LUẬN #6. NHỮNG ĐIỀU KIỆN
ĐỂ THÀNH TỰU GIÁC NGỘ.
Chúng ta cảm ơn đạo Phật bằng các kỹ thuật tu trì quán tưởng có thể
giúp ta giải quyết các phiền não, các lậu hoặc trong cuộc sống hằng ngày để đưa
chúng ta vào cảnh giới mong muốn. Muốn sống cõi nhân thiên giàu sang sung sướng
thì tu tập ngũ giới hay thập thiện đạo. Nhưng nếu muốn đi xa hơn thì đạo Phật
có thể giúp ta thoát khỏi: Sanh khổ, già khổ, bệnh khổ, chết khổ, kẻ thương yêu
mà phải bị chia lìa xa cách, kể oán thù mà phải gần gũi thận cận, những ước
mong mà không bao giờ đến v.v... thì Tứ đế có thể giúp ta đạt địa vị Thanh văn,
thoát khổ được giải thoát hay đạt Niết bàn. Nếu chúng ta muốn diệt vô minh, phá
vỡ 12 mắc xích của luân hồi sanh tử, thì giáo pháp Thập Nhị Nhân Duyên có thể
đưa ta lên địa vị Bích Chi Phật. Muốn đi xa hơn nữa là độ mình độ người, thành
thục chúng sanh, thanh tịnh Phật độ thì Lục độ vạn hạnh có thể giúp ta đạt đến
cảnh giới Bồ tát hay Phật.
Tất cả pháp trên đều nằm trong các pháp mầu Phật đạo, các thiện
pháp, các pháp hy hữu, tư lương Bồ đề Bồ tát hay còn gọi là Bồ tát đạo. Tất cả
các pháp này đều được nhiếp thu vào Bát nhã Ba la mật và được xem như là các pháp thực tu thực chứng cũng là những phương tiện thiện xảo hỗ trợ Bát
Nhã hoàn thành sứ mệnh giác ngộ và chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề hay Nhất
thiết trí trí. Không có các pháp này, thì không có Phật, Bồ Tát, không có Thanh
văn, Độc giác hay nói khác không có Tiểu thừa, Đại thừa hay Phật đạo.
Mười pháp Ba la mật là Bố thí, trì giới,
an nhẫn, tinh tấn, thiền định, Bát Nhã, phương tiện xảo, nguyện, lực và trí Ba
la mật: Sáu Ba la mật đầu được coi là thành phần chánh trong việc cấu thành
tinh thể Bồ tát, bốn Ba la mật sau chỉ được xem như hỗ trợ. Vì vậy, hơn bao giờ
hết sáu pháp đầu nhất là Bát nhã Ba la mật được xem là bộ phận mẹ. Vì rằng, thiếu
Bát Nhã các Ba la mật khác không thể hoạt động được. Thành phần thứ hai, thì
phương tiện thiện xảo (upayakausalya) được xem là quan trọng hơn cả. Vì rằng,
thiếu phương tiện thì không có cứu cánh mà cứu cánh tu hành không ngoài việc
thành đạt Bát Nhã hay Giác ngộ, đắc Nhất thiết trí trí, thì có thể tự độ và
cũng có thể độ tha.
Mục đích của phần thảo luận này chính là
phương tiện thiện xảo của Bát nhã Ba la mật. Ngoài ra, một số giáo pháp khác
cũng không kém phần quan trọng mà Phật phải dùng từ như mật ngữ, pháp ấn hay các đại
luân tự để nói lên chức năng của chúng như là điều kiện thiết yếu trong việc
thành tựu Giác ngộ hay thành đạt Bát nhã Ba la mật.
Chắc mọi người còn nhớ Phật sử đã được lặp
lại nhiều lần khi Phật chứng đạo, Phật thấy pháp mình chứng khó truyền đạt cho
người, nên muốn nhập Niết bàn ngay, may nhờ Phạm Thiên cầu khẩn nếu không thể
thuyết giảng cho mọi người thì xin Ngài dùng thí dụ, phương tiện quyền biến mà
tiếp độ chúng sanh. Phật hứa rồi từ đó Phật lặn lội khắp miền trung bắc Ấn và
các vùng lân cận chung quanh châu thổ sông Hằng, dùng phương tiện quyền biến mà hóa độ chúng sanh.
Phương tiện tức là chất liệu để
xây dựng mọi lâu đài vật chất cũng như tinh thần. Không có phương tiện thì
không có cái gì để thành cái gì.
- Phẩm “Gần Gũi”, quyển 464, Đại Bát Nhã . Nói:
“Bồ tát Ma ha tát dù hành bố thí mà chẳng mong cầu quả thí;
dù hành tinh tiến mà chẳng mong cầu
được quả chóng thành; dù hành tĩnh lự
mà chẳng mong cầu được quả định đã tu; dù hành
Bát nhã Ba la mật mà chẳng mong cầu được quả huệ... Như vậy, là chẳng mong
đạt cảnh giới khả ái và sanh nơi tốt đẹp, mà
chỉ vì cứu hộ kẻ không được cứu hộ và muốn giải thoát cho kẻ chưa được giải
thoát.
Lại nữa, Tu Bồ Đề! Nếu Bồ tát Ma ha tát từ sơ phát tâm khi tu hành Bát nhã
Ba la mật, đem tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí vào bốn tĩnh lự, bốn vô
lượng, bốn định vô sắc. Bồ tát Ma ha tát này dù đối tĩnh lự,
vô lượng, vô sắc vào ra tự tại mà chẳng nhiếp thọ quả dị thục kia. Vì sao? Bồ tát Ma ha tát này trọn nên
phương tiện khéo léo rất thù thắng, quán các tĩnh lự, vô lượng, vô sắc tự
tướng đều không, không thật không thành, không chuyển không diệt, vào tướng các
pháp, biết tất cả pháp không tác không năng, vào tướng các hành.
Bồ tát Ma ha tát này trọn nên phương tiện khéo léo như thế, thời tăng
trưởng giác phần thiện căn. Do thiện căn đây thường tăng trưởng nên năng hành
tĩnh lự, vô lượng, vô sắc. Do hành tĩnh lự, vô lượng, vô sắc bèn được tự thành
thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật”.
“(...)Lại nữa, Tu Bồ Đề! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật, đem
tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí, tuy được tự tại thuận
nghịch vào ra tám giải thoát, tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ
thảy, mà trọn nên phuơng tiện khéo léo chẳng muốn nhận quả Dự lưu, Nhất lai,
Bất hoàn, A la hán, Duyên giác. Vì sao? Vì Bồ tát Ma ha tát này quán tất cả pháp tự tướng đều không, không thật không
thành, không chuyển không diệt, vào tướng các pháp, biết tất cả pháp không tác
không năng, vào tướng các hành. Bồ tát Ma ha tát này trọn nên phương tiện khéo
léo rất thù thắng, hằng thời tăng trưởng giác phần thiện căn. Do thiện căn đây
thường tăng trưởng, nên năng viên mãn thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi
Phật, lần hồi chứng được Nhất thiết trí trí.
Tu Bồ Đề! Như vậy gọi là phương tiện
khéo léo. Nếu Bồ tát Ma ha tát trọn
nên phương tiện khéo léo như thế, làm việc đáng làm năng chứng Nhất thiết trí trí. Phương tiện khéo léo thù thắng như thế đều do Bát nhã Ba la
mật mà thành tựu”.
- Phẩm “Thành Thục Hữu Tình”,
quyển 392, Hội thứ I, ĐBN, Huệ mạng Tu Bồ Đề thưa Phật
rằng:
“Bạch Thế Tôn! Sao là Bồ tát Ma
ha tát tu hành Bát nhã Ba la mật phương tiện khéo léo thành thục hữu tình,
nghiêm tịnh cõi Phật?
Phật bảo: Tu Bồ Đề! Có Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật phương tiện khéo léo tự hành bố thí, cũng
khuyên người hành bố thí, ân cần dạy người rằng: Các thiện nam tử! Chớ chấp
bố thí, nếu chấp bố thí sẽ thọ lại thân, nếu thọ lại thân sẽ vì thân mà chịu
nhiều khổ ải!
Các thiện nam tử! Trong thắng nghĩa đế đều không
có bố thí, cũng không kẻ thí, cũng không kẻ thọ, cũng không vật thí, cũng không quả thí. Các pháp như thế đều không
tánh. Trong Tánh không vô pháp khá lấy, tánh các pháp không cũng chẳng khá lấy.
Như vậy, Tu Bồ Đề! Các Bồ tát Ma ha tát khi tu hành bố thí Ba la mật, dù đối
hữu tình tự hành nơi thí, cũng khuyên người thí, mà đối bố thí, kẻ thí, kẻ thọ,
vật thí quả thí đều vô sở đắc. Bố thí như thế gọi là vô sở đắc Ba la mật. Bồ
tát Ma ha tát này khi đối các pháp đây
vô sở đắc, phương tiện khéo léo, mới năng giáo hóa hữu tình được quả Dự
lưu, hoặc quả Nhất lai, hoặc quả Bất hoàn, hoặc quả A la hán, hoặc Duyên giác, hoặc Bồ tát, hoặc tới Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Như vậy, Tu Bồ Đề!
Các Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật nương pháp bố thí thành thục
hữu tình khiến được lợi vui”.
Bồ tát khi tu hành Bát nhã Ba
la mật nương pháp bố thí thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật cũng chính
là thanh tịnh thân tâm mình. Đó là phương tiện thiện
xảo, tự lợi lợi tha mang lại nhiều công đức cho những ai hành Bát nhã Ba la mật.
- Phẩm “Pháp Giới”, quyển 567, ĐBN, Tối
Thắng Thiên Vương bạch Phật: “Sao gọi Bồ tát phương tiện thiện xảo?
Phật
nói: Thiên vương! Là bốn vô lượng.
Các Bồ tát Ma ha tát vì đủ tâm Đại từ, Đại bi, Đại hỷ, Đại xả, nên thường lợi
vui hữu tình, đấy là phương tiện thiện xảo của
Bồ tát.
Bạch
Thế Tôn! Vì sao bốn vô lượng ấy gọi là Đại?
Thiên vương phải biết: Các Bồ tát Ma
ha tát hành sâu Bát nhã Ba la mật thấy các hữu tình đủ các thứ khổ, không chỗ
về nương, vì muốn cứu vớt phát tâm Bồ đề, siêng cầu Chánh pháp. Đã được Chánh
pháp rồi vì hữu tình tuyên nói: Các kẻ tham lam, dạy hành bố thí. Kẻ không
giới, phá giới, dạy thọ trì giới. Kẻ bạo ác dạy hành nhẫn nhục. Kẻ biếng lười
trễ nhác, dạy hành tinh tiến. Kẻ tâm tán loạn, dạy hành tĩnh lự. Kẻ ngu si, dạy
học diệu huệ. Vì độ hữu tình dù gặp gian khổ, quyết chẳng bỏ lìa tâm Bồ đề. Như
thế gọi là Đại Bi.
Thiên vương phải biết: Các Bồ tát Ma
ha tát hành sâu Bát nhã Ba la mật khởi suy nghĩ này: Ba cõi lửa dữ ta đã ra
khỏi nên sanh vui mừng. Sanh tử ràng buộc nay ta đã dứt, nên sanh vui mừng. Ở
biển sanh tử tìm tòi lấy tướng, ta đã ra khỏi. Cây cờ kiêu mạn đã dựng từ vô
thủy ta đã bẻ gãy. Dùng trí kim cương phá núi phiền não khiến ta tự yên ổn, lại
yên ổn kẻ ngu si tâm tối tham sân si, phiền não trói buộc mê mờ, nay mới được
tỉnh thức, nên sanh vui mừng. Ta nay đã khỏi tất cả ác thú, lại năng cứu vớt
hữu tình ác thú khiến được ra khỏi, nên sanh vui mừng. Hữu tình từ lâu sống
trong sanh tử mê loạn chẳng biết đường ra, ta nay chỉ cho chánh đạo, đều đến
thành đô Nhất thiết trí an vui rốt ráo, nên sanh vui mừng. Như thế thảy gọi là Đại Hỷ.
Thiên vương phải biết: Các Bồ tát Ma
ha tát hành sâu Bát nhã Ba la mật khắp đối tất cả mắt thấy được sắc, tai nghe
được tiếng, mũi ngửi được hương, lưỡi nếm được vị, thân giác được xúc, ý rõ
được pháp, chẳng đắm lìa mà khởi tâm xả. Loại như thế thảy gọi là Đại Xả.
Thiên vương phải biết: Các Bồ tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật
sâu thẳm, trọn nên bốn vô lượng tâm như thế, do đấy gọi là phương tiện thiện xảo”.
Phương tiện thiện xảo phát xuất từ bốn tâm vô lượng Từ Bi Hỷ Xả của
tất cả chư Phật và Bồ tát, thiếu tâm này cuộc đời hành đạo của các Ngài trở
thành tẻ nhạt. Đó chính là mạch sống của chư Phật chư Bồ tát, mạch sống của Đại
thừa.
Bốn thứ tâm lượng rộng lớn đó, nói lên được lòng lân mẫn yêu thương vô
bờ bến của các Ngài đối với muôn loài. Bốn tâm này nhằm đối trị bốn phiền não
là sân hận, ganh tị, buồn bực và tham lam, lại làm lợi ích cho vô lượng vô số
chúng sinh. Nên gọi là tứ vô lượng tâm. Thiếu bốn tâm này, Bồ tát không được
xem là người mặc giáp bị công đức thực thi phương tiện thiện xảo để cứu độ
chúng sanh!
- Phẩm “Phương Tiện Thiện Xảo”, quyển
328 đến quyển 330, Hội thứ I, ĐBN:
“Các Đại Bồ tát khi tu hành
lục Ba la mật, đem tác ý nầy với tất cả thiện căn, cùng các hữu tình bình đẳng
hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Do sức phương tiện thiện xảo hồi hướng
này, mà chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao”.
Đem thiện căn công đức của chính mình bình đẳng ban cho kẻ khác rồi
cùng hồi hướng đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, cũng được xem là phương tiện thiện
xảo.
- Kinh Thắng Thiên Vương Bát Nhã, quyển 4, phẩm “Bình Đẳng”. Phật
bảo:
“Này Đại Vương! Bậc đại Bồ
tát thực hành Bát nhã Ba la mật không có một tâm, một hạnh nào mà không hướng đến
Nhất thiết trí. Bậc đại Bồ tát thực hành Bát nhã Ba la mật duyên khắp các pháp
mà không bị đắm trước, xem thấy các pháp
đều đưa đến giác ngộ nên gọi là phương tiện thiện xảo”.
Phương tiện thiện xảo như vậy, không phải là những chánh sách, những
kế hoạch hay các chương trình hành động to lớn mà bất cứ pháp nào đưa đến giác
ngộ cũng được xem là phương tiện thiện xảo.
2- Các giáo pháp hỗ trợ cho sự thành tựu Giác ngộ:
Ngoài 10 Ba la mật như Bố thí, trì giới, an nhẫn, tinh tấn, thiền
định, Bát Nhã, phương tiện xảo, nguyện, lực và trí Ba la mật được xem là những
phương tiện thiện xảo chính. Tuy nhiên, Kinh nói bất cứ pháp nào dẫn đến giác
ngộ hay thành đạt Bát Nhã đều được xem là phương tiện thiện xảo. Vậy, hãy khảo
cứu xem các giáo pháp sau đây mà Phật bảo là mật ngữ, pháp ấn hay các đại luân
tự thật sự có đóng vai trò quan trọng nào cho sự thành tựu này hay không?
1/. Vô sở hữu(asadbhutatvat), bất khả đắc(anupalabdha) và những dẫn xuất(1) của chúng:
Nơi nào có sở hữu hiện diện thì nơi đó có vô sở hữu, nơi nào có khả
đắc hiện diện thì nơi đó có bất khả đắc hay ngược lại. Cả hai song hành như hai
mặt của một đồng tiền trong cái thế lưỡng nguyên của chúng. Vậy làm sao vô sở hữu,
bất khả đắc có thể chấp cánh bay cao để thoát khỏi sự kiềm tỏa của thế giới
phân hai và trở thành một thứ trực giác thực chứng mà được gọi là “huệ”, huệ đến
từ bờ kia? Những đoạn Kinh được trích dẫn sau đây sẽ giải thích điều đó:
1).- Giáo nghĩa Hữu sở đắc và Vô sở đắc:
- Phẩm “Xảo Tiện”, quyển 462, Hội thứ
II và phẩm “Phương Tiện Khéo léo”, quyển 525, Hội thứ III, ĐBN nói rằng:
“Khả đắc nằm trong thế giới
lưỡng nguyên đối đãi và bất khả đắc lại trong một thế giới vượt lên trên. Bất cứ
ở đâu có tương phản giữa có và không, ở đó có khả đắc tánh và do đó có chấp trước;
vốn là kẻ thù của giác ngộ và giải thoát.
Phật nói với Tu Bồ đề: Những
nơi nào có hai tướng là hữu sở đắc; những nơi nào không hai là vô sở đắc. Khi mắt đối với sắc hay ý đối
với pháp là có hai tướng. Chúng sanh đối với Phật là hai tướng. Pháp nương tựa
hai tướng là pháp hý luận, thuộc cõi hữu
sở đắc.
Phi mắt phi sắc, phi tai phi
thanh, phi ý phi pháp, cho đến phi giác phi Phật; lìa hết thảy hý luận như thế,
đó là vô nhị, không hai. Đó là chỗ vô sở
đắc.
Tu Bồ đề bạch Phật: Bạch thế
Tôn! Phải chăng vì hữu sở đắc nên là vô sở đắc hay vì vô sở đắc nên vô sở đắc?
Phật nói: Không phải do hữu
sở đắc nên vô sở đắc. Nhưng vì hữu sở đắc vô sở đắc đều bình đẳng trong tự tánh nên gọi là vô sở đắc. Bồ tát khi học
như thế, gọi là học Bát nhã Ba la mật trong nghĩa vô sở đắc, lìa bỏ các sai lầm.
Tu Bồ đề lại bạch Phật: Bạch
thế Tôn! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi thực hành Bát nhã Ba la mật sâu xa, không
dính hữu sở đắc, không dính vô sở đắc, Bồ tát đó làm thế nào tu hành thậm thâm
Bát nhã Ba la mật có thể từ một địa vị tiến lên một địa vị, dần dần đến chỗ
tròn đầy mà chứng đắc Nhất thiết trí?
Phật bảo tu Bồ đề: Bồ tát
khi thực hành Bát Nhã sâu xa, không phải trụ hữu sở đắc, không phải trụ vô sở đắc,
thực hành Bát Nhã sâu xa có thể từ một địa vị tiến lên một địa vị dần dần tròn
đầy mà chứng đắc Nhất thiết trí. Vì sao? Bát
nhã Ba la mật thậm thâm là vô sở đắc, Nhất thiết trí cũng vô sở đắc; người thực
hành thực hành Bát nhã Ba la mật, chỗ thực hành và khi thực hành, tất cả đều vô
sở đắc. Vô sở đắc này cũng là vô sở đắc nốt!”
Chẳng phải có sở đắc nên vô sở đắc, chẳng phải
vô sở đắc nên vô sở đắc. Nhưng có sở đắc, không sở đắc bình đẳng trong tự
tánh gọi vô sở đắc. Các đại Bồ tát đối với tánh bình đẳng có sở đắc, không sở đắc nên
siêng tu học. Các đại Bồ tát khi học như thế gọi
học Bát nhã Ba la mật vô sở đắc.
Các đại Bồ tát khi hành Bát
nhã Ba la mật chẳng phải trụ có
sở đắc mà được từ một bậc đến một bậc lần hồi viên mãn
Nhất thiết trí trí, chẳng phải trụ vô sở đắc mà được từ một bậc đến một bậc lần hồi viên mãn
được Nhất thiết trí trí. Vì có sở đắc là có chấp, có chấp là có dính mắc quái ngại. Vì vậy,
không Giác ngộ, không được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh giác hay Nhất thiết trí
trí. Nên Phật bảo: “Vô sở đắc
là tướng của Bát nhã Ba la mật, vô sở đắc là tướng của Vô Thượng Bồ Đề, vô sở đắc
cũng là tướng của người hành Bát nhã Ba la mật”. Ở đây, vô sở đắc đã được nâng lên cao độ ngang hàng với Bát nhã Ba la mật hay Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Nhưng Kinh nghiệm Bát nhã Ba la mật cho thấy rằng một khi quan niệm vô sở đắc là tôn chỉ tối cao của Bát nhã Ba la mật, thời vô sở đắc cũng trở thành một chướng ngại
khác đối với hành giả Bát Nhã. Vô sở đắc rốt ráo phải là vô sở đắc nốt. Tất cả phải là không, là rỗng không. Đó là tôn chỉ Bát nhã Ba la mật! Bát nhã Ba la mật phải là Bát nhã Ba la mật khi hành không, vô tướng, vô tác. “Bát
nhã Ba la mật thậm thâm là Vô sở đắc, Nhất thiết trí trí cũng là Vô sở đắc; người
thực hành Bát Nhã, chỗ thực hành và khi thực hành, tất cả cũng đều Vô sở đắc;
Vô sở đắc này cũng là Vô sở đắc nốt”.
Tất cả phóng xả(2), phủi sạch hết thế là xong! Đó là phương tiện tốt
trong việc tu tập Bát nhã Ba la mật để
Giác ngộ. Ngày nào còn mong cầu nắm giữ cất dấu thì ngày đó còn trở ngại cho việc
tu học hay chứng đắc.
- Phẩm “Vô Tướng”, quyển 466, Hội thứ
II, ĐBN. Phật bảo:
“... Thiện Hiện phải biết, kẻ trụ có sở đắc, bởi tưởng có sở
đắc, không đắc, không hiện quán, cũng không được Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật rằng: Bạch thế Tôn! Nếu kẻ có sở đắc, sẽ không đắc, không hiện quán, cũng không được Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Kẻ không sở đắc, sẽ có đắc, có hiện quán, có được Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề chăng?
Phật bảo: Thiện Hiện! Nếu không sở đắc, tức là đắc, tức là hiện quán, tức là Vô Thượng Chánh Đẳng
Bồ đề. Vì sao? Vì kẻ đó chẳng hoại pháp giới vậy”.
“... Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch
Phật rằng: Bạch thế Tôn! Nếu kẻ có sở đắc, sẽ không đắc, không hiện quán, tức là Vô Thượng Chánh Đẳng
Bồ đề hay không sở đắc tức là đắc, tức là hiện quán, tức là Vô Thượng Chánh Đẳng
Bồ đề?
Trong vô sở đắc,
không đắc, không hiện quán cũng không được
Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, các Bồ tát Ma ha
tát làm sao được từ sơ địa lên đến thập địa? Làm
sao được Vô sanh pháp nhẫn? Làm sao được dị thục(3) thần
thông? Làm sao được dị thục bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật? Làm sao an trụ pháp sanh dị thục như thế để thành thục hữu tình, nghiêm tịnh
cõi Phật. Ở chỗ chư Phật cung kính cúng dường các món thượng diệu để được căn
lành, cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề cùng quả bất tận, lần lữa
cho đến sau vào Niết bàn, Thiết lợi la mình và các đệ tử vẫn được người đời
cung kính cúng dường thế lực căn lành như vậy mới bất tận?
Phật bảo:
Thiện Hiện! Vì tất
cả pháp vô sở đắc nên các Bồ tát Ma ha tát được sơ địa
cho đến thập địa.
Tức do đây nên được Vô sanh pháp nhẫn. Tức do đây nên được dị thục thần thông.
Tức do đây nên được dị thục bố thí cho đến Bát Nhã.
Tức do đây nên được an trụ pháp sanh dị thục, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh
cõi Phật. Ở chỗ chư Phật cung kính cúng dường các món thượng diệu mới được căn
lành, cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề cùng quả bất tận, lần lữa
cho đến sau vào Niết bàn, Thiết lợi la mình và các đệ tử vẫn được người đời
cung kính cúng dường thế lực căn lành vậy mới bất tận.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật rằng: Bạch thế Tôn! Nếu tất cả pháp đều vô sở đắc, bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến,
tĩnh lự, Bát Nhã và các thần thông có gì sai
khác?
Phật bảo:
Thiện Hiện! Vô sở đắc ấy, bố thí kể cả năm Ba la mật
kia và các thần thông đều không sai khác. Nhưng
vì muốn khiến kẻ có sở đắc kia lìa chấp
đắm, phương tiện tuyên nói bố thí cùng năm Ba la mật
kia và các thần thông có tướng sai khác”.
Đoạn kinh này chỉ khai triển thêm đoạn kinh trên. Có sở đắc, thời không đắc, không hiện quán, không đắc Vô Thượng Chánh Đẳng
Bồ đề. Nhưng không sở đắc, tức là đắc, tức là hiện quán, tức đắc Vô Thượng
Chánh Đẳng Bồ đề. Nếu trong “không sở đắc” muốn đắc, muốn hiện
quán, muốn chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, Phật bảo là phá hoại pháp giới.
Vì hữu sở đắc hay vô sở đắc là nhị pháp, nhưng pháp Phật là pháp môn bất nhị. Tuy biết hoặc
đắc hoặc chẳng đắc tất cả các thiện pháp mà Bồ tát vẫn tu tất cả các thiện pháp. Cho đến tuy biết hoặc đắc hoặc chẳng đắc Nhất thiết trí trí mà Bồ tát vẫn tu Nhất thiết trí trí. Hoặc đắc hoặc chẳng đắc hữu tình mà
thành thục hữu tình. Hoặc đắc hoặc chẳng đắc cõi Phật mà nghiêm tịnh cõi Phật v.v... Vì biết tất cả pháp đều vô sở hữu, bất khả đắc, Bồ tát vì
chúng sanh làm Phật sự, chẳng rời bỏ hữu tình. Đó chính là lòng lân mẫn của Bồ
tát đạo
Nên đem tâm ly tướng vô lậu lìa đắm lìa nhiễm, tu các thiện pháp mà chẳng thấy tâm vô lậu cũng chẳng thấy tất cả Phật
pháp, các Bồ tát này khi thực hành Bát Nhã thậm thâm như thế năng đối với pháp vô tướng, vô tác chóng viên mãn các Ba la mật, cũng
năng tròn đầy các công đức khác. Đó gọi là tu vô tướng và tu vô tướng đây là tu
Bát Nhã hay tịnh đạo Bồ đề.
Chính nhờ tu vô sở hữu, bất
khả đắc như vậy mới mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì vậy, phải nói vô sở
hữu, bất khả đắc vô hình chung trở thành Thánh chỉ, một phương tiện hữu hiệu
trong việc tu hành Bát nhã Ba la mật để được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề!
- Phẩm “Thấy Bất Động”, quyển 521, Hội
thứ III, ĐBN nói về năng chứng, sở chứng, sở hành…của Bồ tát trọn bất khả đắc
như sau:
“Các Bồ tát Ma ha tát sở chứng
nghĩa thú trọn bất khả đắc, năng chứng Bát nhã Ba la mật cũng bất khả đắc, pháp
chứng, kẻ chứng, chỗ chứng, thời chứng cũng bất khả đắc.
Cụ thọ Tu Bồ Đề trình Phật:
Bạch Thế Tôn! Các Bồ tát Ma ha tát quán tất cả pháp bất khả đắc, thì có nghĩa
thú nào khá làm sở chứng, có Bát nhã Ba la mật nào khá làm năng chứng, lại có
những gì mà thi thiết được pháp chứng, kẻ chứng, chỗ chứng, thời chứng. Như vậy,
vì sao chấp do đây chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề? Thanh văn hay Duyên
giác hãy chẳng thể chứng, huống chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Bạch Thế Tôn!
Nếu hành như thế đấy gọi Bồ tát hành vô sở đắc. Nếu Bồ tát
Ma ha tát năng hành các hành vô sở đắc
như thế, đối tất cả pháp không bị ám
chướng. Bạch Thế Tôn! Nếu Bồ tát Ma ha tát nghe như thế mà tâm chẳng chìm đắm,
cũng chẳng buồn hối, chẳng kinh, chẳng sợ là hành Bát nhã Ba la mật.
Bạch Thế Tôn! Bồ tát Ma ha
tát này khi hành như thế chẳng thấy các tướng, chẳng thấy ta hành, chẳng thấy
chẳng hành, chẳng thấy Bát nhã Ba la mật là sở hành của ta, chẳng thấy Vô Thượng
Chánh Đẳng Bồ đề là sở chứng của ta, cũng lại chẳng thấy cả xứ thời và chứng”.
Hành Bát nhã Ba la mật
mà không thấy pháp chứng, kẻ chứng, chỗ chứng, thời chứng cũng chẳng thấy năng hành sở
hành. Nếu hành vô sở đắc như thế, thời
đối với tất cả pháp không bị ám chướng. Đó là câu nói cảnh giác thường xuyên
trong Đại Bát Nhã. Hành như vậy thì tâm chẳng
chìm đắm, cũng chẳng buồn hối, chẳng kinh, chẳng sợ là hành Bát Nhã, mau chứng
Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
- Phẩm “Vô Sở Đắc”, quyển 63, Hội thứ I,
ĐBN. Thiện Hiện nói:
“Xá Lợi Tử! Chơn như như hư
không; pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, bất tư
nghì giới, hư không giới, đoạn giới, ly giới, diệt giới, bình đẳng tánh, ly
sanh tánh, pháp định, pháp trụ, cảnh giới vô tánh, cảnh giới vô tướng, cảnh giới
vô tác, cảnh giới vô vi, cảnh giới an ổn, cảnh giới tịch tịnh, bổn vô, thật tế,
cứu cánh Niết bàn như hư không. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì hư không, khoảng trước chẳng thể nắm bắt được(4), khoảng sau
chẳng thể nắm bắt được, khoảng giữa chẳng thể nắm bắt được, vì biên giới trong
đó chẳng thể nắm bắt được nên nói là hư không. Chơn như cho đến cứu cánh Niết
bàn cũng như vậy, khoảng trước chẳng thể nắm bắt được, khoảng sau chẳng thể nắm
bắt được, khoảng giữa chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tánh của chơn như là không; vì tánh của pháp giới cho đến cứu cánh
Niết bàn là không. Trong cái không, khoảng trước chẳng thể nắm bắt được, khoảng
sau chẳng thể nắm bắt được, khoảng giữa chẳng thể nắm bắt được, vì biên giới
trong đó hoàn toàn chẳng thể nắm bắt được, nên nói là không”.
Không nắm bắt được có nghĩa là bất khả đắc. Tại sao? Vì không có
gì là sở hữu, không có gì là sở chứng thì nắm bắt cái gì? Nói như thế nhưng
không phải thế. Không phải là không có sở hữu, khả đắc, cũng không phải là
không có sở chứng. Có tất cả, nhưng vì nghĩ tưởng mong cầu nắm bắt, nên không
được không đắc. Vì vậy, nên nói là không, chứ không phải là không có gì. Có đắc
là không đắc, có chứng là không chứng. Không đắc, không chứng mới đắc, mới chứng.
Đây không phải là nghịch lý của Bát Nhã mà đây tình
thần vô trụ vô đắc của Bát nhã Ba la mật.
- Phần “Na Già Thất Lợi”, quyển 576, Hội thứ
VIII, ĐBN. Bồ tát Long Cát Tường nói “hành hữu sở đắc” như sau:
“Nếu chúng Bồ tát đối với các pháp có chút phần chấp trước, đấy thời gọi là
hành hữu sở đắc.
Nếu các
Bồ tát khởi nghĩ này: Ta đối vấn đề thậm thâm thảy năng hiểu rõ. Đấy thời là
hành hữu sở đắc.
Nếu các
Bồ tát khởi nghĩ rằng: Ta là kẻ trọn nên nhẫn. Đấy thời gọi là hành hữu sở đắc.
Nếu các
Bồ tát khởi nghĩ rằng: Ta đối các nghĩa đều năng hiểu rõ. Đấy thời gọi là hành
hữu sở đắc.
Nếu các
Bồ tát khởi nghĩ rằng: Ta đối các pháp đều năng giác trọn. Đấy thời gọi là hành
hữu sở đắc.
Nếu các
Bồ tát khởi nghĩ rằng: Ta năng hiểu rõ bản tánh các pháp. Đấy thời gọi là hành
hữu sở đắc.
Nếu các
Bồ tát khởi nghĩ rằng: Ta năng tu hành các đạo Bồ tát. Đấy thời gọi là hành hữu
sở đắc .
Nếu các
Bồ tát khởi nghĩ rằng: Ta năng nghiêm tịnh cõi Phật. Đấy thời gọi là hành hữu sở
đắc.
Nếu các
Bồ tát khởi nghĩ rằng: Ta năng thành thục các loại hữu tình. Đấy thời gọi là
hành hữu sở đắc.
Nếu các
Bồ tát khởi nghĩ rằng: Ta đối Bồ đề quyết định sẽ chứng. Đấy thời gọi là hành hữu
sở đắc.
Nếu các
Bồ tát khởi nghĩ rằng: Ta định năng quay xe pháp Vô thượng. Đấy thời gọi là
hành hữu sở đắc.
Nếu các
Bồ tát khởi nghĩ rằng: Ta năng cứu vớt các loại hữu tình. Đấy thời gọi là hành
hữu sở đắc.
Nếu các
Bồ tát khởi nghĩ rằng: Ta có sở hành, ta có sở chứng. Đấy thời gọi là hành hữu
sở đắc.
Nếu các
Bồ tát khởi nghĩ rằng: Ta năng tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến,
tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật. Đấy thời gọi là hành hữu sở đắc.
Nếu các
Bồ tát khởi nghĩ rằng: Ta năng tu hành tứ niệm xứ cùng ba mươi bảy phần pháp Bồ
đề. Đấy thời gọi là hành hữu sở đắc.
Nếu các
Bồ tát khởi nghĩ rằng: Ta năng tu hành tĩnh lự, vô lượng, đẳng trì, đẳng chí, Đà la ni
môn. Đấy thời gọi là hành hữu sở đắc.
Nếu các
Bồ tát khởi nghĩ rằng: Ta năng chứng Như Lai mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại
giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả và mười tám pháp Phật bất cộng thảy vô lượng
vô biên diệu pháp chư Phật. Đấy thời gọi là hành hữu sở đắc nên sẽ không đắc vô sanh pháp nhẫn”.
Có sở
hành, có sở đắc còn không đắc, không hiện quán huống chi tự mình cho là: Ta
hành Bố thí, ta tu tịnh giới, ta đắc Bát Nhã... tức đem cái ngã, ngã sở để
hành. Hành như vậy là có chấp đắm. Có chấp đắm là có vướng mắc, có buông bỏ nắm
bắt tức có trói buộc thì Bát Nhã không còn ở đó nữa!
2).- Giáo nghĩa Vô sở hữu trong Kinh
ĐBN:
- Phẩm “Hành Tướng”, quyển thứ 03, MHBNBLMĐ,
nói về các pháp vô sở hữu, như sau:
“Bạch Thế Tôn! Thật tướng
các pháp như thế nào?
Nầy Xá Lợi Phất! Các pháp vô
sở hữu, hữu như vậy, vô sở hữu như vậy. Nếu như vậy mà chẳng biết thời gọi là vô
minh.
Bạch Thế Tôn! Những gì là vô
sở hữu, mà chẳng biết nên gọi là vô minh?
Nầy Xá Lợi Phất! Ngũ ấm đến
thập bát giới là vô sở hữu, tứ niệm xứ đến bất cộng pháp là vô sở hữu. Tại sao
vậy? Vì là nội không, nhẫn đến vô tánh tự Tánh không vậy.
Ở trong đây, vì sức vô minh làm cho khát ái nên phàm phu
tục tử vọng thấy phân biệt. Đây gọi là vô minh. Phàm phu nầy bị nhị biên trói
buộc nên chẳng biết, chẳng thấy các pháp vô sở hữu. Do đây mà nhớ tưởng phân biệt
chấp trước nơi sắc, nhẫn đến pháp bất cộng.
Nơi pháp vô sở hữu, vì chấp
trước nên người này sanh ra phân biệt: Cái biết, cái thấy. Đây là kẻ phàm phu
chẳng biết, chẳng thấy. Chẳng thấy, chẳng biết những gì? Chẳng thấy, chẳng biết
sắc, nhẫn đến chẳng thấy chẳng biết pháp bất cộng. Do duyên cớ nầy mà sa vào hàng
phàm phu như trẻ nít. Người nầy chẳng thoát khỏi. Chẳng thoát khỏi chỗ nào? Chẳng
thoát khỏi Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới; chẳng thoát khỏi pháp của Thanh
Văn, Duyên giác. Người nầy cũng chẳng tin. Chẳng tin những gì? Chẳng tin sắc
không, nhẫn đến chẳng tin pháp bất cộng không. Người nầy cũng chẳng an trụ. Chẳng
an trụ nơi đâu? Chẳng an trụ nơi lục Ba la mật, chẳng an trụ bực bất thối chuyển,
nhẫn đến chẳng an trụ pháp bất cộng.
Do duyên cớ nầy mà gọi là
phàm phu như trẻ nít. Cũng gọi là kẻ chấp trước. Chấp trước những gì? Chấp trước
sắc, nhẫn đến ý thức giới, chấp trước tham, nhẫn đến tà kiến, chấp trước tứ niệm
xứ, nhẫn đến Phật đạo”.
Tất cả pháp là không, vô sở hữu. Nếu biết như vậy thì không bị
pháp trói. Vì cho pháp là thật có, nên phân biệt chấp đắm, rồi sanh tâm hành
sai khác: Nắm bắt, buông bỏ, tung hứng... Đó là hành theo phân biệt, hành theo
tham ái, hành có sở đắc, nên nói là “mất tâm”.
3).- Giáo nghĩa Vô sở hữu, Bất khả đắc:
- Phẩm “Tu Bồ Đề”, quyển 485, Hội thứ
III, ĐBN. Tu Bồ đề bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn! Bồ Tát Ma ha
tát này khi tu hành Bát nhã Ba la mật cần quan sát kỹ, nếu pháp vô sở hữu bất khả đắc, đấy là Bát nhã Ba la mật.
Khi ấy, Xá Lợi Phất hỏi Tu Bồ Đề rằng: Trong đây pháp nào gọi vô sở hữu bất
khả đắc?
Tu Bồ Đề đáp rằng: Chỗ gọi
Bát nhã Ba la mật cho đến bố thí Ba la mật vô sở hữu bất khả đắc. Bởi vì nội
không cho đến vô tánh tự Tánh không vậy.
Xá Lợi Phất! Sắc cho đến thức vô
sở hữu bất khả đắc. Nội không cho đến vô tánh tự Tánh không vô sở hữu bất
khả đắc. Bốn niệm trụ cho đến tám Thánh đạo chi vô sở hữu bất khả đắc. Năm
nhãn, sáu thần thông vô sở hữu bất khả đắc. Phật mười lực cho đến mười tám pháp
Phật bất cộng vô sở hữu bất khả đắc. Chơn như cho đến thật tế vô sở hữu bất khả
đắc. Dự lưu cho đến Duyên giác vô sở hữu bất khả đắc. Bồ Tát, chư Phật vô sở hữu
bất khả đắc. Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết chủng trí vô sở hữu bất
khả đắc. Bởi vì nội không cho đến vô tánh tự Tánh không vậy.
Xá Lợi Phất! Nếu Bồ Tát Ma ha tát tu hành Bát nhã Ba la mật quan sát và
tư duy như vậy, thì tâm chẳng kinh, chẳng sợ, chẳng hãi, chẳng chìm đắm, cũng
chẳng ưu hối. Phải biết Bồ Tát Ma ha tát này năng đối Bát nhã Ba la mật này thường
chẳng lìa bỏ”.
Tất cả pháp là không, vô sở hữu, bất khả đắc kể cả các pháp Phật.
Thật là ngược đời. Nhưng một khi móng khởi chứng đắc pháp này pháp nọ tức là
còn mong cầu, nắm bắt thì sẽ không bao giờ toại nguyện, vì còn sở đắc. Nên Kinh
nói “nếu pháp vô sở hữu bất khả đắc, đấy là Bát nhã Ba la mật”. Nếu quan sát và tư duy như
vậy tâm chẳng kinh, chẳng sợ... thì có khả năng tu hành Bát Nhã mà chẳng xa
lìa.
- Phẩm “Bồ Tát”, quyển 45, Hội thứ I, ĐBN. Phật bảo:
“... Như ý nghĩa đích thực của cảnh mộng, ý nghĩa đích thực
của bóng nước, ý nghĩa đích thực của bóng sáng, ý nghĩa đích thực của hoa đóm
trong hư không, ý nghĩa đích thực của ảnh tượng, ý nghĩa đích thực của tiếng
vang, ý nghĩa đích thực của ảo thành, ý nghĩa đích thực của trò ảo thuật, vô sở hữu, bất khả đắc. Ý nghĩa đích
thực của Bồ tát, vô sở hữu, bất khả đắc, cũng như vậy.
(...) Như ý nghĩa đích thực của vô sanh, vô diệt, vô tác,
vô vi, vô đắc, vô thủ, vô nhiễm, vô tịnh, đều vô sở hữu, bất khả đắc, đại Bồ
tát, khi tu hành Bát nhã Ba la mật, quán ý nghĩa đích thực của Bồ tát, vô sở
hữu, bất khả đắc, cũng như vậy.
(...) Vì ý nghĩa đích thực của, hoặc là Bồ đề, hoặc là Tát
đỏa, hoặc là Bồ tát, tất cả như vậy đều là chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng
tương ưng, không sắc, không thấy, không đối chỉ thuần một tướng, chỗ gọi là vô
tướng.
(...) Các đại Bồ tát đối với tất cả pháp, đều vô sở hữu,
không ngại, không đắm; nên học, nên biết!”
Ý nghĩa đích thực
của tất cả pháp đều như trò huyễn, như bèo bọc sương khói, như hoa đóm giữa hư
không... nên nói là không, vô sở hữu, không thể nắm bắt được. Ý nghĩa đích thực
của cái gọi là vô sanh vô diệt, vô nhiễm vô tịnh, vô thủ vô đắc... cũng vô sở
hữu, không thể nắm bắt cũng lại như vậy. Cả đến hoặc Bồ đề, hoặc Tát đỏa hoặc
Bồ đề Tát đỏa hoặc Bồ tát cũng vô sở hữu, bất khả đắc thì mong cầu nắm bắt làm
gì cho luống uổng nhọc nhằn! Vì vậy, “các đại Bồ tát đối với tất cả pháp, đều
vô sở hữu, bất khả đắc thì không ngại, không đắm. Phải nên học, nên biết như
thế!”
Kinh nói: “... pháp vô
sở hữu bất khả đắc đó chính là Bát nhã Ba la mật”(5). Tới đây, chúng
ta có thể khẳng định vô sở hữu, bất khả đắc đóng vai trò quan trọng trong việc
thành tựu Bát nhã Ba la mật. Nhưng khởi thỉ vô sở hữu,
bất khả đắc chỉ được xem như là phương tiện đóng góp cho sự thành tựu này. Qua
thời gian, càng dấn thân vào tu hành qua thực chứng, hành giả Bát Nhã thấy rằng
càng mong cầu nắm bắt thì Bát Nhã càng xa khỏi tầm tay. Chỉ khi nào từ bỏ không
còn mong cầu, nắm bắt, lấy bỏ nữa... thì mới hy vọng đạt ngộ. Nhưng chắc phải
một phen vất vả lắm hành giả Bát Nhã mới phát hiện kinh nghiệm thực chứng này:
Bát nhã Ba la mật là vô sở hữu bất khả đắc, vô sở hữu bất khả đắc chính là Bát
nhã Ba la mật.
Cái gì xưa kia được xem là phương tiện, thì bây giờ biến thành cứu
cánh. Kinh nói: “Vô sở đắc là tướng của
Bát nhã Ba la mật; vô sở đắc là tướng của Vô Thượng Bồ Đề; vô sở đắc cũng là tướng
của người hành Bát nhã Ba la mật”. Không
những vô sở đắc mà vô sở hữu cũng được nâng lên cùng một cấp bậc như vô sở đắc
hay bất khả đắc. Cái sở hữu biến thành vô sở hữu, cái khả đắc biến thành bất khả
đắc hay ngược lại.
Vô sở hữu, bất khả đắc khi được hiểu ra như vậy thì không những được
xem là những điều kiện cần thiết trong việc tu tập và thực hành để thành tựu
giác ngộ hay Bát Nhã mà chúng tự giải phóng để trở thành Thánh trí tự giác. Một
thứ trực giác thực chứng từ bờ bên kia, được xiển dương xuyên suốt Kinh điển Phật
học không riêng gì Bát nhã Ba la mật. Ở đâu, bất cứ pháp hội nào, bất cứ Kinh
điển nào cũng đều nói đến các cụm từ này. Hơn bao giờ hết, bây giờ vô sở hữu, bất
khả đắc trở thành Thánh chỉ cần thiết
trong việc tu tập và thực hành Bát Nhã nói riêng hay các pháp môn Phật học nói
chung. Vì vậy, vô sở hữu, bất khả đắc được định nghĩa là “tên khác của không”, không này là Tánh không, không này là Bát nhã Ba la mật hay là huệ, huệ đến từ bờ kia.
Trên đây đã thuyết xong hai pháp quan trọng trong sự đóng góp vào
thành quả giác ngộ là Vô sở hữu và Bất khả đắc. Sau đây là các pháp nói về vô
tướng, vô tánh, tự tánh, vô Tánh không, tự Tánh không và vô tánh tự Tánh
không... Các pháp này cũng đóng một vai trò hết sức quan trọng trong việc thành
tựu Giác ngộ vì liên hệ mật thiết với Tánh không Bát Nhã. Luận giải về các pháp
này chính là luận giải phần lớn 18 pháp không trong Bát nhã Ba la mật. Những đoạn Kinh được trích dẫn
kèm theo đây chứng tỏ ảnh hưởng tích cực của chúng trong việc tu hành Bát nhã
Ba la mật.
2/. Vô tướng: Nếu thâm
nhập vô tướng tức giải thoát hay nói là vượt qua cổng giải thoát không, vô tướng,
vô nguyện.
1).- Vô
tướng: (Nói vô tướng để phá cái chấp về tướng).
Kinh
thường nói các pháp không có tướng tức là vô
tướng. Nếu hiểu ra các pháp vô tướng thì không chấp tướng nên nói là không
bị tướng che. Đó cũng chính là hệ quả của các pháp dẫn xuất từ Tánh không. Có
thể nói đây là lối diễn đạt khác, nhờ đó giúp chúng ta thoát khỏi sự câu thúc
bởi những gì gọi là nội và ngoại, để dọn đường cho sự thành tựu Thánh trí. Một
khi trí này thành tựu thì vô tướng cũng có thể được xem như là huệ, huệ từ bờ
kia trong việc ứng cơ tiếp vật.
- Phẩm “Diệu Tướng”, quyển 530, Hội thứ III,
ĐBN. Phật bảo cụ thọ Tu Bồ Đề:
“…Tu Bồ Đề! Các Bồ
tát Ma ha tát khi hành sâu Bát nhã Ba la mật, từ sơ phát tâm cho đến Vô Thượng
Chánh Đẳng Bồ đề thường nên khéo học tự
tánh các pháp. Nếu khéo học được tự tánh các pháp thời năng khéo tịnh được
đạo Bồ đề. Cũng năng viên mãn các hạnh Bồ tát, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh
cõi Phật. An trụ pháp này mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, đem pháp Tam
thừa phương tiện điều phục các loại hữu tình, khiến đối ba cõi chẳng lộn quanh
nữa, được vào Niết bàn an vui rốt ráo.
Như vậy, Tu Bồ Đề!
Các Bồ tát Ma ha tát nên đem vô tướng mà
làm phương tiện tu học Bát nhã Ba la mật khiến mau viên mãn. Nếu tu Bát nhã
Ba la mật mau được viên mãn, tức năng nhiếp thọ được tất cả Phật pháp. Nhờ đây
chứng được Nhất thiết trí trí, cùng đời vị lai lợi vui hữu tình”.
Phật bảo muốn năng tịnh đạo Bồ đề thì phải học tự tánh các
pháp, nhưng phải đem vô tướng làm phương tiện tu học Bát nhã Ba la mật, mới mau
viên mãn.
- Phẩm “So Lường Công Đức”, quyển 129, Hội
thứ I, ĐBN, Phật bảo:
“… Bát nhã Ba la mật nầy
không tướng, không trạng, không ngôn, không thuyết, chẳng phải có tướng, có trạng,
có ngôn, có thuyết, cho nên Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác biết tất cả pháp là
không tướng, không trạng, không ngôn, không thuyết mà chứng đắc quả vị Giác ngộ
tối cao, vì các hữu tình thuyết tất cả
pháp là vô tướng, vô trạng, vô ngôn, vô thuyết”.
Do biết tất cả pháp vô tướng, vô trạng, vô ngôn, vô thuyết mà Như
Lai chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao. Còn chúng sanh biết tất cả pháp như thế
nào? Chúng sanh biết tất cả pháp xuyên qua tướng trạng. Cái thấy của chúng sanh
lúc nào cũng đòi hỏi phải có đối tượng. Có đối tượng mới gọi là thấy, không có
đối tượng nói là không thấy. Đối tượng của vật thể không ngoài hình sắc danh tướng.
Vì thấy tướng như thế nên bị tướng che. Thấy tướng nhưng không chấp tướng mà biết
quay trở lại tự mình kiến chiếu tận nguồn tâm tức thấy tánh, đó là cái thấy đặc biệt, nên nói là chứng tánh.
- Phẩm “Phật Mẫu”, quyển 306, phẩm “Chỉ
Tướng”, bắt đầu quyển 443, Hội thứ II hay phẩm “Hiện Thế Gian”, quyển 510, Hội
thứ III, ĐBN, giải thích một cách vắn tắt tất cả các pháp Phật là vô tướng, như
sau:
“Bấy giờ, Phật dạy các Thiên
tử:
- Đúng vậy! Đúng như lời các
ông đã nói! Thiên tử nên biết! Như Lai
giác biết như thật tướng tất cả pháp là vô tướng, đã gọi biến ngại là tướng
của sắc, lãnh nạp là tướng của thọ, giữ lấy hình tượng là tướng của tưởng, tạo
tác là tướng của hành, liễu biệt là tướng của thức, Như Lai như thật giác ngộ
chúng là vô tướng. Tập hợp khổ não
là tướng của uẩn, cửa sanh trưởng là tướng của xứ, nhiều độc hại là tướng của
giới, Như Lai như thật giác ngộ chúng là vô
tướng. Có thể ban cho là tướng bố thí, không nhiệt não là tướng tịnh giới,
không tức giận là tướng an nhẫn, không gì có thể hàng phục là tướng tinh tấn,
không tán loạn là tướng tịnh lự, không chấp trước là tướng Bát Nhã, Như Lai như
thật giác ngộ chúng là vô tướng. Vô
sở hữu là tướng pháp nội Không v.v... , chẳng điên đảo là tướng chơn như
v.v..., chẳng hư vọng là tướng bốn Thánh đế, Như Lai như thật giác ngộ chúng là
vô tướng. Không phiền não là tướng bốn
tịnh lự, không giới hạn ngăn ngại là tướng bốn vô lượng, không ồn ào, hỗn tạp
là tướng bốn định vô sắc, Như Lai như thật giác ngộ chúng là vô tướng. Không trói buộc là tướng tám
giải thoát, chẳng tán loạn là tướng chín định thứ đệ, có thể xa lìa là tướng ba
mươi bảy Bồ đề phần pháp, Như Lai như thật giác ngộ chúng là vô tướng. Hay xa lìa là tướng pháp môn
giải thoát không, không chấp thủ là tướng pháp môn giải thoát vô tướng, nhàm
chán các khổ là tướng pháp môn giải thoát vô nguyện, Như Lai như thật giác ngộ
chúng là vô tướng. Bao gồm quả vị
thanh tịnh là tướng của ba thừa mười địa, hướng đến quả Đại Giác là tướng mười
địa Bồ tát, Như Lai như thật giác ngộ chúng là vô tướng. Hay quán chiếu là tướng năm loại mắt, không trì trệ, ngăn
ngại là tướng sáu phép thần thông, Như Lai như thật giác ngộ chúng là vô tướng. Khó khuất phục là tướng mười
lực Như Lai, không khiếp sợ là tướng bốn điều không sợ, không đoạn tuyệt là tướng
bốn sự hiểu biết thông suốt, đem lại lợi lạc là tướng đại từ, cứu khổ là tướng
đại bi, vui mừng với các việc thiện là tướng đại hỷ, bỏ việc ồn ào, phức tạp là
tướng đại xả, không gì có thể đoạt là tướng mười tám pháp Phật bất cộng, Như
Lai như thật giác ngộ chúng là vô tướng.
Hay trang sức là tướng của tướng hảo, hay nhớ nghĩ là tướng của pháp không quên
mất, không chấp trước là tướng của tánh luôn luôn xả, Như Lai như thật giác ngộ
chúng là vô tướng. Giữ gìn khắp là
tướng tất cả pháp môn Đà la ni, hộ trì các thọ là tướng tất cả pháp môn Tam ma
địa, Như Lai như thật giác ngộ chúng là vô
tướng. Thọ giáo hoàn toàn là tướng quả Thanh văn thừa, tự khai ngộ là tướng
Độc giác Bồ đề, hướng đến đại quả là tướng Bồ tát hạnh, đủ đại dụng là tướng quả
vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật, Như Lai như thật giác ngộ chúng là vô tướng. Hiện Chánh Đẳng Giác là tướng
Nhất thiết trí, thông đạt hoàn toàn là tướng Đạo tướng trí, hiện tất cả sự giác
tri khác nhau là tướng Nhất thiết tướng trí, Như Lai như thật giác ngộ chúng là
vô tướng.
Thiên tử nên biết! Đối với tất cả pháp tướng này, tất cả Như
Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều có thể như thật giác biết là vô tướng. Do đó,
Ta nói chư Phật chứng được trí vô ngại, không ai có thể sánh bằng”.
Lạ lùng thấy tất cả pháp kể trên từ uẩn xứ giới cho đến Nhất thiết
tướng trí tức tất cả pháp Phật, còn gọi là các thiện pháp, các pháp hy hữu, tư
lương Bồ đề Bồ tát... mà Phật giác biết là vô tướng. Đây là lối diễn tả độc
đáo. Tại sao Phật giác biết là vô tướng? Vì chúng sanh chỉ an trụ trong hư vọng,
danh tướng, phân biệt, chấp đắm... nên quên tâm, tức là chân tâm sẵn có nơi
mình mà vọng ngoại tìm cầu. Phật bảo chỉ khi nào như thật giác biết tất cả pháp
là vô tướng thì gạt bỏ được hư vọng, phân biệt, chấp đắm không những về tướng
mà cả phi tướng nữa... thì mới chứng tánh nên được trí vô ngại. Đây là lời dạy
đầy trí tuệ không gì hơn! Đoạn Kinh sau đây của Kinh MHBNBLMĐ nói rõ ý này:
- Phẩm “Thiện Đạt”, quyển thứ 27, MHBNBLMĐ,
quan niệm tất cả các pháp vô lậu đều vô tướng, như sau:
“Tu Bồ Đề bạch Phật:
- Bạch đức Thế Tôn! Nếu tất
cả pháp như mộng, như hưởng, như ảnh, như diệm, như huyễn, như hóa thì chúng
sanh an trụ tại chỗ nào để được Bồ Tát cứu độ?
- Này Tu Bồ Đề! Chúng sanh
chỉ an trụ trong danh tướng, hư vọng, ức
tưởng, phân biệt, vì thế nên Bồ Tát hành lục Ba la mật ở trong danh tướng,
hư vọng cứu chúng sanh ra.
- Bạch đức Thế Tôn! Những gì là danh? Những gì là tướng?
- Này Tu Bồ Đề! Danh chỉ là
giả lập đặt ra: Này là sắc, là thọ, tưởng, hành, thức, này là nam, là nữ, là lớn,
là nhỏ, này là Địa ngục, là Ngạ quỷ, là Súc sanh, Nhơn, Thiên, này là hữu vi,
là vô vi, này là quả Tu Đà Hoàn, quả Tư Đà Hàm, quả A Na Hàm, quả A La Hán,
Duyên giác đạo, này là Phật đạo.
Này Tu Bồ Đề! Tất cả pháp
hòa hợp đều là giả danh. Dùng danh để đặt tên cho các pháp, thế nên gọi là
danh. Tất cả pháp hữu vi chỉ có danh tướng. Người phàm ở trong đó sanh chấp trước.
Đại Bồ Tát hành Bát nhã Ba la mật, vì dùng sức phương tiện nên ở
trong danh tự, dạy cho họ xa rời mà bảo rằng: Này các chúng sanh! Danh ấy chỉ
là rỗng không, phát sanh từ hư vọng, ức tưởng, phân biệt.
Các ngươi chớ chấp trước hư
vọng, ức tưởng. Chúng bổn lại đều không, vì tự tánh rỗng không vậy, bực trí giả
chẳng nên chấp trước.
Như vậy, này Tu Bồ Đề! Đại Bồ
Tát hành Bát nhã Ba la mật, dùng sức phương tiện vì chúng sanh mà thuyết pháp.
Đó là danh.
Những gì là tướng?
Này Tu Bồ Đề! Có hai thứ tướng
mà người phàm chấp trước: Một là sắc tướng. Hai là vô sắc tướng.
Những gì gọi là sắc tướng?
Những thứ có sắc hoặc thô hoặc tế, hoặc tốt hoặc xấu, đều là rỗng không. Ở
trong những pháp rỗng không ấy ức tưởng, phân biệt để tâm nắm lấy tướng. Đây gọi
là sắc tướng.
Những gì là vô sắc tướng?
Nơi các pháp vô sắc ức tưởng,
phân biệt để tâm nắm lấy tướng nên sanh phiền não. Đây gọi là vô sắc tướng.
Đại Bồ Tát hành Bát nhã Ba
la mật, dùng sức phương tiện dạy chúng sanh xa lìa chấp trước. Ở trong pháp vô tướng khiến họ rời lìa hai
pháp, đó là tướng, là vô tướng.
Như vậy, này Tu Bồ Đề! Đại Bồ Tát hành Bát nhã Ba la mật dạy chúng
sanh lìa tướng khiến họ an trụ trong vô tướng.
(...) Này Tu Bồ Đề! Vì các
pháp không có căn bản sự thật mà chỉ có danh tướng, nên Bồ Tát lúc hành Bát nhã
Ba la mật có thể đầy đủ Thiền Ba la mật, Tiến Ba la mật, Nhẫn Ba la mật, Giới
Ba la mật, Thí Ba la mật, vì vô tướng vậy. Có thể đầy đủ Tứ vô lượng tâm, Tứ vô
sắc định, vì vô tướng vậy. Có thể đầy đủ Tứ niệm xứ nhẫn đến bát Thánh đạo phần.
Có thể đầy đủ nội không nhẫn đến Vô tánh hữu Tánh không, vì vô tướng vậy. Có thể
đầy đủ Giải thoát, Cửu thứ đệ định, vì vô tướng vậy. Có thể đầy đủ Phật thập lực
nhẫn đến mười tám pháp bất cộng, vì vô
tướng vậy.
(...)Này Tu Bồ Đề! Đại Bồ
Tát học tất cả pháp vô tướng này thì tăng trưởng pháp lành, đó là sáu Ba la mật,
tứ thiền, tứ vô lượng tâm, tứ vô sắc định, tứ niệm xứ nhẫn đến mười tám pháp bất
cộng. Tại sao vậy? Bồ Tát chẳng lấy những
pháp khác làm trọng yếu bằng ba môn giải thoát. Vì tất cả pháp tự tướng không,
đó gọi là không giải thoát môn. Vì tất cả pháp vô tướng, đó gọi là vô tướng giải
thoát môn. Vì tất cả pháp vô tác, vô khởi, đó gọi là vô tác giải thoát môn.
Nếu Đại Bồ Tát học ba môn giải
thoát thì có thể học tướng ngũ ấm, có thể học tướng thập nhị nhập, có thể học
tướng thập bát giới, có thể học tướng tứ Thánh đế, có thể học mười hai nhơn
duyên, có thể học nội không nhẫn đến vô tánh tự Tánh không, có thể học sáu Ba
la mật đến mười tám pháp bất cộng”.
Phật đã giảng quá nhiều lần rồi, nào là các pháp là giả danh giả
tướng, các pháp như huyễn như mộng, các pháp là ngu si, trì độn; nào các pháp
là không, các pháp là như, chẳng lúc nào chẳng như, các pháp là bình đẳng, các
pháp tự tánh thanh tịnh v.v... Nếu thấy biết các pháp có tướng trạng như vậy gọi
là cái thấy từ bờ kia. Nhưng có lẽ những lời dạy đó “chưa đủ thấm”! Bây giờ, Phật
nói đến các pháp là vô tướng.
Bởi các lý do đó mà chúng ta thấy vô tướng giữ vai trò quan trọng
trong việc tu tập và thực hành Bát Nhã. Vì vậy, Kinh ĐBN thường nhắc nhở: “Bát nhã Ba la mật như thế thật chẳng khá lấy, vì vô sắc, vô kiến,
vô đối, nhất tướng chỗ gọi vô tướng”(6). Kinh
nói “Pháp vô tướng không có động chuyển”. Không động chuyển tức như như, thì không thấy không biết. Không thấy
không biết thì không tạo tác thi vi nữa. Do đó, không, vô tướng, vô tác mới được
xem là cửa giải thoát. Chỉ khi nào giác biết được tất cả pháp là không, tất cả
pháp là vô tướng, liền chấm dứt niềm tạo tác thì có thể bước qua cổng này!
Kinh bảo “Lìa hết thảy
tướng tức chư Phật”. Chúng ta không cần
phải lìa tướng, chỉ cần thấy tất cả pháp vô tướng là đủ. Nên Kinh nói: “Tu
vô tướng là tu Bát nhã Ba la mật, tu như vậy chóng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ
đề”.
Để kết thúc cho phần vô tướng, ta có thể dùng đoạn Kinh của
phẩm “Chỉ Tướng”, quyển 442,
Hội thứ II, ĐBN để kết luận:
“Bát nhã Ba la mật thậm thâm
lấy không làm tướng, lấy vô tướng làm tướng, lấy vô nguyện làm tướng, lấy vô
tác làm tướng, lấy vô sanh vô diệt làm tướng, lấy vô nhiễm vô tịnh làm tướng, lấy
vô tánh vô tướng làm tướng, lấy vô y(6) vô trụ làm tướng, lấy chẳng đoạn chẳng
thường làm tướng, lấy chẳng một chẳng khác làm tướng, lấy vô khứ vô lai làm tướng,
lấy hư không làm tướng. Bát nhã Ba la mật thậm thâm như thế có vô lượng tướng”.
Kinh Kim Cang cũng bảo “thấy tất cả tướng không phải tướng liền thấy Như Lai!” Không thấy tướng, thấy tất cả pháp là vô tướng
hay thấy tất cả tướng không phải tướng thì thành Đạo tướng trí! Cách nói có
khác nhưng nghĩa không khác.
2).- Tướng - Vô tướng: (Nói tướng
và vô tướng để phá cái chấp cả hai).
Tất cả dẫn chứng trên cho chúng ta hiểu biết phải trái, đúng sai của
cái thấy “tướng & vô tướng” như
thế nào rồi trong việc tu tập và thực hành Bát nhã Ba la mật. Nhưng cốt tủy của cái thấy tướng hay vô tướng của Bát
Nhã không giản dị như vậy. Đoạn Kinh của phẩm
“Học Đạo Khắp”, quyển 370, Hội thứ I, ĐBN, nâng nhãn quan lên một tầng cao hơn khi nói lên quan điểm cốt tủy của
Bát Nhã về tướng và vô tướng mà hành giả Bát Nhã thường xuyên phải cảnh giác:
“Nếu tất cả pháp thật có tướng
thì các đại Bồ tát nên học, vì tất cả pháp thật chẳng phải có tướng, không sắc,
không thấy, không đối, nhất tướng đó là vô tướng. Vì vậy, đại Bồ tát chẳng học pháp hữu tướng, cũng lại chẳng học pháp vô tướng.
Vì sao? Vì Như Lai xuất thế hoặc chẳng xuất thế thì pháp giới vẫn thường trụ, các pháp nhất tướng đó là vô tướng. Vô tướng như thế đã chẳng phải hữu tướng
cũng chẳng phải vô tướng.
Tất cả pháp chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng, chẳng phải
nhất tướng, chẳng phải dị tướng. Nếu đại Bồ tát biết tất cả pháp hoặc hữu tướng,
hoặc vô tướng, hoặc nhất tướng, hoặc dị tướng, đều đồng một tướng thì đó
là vô tướng. Tu vô tướng này là tu Bát nhã Ba la mật.
Vô tướng như thế đã chẳng phải
hữu tướng cũng chẳng phải vô tướng, đại
Bồ tát chẳng học pháp hữu tướng, cũng lại chẳng học pháp vô tướng”.
Ý nghĩa của vô tướng ở đây khác với cái nghĩ tưởng của chúng sanh.
Kinh bảo: “Tất cả pháp chẳng phải hữu
tướng, chẳng phải vô tướng, chẳng phải nhất tướng, chẳng phải dị tướng. Nếu đại
Bồ tát biết tất cả pháp hoặc hữu tướng, hoặc vô tướng, hoặc nhất tướng, hoặc dị
tướng, đều đồng một tướng thì đó là vô tướng. Tu vô tướng này là tu Bát nhã Ba
la mật”. Thấy như không thấy đã là khó,
bây giờ phải thấy tất cả pháp đồng một tướng chỗ gọi là vô tướng thì khó biết mấy!
Bịt mắt để không thấy là dễ, nhưng mở mắt thấy tất cả pháp đồng một tướng chỗ gọi
là vô tướng thì khó biết chứng nào! Đó là chẳng học pháp hữu tướng, cũng lại chẳng
học pháp vô tướng.
3).- Tướng, Vô tướng đều ly: (Ly tất cả
tướng và vô tướng liền thấy tánh).
Rốt lại tướng, vô tướng đều
ly thì mới có thể học và hành Bát Nhã.
phẩm “Thiên Tử”, quyển 556, Hội thứ V, ĐBN. Kinh nói: “Thắng Quân
Phạm chí dùng các môn ly tướng như
thế thảy đối Nhất thiết trí trí rất sanh tin hiểu, gọi tùy tín hành, đối tất cả
pháp đều không lấy đắm. Như vậy, Phạm chí dùng môn ly tướng đối Nhất thiết trí
trí được tin hiểu rồi, đối tất cả pháp đều chẳng lấy tướng, cũng chẳng suy nghĩ
các pháp vô tướng. Như vậy Phạm chí do sức hiểu sâu, đối tất cả pháp chẳng lấy
chẳng bỏ, chẳng chứng, chẳng đắc. Khi Phạm chí kia đối với sự tin hiểu cho đến
Niết bàn cũng chẳng lấy đắm, vì lấy chơn pháp tánh làm định lượng vậy”.
Phẩm “Thiên Tử” nói trên, thuyết tiếp: “Vì Nhất thiết trí trí này chẳng phải lấy tướng mà tu đắc. Các kẻ lấy tướng đều là phiền não. Vì
sao? Vì Nhất thiết trí trí này chẳng phải thủ tướng mà tu đắc. Người đắc thủ tướng
đều là phiền não”.
Chính do sự hiểu biết này mà Thắng Quan Phạm Chí có thể tin hiểu
và thành đạt Nhất thiết trí trí. Đây là thí dụ vàng ngọc của Thế Tôn!
Làm sao phá được tướng, chỉ phá là phá cái chấp về tướng hay vô tướng.
Tướng là một bên, vô tướng cũng là một bên khác nữa. Cùng một lúc phá cả hai.
Nói đến tướng hay vô tướng là vẫn còn nằm trong vòng đối đãi (chấp nhị biên),
nên không thể sạch trong sạch ngoài. Chỉ sạch trong sạch ngoài khi cả hai đều
ly. Ly thì không cần phá hay khiển.
Thấy tướng là động niệm, thấy vô tướng cũng là động niệm, vì thấy
hai. Không thấy hữu tướng, không thấy vô tướng mà thấy bình đẳng giữa các tướng
thì thành Đạo tướng trí. Thấy như vậy thì không còn chấp đắm, nắm bỏ, tung hứng,
nên có thể ly tướng mà thấy tánh. Đó là cái thấy siêu vượt đối đãi trên mọi vật
thể trần ai, nên mới được trí vô ngại, trí vô phân biệt, trí vô trước.
3/. Vô tánh:
Trên chúng ta đã nói các pháp đã đóng góp vào sự thành tựu giác ngộ
như vô sở hữu bất khả đắc. Kế đến chúng ta nói vô tướng. Bây giờ, nói đến vô
tánh, nhưng không biết vô tánh thật sự đóng vai trò quan trọng cho sự thành tựu
này hay không? Hãy đọc những đoạn Kinh sau đây sẽ rõ:
- Phẩm “Tam Tiệm Thứ”, quyển 372, Hội thứ
I, ĐBN. Kinh nói: (tất cả pháp
lấy vô tánh làm tự tánh): “Bồ tát khi
hành Bát Nhã không tưởng hữu, tưởng vô. Nếu không tưởng hữu cũng không tưởng vô
thì đó tức là Bồ tát thuận nhẫn; nếu không tưởng hữu cũng không tưởng vô tức là
tu đạo; nếu không tưởng hữu cũng không tưởng vô tức là đắc quả. Nên biết, vô tánh tức là đạo Bồ tát Ma ha
tát, vô tánh tức là hiện quán Bồ tát Ma ha tát.
Do nhân duyên này, nên biết tất cả pháp đều lấy vô tánh làm tự
tánh”.
Nhưng khi nói tu để thấy tánh, đó cũng
còn sở đắc. Còn sở đắc tức còn đam mê chấp ngã, thì chẳng đắc, chẳng hiện quán,
chẳng thể chứng Vô thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Nên Kinh bảo thấy vô tánh tức là đạo
Bồ tát Ma ha tát, vô tánh tức là hiện quán Bồ tát Ma ha tát, vô tánh mới chứng
quả Vô thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì vậy, chúng ta có thể khẳng định pháp nói về
vô tánh giữ vai trò quan trọng trong việc thành tựu Giác ngộ hay thành đạt Bát nhã Ba la mật.
- Phẩm “Phương Tiện Khéo léo”, quyển 526, Hội thứ VI, ĐBN. Tu Bồ Đề bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn! Nhất thiết chủng trí lấy gì
làm tánh? Lấy gì làm sở duyên? Lấy gì làm tăng thượng? Lấy gì làm hành tướng? Lấy gì làm tướng?
Phật bảo:
- Tu Bồ Đề! Nhất thiết chủng trí lấy vô
tánh làm tánh, lấy vô tánh làm sở
duyên, chánh niệm làm tăng thượng,
vắng lặng làm hành tướng, vô tướng
làm tướng.
Huệ mạng Tu Bồ Đề lại thưa
Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Chỉ Nhất thiết chủng trí lấy vô tánh làm tánh hay sắc thọ
tưởng hành thức cũng lấy vô tánh làm tánh? Nói rộng cho đến chư Phật Vô Thượng
Chánh Đẳng Bồ đề cũng lấy vô tánh làm tánh, hay hữu vi giới và vô vi giới cũng
lấy vô tánh làm tánh?
Phật bảo:
- Tu Bồ Đề! Chẳng những Nhất thiết chủng trí lấy vô tánh
làm tánh, mà sắc thọ tưởng hành thức cũng lấy vô tánh làm tánh. Cho đến hữu vi
giới và vô vi giới cũng lấy vô tánh làm tánh.
Huệ
mạng Tu Bồ Đề lại thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì Nhất thiết chủng trí lấy vô tánh làm tánh? Sắc thọ tưởng hành thức cũng
lấy vô tánh làm tánh, cho đến hữu vi giới và vô vi giới cũng lấy vô tánh làm
tánh?
Phật bảo:
- Tu Bồ Đề! Vì Nhất thiết chủng trí
không có tự tánh. Nếu pháp không có tự tánh, pháp ấy lấy vô tánh
làm tánh. Vì sắc thọ tưởng hành thức cho đến hữu vi giới và vô vi giới cũng
không có tự tánh. Nếu pháp không có tự
tánh, pháp này lấy vô tánh làm tánh.
Huệ mạng Tu Bồ Đề lại thưa
Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì Nhất thiết chủng trí không có
tự tánh. Sắc thọ tưởng hành thức cho đến hữu vi giới và vô vi giới cũng không
có tự tánh?
Phật
bảo:
- Tu Bồ Đề! Vì Nhất thiết chủng trí không tự tánh hòa hợp vậy. Nếu pháp
không tự tánh hòa hợp, pháp ấy lấy vô tánh làm tánh. Sắc thọ tưởng hành thức
cho đến hữu vi giới và vô vi giới cũng không tự tánh hòa hợp. Nếu pháp không tự tánh hòa hợp, pháp ấy lấy
vô tánh làm tánh. Do nhân duyên đây, các Bồ tát Ma ha tát nên biết tất cả
pháp đều lấy vô tánh làm tánh”.
Ở đây Phật đưa thêm một yếu tố mới vào sự tri nhận về thật thể của tất
cả pháp. Đó là yếu tố tự tánh. Tất cả pháp không có thực thể riêng của nó, tất
cả đều do duyên hợp mà thành hay nói khác là do duyên hội, nên Kinh nói không
tự tánh hòa hợp. “Nếu pháp không tự tánh hòa hợp, pháp ấy
lấy vô tánh làm tánh. Do nhân duyên đây, các
Bồ tát Ma ha tát nên biết tất cả pháp đều lấy vô tánh làm tánh”.
Chúng ta có thể chấp nhận giáo pháp này mà không một lời giải thích nào chăng?
Đây không phải là khái niệm, khái niệm là cái gì trừu tượng, khái quát,
còn nằm trong ước đoán hay thức. Vậy, vô tánh là gì? Vô tánh chính là chỗ ngộ
của Phật. Khi Phật nói “Nếu pháp không tự tánh hòa hợp,
pháp ấy lấy vô tánh làm tánh”. Động từ “lấy” ở đây đứng sau liên từ “nếu’,
có nghĩa là thành quả chỉ đạt khi có đủ điều kiện mà điều kiện ở đây là sự hòa
hợp của các yếu tố. Nhưng tất cả pháp đều do duyên hợp, không có pháp nào là tự
sanh thì phải xác định các pháp đó lấy vô tánh làm tự tánh. Đây là lối nói theo
thể xác định, không phải là một suy diễn có điều kiện. Vì vậy, trong phẩm “Tam
Tiệm Thứ”, quyển 372, Hội thứ I, ĐBN. Phật khuyên:
“... Các Bồ tát Ma ha
tát lấy vô tánh làm Thánh đạo, lấy vô tánh làm hiện quán...” Tại sao Phật khuyến cáo như vậy? Vì đó là sự chứng ngộ của
Phật.
Nguyên văn của đoạn Kinh trên được trích dẫn như sau: “Các Bồ tát Ma ha tát lấy vô tánh làm Thánh đạo, lấy vô tánh làm hiện quán,
đạt tất cả pháp, đều lấy vô tánh mà làm tự tánh. Do nhân duyên đây, phải biết tất
cả pháp đều lấy vô tánh làm tự tánh”.
Nên Phật bảo: “Ta lúc bấy giờ, quán tất cả pháp bình đẳng, lấy vô tánh làm tánh, do một sát na
tương ưng Bát Nhã chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Nghĩa là như thật biết:
Đây khổ Thánh đế, đây tập Thánh đế, đây diệt Thánh đế, đây đạo Thánh đế đều đồng
nhất tướng, chỗ gọi vô tướng. Vô tướng như thế cũng vô sở hữu. Do đây trọn nên
Như Lai mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả
và mười tám pháp Phật bất cộng; được vô lượng vô số công đức vi diệu bất khả
tư nghì, mới đem Phật diệu trí an lập hữu tình ba nhóm sai khác là nhóm chánh
tánh định, nhóm tà tánh định và nhóm bất định. An lập ba nhóm riêng biệt như thế
rồi, tùy nhóm sở ưng phương tiện hóa đạo khiến được lợi ích an vui thù thắng”.
Xét kỹ câu nói trên của Phật: “Bấy giờ Ta quán tất cả pháp bình đẳng lấy vô tánh làm
tánh (hay lấy vô tánh làm tự tánh), do một sát na tương ưng Bát Nhã chứng được
Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề”. Phật bảo do quán sát tất cả pháp bình đẳng, đạt tất cả pháp đều lấy
vô tánh làm tự tánh mà chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Đó là kết luận của Phật.
Vì, đó là sự chiếu soi chứng biết của Phật qua Bát Nhã. Tất cả pháp chỉ là
duyên hội, các pháp không có chủ thể riêng biệt, không có chủ thể nên không thể
tự sanh. Không thể tự sanh nên phải nói tất cả pháp không có tự tánh. Ở đây,
chúng ta không dùng từ “nếu” nữa mà nói thẳng ra rằng không có tự tánh, nên lấy vô tánh làm tự tánh. Đó là một hệ luận tất
nhiên không phải là kết quả của một diễn dịch có điều kiện.
Dẫu vậy, muốn cho chúng sanh hiểu Phật vì thế tục giả lập nói tất
cả pháp không có tự tánh nên lấy vô tánh làm tự tánh. Nên phần “Bát Nhã Ba La Mật”,
quyển 596, Hội thứ XVI, ĐBN. Phật bảo: “Vô tánh đều do thế tục giả lập, chẳng phải trong ấy có chút tự
tánh. Vì không tự tánh nên các pháp đều lập vô tánh làm tánh”.
Chắc Quý vị còn nhớ sở ngộ của Thắng Quân Phạm Chí (Phạm Thiên
vương) trong đoạn Kinh của phẩm “Thiên Tử”, quyển 556 nói trên không? Tại sao
Phạm Chí ngộ nhập được Nhất thiết trí trí? Vì Phạm chí đối với Nhất thiết trí
trí không nắm lấy tướng. Phạm chí dùng các môn ly tướng đối Nhất thiết
trí trí rất sanh tin hiểu, gọi tùy tín hành, đối tất cả pháp đều chẳng lấy bỏ,
chẳng chấp đắm, cũng chẳng đắc. Do
đó, mà Phạm Chí thâm nhập được Nhất thiết trí trí.
Trường hợp của Phật cũng thế, ở đây thay vì không nắm lấy tướng
như Phạm Chí Thắng quân, Phật lấy vô
tánh làm tự tánh nhập Bát nhã Ba la mật,
rồi viên mãn tất cả pháp Phật, nhập vào các tĩnh lự, an trụ thanh tịnh, dẫn
phát các thần thông, tự tại đối các cảnh giới diệu dụng vô ngại. Rồi trong
một sát na tương ưng với diệu huệ, nhập Đẳng giác vào Diệu giác, trở thành Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Muốn được như thế, phải lấy vô tánh làm Thánh đạo, lấy vô tánh làm hiện quán, đạt được chân
như của tất cả pháp.
Phạm chí Thắng quân đạt Nhất thiết trí trí là dùng các môn ly tướng.
Phật nhập được Bát nhã Ba la mật
là Phật lấy vô tánh làm tự tánh. Vậy, mới biết vào điện lễ Phật không phải chỉ
có một cửa. Nói như vậy có nghĩa là có nhiều tiến trình dẫn đến giác ngộ. Những
ai thấy vô tướng, vô tánh, vô tánh tự Tánh không thì người đó thành đạo Bồ tát
Ma ha tát. Phẩm “Tam Tiệm Thứ”, quyển 372 nói: “... vô tánh tức là đạo Bồ tát Ma ha
tát, vô tánh tức là hiện quán Bồ tát Ma ha tát”.
4/. Tự tánh & Vô tự tánh:
Không nắm lấy tướng, ly tướng là tôn chỉ tu tập mà Phạm Chí Thắng
Quân đạt được Nhất thiết trí trí; còn lấy vô tánh làm tự tánh là tôn chỉ tu tập
mà nhờ đó Phật chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Bây giờ, chúng ta nói đến tự
tánh, nhưng không biết tự tánh giữ vai trò như thế nào trong việc chứng đạo?
- Thiền Đông độ là thiền kiến chiếu vào tận
nguồn tâm để thấy tự tánh, thấy tánh tức thành Phật. Tổ thứ nhất của tông này
là Bồ Đề Đạt Ma chủ trương: “Bất lập
văn tự, Giáo ngoại biệt truyền, Trực chỉ nhân tâm, Kiến tánh thành Phật”. Đây
là pháp môn “trực chỉ chân tâm”, phương pháp nhắm thẳng vào tâm, coi đó như là
trung tâm của Giác ngộ. Nhưng muốn thế phải “thấy tánh”, thấy tánh tức trực ngộ tự tánh của tâm mình.
Bồ Đề Đạt Ma truyền pháp này
cho Nhị Tổ là Huệ Khả, Huệ Khả truyền cho Tăng Xán, rồi đến Đạo Tín, Hoàng Nhẫn
và sau cùng giáo pháp này đến tay Tổ thứ sáu là Huệ Năng thì được phát huy đến
cao độ của nó. Lục Tổ thuyết:
“Lìa bổn thể mà nói có pháp này pháp nọ ngoài tự tánh là nói mê, chưa tỏ
được tánh. Muôn vật, cả giới định huệ, đều
do tự tánh ứng dụng ra, có hiểu thế mới thực là hiểu pháp giới định huệ. Nghe kệ ta đây:
“Tự tâm vốn không bao giờ quấy, đó là tự tánh giới,
心 地 無 非 自 性 戒
Tự tâm vốn không bao giờ si, đó là tự tánh huệ,
心 地 無 癡 自 性 慧
Tự tâm vốn không bao giờ loạn, đó là tự tánh định”.
心 地 無 亂 自 性 定
Nếu ông tỏ sáng tự tánh thì không thấy có gì là đối đãi
hai bên nên chẳng cần lập Bồ đề Niết bàn đối lập với phiền não, hoặc giải thoát
tri kiến (giới định huệ) đối lập với triền phược. Không có gì là sở đắc hết trong tự tánh, tự nó vốn hư linh, tuy hư linh
nhưng từ đó ứng dụng lên tất cả. Cho nên người thấy tánh thì lui tới tự do,
không đường không mắc, tùy thế mà làm, tùy cơ mà nói, hiện khắp hóa thân mà chẳng
lìa tự tánh, tức được tự tại thần thông, du hí tam muội vậy.
Tự tánh vốn không quấy,
không si, không loạn, lúc nào trí huệ cũng chiếu soi, tự do tự tại, dọc ngang đều
ứng đối đặng cả. Tự tánh tự sáng tự tỏ (tự ngộ) thoáng tu thoáng ngộ, không thứ
lớp gì hết. Muôn vật đều “không tịch” thì có gì là thứ lớp?”
Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm “đốn
tiệm” (8).
Tự tánh, tự nó vốn hư linh, tuy nói hư giả nhưng từ đó ứng dụng
cho tất cả. Cho nên người thấy tánh thì tới lui động tĩnh không thắc mắc, không
đối ngại, tùy thế tùy cơ mà nói mà làm, tự sáng tự tỏ, tự do tự tại. Đó là thấy tánh tức cái trực ngộ tự tánh của
tự tâm mình. Đây là quan điểm của Tổ Huệ Năng cũng là quan điểm bắt nguồn từ
Bồ đề Đạt Ma, cái gọi là “Nhất hoa khai ngũ diệp”.
Chúng ta cũng biết rằng không những trong Kinh ĐBN đều nói về tướng-vô
tướng, tánh-vô tánh mà hầu hết các Kinh Phật khác đều có đề cập đến nhất là hệ
Bát Nhã. Ngoài ra, các Kinh cũng nói nhiều về tự tánh hay tha tánh nữa. Tự tánh
là một từ ghép hết sức vi tế, chi li gây nhiều khó khăn cho người học Phật.
Nhưng một khi hiểu được nó thì có thể tháo gỡ gút mắc của ba cõi sáu đường hay
nói khác là cảnh giới của luân hồi. Tự
tánh là bổn thể của tất cả pháp tức chỉ bản tánh sẵn có, cái tự có, "nó là
nó" của các pháp, những chẳng có “cái nó” nào như thế cả, nên nói là
không, không có tự tánh. Những danh từ khác như bản chất các pháp, bản
tánh, pháp tánh, chân như v.v... là những dụng ngữ đồng loại. Kinh cũng nói: “Không tự tánh là tự tánh Bát Nhã Bát nhã Ba la mật”.
Điểm đặc biệt của những từ này
trong Bát Nhã là cốt diễn tả trạng thái của tất cả pháp, mà tất cả pháp
theo Bát Nhã là không (nhất thiết pháp không). Vô tướng là không có tướng trạng,
vô tánh là không có bản tánh, tự tánh nó là nó, nhưng không có cái nào là nó cả,
tất cả pháp đều duyên hợp giả có, nên bảo là không. Bát Nhã phủ nhận sự hiện hữu
của tất cả pháp. Bởi vì tất cả những gì gọi là pháp đều do duyên hợp, nên nói
nó không có chủ thể, không chủ thể không có nghĩa là không có gì cả mà không chủ
thể nên nói giả có đương thể tức không(9).
- Phẩm “Bát Nhã Hành Tướng”, quyển 38, Hội
thứ I, ĐBN. Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện rằng:
“Pháp gì là tự tánh Bát nhã Ba la mật? Pháp gì là tự tánh tĩnh lự,
tinh tiến, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật? Cho đến pháp gì là tự tánh
pháp ở trong ở ngoài ở giữa hai?
Thiện Hiện đáp: Vô tánh là tự tánh Bát nhã Ba la mật. Vô
tánh là tự tánh tĩnh lự, tinh tiến, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật. Cho
đến vô tánh là pháp tự tánh ở trong ở
ngoài ở giữa hai. Xá Lợi Tử! Do cớ đây nên biết Bát nhã Ba la mật rời tự tánh
Bát nhã Ba la mật. Tĩnh lự, tinh tiến, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật rời
tự tánh tĩnh lự cho đến bố thí Ba la mật. Cho đến pháp ở trong ở ngoài ở giữa
hai rời tự tánh pháp ở trong ở ngoài ở giữa hai. Xá Lợi Tử! Bát nhã Ba la mật,
rời tướng Bát nhã Ba la mật, tĩnh lự tinh tiến an nhẫn tịnh giới bố thí Ba la
mật, cho đến pháp ở trong, ở ngoài, ở giữa hai. Xá Lợi Tử! Tự tánh cũng rời tự tánh, tướng cũng rời tướng; tự tánh cũng rời tướng,
tướng cũng rời tự tánh; tự tánh tướng cũng rời tướng tự tánh, tướng tự tánh
cũng rời tự tánh tướng”.
Kinh kết luận vì
tự tánh cũng rời tự tánh, tướng cũng rời tướng, tự tánh cũng rời tướng, tướng cũng rời tự
tánh v.v... tất cả đều rỗng không. Nếu tri nhận như vậy mới được vô thức, vô
niệm, vô tâm... chỗ tột cùng của những ai hành trì Bát Nhã.
- Nên, phẩm
“Diệu Hạnh”, quyển 538, TBBN. Thiện
Hiện nói:
“... tự tướng Bát nhã Ba la mật cũng lìa tự tướng;
tự tánh Bát nhã Ba la mật cũng lìa tự tánh; tướng cũng lìa tự tánh, tự tánh
cũng lìa tướng; tự tướng cũng lìa tướng; tự tánh cũng lìa tự tánh; năng tướng
cũng lìa sở tướng; sở tướng cũng lìa năng tướng; năng tướng cũng lìa năng tướng;
sở tướng cũng lìa sở tướng. Đại Bồ tát nào có thể như thật biết được nghĩa như
thế thì thường không xa lìa Bát nhã Ba la mật thậm thâm”.
Đó là những pháp hết sức tế nhị. Đại Bồ tát nào có thể như thật biết
được nghĩa như thế thì thường không xa lìa Bát nhã Ba la mật thậm thâm. Vậy,
nói đến vô tướng, vô tánh, tự tướng, tự tánh, năng sở làm gì? Tất cả phóng xả hết
thì tâm được rỗng rang tự tại. Phật nói như vậy với mục đích để chúng sanh đừng
bám vào các pháp, một khi thân hoại mệnh chung thì trở về cát bụi, thương tiếc
sầu khổ, kêu gào, khóc than cũng chẳng ích lợi gì!
5/. Vô Tánh
không, tự Tánh không và vô tánh tự Tánh không:
Ai cũng biết tướng trạng là cái vỏ bên ngoài. Vì ở bên ngoài nên dễ
thấy. Dễ thấy nên dễ nói, dễ hiểu, dễ tu. Còn ruột là cái ở bên trong. Ở bên
trong khó thấy, khó thấy nên khó nói. Vậy làm sao thấy “ruột”? Thấy ruột là thấy
được thực thể của chúng. Nhưng chẳng có gì là thực thể trong chúng hết, chúng
là:
- Vô Tánh không (Svabhava-sunyata): Không
của tự tánh;
- Tự Tánh
không (Svabhava-sunyata): Không của tự tánh;
- Vô tánh tự Tánh không (Abhava-svabhava-sunyata):
Không của vô thể của tự tánh.
Tất cả chỉ do thế tục giả lập,
nên bảo là không. Ba loại này (vô Tánh không, tự Tánh không, vô tánh tự
Tánh không) có thể luận rằng: “Ở đây hiện
hữu được nhìn từ quan điểm hữu (astiva) và vô (nastiva); cả hai, đứng riêng biệt
hay tương đối, đều được nói là không.
Vô Tánh (Abhava) là phủ định của hữu, cùng một nghĩa với Không. Tự Tánh
(svabhava) có nghĩa “nó là nó”, nhưng không có cái nó nào như thế, cho nên
Không. Vậy thì, đối nghịch của hữu và vô là thực? Không, nó cũng không luôn, vì
mỗi phần tử trong đối lập vốn là Không”.(10)
- Phẩm “Thuyết Tướng Bát Nhã”, quyển
296, Hội thứ I, ĐBN. Phật bảo Thiện Hiện:
“Vì Bát Nhã và tánh của Bát
Nhã là không; vì tịnh lự, tinh tấn,
an nhẫn, tịnh giới, bố thí và tánh của tịnh lự cho đến bố thí là không, 18 pháp
bất cộng và tánh của 18 pháp bất cộng là không, Nhất thiết trí và tánh của Nhất
thiết trí là không… Nói chung cho đến tất
cả pháp và tánh của tất cả pháp là không. Vì những pháp ấy vô tánh tự Tánh không nên Bát nhã Ba la
mật như thế, đối với tất cả pháp chẳng do chuyển, chẳng do hoàn mà xuất hiện thế
gian.
Cụ thọ bạch Phật:
Bát nhã Ba la mật của đại Bồ
tát là đại Ba la mật, vì đạt đến tự Tánh
không của tất cả pháp, tuy đạt được tự tánh của tất cả pháp đều không nhưng
các đại Bồ tát nhân Bát nhã Ba la mật nầy mà chứng quả vị Giác ngộ tối cao,
chuyển pháp luân nhiệm mầu, độ vô lượng chúng sanh...”
- Phẩm “Pháp Tánh Vô Động”, quyển 397, Hội
thứ I, ĐBN. Phật bảo:
“Này Thiện Hiện! Không có bất
cứ một pháp nào dầu nhỏ nhặt bằng đầu mảy lông mà tự tánh chẳng không, tự Tánh không này không do ai làm ra,
tánh nó thường không, đây tức là Niết bàn. Vì không ai làm ra, tự tánh thường
không, chẳng lúc nào chẳng không, nên mới gọi là Niết bàn. Niết bàn là vô sanh,
vô diệt, phi hóa”.
Rốt cuộc tự tánh cũng không, tự tánh thường không tức là Niết bàn.
Nếu người nào tri nhận được như vậy thì thấy được Niết bàn hay giải thoát!
6/. Vô trụ:
Một trong những tôn chỉ của Kinh này ở hai chữ vô trụ, tức quán,
giải, hành, môn của Kinh này đều nằm hết trong hai chữ đó. Nên câu “Ưng vô sở
trụ nhi sanh kỳ tâm” trở thành giáo pháp
kích động thời danh, đánh thức được giác quan nội tại của gã tiều phu trẻ tuổi.
Vì vậy, vô trụ ở đây được xem là Thánh giáo cho những ai tầm cầu Giác ngộ hay
Bát nhã Ba la mật.
Vô sở trụ là không nơi nương gá, không chỗ đình trú, không
có hậu cứ, bất biến mà tùy duyên, tùy duyên mà bất biến, châu biến(11) vô ngại.
Có sở trụ là có trói buộc, có trói buộc là có dính mắc, quái ngại. Vì dính mắc
quái ngại nên mới cần tháo gỡ. Hết buộc rồi gỡ, hết gỡ rồi buộc, suốt đời loanh
quanh tự mình làm rối mình mà không tự biết. Kinh “Kim Cương” mới bảo “Bất ưng trụ sắc sanh tâm, bất ưng trụ thinh, hương, vị, xúc, pháp
sanh tâm, ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” - không
nên sinh tâm trụ vào sắc, không nên sinh tâm trụ vào thanh, hương, vị, xúc,
pháp, sinh tâm vô sở trụ, tức là không trụ bất cứ nơi nào. Chính câu nói này
làm cho Lục tổ Huệ Năng tỉnh, rồi tìm đường đến thôn Hoàng Mai thọ giáo cầu đạo
với Ngũ tổ Hoằng Nhẫn mà trở thành Tổ thứ sáu.
- Phẩm
“Thiên Đế”, Hội thứ I, ĐBN. Tu Bồ Đề bảo:
- “Kiều Thi
Ca! Sắc, sắc Tánh không. Thọ tưởng
hành thức, thọ tưởng hành thức Tánh không. Hoặc sắc Tánh không, hoặc thọ tưởng
hành thức Tánh không, hoặc đại Bồ tát Tánh không; không ngũ uẩn Tánh không, mười
hai xứ, mười tám giới và tất cả pháp Phật từ Tứ đế, mười hai nhân duyên... cho
đến Nhất thiết chủng trí, đều Tánh không, tất cả như thế đều không có hai,
không có hai phần. Kiều Thi Ca! Đại Bồ
tát đối với Bát nhã Ba la mật nên trụ như thế.
Thiên Đế
Thích lại hỏi:
- Bồ tát chẳng
nên trụ chỗ nào?
Thiện Hiện
đáp:
- Kiều Thi
Ca! Đại Bồ tát khi hành Bát nhã Ba la mật chẳng nên trụ sắc, chẳng nên trụ thọ
tưởng hành thức. Vì sao? Vì (nếu trụ sắc
như vậy) là lấy hữu sở đắc làm
phương tiện vậy. Kiều Thi Ca! Đại Bồ tát khi hành Bát nhã Ba la mật chẳng nên
trụ sắc xứ, chẳng nên trụ thanh hương vị xúc pháp. Vì sao? Vì (nếu trụ các căn như vậy) lấy hữu sở đắc
làm phương tiện. Cả đến chẳng nên trụ mười hai xứ, mười tám giới cho đến tất cả
pháp Phật. Vì sao? Vì (nếu trụ trong ngoài như vậy, tức) lấy hữu
sở đắc làm phương tiện vậy”.
- “Tâm chư
Phật đều không có chỗ trụ. Vì sao?
Thiện Hiện! Tâm Như Lai chẳng trụ sắc, chẳng trụ thọ tưởng hành thức. Vì sao?
Vì sắc uẩn thảy chẳng khá được vậy. Thiện Hiện! Tâm Như Lai chẳng trụ 12 xứ, 18
giới, cũng chẳng trụ tất cả pháp Phật. Vì sao? Vì 12 xứ, 18 giới và tất cả các
pháp đều không thể nắm bắt được. Thiện Hiện! Tâm Như Lai đối tất cả pháp đều
không có chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ.
Khi ấy, cụ
thọ Thiện Hiện bảo Xá Lợi Tử rằng:
- Đúng như
vậy, đại Bồ tát tuy trụ Bát nhã Ba la mật, mà đồng như Như Lai đối tất cả pháp đều không có chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Xá Lợi
Tử! Đại Bồ tát tuy trụ Bát nhã Ba la mật, mà đối với sắc chẳng trụ, chẳng phải
chẳng trụ; đối với thọ tưởng hành thức cũng chẳng trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì
sao? Vì sắc uẩn thảy không có hai tướng
vậy. Đại Bồ tát đối với tất cả pháp Phật cũng lại như thế.
Xá Lợi Tử!
Đại Bồ tát Bát nhã Ba la mật tuy chẳng trụ, chẳng phải chẳng trụ, đem vô sở đắc
làm phương tiện, nên học như thế”.
Sắc là cái hay lôi kéo ô nhiễm thì làm sao mà trụ, nên nói chẳng
trụ sắc. Nhưng Kinh nói: “Các pháp bản
lai tịch tịnh, tự tánh Niết bàn(12). Nếu
vậy, thì có thể trụ sắc. Nên, câu nói “đại Bồ tát tuy trụ Bát nhã Ba la mật,
mà đồng như Như Lai đối tất cả pháp đều
không có chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ”, là câu nói có thể hiểu được. Vả lại, Kinh cũng nói “sắc thảy không
có hai tướng”, không hai tướng nhiễm hay
tịnh. Nếu không có hai tướng thì trụ hay không trụ chẳng hệ gì, miễn đừng lấy sở
đắc mà trụ.
- Phẩm “Nhiếp Thọ”, quyển 101, Hội thứ
I, ĐBN, Ngài Huyền Trang dịch:
- “Kiều Thi Ca! Đại Bồ tát ấy tự an trụ chơn như, dạy người khác an trụ chơn
như, khen ngợi pháp chơn như, vui vẻ khen ngợi người an trụ chơn như. Tự an trụ pháp giới, dạy người khác an trụ
pháp giới, khen ngợi pháp giới, vui vẻ khen ngợi người an trụ pháp giới. Tự an trụ pháp tánh, dạy người khác an trụ
pháp tánh, khen ngợi pháp tánh, vui vẻ khen ngợi người an trụ pháp tánh. Tự an trụ tánh chẳng hư vọng, dạy người
khác an trụ tánh chẳng hư vọng, khen ngợi tánh chẳng hư vọng, vui vẻ khen ngợi
người an trụ tánh chẳng hư vọng. Tự an
trụ tánh chẳng đổi khác, dạy người khác an trụ tánh chẳng đổi khác, khen
ngợi tánh chẳng đổi khác, vui vẻ khen ngợi người an trụ tánh chẳng đổi khác. Tự
an trụ tánh bình đẳng, dạy người
khác an trụ tánh bình đẳng, khen ngợi tánh bình đẳng, vui vẻ khen ngợi người an
trụ tánh bình đẳng. Tự an trụ tánh ly
sanh, dạy người khác an trụ tánh ly sanh, khen ngợi tánh ly sanh, vui vẻ
khen ngợi người an trụ tánh ly sanh. Tự an
trụ pháp định, dạy người khác an trụ pháp định, khen ngợi pháp định, vui vẻ
khen ngợi người an trụ pháp định. Tự an
trụ pháp trụ, dạy người khác an trụ pháp trụ, khen ngợi pháp trụ, vui vẻ
khen ngợi người an trụ pháp trụ. Tự an
trụ thật tế, dạy người khác an trụ thật tế, khen ngợi pháp thật tế, vui vẻ
khen ngợi người an trụ thật tế. Tự an
trụ cảnh giới hư không, dạy người khác an trụ cảnh giới hư không, khen ngợi
cảnh giới hư không, vui vẻ khen ngợi người an trụ cảnh giới hư không. Tự an trụ cảnh giới bất tư nghì, dạy người
khác an trụ cảnh giới bất tư nghì, khen ngợi cảnh giới bất tư nghì, vui vẻ khen
ngợi người an trụ cảnh giới bất tư nghì.
Kiều Thi Ca! Đại Bồ tát ấy tự an trụ Thánh đế khổ, dạy người khác an trụ Thánh đế khổ, khen ngợi
Thánh đế khổ, vui vẻ khen ngợi người an trụ Thánh đế khổ. Tự an trụ Thánh đế tập, dạy người khác an
trụ Thánh đế tập, khen ngợi Thánh đế tập, vui vẻ khen ngợi người an trụ Thánh
đế tập. Tự an trụ pháp Thánh đế diệt,
dạy người khác an trụ pháp Thánh đế diệt, khen ngợi pháp Thánh đế diệt, vui vẻ
khen ngợi người an trụ pháp Thánh đế diệt. Tự an trụ Thánh đế đạo, dạy người khác an trụ Thánh đế đạo, khen ngợi
Thánh đế đạo, vui vẻ khen ngợi người an trụ Thánh đế đạo”.
Đó là nói về trụ và chỗ trụ của Bồ tát.
Kinh nói tiếp:
- “Bạch Thế Tôn! Đại Bồ tát khi an trụ chơn như, nếu nghĩ: Ta
có khả năng an trụ chơn như thì đại Bồ tát ấy, vì chấp ngã và ngã sở làm nhiễu loạn sự an trụ chơn như, liền khởi tâm
tự cao, nên chẳng có khả năng hồi hướng Nhất thiết trí.
(...)Bạch Thế Tôn! Đại Bồ tát khi an trụ Thánh đế khổ, nếu
nghĩ: Ta có khả năng an trụ Thánh đế khổ thì đại Bồ tát ấy, vì bị sự chấp ngã
và ngã sở làm nhiễu loạn sự an trụ Thánh đế khổ, liền khởi tâm tự cao, nên
chẳng có khả năng hồi hướng Nhất thiết trí. Đại Bồ tát khi an trụ Thánh đế tập,
diệt, đạo, nếu nghĩ: Ta có khả năng an trụ Thánh đế tập, diệt, đạo thì đại Bồ
tát ấy vì bị sự chấp ngã và ngã sở làm nhiễu loạn sự an trụ Thánh đế tập, diệt,
đạo, liền khởi tâm tự cao, nên chẳng có khả năng hồi hướng Nhất thiết trí”.
Đoạn Kinh này nói
về trụ có sở đắc. Nhưng một khi tự
mình xác nhận có trụ và có chỗ an trụ mặc dù là trụ trong các pháp được xem là
có nhiều công đức nhất. Trụ như vậy, an trụ như vậy là có sở đắc, thì chẳng
trụ, chẳng đắc!
- Phẩm “Vô Trụ”, quyển 37, Hội thứ I và phẩm “Biện Đại Thừa”, quyển 54, Hội thứ I,
ĐBN, Phật lại bảo:
“Lại nữa, Thiện
Hiện! Ngươi hỏi Đại thừa như vậy là trụ chỗ nào? Thiện Hiện! Đại thừa như vậy
đều không có chỗ trụ. Vì sao? Vì tất cả pháp đều không có chỗ trụ. Vì sao? Vì
chỗ trụ của các pháp bất khả đắc vậy. Thiện Hiện! Nhưng Đại thừa đây trụ vô sở
trụ!
Thiện Hiện! Như tánh
như chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ. Đại thừa cũng vậy, chẳng trụ chẳng phải
chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh như không trụ không chỗ nào chẳng trụ. Vì sao? Thiện
Hiện! Tánh (chơn)như, tánh (chơn)như không. Thiện Hiện! Như tánh pháp giới,
pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh,
bất tư nghì giới, hư không giới, đoạn giới, ly giới, diệt giới, vô tánh giới,
vô tướng giới, vô tác giới, vô vi giới, an ẩn giới, tịch tĩnh giới, pháp định,
pháp trụ, bổn vô, thật tế chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ. Đại thừa cũng vậy,
chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh pháp giới cho đến tánh thật tế,
không trụ không chỗ nào chẳng trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Tánh pháp giới, pháp
giới Tánh không, cho đến tánh thật
tế, thật tế Tánh không vậy”.
(…)Thiện Hiện! Như tánh
danh tự giả tưởng thi thiết lời nói chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ. Đại
thừa cũng vậy, chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh danh tự giả
tưởng thi thiết lời nói, không trụ không chỗ nào chẳng trụ. Vì sao? Thiện Hiện!
Tánh danh tự giả tưởng thi thiết lời nói, danh tự giả tưởng thi thiết lời nói Tánh không vậy.
Thiện Hiện! Như tánh
vô sanh vô diệt, vô nhiễm vô tịnh, vô tướng vô vi chẳng trụ chẳng phải
chẳng trụ. Đại thừa cũng vậy, chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh
vô sanh vô diệt, vô nhiễm vô tịnh, vô tướng vô vi, không trụ không chỗ nào
chẳng trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Tánh vô sanh vô diệt, vô nhiễm vô tịnh, vô tướng
vô vi; vô sanh vô diệt, vô nhiễm vô tịnh, vô tướng vô vi Tánh không vậy.
Thiện Hiện! Do những duyên cớ này, nên Đại thừa như vậy, tuy đều không có chỗ trụ, mà trụ nơi vô sở trụ”.
Đoạn Kinh trên
(phẩm “Thiên Đế”) chỉ “chỗ an trụ” của Bồ tát. Đoạn Kinh kế tiếp (phẩm “Nhiếp
Thọ”) nói về “trụ” nhưng dưới điều kiện là “không được chấp ngã và ngã sở”.
Đoạn Kinh trong quyển 37, phẩm “Vô Trụ” và quyển 54, phẩm “Biện Đại Thừa” nói
“chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ”. Bát nhã Ba la mật kết luận “Đại thừa tuy đều không có chỗ trụ mà trụ nơi vô sở trụ”. Có trụ là có quái ngại, tu tất cả pháp
nhưng chẳng trụ bất cứ pháp nào. Tuy không trụ ở bất cứ pháp nào nhưng Bồ tát
vẫn có khả năng hoàn thành sự nghiệp. Không trụ tất cả chỗ là trụ vô sở trụ. Vô
sở trụ đây được xem là chân trụ!
- Phẩm “Vô Trụ”, quyển 37, Hội thứ I, ĐBN. Cụ thọ bạch
Phật:
“Bạch Thế Tôn! Nếu Bồ tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật,
không có phương tiện khéo léo, thì bị chấp ngã và ngã sở ràng buộc quấy rối,
nên trụ 5 uẩn, 12 xứ, 18 giới và tất cả các pháp Phật. Do vì trụ này nên đối
uẩn xứ giới tác lên gia hạnh. Do vì
gia hạnh nên chẳng năng nhiếp thọ Bát nhã Ba la mật, chẳng năng tu hành Bát nhã
Ba la mật, chẳng năng viên mãn Bát nhã Ba la mật và chẳng năng thành xong Nhất
thiết tướng trí được!”
Một khi bị ngã,
ngã sở ràng buộc, quấy nhiễu... nên trụ trong điên đảo, rồi gia công dụng hạnh
sai khác mà lạc mất tâm đạo.
- Phần “Mạn Thù Thất Lợi”, quyển 574, Hội thứ VII. Phật
hỏi:
- “Mạn
Thù Thất Lợi! Ngươi tu Bát nhã Ba la mật thì trụ chỗ nào?
- Bạch
Thế Tôn! Con tu Bát Nhã thâm sâu hoàn toàn không có chỗ trụ.
- Mạn Thù Thất Lợi! Không có
chỗ trụ thì làm sao có thể tu Bát Nhã thâm sâu?
- Bạch
Thế Tôn! Do không có chỗ trụ nên con có thể tu Bát nhã Ba la mật”.
Chỉ có Bồ tát trí tuệ đắc Bát nhã Ba la mật có tầm vóc cỡ Văn Thù Sư Lợi mới có thể trả lời: Do không
sở trụ nên mới có thể tu Bát nhã Ba la mật.
Thiền sư D.T. Suzuki trong Thiền luận quyển hạ nói rằng: “Cho
nên, các nhà Đại thừa là những người tùy thuận chân lý Tánh không, trụ trong
Bát Nhã, từ chối không tìm gốc rễ của mình trong Sắc, Thọ, Tưởng, Hành và Thức,
cũng không tìm trong thế giới Hữu vi hay Vô vi. Trụ xứ đó được gọi là trụ xứ vô
sở trụ. Vì lý do này, trụ trong Bát Nhã, theo bất cứ ý nghĩa nào khác, đều trụ
nơi chấp thủ, và cái đó phải tránh
nếu người ta muốn tự mình tác chủ. Khi
có trụ điểm cố định, ở đâu đó, dù ở trong Bát Nhã, đấy là một kết quả nó trói
buộc chúng ta, và chúng ta không còn độc lập trong tri thức, đạo đức hay tâm
linh. Bát nhã Ba la mật như thế dạy chúng ta quét sạch mọi trụ điểm cố định
có thể có, hay quét sạch mọi vọng tưởng. Khi đạt được thế giới không còn vọng
tưởng, đấy là vô trụ xứ hay trụ trong Tánh không. Phật hay Bồ tát nói ra giáo
pháp của mình từ chỗ vô trụ xứ đó; cho nên, trong đó, không có người thuyết,
không có pháp được thuyết cũng không có người nghe thuyết”.
Tâm chúng sanh lúc nào cũng sanh khởi, sanh khởi theo hình sắc
danh tướng… Do đó, càng lún sâu vào trầm luân khổ ải. Nên Phật bảo “Đừng bám trụ mà sanh tâm”.
Có như vậy, mới không bị lay chuyển, trói
buộc hay nói khác có như vậy mới làm chủ trọn vẹn chính mình.
Trong Bát Nhã Bát thiên tụng, có câu “Tâm Như Lai không trụ bất kỳ đâu, không trụ trên các pháp hữu
vi, không trụ trên các pháp vô vi, và do đó không rời sở trụ”. Trong Kinh Duy Ma cũng có đoạn “Bồ đề
không trụ, do đó không chứng” hay “nương
theo cội nguồn không trụ mà hết thảy các pháp được thành lập”. Và trong Kinh Lăng Nghiêm lại nói “Những
vị Bồ tát như thế lấy tất cả cõi Phật làm trụ xứ, nhưng không dính mắc vào trụ
xứ này, vì vốn không thể chứng, không thể thấy”. Kinh Bát nhã Ba la mật thường nói: “Pháp của Như Lai nói vốn bất khả
đắc, không chướng ngại như hư không, không dấu vết, pháp đó vượt ngoài tất cả
những hình thức đối nghịch, pháp không đối đãi, pháp vượt ngoài sanh tử, pháp
không đường để đến đi. Pháp đó chỉ chứng được với những ai theo Như Lai vì tùy
thuận với Chân như. Bởi vì Chân như vốn không sanh khởi, vượt ngoài đến đi, thường
trú, không biến dịch, không phân biệt, tuyệt đối độc nhất không có dấu vết của
tâm đạo v.v…”
Vậy, chỗ trụ tốt nhất là chân như, là Niết bàn. Nói như thế là đúng
chăng? Nhưng nếu quá tùy thuộc vào chúng cũng rơi vào trở ngại khác nữa. Trụ chỗ
vô trụ mới chính là chân trụ!
Kết luận
chung cho LUẬN #6:
(Những điều kiện trong việc thành tựu Giác ngộ hay thành đạt Bát Nhã).
Kết luận riêng cho mục này, không gì hơn, một lần nữa chúng tôi lặp lại
thông điệp đầu tiên, Phật tuyên dương cho toàn thể vũ trụ này, khi mở đầu
thuyết Đại Bát Nhã Ba La Mật ở quyển 03, phẩm “Học Quán”, Hội thứ I. Như sau:
(...) “Các Bồ tát Ma ha tát nên lấy
vô trụ làm phương tiện, để an trụ Bát
nhã Ba la mật, là vì sở trụ và năng trụ chẳng khá được. Các Bồ tát Ma ha tát
nên lấy vô xả mà làm phương tiện, để
viên mãn Bố thí Ba la mật, là vì kẻ thí, kẻ cho và của cho đều chẳng khá được.
Các Bồ tát Ma ha tát nên lấy vô hộ
mà làm phương tiện, để viên mãn Tịnh giới Ba la mật, là vì tướng phạm và không
phạm chẳng khá được. Các Bồ tát Ma ha tát nên lấy vô thủ mà làm phương tiện để viên mãn An nhẫn Ba la mật, là vì
tướng động và bất động chẳng khá được. Các Bồ tát Ma ha tát nên lấy vô cần làm phương tiện, để viên mãn
Tinh tiến Ba la mật, là vì thân và tâm siêng hay lười chẳng khá được. Các Bồ
tát Ma ha tát nên lấy vô tư làm
phương tiện, để viên mãn Tĩnh lự Ba la mật, là vì hữu ý vị hay vô ý vị chẳng
khá được. Các Bồ tát Ma ha tát nên lấy vô
trước mà làm phương tiện, để viên mãn Bát nhã Ba la mật, là vì tánh tướng
của các pháp chẳng khá được vậy”.
Ngoài giáo pháp gọi là Vô phân biệt, Vô chấp, Bất nhị, Vô sở hữu, Bất
khả đắc được xem là huệ, huệ từ bờ kia. Ta còn thấy có vô vàn pháp môn nói về
Viễn ly, Vô tánh, Vô tướng, Vô trạng, Vô ngôn, Vô thuyết, Vô kiến. Phẩm “Học
Quán” quyển 03, còn thêm vào đó một số giáo pháp khác nói về Vô trụ, Vô xả, Vô hộ, Vô thủ, Vô cần, Vô
tư, Vô trước làm phương tiện. Chúng ta cũng có thể thêm Vô thức, Vô niệm, Vô tâm vào danh sách kể trên nếu muốn, trong việc
học và hành Bát Nhã để thành tựu Giác ngộ.
Tất cả giáo pháp trên dẫn xuất từ Tánh không Bát Nhã. Không có Tánh
không, không có các pháp này hay ngược
lại. Chúng ta có thể nói chúng như là phương tiện vì chúng hộ trì chánh pháp và
chúng cũng là chánh pháp, vì lúc nào cũng hộ trì hành giả Bát Nhã để mở cánh
cửa giải thoát. Khi giải thoát rồi, thì Phật hay Bồ tát lại dùng các Thánh pháp
này như khí cụ (phương tiện) hướng dẫn chúng sanh để giải thoát cho các chúng
sanh khác.
Ở đây không phải là chu trình lý luận “con gà đẻ cái trứng”. Khởi thủy,
như trên đã nói hai pháp vô sở hữu, bất khả đắc được xem là phương tiện, thì
bây giờ chúng biến thành cứu cánh. Kinh nói “Vô
sở đắc là tướng của Bát nhã Ba la mật; vô sở đắc là tướng của Vô Thượng Bồ Đề;
vô sở đắc cũng là tướng của người hành Bát nhã Ba la mật”. Nói
như vậy có nghĩa vô sở đắc được nâng lên mức độ như Bát nhã Ba la mật, như Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Sự so sánh đó không có gì quá đáng! Một khi tư tưởng
vượt qua mức độ của trí năng thường tục, thì tất cả sẽ là trí, mà tất cả trí
thì cùng có mức độ ngang nhau như vàng, tôi luyện đến một mực độ nào đó thì
được vàng ròng, cân lượng không chuyển thì không cần tôi luyện thêm nữa.
Vì vậy, vô sở hữu, bất khả đắc không những được xem là những phương tiện
cần thiết trong việc tu tập và thực hành để thành tựu Giác ngộ mà chúng còn
“chấp cánh bay cao” để trở thành Thánh trí tự giác, một thứ trực giác thực
chứng từ bờ kia. Ở đâu, bất cứ pháp hội nào, bất cứ Kinh nào cũng đều xiển dương
các cụm từ ẩn áo này.
Hơn bao giờ hết, bây giờ vô sở hữu, bất khả đắc trở thành Thánh chỉ hay
pháp ấn trong việc tầm cầu Giác ngộ. Vì vậy, cụm từ vô sở hữu, bất khả đắc mới
được gọi là “tên khác của Không”.
Không, Tánh không hay Bản tánh không này tức Bát nhã Ba la mật hay là huệ từ bờ
kia. Cái gì xưa kia gọi vô sở hữu, bây giờ biến thành sở hữu; cái gì xưa kia
gọi là bất khả đắc, bây giờ biến thành khả đắc hay ngược lại. Cả hai cùng vận
hành như hai anh em song sanh trong cùng một bào thai hay cùng trong tạng bí
mật của Như Lai, vì cả hai vượt qua và vượt trên thế giới lưỡng nguyên này!
Cũng như vậy, các giáo pháp Vô phân biệt, Bất nhị, Vô trước, Vô tánh, Vô
tướng, Vô trạng, Vô kiến, Vô ngôn, Vô thuyết, Vô trụ, Vô xả, Vô thủ, Vô hộ, Vô
cần, Vô tư, Vô niệm, Vô tâm kể cả Không, Vô tướng, Vô nguyện, Vô tác, Vô sanh,
Vô diệt, Vô khởi, Vô sở y, Vô tận, Viễn ly, Tịch tĩnh, Niết bàn, Chơn như, Thật
tế... cũng được gọi là tướng trí vì
chúng có cùng áo nghĩa tương tự như vô sở hữu, bất khả đắc vậy. Ở đây chúng ta
có thể lấy từ vô trước làm thí dụ. Quyển 597, phần “Bát Nhã Ba La Mật”, Hội thứ
XVI để chứng minh lời nói này: “Như vậy,
nói tất cả pháp lấy vô trước làm tướng,
phải biết tướng vô trước này tức là chỗ
hành của trí. Cũng là chỗ hành của
Bát nhã Ba la mật. Chỗ hành của tướng trí vô trước này, cũng gọi là Bát nhã Ba
la mật”.
Đây không phải là tưởng tượng bốc cao mà ở sát na chứng ngộ chư Phật
chứng biết các từ nói trên là tướng trí,
chỗ hành của trí, chỗ hành của Bát nhã Ba la mật cũng được gọi là huệ đến từ bờ
kia qua sự soi rọi của Bát nhã Ba la mật. Với những lý do đó, chúng ta có thể
nói tất cả giáo lý từ Vô phân biệt, Bất nhị, Vô trước... cho đến Thật tế là
những điều kiện hay những phương tiện thiết yếu hỗ trợ cho sự thành tựu Thánh
trí tự giác hay Giác ngộ này. Bởi vì, tướng trí vượt qua được thế giới lưỡng
nguyên, thế giới của lý luận so đo, phân biệt hay vô phân biệt, nhị hay bất
nhị, không hay bất không, trước hay vô trước...
- Tổ Huệ năng bảo: “Không
có gì là sở đắc hết trong tự tánh, tự nó vốn hư linh, tuy hư linh nhưng từ đó ứng
dụng lên tất cả”.
- Phẩm “Diệu Tướng”, Hội thứ III, ĐBN Phật bảo:
“Các đại Bồ tát lấy vô tánh làm Thánh đạo”. Vô tánh như vậy mới được gọi là diệu tướng. Tu theo diệu tướng
này thì giác ngộ, chứng được Bát Nhã Trí hay Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Kinh
cũng nói “vô tánh cũng là tánh Phật”. Do đây, nên chúng ta nói vô tánh là một
trong những điều kiện thành tựu Bát Nhã hay Giác ngộ! Nên Phật bảo: “Ta lúc
bấy giờ, quán tất cả pháp bình đẳng, lấy
vô tánh làm tánh, do một sát na tương ưng Bát Nhã chứng được Vô Thượng
Chánh Đẳng Bồ đề”.
Cái khó thấy, khó giác là tất cả pháp không có tự tánh hòa hợp,
chúng ta có thể hiểu mệnh đề này. Nhưng vì không có tự tánh hòa hợp nên lấy vô
tánh làm tự tánh là điều khó hiểu khó giác. Đây không thể nói là khái niệm, nó
chính là tâm chứng của Phật, vì chúng sanh nên Phật giả thi thiết theo thế tục
mà nói là Vô tướng, Vô tánh, Tự tánh, Vô Tánh không, Tự Tánh không, Vô tánh tự
Tánh không. Ở đây không có gì là lộn lạo giữa Tánh, Tướng, Tự tánh, Tự tướng, Vô
tánh, Vô tướng, Vô Tánh không, Tự Tánh không, Vô tánh tự Tánh không... tất cả đều
không hết.
Bây giờ, đối với người tu Bát Nhã chỉ có cách là hãy lìa tất cả cái gì gọi là tướng: Phẩm “Pháp
Giới”, quyển 567, ĐBN Phật bảo Tối Thắng: “Thiên vương nên biết!
Các đại Bồ tát hành sâu Bát nhã Ba la mật nên xa lìa các tướng, nghĩa là hoàn
toàn chẳng thấy các tướng trong ngoài, lìa tướng hý luận, lìa tướng phân biệt,
lìa tướng tầm cầu, lìa tướng tham đắm, lìa tướng cảnh giới, lìa tướng phan
duyên, lìa tướng năng tri và sở tri”. Nghĩa là lìa tất cả:
Hữu tướng, tri tướng, thức tướng, duyên tướng, tăng thượng tướng, nhân tướng,
quá tướng, tổng tướng, biệt tướng, y tướng. Cũng đừng tưởng hữu tưởng vô, phải
quán tất cả pháp không có tự tánh lấy vô tánh làm tự tánh, tất cả pháp là nhất
tướng chỗ gọi vô tướng. Kế đến, lìa (hay
viễn ly) cả tánh, lìa luôn tự tánh, lìa
luôn vô tánh, lìa cả vô tánh tự Tánh không.
Nói lìa, nói như vậy như không nói gì. Vì lìa hết thì lấy gì để tu để học. Mục đích
nói lìa là viễn ly, có nghĩa là phủi sạch
tất cả để dọn mình quán không. Quán tất cả pháp đều không, tất cả đều như, như
này là bình đẳng, bình đẳng nên nói là thanh tịnh. Nói vô tướng, nói vô tánh
hay nói vô Tánh không, tự Tánh không hay vô tánh tự Tánh không cốt để quên cảnh nhớ tâm. Trời đất, cây cỏ,
sông núi, biển cả... chỗ nào cũng đẹp hết. Nên tứ Tổ Đạo Tín mới bảo: “Cảnh duyên không tốt xấu, tốt xấu tại nơi tâm”. Vậy, nói đến tánh tướng thể dụng làm gì?
Tới đây, chúng ta có thể kết luận rằng tất cả những gì mà chúng ta tri nhận
và biết ơn đạo Phật ở đây với những tướng trí kể trên dẫn xuất bắt đầu bằng chữ
không (vô, bất, chẳng, phi...) hay không không của Bát Nhã. Nhưng lạ lùng
thay đạo Phật không chấm dứt bằng những từ không này. Trong cái không hay không không đó lại có cái “bất không”, cái bất không này lại trở
thành diệu hữu, có khả năng mở đạo nhãn cho chúng ta trong vô vàn số kiếp,
không chút ngại ngùng trong thế giới đa thù đa dạng này! Vậy, mới có câu “Vin
vào cái có mà chẳng có, tựa vào cái không mà chẳng không”. Đó là yếu chỉ tu
hành Bát nhã Ba la mật.
Thích nghĩa cho phần “những điều kiện để
thành tựu Giác ngộ”:
(1). Vô sở hữu, bất khả đắc là giáo pháp chánh của Bát nhã Ba la mật.
Từ giáo pháp chánh này lại sanh ra các giáo pháp phụ có ý nghĩa tương tự tùy
theo tình trạng như từ bất khả đắc mà có hữu sở đắc hay vô sở đắc. Từ năng nên
có sở, từ hữu nên có vô. Vậy, hữu sở đắc, vô sở đắc là dẫn xuất từ bất khả đắc.
Cũng như dấm (acetic acid) là dẫn xuất của rượu (rượu để lâu hóa dấm).
(2). Phóng xả: Từ bỏ, vứt đi, không còn lệ thuộc mọi ràng
buộc để cho tâm an định bằng cách buông bỏ mọi lo nghĩ và tính toán. Phóng xả
tương tự như từ phóng hạ là buông bỏ, buông xuống vạn duyên.
(3). Dị thục: Vipaka (skt)—Quả báo nương theo thiện ác của quá khứ mà có được, cái
quả khác với tính chất của cái nhân, như thiện nghiệp thì cảm lạc quả, ác
nghiệp thì cảm khổ quả, cả hai lạc quả và khổ quả không còn mang tính chất
thiện ác nữa, mà là vô ký (neutral), nên gọi là dị thục tức là cái nhân khi
chín lại khác. Tự điển Phật học Việt Anh- Thiện Phúc.
(4). Chẳng thể nắm bắt được: Dịch từ cụm từ bất khả đắc (C: bùkě dé; J:
fukatoku), nghĩa là không thể đạt được.
(5). Quyển 409, phẩm “Thắng Quân”, Hội thứ II, ĐBN hay quyển 538, phẩm
“Diệu Hạnh”, Tiểu Bản Bát Nhã, Hội thứ IV.
(6). Quyển 127, Phẩm “So
Lường Công Đức”, Hội thứ I, ĐBN.
(7). Vô
y: Không nương tựa vào đâu cả. (Tự điển Phật học Việt Anh - Thiện
Phúc)
(8). Trích lại trong Thiền Luận quyển thượng của Thiền sư D.T.
Suzuki.
(9). Đương thể tức không: (當體即空) Thể của tất cả pháp hữu vi tức là cái không.
Bởi vì vạn tượng đều do nhân duyên giả hợp mà có, tất cả đều như mộng như huyễn,
không có thực tính. Quán xét đương thể tức không gọi là Thể không quán. (xt. Thể
Không Quán)- Phật Quang Từ điển.
(10). Trích trong Thiền Luận, quyển hạ của D.T. Suzuki.
(11). Châu biến: Vận hành cùng khắp.
(12). Kinh nói: “Các pháp
bản lai tịch tịnh, tự tánh Niết bàn”. Phẩm “Nghiêm Tịnh Cõi Phật”.
---o0o---