy chân diện mục, tức thấy tánh thì thành Phật tức Giác ngộ, đắc Bát Nhã Trí
thì có vô vàn công đức trí tuệ có thể tế độ chúng sanh. Đó là chẳng nắm mà
chính là nắm bắt. Còn mong cầu nắm bắt là còn sở đắc.
Đứng ở bờ tục đế, bị mây mù che
khuất nên không thấy bờ kia. Đứng bên bờ Thánh đế quên đi những khổ nhục, trốn
chạy cái đen tối của bờ bên này thì cũng không tốt. Chỉ khi nào vén được mây mù
thì càng khôn sáng tỏ!
- Cuối
cùng đoạn Kinh trên, Phật kết luận:
“Chỉ
có các pháp nương tựa nhau tăng trưởng, đầy dẫy khắp nơi, không có ngã, ngã sở; lại khởi quán thế này: Tâm hồi hướng của đại
Bồ tát chẳng cùng với tâm Bồ đề hòa hiệp; tâm Bồ đề chẳng cùng với tâm hồi
hướng hòa hiệp; tâm hồi hướng ở trong tâm Bồ đề vô sở hữu, bất khả đắc; tâm Bồ
đề ở trong tâm hồi hướng vô sở hữu bất khả đắc. Bồ tát tuy quán các pháp, nhưng đối với các pháp hoàn toàn không có
sở kiến, thì này Kiều Thi Ca, đó là Bát nhã Ba la mật của đại Bồ tát”.
Đi “vòng vo tam quốc” rồi cũng nói
tới ngã, ngã sở. Nó là đầu mối của những bệnh hoạn, của bao kiếp đọa đầy khổ sở
của tất cả chúng sanh. Có ngã, ngã sở là có kiến. Có kiến là có chấp, có chấp
là có phiền não. Vậy, phải làm sao?
- Phẩm
“Khen Pháp Chẳng Chắc Thật”, ĐBN. Cụ thọ
Thiện Hiện bảo Thiên Đế Thích Đề Hoàn nhân:
“Các
đại Bồ Tát hành Bát nhã Ba la mật thẳm sâu, quán tất cả pháp, không pháp nào chẳng đều không. Nghĩa là
quán tất cả pháp hữu sắc không, pháp vô sắc cũng không. Quán tất cả pháp hữu
kiến không, pháp vô kiến cũng không. Quán tất cả pháp hữu đối không, pháp vô
đối cũng không. Quán tất cả pháp hữu lậu không, pháp vô lậu cũng không. Quán
tất cả pháp hữu vi không, pháp vô vi cũng không. Quán tất cả pháp thế gian
không, pháp xuất thế gian cũng không. Quán tất cả pháp vắng lặng không, pháp
chẳng vắng lặng cũng không. Quán tất cả pháp xa lìa không, pháp chẳng xa lìa
cũng không. Quán tất cả pháp quá khứ không, pháp vị lai, hiện tại cũng không.
Quán tất cả pháp thiện không, pháp bất thiện, vô ký cũng không. Quán tất cả
pháp cõi Dục không, pháp cõi Sắc, Vô sắc cũng không. Quán tất cả pháp học
không, pháp vô học, chẳng phải học, chẳng phải vô học cũng không. Quán tất cả
pháp thấy bị đoạn không, pháp tu bị đoạn, chẳng phải bị đoạn cũng không. Quán
tất cả pháp hữu không, pháp vô, pháp phi hữu phi vô cũng không. Các đại Bồ Tát hành Bát nhã Ba la mật thẳm
sâu, quán tất cả pháp như thế thảy đều không. Trong các pháp không, (tất cả) đều vô sở hữu, thì ai chìm, ai đắm, ai sợ, ai kinh, ai nghi, ai ngại?”
Rốt lại, phải lấy đoạn Kinh này làm kết luận
cho câu hỏi “Làm thế nào nắm bắt đúng Bát nhã Ba la mật”. Cụ thọ Thiện Hiện
thay lời Phật bảo “quán tất
cả pháp, không pháp nào chẳng đều không”. Ở đây chúng tôi không cố ý hay gượng ép trình bày như vậy. Bất cứ chỗ
nào, bất cứ pháp hội nào cũng nói đến “quán không” này. Đây không phải quán cái
không lừa phỉnh làm uổng phí bao kiếp tu hành. Quán không đây là hồi chuông
cảnh tỉnh, là tiếng vang của cổ trống trời đánh lên cốt dựng dậy cái tâm ngái
ngủ ngàn đời của tất cả chúng sanh trong đêm dài cô tịch. Hãy nhiếp tâm lắng nghe
dư âm của nó không những trong suốt cuộc đời này, suốt kiếp này mà mãi mãi về
lâu về dài về sau.
Liễu ngộ
được cái không này là tìm được hạt châu trong chéo áo hay nói theo Pháp Hoa là sau bao thuở lưu lãng giang hồ,
nay được trở về quê cũ để được an thân lập mệnh. Bao nhiêu câu trả lời, bao
nhiêu giải đáp phối hợp với những tư tưởng tuyệt vời như trên cũng chưa đủ làm
cho chúng ta hài mãn. Phẩm “Kiến Bất Động Phật”, quyển 565, Hội thứ V, Phật
bảo: “Khánh
Hỷ nên biết! Có người muốn nắm lấy lượng và biên giới của Bát Nhã sâu xa thì
cũng giống như kẻ ngu si muốn nắm lấy lượng và biên giới của hư không”.
Vậy có ai nắm bắt được hư không
chăng?
Phẩm “So Lường Công Đức” bảo rằng: “Bát nhã Ba la mật chẳng thể nắm bắt được vì nó không sắc,
không thấy, không đối đãi, gọi là vô tướng thì làm sao nắm bắt được! Vì sao? Vì
Bát Nhã như thế không thủ không xả, không tăng không giảm, không trụ không tán,
không ích không tổn, không nhiễm không tịnh v.v…”.
Vậy, làm sao nắm bắt được?
4- Bát Nhã
Trí siêu xuất làm sao nắm bắt được?
Lấy tri thức thường tục của thế nhân
mà luận về trí Phật mà một điều không tưởng, chẳng khác nào “đội đá vá trời”. Y
Kinh giải nghĩa đã là một việc làm xuẩn động ngu si, chỉ làm cho tam thế Phật
oan. Mạn Thù Thất Lợi hay Văn Thù Sư Lợi, là một đại Bồ tát, thuộc đại trí nhất
trong hàng tất cả Bồ tát ở vũ trụ này. Ngài là một cổ Phật, cùng với một vị đại
hạnh Bồ tát khác là Phổ Hiền, từng giúp Phật Thích Ca Mâu Ni trong việc giáo
hóa chúng sanh ở cõi này và được mệnh danh là Thích Ca Tam Tôn. Bồ tát Mạn Thù
Thất Lợi hay Văn Thù Thất Lợi nói về trí Phật trong đoạn Kinh giới thiệu trong
Phần “Mạn Thù Thất Lợi”, quyển 575, Hội thứ VII, ĐBN như sau:
“(...)Bát
Nhã thâm sâu phải biết tức là cảnh giới không nghĩ bàn. Cảnh giới không nghĩ
bàn phải biết tức là cảnh giới chẳng hiện hành. Cảnh giới chẳng hiện hành phải
biết là cảnh giới vô sở hữu. Cảnh giới vô sở hữu phải biết tức là cảnh giới vô
sanh diệt. Cảnh giới vô sanh diệt phải biết tức là cảnh giới chẳng nghĩ bàn.
Cảnh giới chẳng nghĩ bàn và cảnh giới của Như Lai, cảnh giới ngã, cảnh giới các
pháp đều không hai, không khác.
Vậy
nên, bạch Thế Tôn! Nếu tu hành Bát nhã Ba la mật được như thế, đối Đại Bồ đề
lại chẳng cầu chứng. Vì cớ sao? Vì Bát
nhã Ba la mật sâu thẳm tức Bồ đề vậy.
Bạch
Thế Tôn! Nếu thật biết cảnh giới ngã tức biết vô trước. Nếu biết vô trước tức
biết vô pháp. Nếu biết vô pháp tức là Phật trí. Trí tức là trí chẳng nghĩ bàn.
Phải biết trí Phật không có pháp nào đáng để biết, gọi là chẳng biết pháp. Vì
sao? Vì trí này tự tánh hoàn toàn vô sở hữu.
Pháp
vô sở hữu làm sao có thể chuyển được chơn pháp giới? Tự tánh của trí này đã
không sở hữu tức là không có chấp trước. Nếu không có chấp trước tức bản thể
chẳng phải trí. Nếu bản thể chẳng phải trí tức là không có cảnh giới. Nếu không
có cảnh giới tức không có chỗ dựa. Nếu không có chỗ dựa tức vô sở trụ. Nếu vô
sở trụ tức vô sanh diệt. Nếu vô sanh diệt tức bất khả đắc. Nếu bất khả đắc tức
không có chỗ để hướng tới. Đã không có chỗ hướng tới, thì trí này không thể tạo
các công đức, cũng không thể tạo phi công đức. Vì sao? Vì trí này không suy
nghĩ việc tạo công đức hay tạo phi công đức.
Trí
không suy nghĩ là trí không thể nghĩ bàn. Trí không thể nghĩ bàn tức là trí
Phật. Vì vậy, trí này không có sự chấp
thủ, cũng chẳng chấp thủ tất cả pháp, cũng chẳng phải ngằn trước, chẳng
phải ngằn giữa hay ngằn sau, chẳng phải trước đã sanh, chẳng phải trước chưa
sanh, không xuất hiện không chìm mất, chẳng phải thường, chẳng phải đoạn, lại không có trí nào khác sánh với trí này.
Do
đây, trí này không thể nghĩ bàn, đồng với hư không, chẳng thể so sánh, không
đây, không kia, chẳng phải đẹp, chẳng phải xấu. Đã không có trí nào khác sánh
với trí này được, cho nên trí này không có sự ngang bằng và chẳng có trí nào
ngang bằng. Do đây nên gọi trí này là Vô đẳng đẳng. Lại không có trí nào khác có thể nắm bắt đối với trí này. Vậy trí
này vô đối, bất đối. Do đây nên gọi là trí Vô đối đối”.
Chúng ta đào xới gần đến gốc rễ của
trí này rồi đó. Có trí mới hiểu được trí, không có trí làm sao nắm bắt được
trí? Trí của Phật là trí tối cao. Vậy,
muốn nắm bắt trí này cũng ít nhất ngang bằng với trí này. Một khi đã ngang
bằng trí này thì nắm bắt trí này làm gì nữa? Phật tu Bát Nhã, giác ngộ, mới đắc
Bát Nhã Trí. Vậy, nói đến nắm bắt Bát Nhã tức nói đến Giác ngộ, mà Giác ngộ tức
là đắc Bát Nhã Trí. Nên khi hỏi làm sao nắm bắt đúng Bát Nhã? Câu trả lời giản
dị và chân xác là phải Giác ngộ, có Giác ngộ là có Bát Nhã Trí. Có Bát Nhã Trí
rồi thì cần nắm bắt trí nào nữa?
Tất cả dẫn chứng trên là một sự phối
hợp sâu xa về sự thành tựu trí này. Nhưng tất cả giải đáp trên mặc dầu được soi
rọi dưới nhiều lăng kính khác nhau cũng đều là những giải đáp gián tiếp. Vì
sao? Vì ngôn ngữ tinh vi đến đâu cũng bị giới hạn, chỉ có thể diễn đạt như vậy,
không thể giải thích cái gọi là bất khả tư nghị, không thể giải thích cái không
thể nghĩ bàn. Nên luận đến đây chúng tôi không muốn nói thêm nữa.
Đừng bao giờ nói đến nắm bắt khi tu
Bát nhã Ba la mật. Mong cầu nắm bắt chẳng khác nào nắm bắt một làn hương!
Kết luận cho LUẬN #5.
(Cho phần “Thế nào là Bát nhã Ba la
mật?”)
Tất cả dẫn chứng và lược giải trên
không thể bao gồm hết những gì mà Bát nhã Ba la mật muốn nói. Như nhiều lần
phát biểu, chúng ta không thể thấy, không thể nói, không thể khu định tầm vóc
Bát Nhã vào bất cứ phạm vi nào. Vì Bát Nhã đa thù đa dạng, một vài trang giấy
không thể diễn nói cái không thể diễn nói, cái bất khả tư nghị, cái không thể
luận bàn. Tuy nhiên, để thâm nhập Bát Nhã dĩ nhiên chúng ta phải biết ít nhất
một vài biểu thị hay pháp nghĩa hiển hiện của nó như đã trình bày ở trên.
Do đó, trong phần “Thế nào là Bát
nhã Ba la mật”, chúng tôi mới chia Bát nhã Ba la mật làm hai phần: Phần thứ 1,
với câu hỏi thế nào là “Bát Nhã”. Phần thứ 2, với câu hỏi thế nào là “Ba la
mật”. Rồi nhập hai phần Bát Nhã và Ba la mật với nhau để tìm hiểu tổng tướng
Bát nhã Ba la mật là gì? Tại sao gọi là Bát nhã Ba la mật sâu thẩm? Sau khi
hiểu Bát Nhã như thế nào rồi, thì chúng ta mới hy vọng nắm bắt được nó. Và cuối
cùng là muốn nắm bắt đúng Bát nhã Ba la mật thì phải làm sao?
Rốt ráo, Phật khuyên hành giả Bát
Nhã phải tư duy quán tưởng ngũ uẩn vượt trên tốt xấu, uế tịnh... nghĩa là phải
tư duy quán tưởng ngũ uẩn như vô sanh-vô diệt, vô nhiễm-vô tịnh, vô vi-vô
tác... hay nói khác là phải tư duy quán tưởng ngũ uẩn như là đệ nhất nghĩa đế.
Tại sao? Vì ngũ uẩn đề cập ở đây có nghĩa là căn tiếp xúc với trần. Một khi căn
tiếp xúc với trần thì sanh động niệm. Vậy, phải tư duy quán tưởng ngũ uẩn như
đệ nhất nghĩa. Tư duy quán tưởng như thế thì sanh tuệ. Muốn thế, Phật bảo hành
giả Bát Nhã phải lìa ngã và ngã sở, đối với tất cả pháp hoàn toàn không có sở
kiến. Có kiến là có chấp nên không tránh khỏi chướng: Phiền não chướng và sở
trí chướng. Có phiền não thì làm sao giác ngộ để đắc Bát Nhã. Cuối cùng cụ thọ
Thiện Hiện thay lời Phật bảo: Tu Bát nhã Ba la mật phải “quán tất cả pháp, không pháp nào chẳng đều “không”. Mấu chốt của
bài luận giải nằm trong chữ Không này.
Tùy theo sự hiểu biết nghĩa Không này mà chư Tổ lập ra các pháp môn quán
Không, tuy có sâu cạn, hơn kém khác nhau, nhưng mục đích cốt phá trừ tình chấp
để hiển lộ Bát Nhã Trí.
Nói một cách khái quát, Phật giáo
Tiểu thừa tu tập pháp quán “Ngã không” để đoạn trừ phiền não chướng, đó là lý
do tại sao Phật nói đến ngã và ngã sở; còn Phật giáo Đại thừa thì tu tập pháp
quán “Ngã Pháp đều không” để lìa phiền não chướng và sở tri chướng. Tông Thiên
thai, Tạng giáo, Thông giáo, Biệt giáo, Viên giáo mỗi giáo đều có pháp quán
Không riêng biệt. Tạng giáo phân tích các pháp để quán lý không, gọi là “Tích
không quán”; Thông giáo thì quán tất cả pháp đương thể tức Không, gọi là “Thể
không quán”; Biệt giáo quán Không ngoài Giả đế và Trung đế, gọi là “Thiên không
quán”; còn Viên giáo thì quán Giả đế, Trung đế tức là Không, gọi là “Viên không
quán”. Các pháp này các Thầy Tổ phát minh không ngoài mục đích tu tập để đạt
Tuệ.
Vậy, rốt cuộc muốn hiểu “Thế nào là
Bát nhã Ba la mật” thì phải quán tất cả pháp đều không, nếu không làm được như
thế thì không thể nắm bắt đúng Bát Nhã. Nói nắm bắt đúng Bát Nhã là cách nói
theo thế tục. Chả có gì gọi là nắm bắt đúng, muốn nắm bắt đúng Bát Nhã thì phải có trí ngang hàng với Trí Bát Nhã.
Muốn vậy, phải tu Bát nhã Ba la mật để được Giác ngộ như Phật, và khi Giác ngộ
rồi thì có Bát Nhã Trí. Một tiến trình dài thăm thẳm, dài đến ba A tăng kỳ. Hãy cố gắng đọc tụng thọ trì các dẫn
chứng trên để tự hội!
Một phút tư duy:
Kinh cũng dùng cụm từ “nắm bắt Bát
Nhã”, ở đây chúng tôi cũng “phụ hợ” nói theo. Đó là nói theo Tục đế chứ chẳng
theo Đệ nhất nghĩa. Mặc dù có đưa ra một số dẫn chứng để cố giảng luận về điều
này, nhưng có thể là không tưởng vì nắm bắt Bát Nhã như nắm bắt hư không! Bởi
vì, nắm cái không thể nắm, bắt cái không thể bắt. Một khi khởi niệm thì vọng
sanh tức còn thủ đắc, còn thủ đắc thì không đắc. Tu thì cứ tu “tu lâu
thành thục, không tác không chứng, không sanh không tận, không khởi không chìm,
yên vững không động” thì tự biết, tự hội thôi.
Đọc phẩm
“Công Đức Khó Nghe” đưa chúng ta đến một lối hành trì có thể nói là “mau
viên mãn Bát nhã Ba la mật”:
“... Nếu đại Bồ tát nào khi hành Bát nhã Ba la mật chẳng
thấy pháp đúng, chẳng thấy pháp sai, chẳng thấy hữu lậu, chẳng thấy vô lậu,
chẳng thấy hữu vi, chẳng thấy vô vi thì đại Bồ tát ấy tu hành Bát nhã Ba la mật
mau được viên mãn”.
Chúng ta có thể hiểu được câu này,
nghĩa là tu hành Bát Nhã đừng ôm cứng những gì gọi là nhị nguyên đối đãi, đừng
thấy hai tướng... thì có thể viên mãn Bát nhã Ba la mật. Trong toàn bộ Đại Bát
Nhã Phật khuyến dẫn không biết bao nhiêu lần như vậy. Cứ theo chỉ dẫn này mà tu
tập thì Trí Bát Nhã lần lần sáng tỏ. Vậy, không cần nắm bắt mà chính là nắm
bắt. Đó là một tiến trình đáng tin cậy, không viễn vong.
Một đoạn Kinh khác của cùng phẩm trên Phật bảo tiếp:
“Nếu đại Bồ tát nào khi hành Bát nhã Ba la mật chẳng thấy
tất cả pháp Phật thì đại Bồ tát ấy tu hành Bát nhã Ba la mật mau được viên mãn.
Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì tất cả pháp không có tánh tướng, không có tác dụng,
chẳng chuyển động, hư vọng giả dối, tánh chẳng chắc chắn, chẳng tự tại, không
tri giác, không cảm thọ, xa lìa ngã, hữu tình, dòng sinh mạng, sự sanh… cho đến
cái biết, cái thấy”.
Đây là câu nói ngược đời, làm sao tu
hành mà không thấy biết tất cả pháp Phật. Đó là cái khó, có thể chúng ta không
làm được điều này. Không thấy không biết thì làm sao tu. Vẫn thấy vẫn biết, vẫn
ngày đêm đọc tụng thọ trì Bát Nhã. Đó là cái chúng ta có thể làm được. Nếu hành
trì được như thế thì đến lúc nào đó thời tiết đến cây đơm hoa kết quả thì Trí
Bát Nhã hiện tiền.
Nắm bắt vẫn nắm bắt nói theo thế
tục, nhưng đừng lấy sở đắc, đừng mong cầu, đừng dính cái ngã vào đó thì vẫn có
thể tu, vẫn có thể hành, vẫn có thể viên mãn Bát Nhã, mặc dầu là khó! Vậy mới
đọc tiếp LUẬN #6, nói về những điều kiện để thành đạt Bát Nhã hay thành tựu
Giác ngộ hay nói khác là lập phương tiện
để thử xem có thể nắm bắt Bát Nhã được hay không? Đó là tiến trình thứ hai
cần thực hiện trong cuộc hành trình vô tận này!
Thích nghĩa cho phần “Thế nào là Bát nhã Ba la mật?”
(1). Đây là thí dụ về sở ngộ của Lục
tổ Huệ Năng: Khi còn là một thanh niên nghèo, ngày ngày phải lên rừng đốn củi
nuôi thân và phụng sự mẹ già. Một buổi đẹp trời nào đó chàng tiều phu trẻ tuổi,
gánh củi giao cho phú ông trong làng. Trong khi chờ đợi, thì nghe phú ông tụng
Kinh Kim Cang, nghe đến câu “ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm” thì chàng ta hoát
ngộ. Nên mới hỏi phú ông Kinh đó là Kinh gì mà hay quá vậy? Phú ông bảo đó là
Kinh Kim Cang. Phú ông kể thêm rằng ở chùa Đông Thiền thuộc huyện Huỳnh Mai, có
Tổ tên là Hoằng Nhẫn khuyên mọi người trì tụng Kinh này thì sẽ thấy tánh, thành
Phật. Nghe như vậy nên chàng tiều phu này có ý định xuất gia, nhưng còn mẹ già
cần phải bảo bọc không thể ra đi! Khi nghe than như vậy phú ông động lòng, bảo
chàng trai nhỏ tuổi này hãy đốn củi thật nhiều, ông sẽ trả vàng để nuôi mẹ.
Thanh niên y theo lời phú ông làm việc vất vả, đốn củi đổi vàng đủ để nuôi mẹ,
rồi từ giã ra đi, đến thôn Hoàng Mai thọ giáo Ngũ Tổ và về sau trở thành Tổ thứ
sáu có tên là Huệ Năng. Câu chuyên đại khái như vậy. Muốn rõ chi tiết về cuộc
đời và sự nghiệp của Lục tổ, xin đọc cuốn “Pháp Bảo Đàn Kinh” do Thiền sư Thích
Thanh Từ lược khảo, Hội Thiền Học Việt Nam xuất bản.
(2). Đại Bát Nhã do nhóm của Ngài
Huyền Trang dịch từ Phạn sang Hán, tổng cộng có tới 600 quyển, khoảng 167.300
bài tụng (sloka) tính theo Pháp Uyển Châu Lâm quyển 100 và Khai Nguyên Thích
Giáo Lục quyển 11. Nếu diễn dịch ra chữ thì tổng cộng hơn 5 triệu chữ. (Mỗi bài
tụng gọi là sloka gồm 4 hàng, mỗi hàng gồm 8 chữ. Vậy, 1 sloka có 32 chữ; 32
chữ nhân cho 167.300 sloka bằng 5.353.600 chữ).
(3). Trên là
Lược bản phổ thông tại Trung Hoa và Nhật bản do Thiền sư D.T. Suzuki ghi lại
bằng tiếng Anh và Ngài Tuệ Sĩ Việt dịch trong Thiền Luận quyển hạ. Ngoài ra còn
có 4 bản Tâm Kinh (2 Lược bản và 2 Quảng bản) cũng do Ngài Tuệ Sĩ dịch từ Hán sang Việt, ghi trong cuốn “Thiền và
Bát Nhã” mà chúng tôi dẫn chứng sau đây để quý vị tham cứu thêm:
1. Hai Lược bản Tâm Kinh Việt dịch mà các chùa chiền, am tự hay các Thiền viện Việt Nam thường
tụng niệm trước các lễ hội hay mỗi lần công phu:
1- Bản dịch từ Phạn sang Hán của Ngài Huyền Trang:
“Bồ tát Quán Tự tại trong khi thực hành Bát nhã Ba la mật đa thậm thâm,
soi thấy năm uẩn đều Không, vượt qua tất cả mọi khổ ách.
Xá lợi Tử, sắc không khác Không; Không không khác sắc. Thọ, tưởng, hành,
thức cũng vậy. Xá lợi Tử, đặc tướng Không của các pháp ấy không sinh, không
diệt, không cấu, không tịnh, không tăng, không giảm; do đó, trong Không không
có sắc, thọ, tưởng, hành, thức; không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; không có
sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; không có giới của con mắt, cho đến không có
giới của ý thức; không có vô minh, cũng không có sự diệt tận của vô minh, cho
đến, không có già và chết, cũng không có sự diệt tận của già và chết; không có
khổ, tập, diệt, đạo; không có trí, cũng không có đắc. Vì vô sở đắc.
Bồ đề tát đỏa, do y chỉ Bát nhã Ba la mật đa, tâm không bị bưng kín. Do
không bị bưng kín, nên không có sự sợ hãi, xa lìa tất cả điên đảo và mộng
tưởng, đạt đến Niết bàn cứu cánh. Chư Phật trong ba đời do y chỉ Bát nhã Ba la
mật đa mà chứng đắc A nậu đa la tam miệu tam bồ đề
Do đó nên biết Bát nhã Ba la mật đa là thần chú vĩ đại, là minh chú vĩ
đại, là chú vô thượng, là chú không gì có thể so sánh, diệt trừ tất cả khổ,
chân thật, vì không hư dối, được gọi là chú Bát nhã Ba la mật đa. Tức thuyết
chú rằng:
Yết-đế,
yết-đế, ba-la-yết-đế, ba-la-tăng-yết-đế, bồ-đề, tăng sa-bà-ha”.
2- Bản dịch từ Phạn sang Hán của Ngài Cưu Ma La Thập:
“Bồ
tát Quán Thế Âm, khi thực hành Bát nhã Ba la mật thậm thâm, soi thấy năm ấm là
Không, vượt qua tất cả khổ ách.
Xá lợi phất, sắc là Không cho nên không có tướng não hoại; thọ là Không
nên không có tướng cảm thọ; tưởng là Không nên không có tướng tri nhận; hành là
Không nên không có tướng tạo tác; thức là không nên không có tướng giác tri. Vì
sao vậy? Xá lợi phất, không phải rằng sắc khác Không; không phải rằng Không
khác sắc; Không tức thị sắc, sắc tức thị Không; thọ, tưởng, hành, thức cũng
vậy.
Xá lợi phất, tướng Không của các pháp ấy không sinh, không diệt, không
cấu, không tịnh, không tăng, không giảm, không phải quá khứ, không phải vị lai,
không phải hiện tại. Cho nên, trong Không không có sắc, không thọ, tưởng, hành,
thức; không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; không có sắc, thanh, hương, vị,
xúc, pháp; không có giới của con mắt, cho đến không có giới của ý thức; không
có vô minh, cũng không có sự diệt tận của vô minh, cho đến, không có già và
chết, không có sự diệt tận của già và chết; không có khổ, tập, diệt, đạo; không
có trí, cũng không có đắc. Vì vô sở đắc.
Bồ tát do y chỉ Bát nhã Ba la mật mà tâm không bị bưng kín; do không bị
bưng kín nên không có sự sợ hãi, xa lìa tất cả sự điên đảo, mộng tưởng, khổ
não, đạt đến cứu cánh Niết bàn. Chư Phật trong ba đời do y chỉ Bát nhã Ba la
mật mà chứng đắc A nậu đa la tam miệu tam Bồ đề
Do đó nên biết, Bát nhã Ba la mật là minh chú vĩ đại, là minh chú tối
thượng, là minh chú không gì có thể sánh, diệt trừ tất cả khổ, chân thật, vì
không hư dối; được gọi là chú Bát nhã Ba la mật. Tức thuyết chú rằng:
Yết đế, yết
đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tăng sa ha.
2. Hai Quảng bản khác, Việt dịch cũng được Ngài Tuệ Sĩ
trích dẫn trong cuốn “Thiền và Bát Nhã”, như sau:
1- Phổ biến trí tạng Bát nhã Ba la mật đa tâm
kinh (Tam tạng Sa môn Pháp Nguyệt, trùng dịch):
Tôi nghe như vậy.
Một thời, Phật trụ tại đại thành Vương xá, trong núi Linh thứu, cùng với
Tăng gồm 1250 Tỳ kheo; và bảy vạn bảy nghìn Bồ tát ma ha tát. Danh hiệu của các
vị Thượng thủ là Bồ tát Quán Thế Âm, Bồ tát Văn thù sư lợi, Bồ tát Di lặc, v.v.
Tất cả đều chứng các tam muội, tổng trì, an trú nơi giải thoát bất tư nghị.”
Bấy giờ, Bồ tát Quán Tự Tại đang ngồi trên chỗ ngồi, bèn rời đại chúng,
từ chỗ ngồi đứng dậy, đi đến trước đức Thế Tôn, chắp tay hướng về Phật, nghiêng
mình cung kính, chiêm ngưỡng tôn nhan, bạch Phật rằng:
“Bạch Thế Tôn, con muốn, trong chúng hội này, nói về trái tim của Bát
nhã Ba la mật đa, là kho tàng trí tuệ bao hàm cùng khắp của các Bồ tát. Cúi
mong Thế Tôn hứa khả cho những điều con nói. Con sẽ công bố pháp yếu bí mật cho
các Bồ tát.”
Bấy giờ, đức Thế Tôn, bằng âm thanh vi diệu của Phạm thiên , nói với Bồ
tát Quán Tự Tại rằng:
“Lành thay, lành thay, vị Đại Bi Tâm! Ta hứa khả những điều Ông nói, để
làm ánh sáng rọi cùng khắp cho các chúng sinh.”
Bồ tát Quán Tự Tại, sau khi được Phật hứa khả, được Phật hộ niệm, bèn
nhập tam muội chính thọ có tên là Huệ Quang. Sau khi nhập định này, trong khi
bằng năng lực của tam-muội mà thực hành Bát nhã Ba la mật đa thậm thâm, Ngài
soi thấy năm uẩn, mà tự tính thảy đều Không. Ngài đã liễu tri năm uẩn mà tự
tính thảy đều Không rồi, bèn an lành xuất khỏi tam muội kia, và nói với Trưởng
lão Xá lợi phất rằng:
“Thiện nam tử, Bồ tát có trái tim của Bát nhã Ba la mật đa, được gọi là
Kho tàng Trí tuệ phổ biến, ông nay hãy lắng nghe, hãy khéo suy niệm kỹ. Tôi sẽ
phân biệt giải thuyết cho ông nghe.”
Được nói như vậy rồi, Trưởng lão Xá lợi phất bạch Bồ-tát Quán Tự Tại:
“Thưa Đức Đại Tịnh, kính thỉnh Ngài nói. Nay quả là đúng lúc.”
Rồi Bồ tát nói với Xá lợi phất:
“Các Bồ tát nên học như vậy: Sắc tính là Không. Không tính là sắc. Sắc
không khác Không. Không không khác sắc. Sắc tức thị Không. Không tức thị sắc.
Thọ, tưởng, hành, thức, cũng vậy. Thức tính là Không. Không tính là thức. Thức
không khác Không. Không không khác thức. Thức tức thị Không. Không tức thị
thức.”
“Xá lợi phất, tướng Không của các pháp như thế vốn không sinh, không
diệt, không cấu, không tịnh, không tăng, không giảm. Cho nên, trong Không không
có sắc, không có thọ, tưởng, hành, thức; không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý;
không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; không có giới của mắt, cho đến,
không có giới của ý thức; không có vô minh, không có sự tận diệt của vô minh;
cho đến, không có già chết, không có sự tận diệt của già chết; không có Khổ,
Tập, Diệt, Đạo; không Trí, cũng không Đắc. Vì vô sở đắc.”
“Bồ đề tát đỏa y chỉ Bát nhã Ba la mật đa nên tâm không bị che trùm ngăn
ngại. Vì không bị che ngăn, nên không có sự sợ hãi; mộng tưởng điên đảo được
rời xa; Niết bàn được cứu cánh.”
“Chư Phật trong ba đời vì y chỉ Bát nhã Ba la mật đa nên chứng đắc Vô
thượng Chính đẳng Chính giác.”
“Vì vậy, nên biết, Bát nhã Ba la mật đa là đại thần chú, là đại minh
chú, là cấm chú tối thượng, là thần chú tuyệt luân diệt trừ tất cả khổ. Là chân
thật, vì không hư dối, do đó, được gọi là Chú Bát nhã Ba la mật đa. Tức thuyết
chú rằng:
“Yết-đế,
yết-đế, ba-la-yết-đế, ba-la-tăng-yết-đế, bồ-đề, sa-bà-ha.”
Phật nói Kinh này xong; các chúng Tỷ kheo và Bồ tát, hết thảy thế gian,
Trời Người, A tu la, Càn thát bà, v.v., sau khi nghe những điều Phật nói, thảy
đều hoan hỷ, tín thọ phụng hành.
2- Phật
thuyết Thánh Phật mẫu Bát nhã Ba la mật đa kinh do Thí Hộ dịch từ Phạn sang Hán.
“Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật trú tại thành Vương xá, trong núi Thứu phong, với chúng
Đại Bí sô gồm 1250 người, và cùng chúng Bồ tát vây quanh.
Bấy giờ Thế Tôn liền nhập tam ma địa có tên là Thậm thâm quang minh
tuyên thuyết Chính pháp. Khi ấy, Bồ tát Quán Tự Tại, là vị Ma ha tát, cũng đang
ở giữa Phật hội. Nhưng Bồ tát này đã tu hành Bát nhã Ba la mật đa thậm thâm,
quán chiếu thấy năm uẩn, mà tự tính thảy đều Không.
Rồi thì, tôn giả Xá lợi Tử, nương theo uy thần của Phật, bước lên trước
mà bạch Bồ tát Quán Tự Tại rằng:
“Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân, hoan hỷ muốn tu học ở trong pháp môn
Bát nhã Ba la mật đa thậm thâm này, thì nên học như thế nào?”
Khi ấy, Bồ tát Quán Tự Tại, là vị Ma ha tát, nói với Tôn giả Xá lợi Tử
rằng:
“Ông nay hãy lắng nghe; tôi sẽ nói. Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân hoan
hỷ muốn tu học ở trong pháp môn Bát nhã Ba la mật đa thậm thâm này, hãy quán
chiếu năm uẩn, mà tự tính thảy đều Không.”
“Thế nào nói là tự tính năm uẩn đều Không? Đó là, sắc là Không; Không
tức là sắc; sắc không khác Không, Không không khác sắc. Thọ, tưởng, hành, thức,
cũng như vậy.”
“Xá lợi Tử, tướng Không như vậy của tất cả các pháp này vốn không có cái
gì được sinh, không có cái gì bị diệt, không cấu nhiễm, không thanh tịnh, không
tăng trưởng, không tổn giảm.”
“Xá lợi Tử, do đó, trong Không không tồn tại sắc, không thọ, tưởng,
hành, thức; không tồn tại mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; không tồn tại sắc,
thanh, hương, vị, xúc, pháp; không tồn tại giới của mắt, không tồn tại giới của
thức con mắt, cho đến, không tồn tại giới của ý, không tồn tại giới của ý thức;
không có vô minh, cũng không có sự tận diệt của vô minh, cho đến, không có già
chết, cũng không có sự tận diệt của già chết; không Khổ, Tập, Diệt, Đạo, không
Trí, không đắc cũng không vô đắc.”
“Xá lợi Tử, do vô đắc như vậy, Bồ tát y chỉ trên hành tương ứng Bát nhã
Ba la mật đa, cho nên tâm không bị vướng mắc, cũng không bị trùm kín ngăn ngại.
Do không bị vướng mắc, không bị ngăn ngại, nên không có sự sợ hãi, xa lìa vọng
tưởng điên đảo, đạt đến sự viên tịch rốt ráo.”
“Chư Phật trong ba đời y chỉ trên Bát nhã Ba la mật đa mà chứng đắc Vô
thượng Chính đẳng giác. Do đó, nên biết, Bát nhã Ba la mật đa là minh chú quảng
đại, là minh chú vô thượng, là minh chú vô đẳng đẳng, vốn hay dứt trừ hết thảy
khổ não, vì đó chính là pháp chân thật, không hư vọng. Những ai tu học hãy tu
học như vậy.”
Nay tôi tuyên thuyết đại minh chú Bát nhã Ba la mật đa rằng:
“Đát-ninh-dã-tha,
nga-đế, nga-đế, bá-ra-nga-đế, bá-ra-tăng-nga-đế, mạo-đề, sa-hạ.”
“Xá lợi Tử, Bồ tát Ma ha tát tụng đọc minh chú Bát nhã Ba la mật đa này
tức là tu học Bát nhã Ba la mật đa thậm thâm.”
Bấy giờ Thế Tôn an lành xuất khỏi tam ma địa; Ngài tán thán Bồ tát Ma ha
tát Quán Tự Tại rằng:
“Lành thay! Lành thay! Thiện nam tử, những điều ông nói, đúng vậy, đúng
vậy, Bát nhã Ba la mật đa nên được tu học như vậy. Đó tức là cứu cánh chân thật
tối thượng. Hết thảy các đức Như Lai cũng đều tuỳ hỷ.”
Phật thuyết kinh này xong; Bồ tát Ma ha tát Quán Tự Tại, cùng các Bí sô,
cho đến cả thế gian bao gồm chư Thiên, Nhân loại, A tu la, Càn thát bà, vân
vân, hết thảy đại chúng, sau khi nghe những điều Phật thuyết, hoan hỷ tín thọ
phụng hành.
(4). Vô tánh là tự tánh Bát nhã Ba
la mật cho đến vô tánh là tự tánh của pháp ở bên trong, bên ngoài hay ở giữa
hai (Phẩm “Bát Nhã Hành Tướng”, quyển 38, Hội thứ I, ĐBN).
---o0o---