PHẨM “MỘNG HÀNH”
Đầu quyển 451, Hội thứ II, ĐBN.
(Tương đương phần cuối phẩm “Phương Tiện Thiện Xảo”,
quyển 330, Hội thứ I, ĐBN)
Tóm
lược:
Bấy giờ, cụ thọ Xá lợi Tử hỏi Thiện Hiện:
- Nếu ở trong mộng, đại Bồ tát thực hành ba Tam ma địa này,
thì đối với Bát Nhã thẳm sâu có tăng ích chăng?
Thiện hiện đáp:
- Nếu vào ban ngày đại Bồ tát thực hành ba Tam ma địa này có
tăng ích đối với Bát Nhã thẳm sâu thì trong mộng vị ấy thực hành cũng có tăng
ích. Vì sao? Xá lợi Tử! Vì ban ngày (tỉnh) hay mộng không sai khác vậy.
Xá Lợi Tử! Nếu Bồ tát ban ngày hành Bát nhã Ba la mật, đã gọi tu tập Bát Nhã
thẳm sâu, Bồ tát này trong mộng hành Bát nhã Ba la mật cũng gọi tu tập Bát nhã
Ba la mật thẳm sâu. Không có gì sai khác. Ba tam ma địa đối Bát nhã Ba la mật
năng làm tăng ích cũng lại như vậy.
Xá lợi Tử hỏi Thiện Hiện:
- Các bậc Bồ tát tạo nghiệp ở trong mộng có tăng ích hay tổn
giảm? Phật thường nói hữu vi hư dối chẳng thật như mộng sở tác, làm sao nghiệp
kia có tăng giảm được? Vì sao? Vì chẳng phải nghiệp sở tác ở trong mộng có được
tăng ích hoặc tổn giảm, cần đến khi giác biết, nhớ tưởng phân biệt cảnh sở tác
trong mộng mới có tăng giảm.
Thiện Hiện đáp rằng:
- Có những vụ ban ngày giết người, ban đêm trong mộng nhớ
tưởng phân biệt rất đỗi sung
sướng; hoặc lại có người trong mộng dứt mạng kẻ khác, đến khi thức giấc rất vui
mừng. Hai nghiệp như thế, ý Ngài hiểu sao?
Xá Lợi Tử nói:
- Không sở duyên thì hoặc nghĩ, hoặc nghiệp đều chẳng sanh,
cần có sở duyên thời nghĩ và
nghiệp mới sanh. Nghĩ và nghiệp trong mộng duyên đâu mà sanh?
Thiện Hiện đáp rằng:
- Như vậy, như vậy! Hoặc mộng hoặc giác không sở duyên thì
nghĩ và nghiệp chẳng sanh. Cần có sở duyên nghĩ nghiệp mới khởi. Vì sao? Xá Lợi
Tử! Hoặc mộng, hoặc giác ở trong cái thấy cái biết nếu giác huệ chuyển, sẽ khởi
nhiễm, khởi tịnh. Nếu trong cái thấy biết, giác huệ chẳng chuyển, thì cũng
không có nhiễm tịnh. Do đây nên biết hoặc mộng, hoặc giác, có sở duyên nghĩ
nghiệp mới khởi, không có sở duyên nghĩ nghiệp chẳng sanh.
Xá lợi Tử hỏi Thiện Hiện:
- Phật nói nghĩ nghiệp đều xa lìa tự tánh, làm sao nói được
có sở duyên thì có sanh khởi?
Thiện Hiện đáp rằng:
- Tuy các nghĩ, nghiệp và sở duyên tự tánh đều không, mà do tự
tâm nắm lấy tướng phân biệt nên nói nghĩ nghiệp có sở duyên sanh. Nếu không
có sở duyên, nghĩ nghiệp chẳng khởi.
Bấy giờ Xá lợi Tử hỏi Thiện Hiện:
- Nếu ở trong mộng đại Bồ tát tuy hành bố thí, tịnh giới, an
nhẫn, tinh tấn, tịnh lự Bát nhã Ba la mật, rồi đem căn lành ấy ban cho khắp hữu
tình một cách bình đẳng, để cùng nhau hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thì
đại Bồ tát ấy có thật sự hồi hướng để cầu Vô thượng Chánh đẳng giác không?
Thiện Hiện đáp:
- Bồ tát Từ Thị đã được thọ ký Bất thối chuyển Vô thượng Bồ
đề từ lâu, chỉ còn một đời sẽ được làm Phật, Ngài có thể trả lời tất cả các lời
vấn nạn; hội chúng nên thưa hỏi Ngài, nhất định Bổ Xứ Từ Tôn sẽ đáp cho.
Theo lời Thiện Hiện, Xá lợi Tử cung kính thưa hỏi Từ Thị Bồ
tát.
Từ Thị Bồ tát bảo Xá Lợi Tử rằng:
- Sao gọi danh Từ Thị năng đáp? Vì sắc chăng, hay vì thọ
tưởng hành thức chăng? Vì sắc không chăng, hay vì thọ tưởng hành thức không
chăng? Vả lại, sắc chẳng năng đáp, thọ tưởng hành thức cũng chẳng năng đáp. Sắc
không chẳng năng đáp, thọ tưởng hành thức không cũng chẳng năng đáp. Vì sao? Xá
Lợi Tử! Ta đều chẳng thấy có pháp năng đáp, có pháp sở đáp, chỗ đáp, thời đáp
và do đây mà đáp. Ta đều chẳng thấy có pháp năng ký, có pháp sở ký, chỗ ký,
thời ký và do đây mà ký. Vì tất cả pháp bản tánh đều không, vô sở hữu, không
hai không riêng, gạn tìm rốt ráo chẳng thể được vậy.
Cụ thọ Xá lợi Tử lại hỏi đại Bồ tát Từ Thị:
- Thưa nhơn giả! Có phải pháp Ngài chứng được là như điều
Ngài vừa nói không?
Từ Thị đại Bồ tát nói:
- Pháp ta chứng được chẳng giống như điều ta đã thuyết. Vì
sao? Này Xá lợi Tử! Vì pháp ta đã chứng là bất khả thuyết.
Khi ấy, Xá lợi Tử suy nghĩ: Từ Thị Bồ tát có trí tuệ sâu
rộng, từ lâu đã tu tất cả các pháp bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh
lự, Bát nhã Ba la mật viên mãn, dùng vô sở đắc làm phương tiện nên mới có thể
đối đáp được những lời gạn
hỏi như vậy.
Phật bảo Xá lợi Tử:
- Ý ngươi nghĩ sao? Nhờ pháp nào ông chứng quả A la hán, ông
có thấy pháp đó khả thuyết không?
Xá lợi Tử thưa:
- Bạch Thế Tôn! Không!
Phật bảo Xá lợi Tử:
- Các Bồ tát hành Bát Nhã thẳm sâu, sở chứng các pháp cũng
lại như vậy. Bồ tát đó không nghĩ: Nhờ pháp này mà ta đã được thọ ký Vô Thượng
Chánh Đẳng Bồ đề. Cũng không nghĩ: Nhờ pháp này ta sẽ chứng Vô Thượng Chánh
Đẳng Bồ đề. Xá lợi Tử! Bồ tát thực hành Bát Nhã thẳm sâu, không có sanh tâm do
dự tự hỏi: Ta có đắc được Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề hay không mà chỉ nghĩ: Ta nhất định sẽ chứng đắc Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Xá Lợi Tử! Bồ tát thực hành Bát nhã Ba la mật thậm sâu khi
nghe pháp thậm thâm tâm họ không khiếp, không hãi, không ngại, không hối, không
thối, không lo buồn, tự biết mình chắc chắn sẽ chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề
đã mong cầu và làm lợi lạc hữu tình cho đến tận đời vị lai.
Sơ
giải:
Phẩm “Mộng Hành” của Hội thứ II tương đương với phần cuối
phẩm “Phương Tiện Thiện Xảo”, quyển 330, Hội thứ I, ĐBN mà chúng tôi đã lược
giải rồi. Tuy nhiên, đây là một phẩm hay, vì nó có thể trả lời những vấn đề nội
tâm của chúng ta về tội lỗi mà vô tình chúng ta không để ý đến.
Phẩm “Tướng
Không” quyển 516, Hội thứ III và phẩm “Tham Hành” quyển 563, Hội thứ V,
ĐBN, Ngài Huyền Trang
dịch, cùng một tư tưởng với đoạn Kinh nầy, nói: Có sở duyên nghĩ nghiệp khởi, không
sở duyên nghĩ nghiệp chẳng sanh. Vậy, trong đêm nằm mộng thấy mình tạo
nghiệp, nghiệp đó cũng không tăng không giảm, chỉ lúc tỉnh phân biệt phát sanh
vui mừng như người nằm mộng thấy mình giết được kẻ thù, lòng vui thích. Những
nghĩ tưởng như vậy là tạo nghiệp nên tăng ích. Vì vậy, Tu Bồ đề mới giải thích
cho Xá Lợi Phất: “Hoặc
mộng hoặc tỉnh không có sở duyên nghĩ nghiệp chẳng sanh, cần có sở duyên nghĩ
nghiệp mới khởi. Vì sao? Xá Lợi Phất! Ở trong pháp thấy nghe giác biết, có giác
huệ chuyển, do đấy khởi nhiễm, khởi tịnh. Nếu không có thấy nghe giác biết, giác huệ không chuyển, cũng
không nhiễm tịnh. Do đây nên biết hoặc mộng hoặc tỉnh, có sở duyên nghĩ nghiệp
khởi, cho đến không có sở duyên nghĩ nghiệp chẳng sanh”(1).
Nếu vậy, một người ngồi trong phòng trống thiền
định, niệm niệm tuôn đến không ngừng, nào ác nào thiện, nào xấu nào tốt…thì có
coi đó là nghĩ nghiệp sanh hay không? Trong trường hợp này, Huệ mạng Tu Bồ Đề trả lời: “Mặc dù các nghĩ nghiệp và sở duyên tự tánh
đều không, mà do tự tâm làm tướng phân biệt, nên nói nghĩ nghiệp có sở duyên
sanh, nếu không nghĩ nghiệp chẳng sanh”(2). Nghĩ nghiệp không, sở duyên cũng không, do tự
tâm phân biệt nên mới “có chuyện”. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Tự tâm mà trách tự tâm, chân tâm biến
thành huyễn”. Cổ đức cũng có câu: “Cuồng tâm chẳng nghỉ (chẳng chịu dừng), nghỉ tức Bồ đề”.
Theo thế pháp tội chỉ thành tựu khi phát ra hành động cụ
thể như tội trộm được định danh là “lược thủ một vật ngoài sự hay biết của kẻ
khác”. Vậy muốn kết tội một người về tội trộm thì trước hết phải bắt quả tang người ấy lược
thủ(đánh cắp) một vật, vật đó không thuộc về mình mà thuộc quyền sở hữu của
người khác. Hình luật Pháp quốc khi xưa lúng túng với các tội như ăn quỵt, trộm
điện hay đi xe buýt (bus) không trả tiền. Như tội ăn quỵt, người nầy trịnh
trọng vào tiệm gọi thức ăn, người hầu bàn mang thức ăn đến cho hắn. Ở đây hắn
không ăn cắp món ăn ngoài sự hay biết của kẻ khác. Tội trộm điện, điện không
được coi là một vật cụ thể có thể thấy bằng mắt. Người đi xe buýt, hắn bước lên
xe đàng hoàng, ai cũng thấy, tới nơi xuống xe, hắn không lược thủ vật gì không
thuộc quyền sở hữu của y. Không luật, không thành tội. Tòa án bắt buộc phải tha
bổng những người nầy. Về sau nước Pháp mới định danh những hành động như trên
(ăn quỵt, trộm điện v.v…) thuộc tội trộm.
Tôn giáo, gồm luân lý, đạo đức… trên cả hai phương diện
vật chất lẫn tinh thần, đòi hỏi một sự trong sáng tuyệt đối. Những gì được coi
là tội lỗi không cần phải thể hiện bằng hành động, nó chỉ cần manh nha qua tâm
tưởng. Giới là hàng rào ngăn chặn những tội lỗi xâm nhập từ ngoài vào. Giới có
nặng có nhẹ, có khai, có giá (3) tùy cấp thọ giới (4). Bồ tát giới là giới luật khó khăn,
tế nhị nhất không những giới dùng ngăn chặn những tội lỗi từ bên ngoài mà còn
ngăn chặn những tội lỗi manh nha từ nội tâm. Có sở duyên hay không sở duyên
không cần biết, một khi móng khởi một niệm tham, sân hay si, hoặc một việc đáng
làm mà không làm, hoặc suy nghĩ, hành động trái với tàm và quý (tự mình xấu hổ
hay hổ thẹn với kẻ khác) thì coi như là có tội, phải lập đàn sám hối hay quỳ hương tùy theo tội nặng hay nhẹ!
Tôi còn nhớ một câu chuyện của một nhà Sư trẻ, sắp hàng để
nhận của tín thí. Món cúng dường là món xôi mà Sư thích. Nhưng nhiều người sắp
hàng quá, nên Sư nghĩ đến lượt mình chắc sẽ hết. Khi nghĩ như vậy Sư giật mình
và tự mắng là tham lam, rồi lấy tay tát mạnh vào mặt, tự động bước ra khỏi hàng
quay về am với bình bát rỗng không. Sư nhịn đói ngày hôm đó để tự trừng phạt sự
sai quấy của mình!
Thích nghĩa cho phần lược giải của đoạn hai này:
(1). Năng duyên và sở duyên: Chủ thể nhận thức là năng
duyên, còn khách thể (đối tượng) của nhận thức là sở duyên. Nói khác tâm vương
và tâm sở gọi là năng duyên, trần cảnh gọi là sở duyên. Tâm vương và tâm sở
không tự phát sanh, phải nhờ có chỗ nương vịn vào mới phát sanh tác động. Chỗ
nương vịn vào thì gọi là sở duyên.
(2). “Mặc dầu các tư duy, tạo tác và pháp sở duyên tự
tánh đều không, nhưng do tự tâm thủ tướng phân biệt nên nói tư duy tạo tác có
sở duyên mới sanh. Nếu không có sở duyên, thì tư duy và tạo tác không khởi”.
Tư duy phân biệt là năng, cái nương vịn vào để chấp (sắc trần…) là sở. Tâm
nương vịn vào sở duyên để phân biệt, chấp trước thì gọi là phan duyên, giống
như dây leo nhờ có rào dậu bám vào nên mới có thể chuyền leo được.
(3). Có khai, có giá: Có chỗ cho phép, có chỗ cấm chỉ.
(4). Người
thọ giới: Gọi chung là Chúng, chỉ người xuất gia và tại gia. Có bảy chúng là: Tỳ kheo, Tỳ kheo ni,
Sa di, Sa di ni, Thức xoa ma ni, Ưu
bà tắc, Ưu bà di. Từ
thức xoa ma ni (Phạm:Zikwamàịà. Pàli:Sikkhamànà) cũng gọi Thức xoa ma na ni,
Thức xoa ni, Thức xoa ma xoa. Hán dịch: Học giới nữ, chính học nữ, học pháp nữ.
Chỉ cho Ni chúng đang học pháp, chưa thụ giới Cụ túc, 1 trong 7 chúng nói trên.
Trong 2 năm trước khi thụ giới Cụ túc, Ni chúng này phải học 4 giới căn bản và
6 pháp, tức học tập tất cả giới hạnh của Tỳ khưu ni; nhờ khoảng thời gian 2 năm ấy mà
nghiệm biết Ni chúng này có thai hay không, đồng thời nhờ tu hành giới pháp và
rèn luyện tâm tính mà tập quen với nếp sống xuất gia, khiến cho đạo tâm vững
chắc. Bốn giới căn bản tức 4 giới trọng: Giới sát, giới đạo, giới dâm và giới
đại vọng ngữ. Sáu pháp chỉ cho: Tâm nhiễm ô đụng chạm người nam, lấy trộm tiền
của người, giết hại chúng sinh, nói dối việc nhỏ, ăn phi thời và uống rượu.
Theo luận Du già sư địa thì vì người nữ nhiều phiền não nên phải thực hành pháp
thụ giới theo thứ lớp dần dần này. [X. luật Tứ phần Q.48; luận Du già sư địa
Q.57; luận Đại trí độ Q.13; Tứ phần luật san phồn bổ khuyết hành sự sao Q. hạ,
phần 4]. (xt. Thất Chúng)- Phật Quang từ điển.
---o0o---