Thứ Bảy, 10 tháng 7, 2021

Hội thứ VI - 17. Phẩm "Phó Chúc”

                                                     XVII. PHẨM PHÓ CHÚC.

 

Phần cuối quyển 573, Hội thứ VI, ĐBN.

(Tương đương với phẩm 16: Giao Phó, Kinh TTVBN)

 

Tóm lược:

 

Bấy giờ, Phật bảo A Nan Đà:

- Ông nên thọ trì Bát Nhã thâm sâu, chớ để quên mất.

A Nan Đà liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, kéo áo che vai trái, gối phải quỳ sát đất, chắp tay cung kính bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thọ trì Kinh điển này như thế nào?

Phật bảo A Nan Đà:

- Thọ trì Kinh này có mười phương pháp: 1. Biên chép, 2. Cúng dường, 3. Dạy cho người khác, 4. Lắng nghe, 5. Tìm đọc, 6. Thọ trì, 7. Giảng rộng, 8. Phúng tụng(1), 9. Suy nghĩ, 10. Tu tập.

Dựa vào mười pháp đó mà thọ trì Kinh này. Thí như ở thế gian, tất cả cỏ cây, hoa, quả, thuốc v.v... đều nương vào đại địa. Cũng vậy tất cả pháp lành thù thắng đều dựa vào Bát nhã Ba la mật. Như vua Chuyển luân nếu trụ ở đời thì bảy báu luôn xuất hiện. Bát Nhã thâm sâu cũng lại như thế, nếu trụ ở đời thì Tam bảo không bị diệt.

Khi ấy, đại chúng cùng lúc nhìn vào khuôn mặt Thế Tôn, rồi nói rằng:

- Sau khi Như Lai diệt độ, ai có thể gánh vác trọng trách đại pháp của Thế Tôn? Nghĩa là vị ấy phải trải qua vô lượng, vô biên đại kiếp tu tập mới được quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Trong chúng có một vạn hai ngàn Bồ tát vì hộ pháp này liền đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, kéo áo che vai trái, gối phải quỳ sát đất, chắp tay cung kính, nói kệ:


Chúng con bỏ thân mạng,
Chẳng cầu báo vị lai,
Hộ trì lời Phật dạy,
Chánh pháp thâm sâu này.

 

Trong chúng có năm trăm Thiên tử do Hiền Vương dẫn đầu, cũng từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, kéo áo che vai trái, gối phải quỳ sát đất, chắp tay cung kính, nói kệ:


Vì độ các hữu tình,
Thành tựu nguyện đại bi.
Hộ trì lời Phật dạy,
Chánh pháp thâm sâu này.

Lúc ấy, Trời Đế Thích, Phạm vương Trì Kế, Tỳ sa môn vương đều từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, kéo áo che vai trái, gối phải quỳ sát đất, chắp tay cung kính, nói kệ:


Thuốc Bát Nhã nhiệm mầu,

Trị được tất cả bệnh.

Thế Tôn nay đã nói,

Chúng con xin thọ trì.

 

Thần cầm chày Kim cang cũng từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, kéo áo che vai trái, gối phải quỳ sát đất, chắp tay cung kính nói kệ:


Pháp vốn không danh tự,
Phật dùng danh tự nói.
Đại bi chơn giáo pháp,
Chúng con xin thọ trì.

 

Bấy giờ, Phật bảo Phạm vương Trì Kế:

- Phạm thiên nên biết! Phật khen ba việc rất là vô thượng. Những gì là ba? 1. Phát Bồ đề tâm, 2. Hộ trì chánh pháp, 3. Như giáo pháp tu hành.

Ba pháp này thật là vô thượng. Người nào tu hành được mới là chơn cúng dường Phật. Nếu Ta trụ ở đời một kiếp, hoặc hơn một kiếp, nói công đức ấy cũng không thể hết. Hộ trì Như Lai bằng một bài kệ bốn câu, công đức ấy nói còn không hết, huống gì hộ trì Bát Nhã thâm sâu, là mẹ ba đời chư Phật. Vì sao? Vì chư Phật ba đời đều từ Bát nhã Ba la mật mà sanh ra, dùng pháp cúng dường là chơn cúng dường Phật. Nếu dùng tiền của thì chẳng phải chơn cúng dường. Nên cúng dường pháp là cúng dường tối thượng nhất. Nếu người nào hộ trì chánh pháp của Phật, phải biết người ấy an lạc ba đời.

Thế nên, Phạm thiên! Phải thường ủng hộ Bát Nhã thâm sâu. Nhờ hộ trì pháp, ngươi sẽ được gặp ngàn đức Phật trong Hiền kiếp và được thỉnh làm chủ. Phạm thiên nên biết! Ở cõi uế trược này, hộ trì chánh pháp trong giây lát, công đức đạt được còn hơn ở cõi Tịnh, hoặc một kiếp hay hơn một kiếp. Thế nên ngươi phải siêng năng hộ trì chánh pháp.

Thế Tôn lại bảo trời Đế Thích:

- Kiều thi ca! Bát Nhã thâm sâu ở chỗ nào thì Như Lai sanh ra, chứng quả Bồ đề ở chỗ đó, chuyển pháp luân ở đó và nhập Niết bàn cũng ở đó. Vì sao? Kiều thi ca! Vì tất cả Bồ tát, tất cả pháp lành, tất cả Như Lai đều từ đây mà sanh. Nếu có Pháp sư nào tuyên thuyết Bát Nhã thâm sâu này thì chỗ ấy chính là chỗ Phật đã đi. Ở chỗ pháp sư, các loài hữu tình phải sanh tâm tôn trọng và gần gũi như Phật, vui mừng, cung kính, cúng dường, ngợi khen. Nếu Ta trụ ở đời một kiếp hay hơn một kiếp, nói về công đức mà Pháp sư đây đã truyền bá Kinh này cũng không thể hết.

Kiều thi ca! Khi Pháp sư này đi đến chỗ nào, có thiện nam thiện nữ chích máu rưới xuống đất để khỏi tung bụi. Cúng dường như vậy vẫn chưa gọi là nhiều. Vì sao? Vì pháp luân vô thượng khó thọ trì vậy.

Trời Đế Thích thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Trong đời vị lai, chỗ nào thuyết Kinh này, con và quyến thuộc đều ủng hộ vị Pháp sư và bảo vệ địa phương ấy. Nếu thấy Kinh này để ở chỗ nào liền sanh tâm như bốn chỗ đã nói ở trước.

Bấy giờ, Thế Tôn khen trời Đế Thích:

- Lành thay! Lành thay! Ta đem Kinh này giao phó và dặn dò ngươi. Đời sau, ngươi phải ủng hộ lưu truyền.

Trời Đế Thích bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Chư thiên chúng con được sanh vào cảnh giới an lành đều nhờ Bát nhã Ba la mật; phát Bồ đề tâm cũng nhờ vào đây. Thế nên, chúng con chẳng tiếc thân mạng, ủng hộ giáo pháp thâm sâu của Thế Tôn.

Phật lại khen trời Đế Thích:

- Hay thay! Hay thay! Hãy làm như đã nói.

Khi đức Thế Tôn thuyết Kinh này rồi, Thiên vương Tối Thắng và các đại Bồ tát trong mười phương cõi, tất cả Thanh văn, trời, rồng, Dược xoa, Kiện đạt phược, A tu la, Yết lộ trà, Khẩn nại lạc, Mạt hô lạc già, người chẳng phải người v.v... nghe Phật thuyết đều rất vui mừng, tin nhận phụng hành.

 

Thích nghĩa:

(1). Phúng tụng: (諷誦) Cũng gọi Tụng kinh, Phúng kinh, Phúng đọc, Đọc kinh. Tức đọc tụng văn kinh và tán vịnh các câu kệ. Phúng tụng vốn là 1 trong 6 hành pháp (Phạm:Wai karmàịi) của người Bà la môn Ấn độ thực hành, về sau, tín đồ Phật giáo cũng dùng pháp này. Phúng tụng kinh điển cúng dường Tăng, gọi là Phúng cúng. Trong Thiền lâm, tùy theo đối tượng, thời gian, trường hợp khác nhau mà Phúng Kinh được chia ra nhiều loại. Như mỗi ngày 3 thời dùng cháo, thụ trai và ngồi thiền xong, chúng Tăng lên điện phúng kinh, gọi là Tam thời phúng kinh; mỗi tháng vào các ngày Mồng 1, ngày Rằm có Chúc thánh phúng kinh, Ứng cúng phúng kinh. Ngoài ra còn có Bán trai phúng kinh, Nhật trung phúng kinh, Thổ địa đường phúng kinh, Tổ đường phúng kinh, Vi đà thiên phúng kinh, Triêu khóa phúng kinh, Vãn khóa phúng kinh... [X. Kinh Ngũ chủng đức trong Trường a hàm Q.10; Kinh Vô lượng thọ Q.thượng; phẩm Hóa thành dụ Kinh Pháp hoa Q.3; điều Thánh tiết trong Sắc tu Bách trượng thanh quy Q.1; môn Phúng xướng trong Thiền lâm tượng khí tiên]- Từ điển Phật Quang.

 

Sơ giải:

 

1. Cũng như các Hội trước, Phật phó chúc Ngài A Nan Kinh Đại Bát Nhã Ba la mật này: Hãy đọc tụng thọ trì chẳng để quên mất. Rồi Phật dạy Ngài A Nan 10 pháp thọ trì là: 1. Biên chép, 2. Cúng dường, 3. Dạy cho người khác, 4. Lắng nghe, 5. Tìm đọc, 6. Thọ trì, 7. Giảng rộng, 8. Phúng tụng, 9. Suy nghĩ, 10. Tu tập.

Chín phương pháp này chúng ta đã chấp hành một cách nghiêm chỉnh rồi, chỉ còn phương pháp thứ mười là “tu tập”. Đó phương pháp cần yếu nhất cho sự chứng đắc và giác ngộ. Có một câu nói mà chúng ta cần lưu ý là “học nhiều mà không tu thì chẳng khác nào cái đãy đựng sách”. Vậy câu nói trên mà Phật nhắn nhủ Ngài A Nan cũng là để nhắc nhở chúng ta, nên chấp hành một cách nghiêm chỉnh.

 

2. Nhưng ở đây có một chi tiết khác với các lần phó chúc trước là Phật giao cho Trời Đế Thích vai trò hộ trì chánh pháp (Bát nhã) với lời khuyến dẫn như sau:

“Thế nên, Phạm thiên! Phải thường ủng hộ Bát Nhã thâm sâu. Nhờ hộ trì pháp, ngươi sẽ được gặp ngàn đức Phật trong Hiền kiếp và được thỉnh làm chủ. Phạm thiên nên biết! Ở cõi uế trược này, hộ trì chánh pháp trong giây lát, công đức đạt được còn hơn ở cõi Tịnh, hoặc một kiếp hay hơn một kiếp. Thế nên ngươi phải siêng năng hộ trì chánh pháp”.

Phẩm này chẳng có gì khó, ai đọc cũng có thể hiểu. Điều cần ghi nhớ nằm lòng là 10 phương pháp thọ trì mà Phật phó chúc cho Ngài A nan.

 

---o0o---

 

Đến đây chấm dứt phần sáu,

(Hội thứ VI).

 

Trong phần bố cục Đại Bát Nhã chúng tôi có nói: “Không phải nhóm của Ngài Huyền Trang dịch tất cả 600 quyển Đại Bát Nhã”. Trong số 600 quyển Đại Bát Nhã thì chỉ có 481 quyển thuộc các Hội 1, 3, 5, 11, 12, 13, 14, 15 và 16 (9 Hội) là do chính nhóm của Ngài Huyền Trang dịch; các Hội còn lại: 2, 4, 6, 7, 8, 9, 10 (7 Hội) đã có các vị đi trước dịch rồi và nhóm của Ngài Huyền Trang chỉ sao lại, gồm 119 quyển. Vì vậy, khi so chiếu Hội thứ VI của Đại Bát Nhã do nhóm của Ngài Huyền Trang sao lại với Kinh Thắng Thiên Vương Bát Nhã do Ngài Nguyệt Bà Thủ Na dịch, hai Kinh rất giống nhau! Vì vậy, một số học giả mới cho rằng nhóm của Ngài Huyền Trang dịch chỉ có 481 quyển, ngoài ra 119 quyển còn lại, là sao chép lại các Kinh khác đã được dịch từ trước.

Văn phong của Hội thứ VI thật bình dị, gần gũi với chúng ta, tuy giáo lý có thay đổi đôi chút. Cái thay đổi đáng chú ý của Hội này là chia giáo pháp “Chân Như” làm ba phẩm khác nhau là Pháp giới, Pháp tánh và Bình đẳng tánh. Sự phân chia này làm nổi bậc ý nghĩa riêng biệt của các giáo pháp vi diệu này. Dẫu vậy, pháp thể vẫn không khác, tên gọi có khác, nhưng phạm trù thể tánh chỉ là một. Vì sao? Vì khi Kinh nói đến pháp giới, pháp tánh hay bình đẳng tánh cũng đề cập đến chân như, nghĩa là không ra ngoài thập nhị chân như. Ngoài ra, các giáo lý khác, phần lớn giống như năm Hội trước. Nên chúng tôi chỉ sơ lược hơn là đi sâu vào chi tiết. Những điều Phật dạy Thắng Thiên Vương trong Hội này cũng là những chỉ dẫn cần thiết để ôn lại các giáo lý chánh của năm Hội trước đây mà thôi. Điểm cần nhấn mạnh trong pháp hội này là Phật thuyết nhiều về tịnh hạnh, các pháp tu rất cần thiết đối với người tu Bồ tát đạo để người tu hạnh nguyện được vuông tròn trong việc thành thục chúng sanh, thanh tịnh Phật độ.

Phẩm này Phật trao chánh giáo pháp tạng cho Thắng Thiên Vương cũng chính là Phật trao chánh giáo pháp tạng cho chúng ta. Vậy, phải thọ trì kỹ thập nhị chân như và lục độ vạn hạnh thì mới có cơ hội chứng ngộ như Thắng Thiên Vương!

Đọc tụng hết sáu Hội trên, có thể chúng ta tuy không hiểu trọn vẹn những gì đã học, nhưng ít ra cũng có ý niệm “chunh chung” về Bát nhã Ba la mật. Nhưng đối với Hội thứ VII tiếp theo, sẽ cho chúng ta một lối lãnh hội khác hẳn.

 

Hội thứ VII “lật úp” tất cả những gì chúng ta đã học ở trên, nhưng lại nâng chúng ta lên một trình độ mới. Và chúng ta sẽ mở con mắt đạo với những nghịch đảo táo bạo này. Đại Bát Nhã nói  “Những hạng phàm phu thuận dòng thế gian, còn người thuận chánh lý thì nghịch dòng thế gian... !”

Vậy, muốn hiểu Hội thứ VII, chúng ta phải thực hiện một “bước nhảy”. Có thế chúng ta mới lột xác, đổi thể hay chuyển y. Và cũng như Thiền sư Viên Ngộ nói “đại tử nhất phiên”, phải một lần chết mới sống lại mãi mãi được chí đến thời gian vô cùng tận. Có thể chúng tôi quá lời, nhưng chắc chắn Hội thứ VII hứa hẹn sẽ dẫn chúng ta đến chỗ này. Lối thuyết pháp của Hội thứ VII không có khích lệ, không khuyên lơn mà là lối thuyết “đốn ngộ” chẳng khác nào như tiếng hét của Thiền sư, đánh thẳng vào cân não để thức tỉnh cái tâm ngái ngủ của chúng sinh.

Chúng tôi phải nhấn mạnh: Đây là giáo pháp “đốn ngộ”, có thể để đưa chúng ta vào cảnh giới mới mà chúng ta chưa từng mơ tưởng đến! Hy vọng quý vị sẽ “tỉnh” ra với các giáo pháp táo bạo của Hội thứ VII này!

 

                                                            --- o0o ---

Hội thứ VI - 16. Phẩm "Tán Thán"

 

XVI. PHẨM TÁN THÁN.

 

Tiếp theo phần giữa quyển 573, Hội thứ VI, ĐBN.

(Tương đương với phẩm 15: Khen Ngợi, Kinh TTVBN)

 

Tóm lược:

 

Bấy giờ, đại Bồ tát Mạn Thù Thất Lợi liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ chân Phật, kéo y che vai trái, gối phải quỳ sát đất, chắp tay cung kính bạch Phật:

- Công đức của Như Lai thật là hiếm có, không gì sánh bằng, không thể nghĩ bàn. Chư Phật ba đời đều không có khác. Nếu được thấy Như Lai hoặc nghe công đức của Ngài thì loài hữu tình này cũng khó nghĩ bàn. Lại một lần nữa, hôm nay con được thấy Phật chuyển xe pháp lớn, thật là điều chưa từng có, nên hân hoan vui mừng.

Nói lời này rồi, đại Bồ tát liền bay lên hư không cao bằng 7 cây Đa la, chắp tay khen:


Tất cả loài hữu tình,
Chỉ Phật là tối tôn.
Không có ai sánh bằng,
Huống lại có người hơn.
Ngã và pháp đều Không,
Diệu lý Vô đẳng đẳng.
Chỉ Phật Thế Tôn ta,
Sánh bằng Vô đẳng đẳng.
Phiền não và tập khí
Đều hết hẳn không còn,
Biết được tất cả pháp
Đều hoàn toàn rõ ràng,
Hoặc trí hoặc thuyết pháp
Không ai sánh bằng Phật.
Cõi Tam thiên đại thiên,
Chỉ Phật là tối tôn.
Mười lực, vô úy thảy,
Thật có chẳng hư dối.
Đế thích cùng Phạm vương,
Thảy đều không thể bằng.
Đại ân đức Thế Tôn,
Thấm khắp các hữu tình.
Việc này khó nghĩ bàn,
Nhất định không ai bằng
Thường đem tuệ vi diệu
Và phương tiện thiện xảo,
Giáo hóa các hữu tình,
Khiến đều được lợi vui.

Khi ấy, trong hội có một Thiên tử tên là Diệu Sắc, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, kéo y che vai trái(1), gối phải quỳ sát đất, chắp tay hướng Phật, dùng kệ khen:


Có kẻ nói thế gian ngang Phật,
Lời ấy là hư dối chẳng thật.
Nếu nói Pháp vương rất tối tôn,
Lời này là chắc thật chẳng dối.
Những hàng trời người đang vấn nạn,
Không ai bẻ được Đại sư ta.
Thiện Thệ hàng ma dẹp ngoại đạo,
Dẫn dắt thế gian đến giải thoát.
Bốn biện thanh tịnh nói không cùng,
Thuốc diệu Cam lồ ban hữu tình.
Quán khắp các pháp trí vô ngại,
Tất cả sát na chẳng giảm mất.
Bình đẳng đại bi xem hữu tình,
Tâm luôn thanh tịnh, đời chẳng nhiễm.
Biết rõ hoàn toàn căn, dục, tánh,
Tùy sự thích nghe mà ứng nói.
Phiền não khác nhau chẳng phải một,
Chỉ bày vô lượng môn đối trị.
Duy Phật khéo nói nhân duyên kia,
Luôn vì lợi lạc chúng hữu tình.
Gặp Phật nghe pháp chẳng chứng Thánh,
Hữu tình như thế thật khó độ.
Đại danh Như Lai phải khát ngưỡng,
Kẻ nào được thấy lợi vô hạn.
Phật trí luôn làm tâm thanh tịnh,
Được nghe chánh pháp khỏi sanh tử.
Nghe danh hiệu Phật điềm lành lớn,
Thường niệm Thế Tôn luôn hỷ lạc.
Phát tâm hướng Phật sanh trí tuệ,
Như lời dạy tu thành chủng trí.
Giới phẩm thanh tịnh không bẩn đục.
Tĩnh lự đệ nhất, tâm bừng sáng.
Trí tuệ tối thắng khó khuynh động,
Biển pháp thanh tịnh như cam lồ.
Tất cả hữu tình ưa buông lung.
Chư Phật chuyên tịnh, lìa thế gian.
Thương yêu hữu tình như con một,
Ơn đức sâu dày không đền được.
Trước nói pháp phá giặc phiền não,
Sau dẹp thiên ma quân huyễn hóa.
Thế Tôn đã nói lỗi ba cõi,
Rộng bày vô lượng đức Niết bàn,
Trăm ngàn đại kiếp khó được nghe,
Nên nay con chí thành tán lễ.

Trong hội lại có một vị Thiên tử tên là Thiện Danh, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, kéo y che vai trái, gối phải quỳ sát đất, chắp tay hướng về Phật, nói kệ khen:


Như Lai bình đẳng hành đại từ,

Nếu có thể dùng trí độ người.

Đề Bà Đạt đa(2) được độ trước,

Huống gì đối với hữu tình khác.

Nay con chẳng muốn để luống qua,

Tu trì đại hạnh đền ơn Phật.

Nếu chỉ tự chứng Diệt vô lậu,

Đối ơn Phật kia chưa đền được.

Nếu có tu hành như Phật dạy,

Mới được gọi là chơn Phật tử.

Phật chịu khổ lâu vì hữu tình.

Ơn lớn vô thượng khó trả được.

Đại từ khai rõ chơn diệu pháp,

Khiến chúng tự tu và độ người.

Nếu Phật chẳng hiện ở thế gian,

Tất cả hữu tình chịu khổ lớn,

Chỉ có ác thú không trời, người,

Nghe toàn các thứ âm thanh khổ.

Chịu khổ các cõi không ai khỏi,

Do vì phiền não buộc hữu tình.

Phật muốn cởi bỏ các gút độc,

Ngược lại buộc bằng dây đại bi.

Như Lai ruộng phước lớn của đời,

Nương pháp chánh tu lìa ác thú.

Nếu trái lời Phật chẳng tu hành,

Nhất định chẳng được sanh trời, người.

Nếu ai ác tâm với đức Phật,

Hoặc chẳng ưa nghe pháp thâm sâu,

Thì hữu tình này thật đáng thương,

Quyết định ở mãi chỗ tối tăm.

Như Phật Thế Tôn trí tự biết,

Loài kia Như Lai mới hiểu rõ.

Trí Phật chẳng phải dễ so lường,

Cúi đầu đảnh lễ mười phương Phật,

Vô úy, trí, lực, pháp bất cộng,

Chỉ Phật Thế Tôn có đầy đủ.

Tướng hảo trang nghiêm, hương vi diệu,

Người xem không chán, vượt các sắc.

Ba môn khai mở chẳng tạm dứt.

Hoa Phật thanh tịnh, nay con lễ.

Duy Phật hiểu đúng Vô thượng giác,

Vĩnh viễn ra khỏi các hiểm nạn.

Phật là đệ nhất bậc Vô thượng,

Cúi đầu quy mạng đấng Lưỡng túc(3).

Phật đem công đức nước chánh pháp,

Rửa trừ sạch hết các cấu uế.

Thế Tôn xưa nay sạch trong ngoài,

Con nay đảnh lễ thân chơn tịnh.

 

Lúc này, đại Phạm vương chủ cõi Kham Nhẫn, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, kéo y che vai trái, gối phải quì sát đất, chấp tay hướng Phật, dùng kệ khen:


Như Lai đầy đủ thắng phước tu

Lợi lạc hữu tình chẳng tạm ngưng,

Thường rưới Cam lồ cứu đói khát.

Con nay cúi đầu làm lợi người.

Thế gian Người khả kính hơn hết.

Tất cả loài kia đến cúng Phật

Đầy đủ các thiện, hết các ác.

Con nay kính lạy bậc Vô đẳng.

Vì muốn cứu vớt các hữu tình,

Chẳng còn hạnh nào không tu học.

Vượt khỏi sanh tử được an vui.

Con nay đảnh lễ đấng cứu thế,

Lễ lạy thân sắc vàng vi diệu,

Lễ lạy bậc thuyết pháp cam lồ,

Lễ lạy trí thanh tịnh không bẩn,

Lễ lạy tất cả rừng công đức.

 

Bấy giờ, Phật bảo đại Phạm thiên vương:

- Lành thay! Lành thay! Như điều ngươi khen Như Lai là thật chẳng phải hư dối. Vì sao? Vì trong vô lượng kiếp, chư Phật Thế Tôn đã tu tập nhiều loại phước đức trí tuệ, do đó quả vị hoàn toàn đầy đủ. Vì sao? Vì Như Lai đầy đủ bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật. Ba nghiệp thân, ngữ, ý đều thanh tịnh, nên thông suốt được chơn như thật tế, vì trụ thật tế nên nói ra điều gì chẳng hư dối.

Khi ấy, đại Phạm thiên vương đảnh lễ chân Phật, chắp tay cung kính, bạch Phật:

- Cúi xin Thế Tôn dùng năng lực thần thông làm cho Bát nhã Ba la mật này trụ lâu ở thế gian để làm lợi lạc cho tất cả.

Phật bảo đại Phạm thiên vương:

- Tất cả Như Lai trong mười phương ba đời đều dùng đại thần thông, cùng chung hộ niệm Bát Nhã thâm sâu để trụ lâu ở thế gian, làm lợi lạc cho tất cả. Thiên ma, Phạm chí, ngoại đạo, Sa môn đều không thể phá diệt và gây trở ngại. Vì sao? Vì Ta nhớ quá khứ có Phật tên là Bảo Nguyệt Như Lai, đầy đủ mười hiệu. Nước tên Vô Hủy, kiếp tên Hỷ Tán. Phật kia có hai đệ tử Bí sô làm đại pháp sư, khéo thuyết giáo pháp thâm sâu. Một: Tên là Trí Thịnh, hai: Tên là Đế Thọ, thường theo Phật kia chuyển xe chánh pháp. Trải qua một kiếp tuyên thuyết Bát Nhã thâm sâu này, có trăm ngàn ức chúng ma cõi Tam thiên đại thiên đều được giáo hóa phát Bồ đề tâm. Vì thế nên các Thiên ma không có sức phá diệt và cản trở. (Q.573, ĐBN)

Đại Bồ tát Tịch Tĩnh Tuệ liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, kéo y che vai trái, gối phải quỳ sát đất, chắp tay cung kính bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bảo Nguyệt Như Lai trụ ở chỗ nào? Vẫn còn trụ ở đời hay đã nhập Niết bàn rồi?

Thế Tôn bảo Tịch Tĩnh Tuệ:

- Thiện nam tử! Cách phương Đông hơn mười ngàn ức thế giới chư Phật, đã từng có thế giới tên là Vô Hủy. Trong thế giới ấy, Như Lai thọ một vạn kiếp. Ở thế giới ấy, Phật thường thuyết Bát Nhã thâm sâu này. Các Thiên ma và ngoại đạo v.v... không thể làm chướng ngại Kinh điển này và đều phát tâm quả vị Vô Thượng Bồ đề. Bí sô Trí Thịnh nay chính là Mạn Thù Thất Lợi. Bí sô Đế Thọ nay là Thiên vương Tối Thắng. Hai vị Bồ tát này đã dùng các phương tiện thiện xảo ủng hộ Bát Nhã làm cho trụ lâu ở đời. Mười phương cõi Phật nếu có thuyết Bát Nhã này thì hai vị Bồ tát ấy liền đến nghe nhận. Như ngày nay, Ta thuyết pháp môn này, phóng đại quang minh, tìm theo ánh quang minh đến đây vân tập. (Q. 573, ĐBN)

 

Thích nghĩa:

(1). Kéo áo che vai trái hay trật (chệch) áo chìa vai phải gần như nhau, tuy nhiên nói cho đúng thì phải trật áo chìa vai phải. Vì theo tục lệ khi xưa bất cứ quan dân dù là đại thần trong triều đình khi gặp Phật thường hôn chân Phật và trật áo chìa vai phải để tỏ lòng khiêm hạ đối với Phật. Đa số bản dịch đều dịch là “kéo y che vai trái”, tuy dịch như vậy không có gì sai nhưng không nói đúng với phong tục khi xưa “kéo áo chìa vai phải hay trật áo để lộ vai phải”.

(2). Đề Bà Đạt Đa: (提婆達多) Phạm, Pàli: Devadatta. Cũng gọi Đề Bà Đạt Đâu, Đế Bà Đạt Đa, Địa Bà Đạt Đa. Hoặc gọi là Điều Đạt. Gọi tắt: Đề Bà Đạt Đa. Hán dịch: Thiên Nhiệt, Thiên Thụ, Thiên Dữ. Vị Tỷ khưu xấu ác, phạm tội ngũ nghịch, phá hoại Tăng đoàn, đối địch với Phật. Đề Bà Đạt Đa là con vua Hộc Phạn chú của Phật (cũng có thuyết cho là con của Cam lộ Phạn vương, Bạch Phạn vương hoặc là con của trưởng giả Thiện Giác). Thuở nhỏ, ông học tập cùng Thái tử Tất Đạt Đa, Nan đà, tài năng ông xuất sắc nên thường tranh đua với Thái tử Tất Đạt Đa. Sau khi Thái tử Tất Đạt Đa thành Phật, ông theo Phật xuất gia, trong khoảng 12 năm đầu, ông dốc lòng tu đạo, siêng năng tinh tiến. Sau vì không được Thánh quả nên ông thoái tâm và muốn học thần thông để cầu lợi dưỡng, đức Phật không cho, Đề Bà liền đến chỗ Thập Lực Ca Diếp học thần thông, được Thái tử A Xà Thế của nước Ma Yết Đà cúng dường. Do đó, Đề Bà càng kiêu mạn hơn, muốn thay Phật lãnh đạo Tăng đoàn. Sau đó, Đề bà cầm đầu 500 đồ chúng thoát ly Tăng đoàn, tự xưng Đại sư, đặt ra năm pháp và cho đó là con đường tới Niết bàn mau chóng. Đây là việc phá hòa hợp Tăng. Về 5 pháp do Đề Bà lập ra, các bộ luận ghi chép không giống nhau. Cứ theo Hữu bộ tỳ nại da Phá Tăng sự quyển 10 chép, thì 5 pháp ấy là: Không ăn váng sữa, không ăn thịt cá, không ăn muối, khi may ca sa để nguyên tấm vải không cắt nhỏ ra, ở nơi xóm làng chứ không ở chỗ vắng vẻ. Còn theo luật Thập tụng quyển 4, quyển 36, thì 5 pháp là: - Trọn đời mặc áo vá. - Trọn đời đi xin ăn. - Trọn đời ngồi nơi đất trống. - Trọn đời không ăn thịt cá. - Trọn đời chỉ ăn một bữa. Ngoài ra, về việc giải thích các pháp nghĩa, Đề bà cũng nêu ra những dị thuyết. Từ đó, ở thành Vương Xá, nước Ma Yết Đà, Đề Bà có giáo đoàn độc lập, được Thái tử A Xà Thế ủng hộ nên thế lực mỗi ngày một lớn mạnh, Phật đã thường răn bảo các Tỷ khưu chớ tham lợi dưỡng của Đề Bà. Về sau, Đề bà xúi giục A xà thế giết cha, để cướp ngôi, A xà thế bèn bắt cha giam trong ngục tối rồi lên làm vua. Đồng thời, Đề bà cũng âm mưu ám hại Phật để lên làm Phật, nên ông ta lên núi Kì xà lăn tảng đá lớn xuống nhằm giết Phật, nhưng việc không thành và Phật chỉ bị thương ở chân. Lại thừa lúc Phật vào thành Vương xá, Đề bà cho thả voi điên ra để hại Phật, nhưng voi vừa gặp Phật liền qui phục nên âm mưu cũng bị thất bại. Bấy giờ, Ngài Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên khuyên nhủ đồ chúng Đề Bà trở về với Tăng đoàn của đức Phật, vua A Xà Thế cũng được đức Phật giáo hóa, bèn sám hối qui y. Đề Bà vẫn không bỏ tâm ác, đánh đập Tỷ khưu ni Liên Hoa Sắc đến chết; lại bôi thuốc độc vào 10 móng tay mình định nhân lúc lễ lạy Phật để hại Phật, nhưng chân Ngài khi ấy cứng chắc như đá, còn 10 đầu ngón tay của Đề bà thì bị xây xát, chất độc thấm vào máu khiến Đề Bà bỏ mạng. Trong Kinh gọi 5 việc: Phá hòa hợp tăng, làm thân Phật chảy máu, thả voi điên, giết Tỷ khưu ni Hoa Sắc, 10 móng tay bôi chất độc là Đề bà ngũ nghịch và gọi riêng 3 việc: Phá Tăng, hại Phật, giết Tỷ khưu ni là Tam nghịch. Trong các Kinh điển phần nhiều có nói vì những việc làm trái với đạo lý trên đây nên sau khi chết, Đề Bà bị rơi vào địa ngục. Cứ theo điều Thất La Phạt Tất Để Quốc trong Đại Đường Tây Vực Ký quyển 6, thì về phía Đông chỗ nền cũ của Tinh xá Kỳ Viên, Ngài Huyền Trang còn thấy cái hố sâu nơi mà Đề Bà rơi xuống khi còn sống. Lại cứ theo điều Yết La Noa Tô Phạt Thích Na Quốc trong Đại Đường Tây Vực Ký quyển 10 và Cao Tăng Pháp Hiển Truyện chép, thì khi các Ngài Pháp Hiển, Huyền Trang du học ở Ấn độ, lúc đó, ở Ấn độ vẫn còn có người tuân hành theo lời di huấn của Đề Bà Đạt Đa. Ngoài ra, cứ theo Kinh Tăng Nhất A hàm quyển 47 chép, thì đức Phật bảo Đề Bà Đạt Đa sẽ phải chịu khổ địa ngục trong một kiếp và được thọ ký thành Bích Chi Phật. Kinh Tát Đàm Phân Đà Lợi và phẩm Đề Bà Đạt Đa trong Kinh Pháp Hoa quyển 4 nói, ở đời quá khứ Đề Bà là thiện tri thức, từng thuyết giảng Kinh điển Đại thừa cho đức Thích tôn nghe, nhờ thế mà đức Thích tôn được thành Phật. Trong Kinh còn nói, sau vô lượng kiếp ở đời vị lai, Đề Bà Đạt Đa sẽ thành Phật hiệu là Thiên Vương Như Lai. Tóm tắt thích nghĩa của Từ điển Phật Quang.

(3). Lưỡng túc tôn: Nói một cách vắn tắt có nghĩa là bậc tôn quý có đầy đủ phước đức trí tuệ. Lưỡng túc tôn cũng chính là danh hiệu Phật. Phật Quang từ điển tán rộng lưỡng túc tôn (兩足尊) như sau:

Lưỡng túc tôn: Phạm: Dvipadottama, Pàli: Dvipada-seỉỉha. Cũng gọi Vô thượng lưỡng túc tôn, Nhị túc tôn, như sau: Tôn hiệu của đức Phật, vì Ngài có đủ 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, thành tựu các pháp vô học vô lậu như Tận trí, Vô sinh trí và các pháp bất cộng như 10 lực, 4 vô úy, nên tôn hiệu này có 2 nghĩa: 1- Phật là bậc tôn quí nhất trong các loài chúng sinh 2 chân ở cõi người và cõi trời. Cứ theo phẩm Báo ân trong Kinh Đại thừa bản sinh tâm địa quán quyển 2 và luận Đại trí độ quyển 27, thì Phật là bậc nhất trong tất cả các loài chúng sinh không chân, 2 chân, 4 chân, nhiều chân, có sắc, không sắc, có tưởng, không tưởng, chẳng phải có tưởng, chẳng phải không tưởng v.v... 2- Lưỡng túc (đủ cả 2) ví dụ cho quyền và thực, giới và định, phúc và tuệ, giải và hành v.v..., đức Phật có đầy đủ lưỡng túc này. [X. phẩm Phương tiện Kinh Pháp hoa Q.1; phẩm A xà lê chân thực trí trong Kinh Đại nhật Q.5; luận Du già sư địa Q.83; Pháp hoa huyền tán Q.3; Kim quang minh văn cú ký (hội bản) Q.3; Sa di thụ giới văn trong Thiền uyển thanh qui Q.9].

 

Sơ giải:

 

Phẩm này các Bồ tát, các Thiên tử Phạm vương như: Bồ tát Mạn Thù Thất Lợi hay còn gọi là Văn Thù Sư Lợi, Thiên tử tên là Diệu Sắc, Thiên tử tên là Thiện Danh, đại Phạm vương chủ cõi Kham Nhẫn đều xướng kệ ca tụng công đức Thế Tôn và sau cùng là các Bồ tát khác “xin Thế Tôn dùng năng lực thần thông làm cho Bát nhã Ba la mật này trụ lâu ở thế gian để làm lợi lạc cho tất cả”.

Nội dung phẩm này chỉ có thế, ai đọc cũng có thể hiểu. Nên không cần bàn thêm!

 

---o0o---

Hội thứ VI - 15. Phẩm "Nhị Hạnh"

 

XV. PHẨM NHỊ HẠNH.

 

Phần giữa quyển thứ 573, Hội thứ VI, ĐBN.

(Tương đương với phẩm 14: “Nói Về Hai Hạnh”, Kinh TTVBN)

 

Tóm lược:  

 

Bấy giờ, Phật bảo Mạn Thù Thất Lợi:

- Thiện nam tử! Nếu đại Bồ tát hành sâu Bát Nhã thâm sâu thì phải hoàn thành toàn diện Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Vì các đại Bồ tát có hai loại hạnh: 1. Thành tựu Bát Nhã,  2. Giáo hóa hữu tình.

Bồ tát Mạn Thù Thất Lợi liền thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ tát thành tựu Bát Nhã, giáo hóa hữu tình?

Phật bảo Bồ tát Mạn Thù Thất Lợi:

- Thiện nam tử! Đại Bồ tát từ khi mới hành Bát Nhã cho đến rốt ráo đều lìa tâm dụng công, thuyết pháp không cùng tận, không gián đoạn, làm cho hữu tình thoát khỏi cảnh giới ác của ba cõi, để họ an trú cảnh giới lành, hoặc giúp họ chứng được Thánh quả Tam thừa.

Mạn Thù Thất Lợi! Đây gọi là các đại Bồ tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, giáo hóa hữu tình. Mạn Thù Thất Lợi! Nếu đại Bồ tát hành sâu Bát nhã Ba la mật thành tựu vô biên, vô vi Bát Nhã. Đây gọi là các đại Bồ tát tự hành Bát Nhã. Vì sao? Vì hành như vậy có thể viên mãn tất cả công đức.

 

(Những pháp nào cùng với Bát Nhã và đại Bồ tát tương ưng?)

 

Mạn Thù Thất Lợi liền thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Những pháp nào cùng với Bát nhã Ba la mật và Đại Bồ tát tương ưng?(1)

Phật bảo Bồ tát Mạn Thù Thất Lợi:

- Thiện nam tử! Nhất thiết trí là pháp chân thật, xa lìa suy lường, vi diệu, không tướng, đạo lý sâu xa, không thể thấy được, khó có thể thông đạt, thường trú tịch tĩnh, trong mát cùng khắp, không có phân biệt, không vướng, không ngăn, tùy thuận lý đạo, không thể nắm bắt, cực kỳ tịch tĩnh; trong tất cả pháp là vô thượng nhất, không gì ngang bằng. (Q.573, ĐBN)

Mạn Thù Thất Lợi! Đó là đại Bồ tát hành Bát nhã Ba la mật sẽ cùng Nhất thiết trí tương ưng.

Mạn Thù Thất Lợi lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bồ tát ở cảnh giới nào hành Bát nhã Ba la mật?

 Phật bảo Bồ tát Mạn Thù Thất Lợi:

- Thiện nam tử! Các đại Bồ tát quyết định hành sâu Bát nhã Ba la mật với cảnh giới thâm sâu, cảnh giới rộng lớn, cảnh giới công đức.

Mạn Thù Thất Lợi! Cảnh giới thâm sâu là bản thể vô vi, không thể xa rời, không vướng hai bên, vượt qua các chướng, tự tính thanh tịnh, không thể suy lường, không thể tính biết, không cùng chung với Thanh Văn và Độc giác.

Mạn Thù Thất Lợi! Cảnh giới rộng lớn: Bồ tát hành Bát nhã Ba la mật, tất cả công đức của chư Phật Như Lai, hai pháp Bát Nhã và Đại bi là thể, lìa tướng phân biệt, tâm vô công dụng, lợi ích chúng sinh, đều hợp ý họ, không lúc nào tạm bỏ.

Mạn Thù Thất Lợi! Cảnh giới công đức là các đại Bồ tát hành sâu Bát nhã Ba la mật tương ứng với tất cả công đức: Ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, tùy theo căn cơ các hữu tình ưa muốn tánh hành và các hình tướng khác nhau thế nào thì năng lực oai thần của Phật đều thị hiện như vậy. Nghĩa là thị hiện lên trời Đổ sử đa, hoặc thị hiện từ cõi trời hạ sanh xuống châu Thiệm bộ, hoặc thị hiện ở trong thai, hoặc thị hiện lúc sơ sinh, hoặc thị hiện đồng tử, hoặc thị hiện cảnh đi dạo, hoặc thị hiện xuất gia, hoặc thị hiện tu khổ hạnh, hoặc thị hiện đến ngồi dưới cội Bồ đề, hoặc thị hiện sự chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, hoặc thị hiện chuyển xe pháp, hoặc thị hiện nhập Niết bàn. Thị hiện các tướng khác nhau như vậy đều vì sự giải thoát sanh tử của hữu tình. Mạn Thù Thất Lợi! Đó gọi là các đại Bồ tát đã tu hành cảnh giới của Bát Nhã thâm sâu.

Mạn Thù Thất Lợi liền thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thật hy hữu. Bát Nhã thâm sâu này của Bồ tát là cảnh giới không thể nghĩ bàn của đức Phật.

Phật bảo Bồ tát Mạn Thù Thất Lợi:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như ngươi nói. Bát Nhã thâm sâu là pháp bất cộng, không thể nghĩ bàn. Vì sao? Vì tất cả phàm phu, Thanh văn, Độc giác không thể thông suốt, chẳng phải cảnh giới của họ; ngoài đức Phật Thế Tôn không ai có thể đạt được. Vì sao? Vì nghĩa Như như (chơn như) các pháp rất thậm thâm, tự tại, chẳng dao động, thâu nhiếp cả cõi vô lậu, làm cho các loài hữu tình được trọn vẹn an lạc. Cho nên gọi là cảnh giới của chư Phật, vượt qua đường ngôn ngữ, thâu nhiếp thắng nghĩa đế, xa lìa sự tìm tòi, phân biệt, nghĩ bàn, pháp thế gian chẳng thể nào so sánh, ví dụ nổi, là thượng phẩm trong tất cả các pháp, không ở trong sanh tử cũng chẳng trụ Niết bàn.

Mạn Thù Thất Lợi! Khi hành Bát Nhã thâm sâu, các đại Bồ tát có năm việc không thể nghĩ bàn:

1- Là tự tánh, 2- Là phương xứ, 3- Là các trụ, 4- Là nhất dị, 5- Là lợi lạc.

Mạn Thù Thất Lợi! Thế nào là tự tánh không thể nghĩ bàn?

Tức là sắc như cầu không thể được, lìa sắc như cầu cũng không thể được. Thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy. Mười hai xứ như, mười tám giới như cầu không thể được, lìa 12 xứ như, 18 giới như cầu không thể được. Thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng như vậy. Pháp hữu như cầu không thể được, pháp vô như cầu không thể được. Nên nói tự tánh không thể nghĩ bàn.

Mạn Thù Thất Lợi! Thế nào là phương xứ không thể nghĩ bàn?

Như như này nếu trụ cõi Dục thì không thể nghĩ bàn, nếu lìa cõi Dục cũng không thể nghĩ bàn. Đối với cõi Sắc và cõi Vô sắc cũng như vậy. Hoặc trụ phương Đông không thể nghĩ bàn, hoặc lìa phương Đông không thể nghĩ bàn. Phương Nam, Tây, Bắc, bốn góc và phương trên, phương dưới cũng như vậy. Nên nói phương xứ không thể nghĩ bàn.    

Mạn Thù Thất Lợi! Thế nào là các trụ không thể nghĩ bàn?

Hoặc trụ an lạc không thể nghĩ bàn, hoặc trụ vắng lặng không thể nghĩ bàn, hoặc trụ có tâm không thể nghĩ bàn, hoặc trụ vô tâm không thể nghĩ bàn. Nên nói các trụ không thể nghĩ bàn.

Mạn Thù Thất Lợi! Thế nào gọi là nhất dị không thể nghĩ bàn? Ba đời Như Lai đồng ở một chỗ, tự tánh thanh tịnh, thâu nhiếp cõi vô lậu, hoặc là một, hoặc sai khác đều không thể nghĩ bàn. Nên nói nhất dị không thể nghĩ bàn.

Mạn Thù Thất Lợi! Thế nào là lợi lạc không thể nghĩ bàn?

Thần lực trí tuệ đồng một pháp giới. Bát Nhã và phương tiện hai tướng bình đẳng, có thể làm cho hữu tình được vô lượng lợi lạc, không thể nói được, vượt qua cảnh giới ngôn ngữ nhưng thuận theo căn tánh khác nhau của chúng sanh, tạo ra nhiều cách nói và nhiều kiểu thị hiện: Ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, tùy theo tâm hữu tình mà thị hiện. (Q.573,ĐBN)

Mạn Thù Thất Lợi thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Những gì gọi là ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp?

Phật bảo Bồ tát Mạn Thù Thất Lợi:

- Thiện nam tử! Tướng tốt của Như Lai vô lượng, vô biên, nếu Ta nói rộng ra không thể hết được, nhưng theo sở thích của thế gian chỉ nói gồm 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp.

 

Thế nào gọi là ba mươi hai tướng Đại sĩ?

1. Dưới bàn chân Như Lai đầy đặn, vững chãi khéo đẹp giống như đáy hộp. Đất dù cao hay thấp nhưng khi chân Ngài đạp lên thảy đều bằng phẳng và đều tiếp xúc chân Ngài.

2. Dưới bàn chân Như Lai có vằn nghìn căm xe và hình vành trục xe tròn trịa.

3. Tay chân Như Lai đều mềm mại như bông vải, hơn tất cả.

4. Ngón tay, chân Như Lai đều thon dài tròn đẹp hơn người, biểu lộ sự trường thọ.

5. Giữa kẽ mỗi ngón tay, chân của Như Lai có màng lưới da dính nhau, có đường vân như bức thêu màu vàng ròng, giống chim nhạn chúa.

6. Gót chân Như Lai rộng dài tròn đầy tương xứng với mu chân, khác hơn các hữu tình.

7. Mu chân Như Lai nổi cao đầy đặn, xinh đẹp mềm mại tương xứng với gót chân.

8. Hai bắp chân Như Lai thon tròn như bắp đùi nai chúa.

9. Hai cánh tay Như Lai dài thẳng tròn đầy như vòi voi chúa. Nếu đứng thẳng thì tay rờ tới đầu gối.

10. Âm tàng của Như Lai ẩn kín như ngựa, rồng, voi chúa.

11. Mỗi lỗ chân lông có một sợi lông mềm nhuận xanh biếc và xoay vòng bên phải.

12. Lông, tóc Như Lai mướt đều, uốn lên và xoay về bên phải, mềm nhuận xanh biếc, thân thể vàng rực, trang nghiêm rất khả ái.

13. Da thân Như Lai mỏng láng mịn trơn, đất bụi nước đều không bám vào được.

14. Da thân Như Lai đều màu vàng ròng, chói sáng như đài Diệu Kim, trang nghiêm bằng các thứ báu. Mọi người đều ưa nhìn.

15. Bảy chỗ: hai lòng bàn tay, hai lòng bàn chân, hai vai và đỉnh đầu của Như Lai đều đầy đặn, sáng láng mềm mại rất dễ ưa thích.

16. Cổ vai Như Lai tròn đầy đẹp lạ.

17. Vai nách Như Lai đều đầy đặn, chắc nịch.

18. Dung nghi Như Lai ngay ngắn hùng dũng.

19. Thân tướng Như Lai cao rộng đoan nghiêm.

20. Thể tướng Như Lai ngang rộng tương xứng, tròn đầy như cây Nặc cù đà.

21. Cằm, ngực và thân trên của Như Lai bằng phẳng, oai dung rộng lớn như sư tử chúa.

22. Ánh sáng từ thân Như Lai phát ra xung quanh một tầm.

23. Như Lai đủ bốn mươi chiếc răng đều nhau, khít, trắng hơn ngọc kha tuyết.

24. Bốn răng cửa của Như Lai trắng trong bén sắc.

25. Như Lai thường được thượng vị trong các mùi vị, vì mạch yết hầu thẳng nên có thể dẫn thượng vị vào nghìn gân mạch chi tiết trong thân.

26. Tướng lưỡi Như Lai rộng dài, mỏng sạch, phủ tới mặt cho đến mé tai.

27. Giọng nói Như Lai có âm vang to lớn thanh nhã, dù chúng nhiều hay ít đều được nghe. Phát âm vang rền giống như tiếng trống trời, lời nói dịu dàng trong trẻo như chim Tần ca.

28. Lông mi Như Lai như trâu chúa, xanh biếc ngang đều chẳng rối.

29. Mắt Như Lai xanh biếc, trong sáng phân minh.

30. Khuôn mặt Như Lai tròn đầy như trăng, tướng lông mày sáng xanh, cong như cung Thiên đế.

31. Giữa mày Như Lai có tướng lông trắng xoáy quanh theo chiều bên phải, mềm mại như bông vải trắng, đẹp như ngọc kha tuyết.

32. Trên đỉnh đầu Như Lai có cục thịt tròn nổi cao như búi tóc.

Đây gọi là ba mươi hai tướng của Như Lai.

 

Thế nào là tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc?

1. Móng tay Như Lai hẹp dài, mỏng và láng bóng như hoa đồng đỏ.

2. Ngón tay, chân Như Lai tròn, thon dài, ngay thẳng, mềm mại, đốt xương không lộ.

3. Ngón tay, chân Như Lai đều ngang bằng không so le, ở các kẽ ngón đều đầy đặn.

4. Tay chân Như Lai tròn đầy như ý, mềm sạch sáng láng như hoa sen.

5. Gân mạch Như Lai kết lại bền chắc nhưng ẩn kín không lộ ra.

6. Mắt cá Như Lai ẩn kín.

7. Như Lai bước đi vững chãi, dáng vẻ ung dung như voi chúa.

8. Như Lai bước đi nghi ung nghiêm trang như sư tử chúa.

9. Như Lai bước đi bình an chừng mực, không dài không ngắn, giống như trâu chúa.

10. Như Lai bước đi oai nghi, tiến dừng như con thiên nga chúa.

11. Khi ngó lại, Như Lai đều quay về bên hữu chuyển cả toàn thân như voi chúa, như rồng.

12. Lóng đốt Như Lai lần lượt tròn đều, một sự sắp xếp khéo léo tuyệt hảo.

13. Đốt xương Như Lai kết khít không hở như rồng cuộn.

14. Đầu gối Như Lai rắn chắc tròn đẹp.

15. Chỗ kín của Như Lai có văn rất đẹp, đầy đủ uy thế, hoàn toàn sạch sẽ.

16. Thân Như Lai nhuận trơn, mềm mại, bóng bẩy, sạch đẹp, bụi đất chẳng dính.

17. Nghi dung Như Lai oai nghiêm, không sợ sệt, cũng chẳng khiếp nhược.

18. Các phần của Như Lai đều rắn chắc, dày dặn, ăn khớp với nhau.

19. Thân thể Như Lai an định viên mãn, chẳng khuynh động, trọn vẹn không hư hoại.

20. Thân tướng Như Lai như Tiên vương, đoan nghiêm, sáng rực chẳng mờ.

21. Thân Như Lai có hào quang xung quanh, khi đi v.v… thân Như Lai luôn tỏa sáng.

22. Bụng Như Lai vuông thẳng không khuyết, mềm mại, chẳng lộ.

23. Rốn Như Lai sâu tròn, xoay quanh bên phải, thanh tịnh sáng rỡ.

24. Rốn Như Lai sâu, chẳng lồi, chẳng lõm, chung quanh đẹp đẽ.

25. Da của Như Lai hoàn toàn không có bệnh ghẻ lở, cũng không có nét xấu như nốt ruồi, tàn nhang, bướu v.v...

26. Lòng bàn tay Như Lai đầy đặn mềm mại, dưới lòng bàn chân bằng thẳng.

27. Vân tay Như Lai sâu dài rõ thẳng, nhuận trơn không đứt đoạn.

28. Môi Như Lai đỏ như quả Tần-bà, hai vành môi cân xứng.

29. Khuôn mặt Như Lai chẳng dài chẳng ngắn, chẳng lớn, chẳng nhỏ, đầy đặn trang nghiêm.

30. Lưỡi Như Lai mềm mỏng, rộng, dài, màu như đồng đỏ.

31. Âm thanh Như Lai vang trầm như voi chúa rống, oai chấn tất cả.

32. Âm vận Như Lai mỹ diệu đầy đủ, như tiếng vang trong hang sâu.

33. Mũi Như Lai cao dài, ngay thẳng, lỗ mũi không lộ.

34. Răng Như Lai vuông, ngay thẳng, trắng đẹp.

35. Các răng Như Lai tròn trắng, sáng sạch, bén sắc.

36. Mắt Như Lai trong, xanh, và trắng phân minh.

37. Mắt Như Lai rộng dài như lá hoa sen xanh, rất đẹp khả ái.

38. Lông mi Như Lai trên dưới ngang thẳng, dày dặn, không trắng.

39. Đôi mày Như Lai dài, rậm, nhỏ, mềm mại, không trắng.

40. Đôi mày Như Lai mịn màng thứ tự, xanh biếc như lưu ly.

41. Đôi mày Như Lai cao, sáng như hình trăng non.

42. Tai Như Lai dày, rộng, lớn dài, hai trái tai tròn rủ xuống.

43. Hai tai Như Lai ngang bằng đẹp lạ, tránh xa lỗi lầm.

44. Dung nghi Như Lai có thể khiến mọi người thấy đều ái kính, không có sự tổn hại, không có sự ô nhiễm.

45. Trán Như Lai rộng, tròn đầy, bằng phẳng, hình tướng đẹp lạ.

46. Thân trên của thân Như Lai viên mãn như như sư tử chúa, oai nghiêm đầy đủ.

47. Tóc đầu Như Lai dài, dày dặn, xanh biếc không trắng.

48. Tóc Như Lai thơm, sạch, nhỏ, mềm, trơn, xoắn tròn.

49. Tóc Như Lai dài đều, không rối cũng chẳng kết đùm.

50. Tóc Như Lai bền chắc, chẳng đứt, hoàn toàn không rụng.

51. Tóc Như Lai trơn láng, sáng rực đẹp lạ, chẳng dính bụi bẩn.

52. Thân Như Lai vững vàng, rắn chắc như thân Na la diên.

53. Thân thể Như Lai cao lớn ngay thẳng.

54. Các lỗ trên thân Như Lai thanh tịnh tròn đẹp.

55. Thân Như Lai có năng lực thù thắng không ai sánh bằng.

56. Thân tướng Như Lai ngắm hoài không chán.

57. Khuôn mặt Như Lai tròn đầy dài rộng đúng cỡ, sáng trong rực rỡ như trăng rằm mùa Thu.

58. Nhan sắc Như Lai thư thái sáng rỡ, tươi nhuận, luôn mỉm cười trước khi nói, chỉ có thuận không trái.

59. Diện mạo Như Lai rực sáng vui tươi, không bao giờ nhăn nhó, cáu gắt v.v...

60. Thân Như Lai trong sạch không bẩn, không hôi dơ.

61. Các lỗ chân lông của Như Lai thường tỏa ra mùi thơm vi diệu.

62. Miệng Như Lai luôn tỏa ra mùi hương thơm ngát tối thượng.

63. Tướng đầu Như Lai tròn đẹp như quả Mạt đạt na, cũng giống như cái lọng trời.

64. Lông thân Như Lai xanh biếc, sáng sạch như lông cổ chim công, như trang sức lụa màu đồng đỏ.

65. Âm thanh thuyết pháp của Như Lai tùy theo chúng sanh lớn nhỏ nhưng chẳng tăng, chẳng giảm, đúng lý không chấp trước.

66. Tướng đỉnh đầu Như Lai không ai thấy được.

67. Ngón tay, ngón chân của Như Lai thon, phân minh, trang nghiêm đẹp đẽ như màu đồng đỏ.

68. Khi đi, chân Như Lai cách đất bốn tấc nhưng có hiện ấn văn trên đất.

69. Thân Như Lai rắn chắc, chẳng dựa vào người khác, thân không khinh động cũng không uốn éo.

70. Oai đức Như Lai vang xa chấn động tất cả, kẻ ác tâm nghe thì vui mừng, người sợ hãi thấy được yên.

71. Âm thanh của Như Lai tùy theo ý chúng sanh mà ban lời hòa nhã vui vẻ, chẳng cao, chẳng thấp.

72. Như Lai thường tùy theo ngôn ngữ và ý muốn của chúng sanh mà thuyết pháp.

73. Như Lai thuyết pháp cùng một âm thanh nhưng tuỳ theo căn cơ của mỗi chúng sanh đều hiểu được cả.

74. Như Lai thuyết pháp theo thứ tự, tất cả đều có nhân duyên, không lời nào không hoàn hảo.

75. Như Lai coi chúng sanh bình đẳng: Gặp thiện thì khen, gặp ác thì chê nhưng không có ưa ghét.

76. Phàm làm việc gì, Như Lai đều xem xét trước rồi làm sau, đúng theo qui tắc để người phân biệt một cách thanh tịnh hoàn toàn.

77. Tướng hảo của Như Lai, tất cả hữu tình ngắm không cùng tận.

78. Xương đỉnh đầu Như Lai cứng chắc tròn đầy.

79. Dung nhan Như Lai trẻ mãi không già, lớp mới luôn thay lớp cũ.

80. Tay chân và trước ngực Như Lai đều là tướng đức cát tường xoay tròn (chữ Vạn), đường vân như bức lụa thêu, màu ngọc châu đỏ.

Đây gọi là tám mươi vẻ đẹp của Như Lai.

 

Thích nghĩa:

(1). Bản chữ Hán trong Hoavouu.com ghi là: chư Bồ Tát Ma Ha Tát hành thâm Bát Nhã Ba La Mật Đa tu pháp hành năng dữ Nhất Thiết Trí tương ứng” Nên cả ba bản dịch: Thuvienhoasen.org, Tuvienquangduc.com và Quangduc.com đều dịch đoạn Kinh này như sau: “Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ tát hành Bát nhã Ba la mật-đa, tu hành pháp nào để tương ứng với Nhất thiết trí”?

Dịch như vậy không thể hiểu được nếu đọc hết đoạn Kinh kế tiếp. Kinh “Thắng Thiên Vương Bát Nhã Ba La Mật”, do vương tử Nguyệt Bà Thủ Na, người nước Ưu Thiền Ni dịch từ Phạn sang Hán và nhóm  Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh, dịch từ Hán sang Việt là:

“Bạch Thế Tôn! Những pháp nào cùng với Bát nhã Ba la mật và Đại Bồ tát tương ưng?”

Chúng tôi lấy đoạn Kinh trong Kinh Thắng Thiên Vương Bát Nhã này để thay vào đó, mới có thể hiểu toàn bộ đoạn Kinh trên. Tiếc rằng chúng tôi không có bản gốc chữ Hán của Kinh Thắng Thiên Vương Bát Nhã để trình quý vị thẩm định. Quý vị có thể đọc 3 đoạn Kinh của ba websites trên và so sánh với đoạn Kinh của Kinh Thắng Thiên Vương Bát Nhã do nhóm Linh Sơn dịch, sẽ thấy rõ sự khác biệt này.

Cũng nên nói thêm rằng Hội thứ VI không phải do nhóm của Ngài Huyền Trang soạn dịch, nhóm của Ngài Huyền Trang chỉ sao lại Hội này từ một tài liệu nào khác, khác với bản Kinh của Kinh Thắng Thiên Vương Bát Nhã.

 

Sơ giải:

 

Đại Bồ tát hành sâu Bát nhã Ba la mật tức hoàn thành hai hạnh: 1. Thành tựu Bát nhã Ba la mật, 2. Giáo hóa hữu tình.

Thành tựu Bát Nhã là giác ngộ, được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, đắc Nhất thiết trí trí. Đó là thượng cầu giác ngộ, là tâm nguyện tiên khởi của Bồ tát, gọi là hạnh nguyện thứ nhất. Đồng thời tu phước đức trí tuệ viên mãn mới có thể chuyển pháp luân, thành thục chúng sanh, thanh tịnh Phật độ, gọi là hạnh nguyện thứ hai. Nếu không hoàn thành 2 hạnh này thì không thể bước lên vai vị Bồ tát mà bị rơi rụng vào bậc Thanh văn hay Độc giác.

Nếu tròn đầy được hai hạnh này thì Bồ tát sẽ nhập vào cảnh giới thâm sâu, cảnh giới rộng lớn, cảnh giới công đức của chư Phật. Tất cả phàm phu, Thanh văn, Độc giác không thể nhập, vì chẳng phải cảnh giới của họ. Ngoài đức Phật Thế Tôn không ai có thể đạt được. Vì sao? Vì nhờ Bát nhã Ba la mật nên thâm nhập Như như (Chơn Như) của tất cả pháp, được tự tại, thâu nhiếp tất cả cõi vô lậu, làm cho các loài hữu tình được trọn vẹn an vui. Vì vậy, gọi là cảnh giới của chư Phật. Cảnh giới này vượt đường ngôn ngữ, xa lìa tầm cầu phân biệt, pháp thế gian chẳng thể nào so sánh thí dụ nổi, còn gọi là Đệ nhất nghĩa đế, là thượng phẩm trong tất cả các pháp, không ở trong sanh tử cũng chẳng trụ Niết bàn.

Vì do học Bát nhã Ba la mật mà Bồ tát đạt được 5 sự không thể nghĩ bàn, là: 1. Tự tánh, 2. Phương xứ, 3. Các trụ, 4. Nhất dị, 5. Lợi lạc.

Biết uẩn, xứ, giới như (chơn như của uẩn xứ giới), các đại chủng như, pháp hữu vi như, vô vi như tầm cầu không thể được, dứt tầm cầu nên tự tánh không thể nghĩ bàn. Không lệ thuộc phương cõi (10 phương, ba cõi). Nên nói phương xứ không thể nghĩ bàn. Không trụ an lạc hay vắng lặng, không hữu tâm hay vô tâm, chẳng trụ nhị nguyên... tức vô sở đắc. Không ai có thể làm được như vậy, nên nói các trụ không thể nghĩ bàn. Ba đời Như Lai tánh tướng thể dụng thanh tịnh, không đây kia sai khác. Nên nói nhất dị không thể nghĩ bàn. Tùy thuận căn tánh khác nhau của chúng sanh, thị hiện 32 tướng tốt, 80 vẽ đẹp, phương tiện hóa đạo, mang lại lợi lạc cho tất cả hữu tình, không ai bằng. Nên nói là lợi lạc không thể nghĩ bàn!

Tất cả cái gì gọi là nhị hạnh đều nằm trong đó, nhất là các pháp gọi là Chơn như (Như như). Phẩm này cần nhớ nhị hạnh là:

1. Thành tựu Bát Nhã; và 

2. Giáo hóa hữu tình (do thành thục hữu tình, nếu hữu tình được thuần thục thì quốc độ sẽ được thanh tịnh).

Giáo pháp, giáo nghĩa trình bày rõ ràng trong chánh văn, chẳng có gì mà không hiểu, nên không cần giải thích thêm nữa!

 

---o0o---