IX. PHẨM
“KHEN NGỢI”
Phần giữa
quyển 545, Hội thứ IV, TBBN.
Gợi ý:
Rất tiếc
phẩm “Khen Ngợi” in thiếu trên Website Tuvienquangduc.com do HT Thích Trí
Nghiêm phiên dịch. Chúng tôi phải lấy hai bản dịch là Thuvienhoasen.org và
Quangduc.com ghi vào Đại Bát nhã Ba La Mật Tổng luận của chúng tôi. Hai bản
dịch trong Thuvienvienhoasen.org và quangduc.com dịch giống nhau, nên không có
gì trở ngại trong việc bổ khuyết sự thiếu sót trên Website Tuvienquangduc.com.
Tóm lược:
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện liền bạch
Phật:
- Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật này chỉ có danh tự. Danh tự như vậy cũng bất khả
đắc, chỉ dựa vào lời nói vay mượn thi thiết mà có. Thế nên Bát nhã Ba la mật
cũng vô sở hữu, thật bất khả đắc. Hai pháp này triển chuyển tương tợ, đều vô sở
hữu, bất khả đắc. Do đâu Phật nói, khi Từ Thị Bồ tát chứng quả vị Vô Thượng
Chánh Đẳng Bồ đề thì lấy danh hiệu này? Cũng ở chỗ này tuyên thuyết Bát nhã Ba
la mật?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Từ Thị Bồ tát sẽ
chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, khi ấy chẳng chứng sắc Không; chẳng chứng thọ, tưởng, hành, thức Không.
Không chứng sắc trói; không chứng thọ, tưởng, hành, thức trói. Không chứng sắc
mở; không chứng thọ, tưởng, hành, thức mở, tức lấy các tướng hành như vậy. Từ
Thị Bồ tát sẽ chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề liền được danh này, cũng
ở tại đây thuyết giảng Bát nhã Ba la mật.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật
rất thanh tịnh?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Vì sắc thanh tịnh nên Bát Nhã sâu xa rất
thanh tịnh. Vì thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh nên Bát Nhã sâu xa rất
thanh tịnh. Vì hư không thanh tịnh nên Bát Nhã sâu xa rất thanh tịnh. Vì sắc
không nhiễm ô nên Bát Nhã sâu xa rất thanh tịnh. Vì thọ, tưởng, hành, thức
không nhiễm ô nên Bát Nhã sâu xa rất thanh tịnh. Vì hư không không nhiễm ô nên
Bát Nhã sâu xa rất thanh tịnh. Vì tất cả pháp có nhiễm, không nhiễm đều bất khả
đắc, nên Bát Nhã sâu xa rất thanh tịnh. (Q.
545, TBBN)
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu các thiện nam,
thiện nữ v.v... chỉ nghe danh hiệu công đức của Bát Nhã sâu xa này còn được lợi
ích rộng lớn, huống gì thọ trì, đọc tụng, tu tập, biên chép, thuyết giảng,
truyền bá rộng rãi. Các thiện nam, thiện nữ v.v... này không chết bất ngờ, cũng
không bệnh đột ngột và bị các tai họa, thường được vô lượng trăm ngàn thiên
thần cung kính vây quanh đi theo hộ trì. Vào ngày mồng tám, ngày mười bốn, ngày
rằm của tháng có trăng và tháng không có trăng, nếu các thiện nam, thiện nữ dù
bất cứ chỗ nào cũng đọc tụng, thuyết giảng Bát Nhã sâu xa, thì sẽ được vô biên
công đức lợi ích, thù thắng.
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như
lời ngươi nói. Các thiện nam, thiện nữ này đọc tụng, thuyết giảng Bát Nhã sâu
xa, nên có vô lượng thiên thần thường đến cung kính vây quanh hộ trì. Vì sao?
Vì Bát Nhã sâu xa là ngọc báu vô thượng
của các trời, người, A tu la v.v.... Do nhân duyên đây, nên các thiện nam,
thiện nữ này sẽ được vô biên công đức và lợi ích.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Khi lắng
nghe thọ trì, đọc tụng, biên chép, cúng dường, tu học, thuyết giảng v.v... Bát
Nhã sâu xa có nhiều tà ma làm cản trở. Vì sao? Vì Bát Nhã sâu xa là ngọc báu
lớn đối với các oán thù và trộm cướp. Thí như ở thế gian có ngọc quí báu, dù để
chỗ nào cũng nhiều oán thù trộm cướp.
Thiện Hiện nên biết! Bát Nhã sâu xa
là của báu vô thượng, thường làm cho thế gian lợi ích an vui.
Lại nữa, này
Thiện Hiện! Đối với tất cả pháp, Bát Nhã sâu xa không sanh-không diệt, không
thành-không hoại, không hướng tới-không quay lui, không kéo-không duỗi, không
lấy-không bỏ, không dơ-không sạch, không tăng-không giảm, không gần-không xa.
Vì sao? Vì tất cả pháp hoàn toàn vô sở hữu, đều bất khả đắc. (Q.545, TBBN)
Thiện Hiện nên biết! Vì Bát Nhã sâu
xa không có sự chứng đắc đối với tất cả pháp nên không thể ô nhiễm, không bị ô
nhiễm. Thiện Hiện nên biết! Vì sắc không nhiễm ô nên Bát Nhã sâu xa cũng không
nhiễm ô. Thọ, tưởng, hành, thức không nhiễm ô, nên Bát Nhã sâu xa cũng không
nhiễm ô. Bát Nhã sâu xa không nhiễm ô nên các pháp, sắc v.v... cũng không nhiễm
ô. Nếu đối với như vậy mà không có sự phân biệt tức là hành Bát nhã Ba la mật.
Thiện Hiện nên biết! Vì Bát Nhã sâu
xa không có sự phân biệt nên đối với
tất cả pháp không lấy-không bỏ, không nói-không dạy, không có-không được.
Khi ấy, có vô lượng trăm ngàn Thiên
tử ở giữa hư không vui mừng hớn hở, đồng thanh xướng:
- Hôm nay, ở châu Thiệm bộ này,
chúng con được thấy Phật chuyển pháp luân vi diệu lần thứ hai.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo Thiện Hiện:
- Xe pháp này chẳng phải chuyển lần
thứ nhất, cũng chẳng phải chuyển lần thứ hai. Vì sao? Vì đối với tất cả pháp, Bát Nhã sâu xa chẳng phải chuyển và chẳng phải
hoàn mà xuất hiện ở thế gian. Chỉ vì pháp vô tánh tự tánh Không nên xuất hiện ở
thế gian. Nếu đại Bồ tát biết được như vậy, không còn phân biệt là hành Bát
nhã Ba la mật. (Q. 545, TBBN)
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã sâu xa là Ba
la mật rộng lớn, vì hiểu rõ tự tánh của các pháp là Không. Tuy hiểu rõ tự tánh
của các pháp đều Không rồi, nhưng các đại Bồ tát vẫn dựa vào Bát Nhã sâu xa
không ràng buộc, không đắm trước vào các pháp để chứng đắc quả vị Vô Thượng
Chánh Đẳng Bồ đề, chuyển pháp luân vi diệu, độ thoát các hữu tình.
Tuy chứng Bồ đề nhưng không thấy
chứng, vì chứng hay chẳng chứng pháp đều bất khả đắc. Dù chuyển xe pháp mà
không thấy gì để chuyển, vì pháp chuyển pháp hoàn đều bất khả đắc. Mặc dù cứu
độ hữu tình mà không thấy có gì được độ, vì pháp thấy hay không đều bất khả
đắc.
Bạch Thế Tôn! Trong giáo pháp thâm
sâu Đại Bát Nhã Ba la mật này việc chuyển xe pháp hoàn toàn bất khả đắc. Vì
sao? Vì trong ấy không có pháp để hiện rõ, không có pháp để chỉ bày, không có
pháp để chứng đắc, không có pháp chuyển, không có pháp hoàn. Vì sao? Vì tất cả
pháp rốt ráo không sanh, cũng không diệt? Vì không sanh diệt nên không chuyển,
không hoàn? (Q.545, TBBN)
Bấy giờ, Thế Tôn bảo Thiện Hiện:
- Đúng vậy! Vì sao? Vì chẳng phải trong pháp không, vô tướng,
vô nguyện có pháp chuyển-pháp hoàn, vì tánh của pháp chuyển pháp hoàn bất khả
đắc. Nếu thường tuyên thuyết, khai thị như vậy thì gọi là sự thuyết giảng Bát
nhã Ba la mật hoàn toàn thanh tịnh. Trong đây hoàn toàn không có người nói,
người nghe, pháp được nói và pháp lãnh thọ. Đã không có người nói, người nghe
và người có thể chứng các pháp bất khả đắc. Vì không có người chứng, cũng không
có người đắc Niết bàn, cũng không có người thuyết pháp làm phước điền. Vì phước
điền không có nên tánh phước điền cũng không có. Sự biểu thị danh ngôn đều bất
khả đắc, nên gọi là Ba la mật rộng lớn.
Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:
- Bát Nhã sâu xa chính là Ba la mật vô biên, vì như hư không không bờ bến.
Đây là Ba la mật không gì sánh bằng vì tất cả pháp đều
bất khả đắc.
Đây là Ba la mật viễn ly vì rốt ráo Không.
Đây là Ba la mật khó chinh phục, vì tánh tướng của các
pháp bất khả đắc.
Đây là Ba la mật không để dấu vết vì không qua không
lại, không hình thể.
Đây là Ba la mật vô tánh vì không qua không lại.
Đây là Ba la mật vô hành, vì tất cả pháp không thể
chuyển động.
Đây là Ba la mật vô đoạt, vì tất cả pháp không thể giữ
lấy.
Đây là Ba la mật vô tận cùng với pháp vô tận tương ưng.
Đây là Ba la mật vô sanh, vì tất cả pháp không thể sanh.
Đây là Ba la mật vô tác, vì các tác giả đều bất khả đắc.
Đây là Ba la mật vô tri, vì không có sự biết đối với tất
cả pháp.
Đây là Ba la mật vô kiến, vì không có sự thấy đối với
tất cả pháp.
Đây là Ba la mật vô chuyển, vì những kẻ sống chết đều
bất khả đắc.
Đây là Ba la mật vô hoại, vì khoảng trước, sau và giữa
đều bất khả đắc.
Đây là Ba la mật như huyễn, vì các pháp không sanh,
không biểu thị được.
Đây là Ba la mật như mộng, vì tánh các ý thức bình đẳng.
Đây là Ba la mật không tạp nhiễm, vì tham, sân, si không
tự tánh.
Đây là Ba la mật vô sở đắc, vì chỗ nương tựa bất khả
đắc.
Đây là Ba la mật không hý luận, vì tất cả pháp vượt khỏi
sự nghĩ bàn.
Đây là Ba la mật vô tư lự, vì tất cả pháp không dao
động.
Đây là Ba la mật không chuyển động, vì trụ vào pháp
giới.
Đây là Ba la mật lìa nhiễm, vì tất cả pháp chẳng hư
vọng.
Đây là Ba la mật vô đẳng khởi, vì tất cả pháp không có
sự phân biệt.
Đây là Ba la mật tịch tĩnh, vì tất cả pháp tướng đều bất
khả đắc.
Đây là Ba la mật không lầm lỗi, vì tu các công đức để
đến bờ kia.
Đây là Ba la mật không hữu tình, vì chứng thực tế.
Đây là Ba la mật vô đoạn, vì tất cả pháp vô đẳng khởi.
Đây là Ba la mật như thật, vì không phân biệt.
Đây là Ba la mật vô nhị, vì không chấp trước tất cả
pháp.
Đây là Ba la mật không tạp hoại, vì tất cả pháp chẳng
hòa hợp.
Đây là Ba la mật không chấp thủ, vì vượt qua địa vị
Thanh văn, Độc giác.
Đây là Ba la mật không tầm tứ, vì đạt đến tánh bình đẳng
của pháp tầm tứ.
Đây là Ba la mật vô lượng, vì vô lượng pháp.
Đây là Ba la mật vô khởi, vì lìa ngã pháp.
Đây là Ba la mật không phân biệt, vì tánh các sự phân
biệt bình đẳng.
Đây là Ba la mật bất khả đắc, vì đạt đến tánh chơn thật
của tất cả pháp.
Đây là Ba la mật vô trước, vì không chấp trước tất cả
pháp.
Đây là Ba la mật không nương tựa, vì không chỗ nương
tựa.
Đây là Ba la mật chẳng sanh, vì tất cả pháp đều không
sanh.
Đây là Ba la mật vô thường, vì tất cả pháp thường không
có tánh.
Đây là Ba la mật khổ, vì làm bức bách tánh bình đẳng.
Đây là Ba la mật vô ngã, vì đối với tất cả pháp không có
sự chấp trước.
Đây là Ba la mật không, vì tất cả pháp bất khả đắc.
Đây là Ba la mật vô tướng, vì lìa các tướng của tất cả
pháp.
Đây là Ba la mật vô nguyện, vì không sự thành tựu.
Đây là Ba la mật có lực, vì không chịu khuất phục tất cả
pháp.
Đây là Ba la mật vô lượng Phật pháp, vì quá số lượng.
Đây là Ba la mật vô bố úy, vì nơi tâm rốt ráo không có
sự sợ hãi.
Đây vì Ba la mật chơn như, vì tánh của tất cả pháp này
không có biến đổi.
Đây là Ba la mật tự nhiên, vì tất cả pháp không có tự
tánh.
Đây là Ba la mật Nhất thiết trí trí, vì biết tất cả pháp
không tự tánh.
Phật dạy:
- Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. (Q.545, TBBN)
Lược giải:
1. Học Bát Nhã không có nghĩa phải chứng Không
mới trở
thành Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề?
Phải nói đây
là một phẩm rất cô động, ngắn gọn chỉ có khoảng 7 trang sách, nên nêu ra một
thắc mắc lớn. Làm sao tư duy để thâm nhập được Bát nhã Ba la mật khi Phật nói
Bồ tát Từ Thị chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề “khi
ấy chẳng chứng sắc Không; chẳng chứng thọ tưởng hành thức không”? Đây là câu hỏi lớn! Không chứng Không mà
đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề là điều khó hiểu? Kinh không giải thích chỗ này
và liền sau đó thuyết về thanh tịnh.
Chúng ta
thường hiểu khi nói thấy tất cả pháp là không
thì liền thấy các pháp như (chơn như của các pháp). Thấy các
pháp như là thấy bình đẳng. Khi tri
giác cái bình đẳng này giữa các pháp thì tâm thể trở nên tịch lặng hay nói là
được thanh tịnh. Đây là giác ngộ do
chứng nhập không quán mà được thanh tịnh nên phát sanh trí tuệ.
Một câu hỏi
thưòng thấy trong các phẩm nói về Bồ tát Di Lặc khi giác ngộ Vô Thượng Chánh
Đẳng Chánh giác Bồ tát Di Lặc chứng pháp nào, nói pháp nào? Kinh ĐBN thường trả
lời là Bồ tát Di Lặc chứng pháp thanh tịnh và thuyết pháp thanh tịnh, chứ không
nói là Bồ tát Di Lặc chứng pháp Không.
Để trả lời
vấn nạn này chúng ta có thể nói rằng: Phật thuyết Đại Bát Nhã không có nghĩa là
thuyết riêng chủ đề duy nhất là Không
hay Tánh Không và xem pháp môn này
như yếu tố chánh quyết định cho sự thành tựu Giác ngộ, chứng Chánh giác và đạt
Nhất thiết trí trí. Chúng ta cũng biết rằng Giác ngộ không phải là yếu lẻ loi
do Tánh Không tạo thành, mà giác ngộ là sự phối hợp nhịp nhàng giữa Trí và Bi,
giữa phương tiện và cứu cánh của tất cả các pháp mầu Phật đạo.
- Phẩm “Thiên Tử”, quyển 556, Hội thứ V, ĐBN. Phật nói: “Thắng Quân
Phạm chí dùng các môn ly tướng như
thế thảy đối Nhất thiết trí trí rất sanh tin hiểu, gọi tùy tín hành, đối tất cả
pháp đều không lấy đắm. Như vậy, Phạm chí dùng môn ly tướng đối Nhất thiết trí
trí được tin hiểu rồi, đối tất cả pháp đều chẳng lấy tướng, cũng chẳng suy nghĩ
các pháp vô tướng. Như vậy Phạm chí do sức hiểu sâu, đối tất cả pháp chẳng lấy
chẳng bỏ, chẳng chứng, chẳng đắc. Khi Phạm chí kia đối với sự tin hiểu cho đến
Niết bàn cũng chẳng lấy đắm, vì lấy chơn pháp tánh làm định lượng vậy”.
- Phẩm “Căng Già Thiên” cũng là một thí dụ khác. Thiên nữ này tích tụ thiện
căn công đức, tu tập các pháp mầu Phật đạo, lại lập nguyện lâu dài…Bởi những lý
do đó nên Phật thọ ký cho Thiên nữ này trong đời tương lai trở thành Như Lai
Chánh Đẳng Chánh giác.
Vậy, đừng
lấy làm ngạc nhiên khi Phật bảo Bồ tát Từ Thị khi chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ
đề chẳng chứng sắc không, chẳng chứng thọ tưởng hành thức không mà chứng thanh
tịnh và thuyết thanh tịnh.
2. “Khen Ngợi” Bát nhã Ba la mật.
1- Trong các phẩm trước chúng ta đã từng thấy các Thiên
chúng, trời, người, A tu la v.v… các cõi trong khắp thế giới mười phương như
cát sông Hằng tán tụng việc thọ trì, đọc tụng… Bát nhã Ba la mật. Trong phẩm
“Khen Ngợi” này, Thiện Hiện lại bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn! Nếu các thiện nam,
thiện nữ chỉ nghe danh hiệu công đức của Bát Nhã sâu xa này còn được lợi ích
rộng lớn, huống gì thọ trì, đọc tụng, tu tập, biên chép, thuyết giảng, truyền
bá rộng rãi. Các thiện nam, thiện nữ này không chết bất ngờ, cũng không bệnh
đột ngột và bị các tai họa, thường được vô lượng trăm ngàn thiên thần cung kính
vây quanh đi theo hộ trì. Vào ngày mồng tám, ngày thứ mười bốn, ngày rằm của
tháng có trăng và tháng không có trăng, nếu các thiện nam, thiện nữ v.v... dù
bất cứ chỗ nào cũng đọc tụng, thuyết giảng Bát Nhã sâu xa, thì sẽ được vô biên công đức lợi ích, thù thắng”.
(Q.545, TBBN)
2- Phẩm “Kim Cương Năng Đoạn”, tức Kinh “Kim Cương Bát
nhã Ba la mật”, quyển 577, Hội thứ
IX, trích từ Đại Bát Nhã, chúng ta sẽ có dịp khảo cứu sau này. Quyển 577 Phật
tán tụng công đức trì tụng Bát Nhã tổng cộng đến 14 lần. Quyển 577 chỉ là 1
trong 600 quyển của Đại Bát Nhã mà thôi.
3- Nói về những vi diệu Ba la mật: Để thay đổi không khí
cũng như để thay lời kết luận cho phẩm này, chúng tôi trích đoạn Kinh sau đây
thuộc thuộc Kinh “Phật Mẫu Bát Nhã”,
phẩm 9 “Khen Pháp Vượt Trội” do Thí Hộ dịch, tương đương với phẩm “Khen
Ngợi” này, thuộc quyển 545, Kinh Tiểu Bản Bát Nhã do Ngài Huyền Trang dịch, để
quý vị chiêm nghiệm thế nào là các Ba la mật của Bát Nhã:
“Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Thế Tôn! Vô biên Ba la mật
là Bát nhã Ba la mật, vì hư không vô biên. Vô
đẳng đẳng Ba la mật là Bát nhã Ba la mật, vì tất các các pháp không thể có
được. Ly Ba la mật là Bát nhã Ba la
mật, vì rốt ráo đều Không. Bất khả phá
Ba la mật là Bát nhã Ba la mật, vì tính tất cả các pháp không có sở đắc. Vô cú Ba la mật là Bát nhã Ba la mật,
vì các pháp không danh, không tướng. Vô
tánh Ba la mật là Bát nhã Ba la mật, vì các pháp không đến. Vô ngôn Ba la mật là Bát nhã Ba la mật,
vì các pháp không phân biệt. Vô lai Ba
la mật là Bát nhã Ba la mật, vì các uẩn không có sở đắc. Vô khứ Ba la mật là Bát nhã Ba la mật, vì các pháp không đến. Vô tập Ba la mật là Bát nhã Ba la mật,
vì các pháp không nắm bắt. Vô tận Ba
la mật là Bát nhã Ba la mật, vì tướng các pháp vô tận. Vô sinh Ba la mật là Bát nhã Ba la mật, vì các pháp không dính mắc.
Vô tác Ba la mật là Bát nhã Ba la
mật, vì tác giả không có sở đắc. Vô tri
giả Ba la mật là Bát nhã Ba la mật, vì các pháp không có chủ tể. Vô sở chí Ba la mật là Bát nhã Ba la
mật, vì không lui mất. Bất diệt Ba
la mật là Bát nhã Ba la mật, vì phần trước, sau, giữa không có sở đắc. Ba la
mật của mộng, huyễn, ảnh, tiếng vang,
quáng nắng v.v... là Bát nhã Ba la mật, vì các pháp không sinh. Vô phiền não Ba la mật là Bát nhã Ba la
mật, vì tính của tham, sân, si, v.v... là thanh tịnh. Vô xuất thế Ba la mật là Bát nhã Ba la mật, vì nơi y chỉ không thể
có được. Vô nhiễm ô Ba la mật là Bát
nhã Ba la mật, vì hư không thanh tịnh. Vô
hý luận Ba la mật là Bát nhã Ba la mật, vì các pháp bình đẳng. Vô niệm Ba la mật là Bát nhã Ba la mật,
vì các niệm không sinh. Vô động Ba
la mật là Bát nhã Ba la mật, vì tính các pháp thường trú. Ly dục Ba la mật là Bát nhã Ba la mật, vì tính các pháp chân thật. Vô khởi Ba la mật là Bát nhã Ba la mật,
vì các pháp không ngại. Tịch tĩnh Ba
la mật là Bát nhã Ba la mật, vì tướng các pháp không thể có được. Vô quá thất Ba la mật là Bát nhã Ba la
mật, vì đầy đủ các công đức. Vô chúng
sinh Ba la mật là Bát nhã Ba la mật, vì chúng sinh giới không thể có được. Vô đoạn Ba la mật là Bát nhã Ba la mật,
vì các pháp không khởi. Vô nhị biên Ba
la mật là Bát nhã Ba la mật, vì các pháp lìa dính mắc. Vô dị Ba la mật là Bát nhã Ba la mật, vì các pháp không hòa hợp. Vô trước Ba la mật là Bát nhã Ba la mật,
vì không phân biệt địa vị Thanh Văn, Duyên Giác. Bất phân biệt Ba la mật là Bát nhã Ba la mật, vì phân biệt bình
đẳng. Vô lượng Ba la mật là Bát nhã
Ba la mật, vì lượng pháp bình đẳng. Như
hư không Ba la mật là Bát nhã Ba la mật, vì tất cả các pháp không chướng ngại.
Vô thường Ba la mật là Bát nhã Ba la
mật, vì tất cả các pháp là hữu vi. Khổ Ba
la mật là Bát nhã Ba la mật, vì hư không bình đẳng. Không Ba la mật là Bát nhã Ba la mật, vì tất cả không thể có được. Vô ngã Ba la mật là Bát nhã Ba la mật,
vì ngã không thể có được. Vô tướng Ba
la mật là Bát nhã Ba la mật nên, vì tất cả các pháp không thể chuyển. Không tánh Ba la mật là Bát nhã Ba la
mật, vì rốt ráo không ranh giới. Các Ba la mật Niệm xứ, Chính cần, Thần túc,
Căn, Lực, Giác, Đạo là Bát nhã Ba la mật, vì ba mươi bảy Bồ đề phần pháp không
thể có được. Các Ba la mật Không, Vô
tướng, Vô nguyện là Bát nhã Ba la mật, vì ba môn giải thoát không thể có
được. Các Ba la mật Nội hữu sắc quán, Ngoại sắc là Bát nhã Ba la mật, vì tám
giải thoát không thể có được. Các Ba la mật Sơ thiền định là Bát nhã Ba la mật,
vì chín pháp hành trước không thể có được. Các Ba la mật khổ, tập, diệt, đạo là Bát nhã Ba la mật, vì pháp bốn
Thánh đế không thể có được. Các Ba la mật Bố
thí v.v... là Bát nhã Ba la mật, vì mười Ba la mật không thể có được. Thập
lực Ba la mật là Bát nhã Ba la mật, vì không thể phá hoại. Tứ vô úy Ba la mật là Bát nhã Ba la mật, vì không khiếp, không sợ,
không lui, không mất. Ly hệ Ba la
mật là Bát nhã Ba la mật, vì Nhất thiết trí trí không dính mắc, không ngăn ngại.
Như Lai vô lượng công đức Ba la mật là Bát nhã Ba la mật, vì vượt ngoài các số
pháp. Như Lai Chân như Ba la mật là Bát
nhã Ba la mật, vì tất cả các pháp Chân như, bình đẳng. Tự nhiên trí Ba la mật là Bát nhã Ba la mật, vì tự tính tất cả các
pháp bình đẳng. Nhất thiết trí trí Ba
la mật là Bát nhã Ba la mật, vì tính, tướng của tất cả các pháp không thể có
được, không thể biết”.
Bất hoại,
bất khứ, bất lai, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất thất, bất đáo, bất
khởi, bất động, bất niệm, bất phá, bất thủ, bất hý luận, bất phân biệt, vô tác,
vô tri, vô dục, vô sân, vô si, vô phiền não, vô đoạn, vô nhị, vô tánh, vô
tướng, vô lượng, vô biên, là mộng huyễn, bào ảnh, tiếng vang, quáng nắng
v.v..., là bình đẳng, là tịch diệt, là
nội không, ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, đệ nhất nghĩa
không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô thỉ không, tán không, tánh
không, chư pháp không, vô sở đắc không, tự tướng không, hữu pháp không, vô pháp
không, vô pháp hữu pháp không, là chân như, là pháp giới, là pháp tánh, là bình
đẳng, là thật tế, là bất khả tư nghì, là 37 pháp trợ đạo, là tam tam muội, là
bát bội xả, là cửu thứ đệ định, là thập lực, tứ vô sở úy, tứ vô ngại giải v.v…
là các Ba la mật của Bồ tát hay nói khác là các pháp có thể đưa chúng sanh sang
bờ kia. Có hàng trăm pháp như thế đều thu nhiếp vào Bát nhã Ba la mật mà khắp
thế gian trời người thường tán tụng…Chúng
ta không cần phải nhọc công tìm kiếm ở đâu xa. Bất cứ Hội nào trong toàn bộ Đại
Bát Nhã, chúng ta cũng có thể tìm thấy các giáo pháp công đức phước hạnh này.
Tại sao các Ba la mật này đều thu
nhiếp vào Bát nhã Ba la mật và được gọi là công đức phước hạnh? Vì tri giác
được tất cả các pháp có đặc tánh như trên là đạt được biên tế chung cùng của
vạn pháp hay nói khác là đạt thật tướng các pháp nên được giác ngộ, đạt Nhất
thiết trí trí và chứng quả Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Khi đạt đến chỗ đó thì
có thể thành thục chúng sanh, thanh tịnh Phật độ, có thể đưa chúng sanh sang bờ
bên kia, nên nói là được vô vàn công đức phước hạnh thù thắng. Đó là nội dung
của phẩm “Khen Ngợi” Bát nhã Ba la mật.
Nhưng muốn
nói gì thì nói Bát nhã Ba la mật là vô sở hữu, bất khả đắc. Bát nhã Ba la mật
cũng chỉ là danh tự. Đừng quá tưởng tượng bốc cao mà lạc mất tâm đạo. Kinh bảo: “Danh tự như vậy cũng bất khả đắc,
chỉ dựa vào lời nói vay mượn thi thiết mà có. Thế nên Bát nhã Ba la mật cũng vô
sở hữu, thật bất khả đắc”. Nếu hiểu câu
nói này và vô chấp, vô phân biệt thì khi ấy sẽ thấy Bát nhã Ba la mật hiện
tiền!
---o0o---