PHẨM “THÀNH BIỆN”
Phần đầu quyển 444, Hội thứ II, ĐBN.
(Tương đương với phẩm “Biện Sự”, phần sau Q.310
cho đến
phần đầu Q.311, Hội thứ I, ĐBN)
Tóm
lược:
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật:
- Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật thẳm sâu vì đại sự nhân
duyên xuất hiện ở thế gian; vì việc không thể nghĩ bàn nên xuất hiện ở thế
gian; vì việc không thể tính lường nên xuất hiện ở thế gian; vì việc không hạn
lượng nên xuất hiện ở thế gian; vì việc không gì sánh bằng nên xuất hiện ở thế
gian.
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như ông đã nói, Bát nhã Ba la
mật vì đại sự nhân duyên xuất hiện ở thế gian, cho đến vì việc không gì sánh
bằng nên xuất hiện ở thế gian. Vì sao? Thiện Hiện! Vì Bát Nhã thẳm sâu thành
tựu bố thí Ba la mật, cũng thành tựu tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát
nhã Ba la mật. Thành tựu mười tám pháp Không. Thành tựu chơn như, cũng thành
tựu pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình
đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới
bất tư nghì. Thành tựu tứ Thánh
đế. Thành tựu bốn tịnh lự, cũng thành tựu bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Thành
tựu tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ. Thành tựu ba
mươi bảy pháp trợ đạo. Thành tựu pháp môn giải thoát
không, vô tướng, vô nguyện. Thành tựu thập địa Tam thừa, cũng thành tựu Bồ tát
thập địa(1). Thành tựu năm loại mắt, sáu phép thần thông. Thành tựu Phật mười
lực, cũng thành tựu bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại
bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng. Thành tựu ba mươi hai tướng
Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp. Thành tựu pháp không quên mất, cũng thành tựu tánh
luôn luôn xả. Thành tựu tất cả Đà la ni, Tam ma địa môn. Thành tựu quả Dự lưu,
cũng thành tựu quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề. Thành tựu tất
cả Bồ tát hạnh, cũng thành tựu chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Thành tựu
Nhất thiết trí; cũng thành tựu Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí (nói rộng
tức là tất cả các pháp Phật).
Thiện Hiện! Như Sát đế lợi quán đảnh đại vương, oai đức tự
tại, chiến thắng tất cả, đem các quốc sự giao phó Đại thần, rồi thong dong hưởng nhàn. Như Lai cũng vậy, là Đại
pháp vương, oai đức tự tại, chế ngự tất cả, đem pháp Thanh văn, hoặc pháp Độc
giác, hoặc pháp Bồ tát, hoặc pháp chư Phật đều qui về Bát nhã Ba la mật thẳm
sâu. Do đó, nên Bát nhã Ba la mật đều thành tựu tất cả sự nghiệp. Thế nên, này
Thiện Hiện! Bát nhã Ba la mật vì đại sự nhân duyên xuất hiện ở thế gian, cho
đến vì việc không gì sánh bằng nên xuất hiện ở thế gian.
Lại nữa, Thiện Hiện! Bát nhã Ba la mật thẳm sâu đối với
sắc không thủ, không chấp, nên xuất hiện ở thế gian và thành tựu sự
nghiệp; đối với thọ, tưởng, hành, thức không thủ, không chấp, nên xuất hiện ở
thế gian và thành tựu sự nghiệp; đối với mười hai xứ, mười tám giới không thủ, không chấp, nên xuất hiện ở thế
gian và thành tựu sự nghiệp; đối với nhãn xúc không thủ, không chấp, nên xuất
hiện ở thế gian và thành tựu sự nghiệp; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc
không thủ, không chấp, nên xuất hiện ở thế gian và thành tựu sự nghiệp; đối với
các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra không thủ, không chấp, nên xuất hiện ở
thế gian và thành tựu sự nghiệp; đối với các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc
làm duyên sanh ra không thủ, không chấp, nên xuất hiện ở thế gian và thành tựu
sự nghiệp; đối với địa giới không thủ, không chấp, nên xuất hiện ở thế gian và
thành tựu sự nghiệp; đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới không thủ,
không chấp, nên xuất hiện ở thế gian và thành tựu sự nghiệp; đối với vô minh
không thủ, không chấp; đối với mười
hai duyên khởi không thủ, không chấp, nên xuất hiện ở thế gian và thành
tựu sự nghiệp; đối với lục Ba la mật không thủ, không chấp, đối với 18 pháp
không, chơn như, pháp giới pháp tánh cho đến đối với cảnh giới bất khả tư nghì
không thủ, không chấp, nên xuất hiện ở thế gian và thành tựu sự nghiệp; nói
rộng ra đối với tất cả pháp Phật không thủ, không chấp, nên xuất hiện ở thế
gian và thành tựu sự nghiệp. (Q.444, ĐBN)
Cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật:
- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Bát nhã Ba la mật thẳm sâu đối với
sắc không thủ, không chấp; đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng không thủ, không
chấp. Cho đến đối với tất cả pháp Phật không thủ, không chấp, nên xuất hiện ở
thế gian và thành tựu sự nghiệp?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Ông thấy sắc thủ được, chấp
được không? Thấy thọ, tưởng, hành, thức thủ được, chấp được không? Cho đến thấy
tất cả pháp Phật thủ được, chấp được không?
Thiện Hiện thưa:
- Bạch Thế Tôn! Không! Bạch Thiện Thệ! Không!
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Hay thay! Đúng vậy! Đúng như ông đã nói. Thiện
Hiện! Ta cũng không thấy sắc thủ được, chấp được, không thấy thọ, tưởng, hành,
thức thủ được, chấp được, cho đến không thấy tất cả pháp Phật thủ được, chấp
được. Do không thấy nên không thủ, do không thủ nên không chấp. Do nhân
duyên này nên Bát nhã Ba la mật thẳm sâu đối với sắc không thủ, không chấp; đối
với thọ, tưởng, hành, thức không thủ, không chấp. Như vậy, cho đến đối với tất
cả pháp Phật không thủ, không chấp.
Thiện Hiện! Ta cũng không thấy tất cả Chánh đẳng giác pháp,
Như Lai pháp, tự nhiên giác pháp, Nhất thiết trí pháp của hết thảy các đức Như
Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thủ được, chấp được. Do không thấy nên không thủ, do
không thủ nên không chấp. Bát nhã Ba la mật thẳm sâu cũng lại như thế, đều
không thấy có tất cả Chánh đẳng giác pháp, Như Lai pháp, tự nhiên giác pháp, Nhất
thiết trí pháp của hết thảy các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thủ được, chấp
được. Do nhân duyên này nên không thủ, không chấp. Thế nên, Thiện Hiện! Các Đại
Bồ tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật thẳm sâu không nên đối với sắc hoặc thủ,
hoặc chấp; không nên đối với thọ, tưởng, hành, thức hoặc thủ, hoặc chấp. Như
vậy, cho đến không nên đối với tất cả pháp Phật hoặc thủ, hoặc chấp. Cũng không
nên đối với tất cả Chánh đẳng giác pháp, Như Lai pháp, tự nhiên giác pháp, Nhất
thiết trí pháp của hết thảy các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hoặc thủ, hoặc
chấp.
Lúc ấy, chư thiên cõi Dục, cõi Sắc đồng thưa Phật:
- Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật như thế rất sâu xa, khó
thấy, khó biết, không thể suy nghĩ, vượt khỏi suy nghĩ, vắng lặng mầu nhiệm,
chân thật thẳm sâu. Người rất thông tuệ suy nghĩ kỹ mới hiểu rõ được. Các hữu
tình nào sanh lòng tin hiểu thâm sâu Bát nhã Ba la mật như thế thì nên biết họ
đã từng cúng dường vô lượng chư Phật quá khứ, đã phát thệ nguyện rộng đối với
chư Phật, trồng nhiều thiện căn, gần gũi nhiều thiện hữu, được vô lượng thiện
hữu thủ hộ mới có thể tin hiểu Bát nhã Ba la mật như thế. Hoặc người nào được
nghe Bát nhã Ba la mật như thế sanh lòng tin hiểu thâm sâu, nên biết họ là Bồ
tát, nhất định đắc Vô thượng Bồ đề.
Bạch Thế Tôn! Giả sử các loài hữu tình trong tam thiên đại
thiên thế giới, tất cả đều đạt tùy tín hành, tùy pháp hành, Đệ bát, Dự lưu,
Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác, họ đã thành tựu hoặc trí, hoặc đoạn,
nhưng không bằng một người trong một ngày đối với Bát nhã Ba la mật này chấp
nhận ưa thích, suy nghĩ, quán sát rõ ràng. Người này đối với Bát nhã Ba la mật
đây đã thành tựu nhẫn hơn người kia có trí, có đoạn... vô lượng, vô biên. Vì
sao? Vì các tùy tín hành hoặc trí, hoặc đoạn, cho đến Độc giác hoặc trí, hoặc
đoạn đều chỉ bằng một phần nhỏ nhẫn của các Đại Bồ tát đắc Vô sanh pháp nhẫn.
Phật bảo chư thiên:
- Hay thay! Hay thay! Như các ông đã nói những trí và đoạn
của các tùy tín hành, hoặc tùy pháp hành, Đệ bát, Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A
la hán, Độc giác đều chỉ bằng một phần nhỏ nhẫn của các Đại Bồ tát đắc Vô sanh
pháp nhẫn.
Thiên chúng các ông nên biết: Các thiện nam, thiện nữ… nào
tạm nghe Bát nhã Ba la mật thẳm sâu như thế, nghe rồi tin hiểu, ghi chép, thọ
trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, diễn nói thì các thiện nam, thiện nữ… này mau
thoát khỏi sanh tử, chứng đắc Niết bàn, thành tựu Như Lai trí, hơn các thiện
nam, thiện nữ… cầu Nhị thừa, xa lìa Bát nhã Ba la mật thẳm sâu, học các Kinh
điển khác, trải qua một kiếp, hoặc hơn một kiếp. Vì sao? Vì trong Kinh Bát Nhã
thâm sâu đây nói rộng tất cả thắng pháp nhiệm mầu. Các tùy tín hành, hoặc tùy
pháp hành, Đệ bát, Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác, đại Bồ tát
đều nên nương đây tinh tấn tu học, tùy theo nguyện cầu, làm việc gì sự nghiệp
đều mau thành tựu. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều nương đây học đã
chứng, đang và sẽ chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Khi ấy, chư Thiên đồng ca ngợi:
- Bát nhã Ba la mật như thế là đại Ba la mật, là Ba la mật
không thể nghĩ bàn, là Ba la mật không thể tính lường, là Bát nhã Ba la mật
không số lượng, là Bát nhã Ba la mật không gì sánh bằng.
Bạch Thế Tôn! Các vị tùy tín hành, hoặc tùy pháp hành, Đệ
bát, Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác, đều nương Bát nhã Ba la
mật thậm sâu này tinh tấn tu học, mau thoát khỏi sanh tử, chứng Vô dư y Niết
bàn. Tất cả chúng đại Bồ tát đều nương Bát nhã Ba la mật thậm sâu này tinh tấn
tu học, mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, vào Vô dư y Niết bàn.
Bạch Thế Tôn! Tuy các Thanh văn, Độc giác, Bồ tát đều nương Bát
nhã Ba la mật thâm sâu như thế, tinh tấn tu học, làm việc gì đều được thành tựu
nhưng Bát nhã Ba la mật này không thêm, không bớt.
Chư thiên cõi Dục, cõi Sắc vừa dứt lời đều vui mừng hớn hở,
đối với Bát Nhã sanh tâm tin vui. Sau đó đảnh lễ sát chân Phật, nhiễu quanh hữu
ba vòng, từ tạ Phật về cung, đi cách hội không xa bỗng nhiên biến mất.
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ tát nào nghe thuyết Bát nhã Ba la mật
thâm sâu như thế, sanh lòng tin hiểu, ghi chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư
duy, diễn nói, cúng dường, cung kính, tôn trọng, khen ngợi. Đại Bồ tát ấy từ
cảnh giới nào mà sanh đến đây?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Đại Bồ tát nào nghe thuyết Bát nhã Ba la mật
thâm sâu như thế sanh lòng tin hiểu, ghi chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập tư duy
đúng lý, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen. Thường theo Pháp sư thỉnh
hỏi ý nghĩa, hoặc đi, hoặc đứng, hoặc ngồi, hoặc nằm, không chút dừng nghỉ. Như
nghé (trâu con) mới sanh không lìa khỏi mẹ, cho đến tuy chưa thông đạt ý
nghĩa rốt ráo của Bát nhã Ba la mật thâm sâu để có thể giảng dạy cho người khác
thì quyết không bao giờ xa lìa Kinh điển và người thuyết Bát nhã Ba la mật thâm
sâu như thế.
Thiện Hiện nên biết: Đại Bồ tát này từ cõi người sanh đến
đây. Vì sao? Thiện Hiện! Đời trước Đại Bồ tát này đã nghe Bát nhã Ba la mật
thâm sâu, nghe rồi thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy đúng lý; lại ghi chép và
trang sức các đồ báu. Lại dùng các loại tràng hoa đẹp nhất, hương xoa, hương
bột, y phục, anh lạc, tràng phan, lọng báu, âm nhạc, đèn sáng, cúng dường, cung
kính, tôn trọng, khen ngợi. Nhờ thiện căn này nên lìa tám nạn xứ(2). Từ cõi
người sanh lại cõi người, nghe thuyết Bát nhã Ba la mật thâm sâu sanh lòng tin
hiểu, ghi chép, thọ trì, đọc tụng v.v…
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật:
- Bạch Thế Tôn! Có Đại Bồ tát nào thành tựu công đức thù
thắng như thế, cúng dường phụng thờ Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ở phương khác.
Từ chỗ đó rồi sanh vào cõi này, nghe thuyết Bát nhã Ba la mật thâm sâu như thế,
sanh lòng tin hiểu, ghi chép, thọ trì, v.v... không lười nhác chăng?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Các Đại Bồ tát thành tựu
công đức thù thắng như thế, cúng dường phụng thờ Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ở
phương khác. Từ chỗ đó vào cõi này nghe thuyết Bát nhã Ba la mật thâm sâu như
thế, sanh lòng tin hiểu, ghi chép, thọ trì v.v… tâm không lười nhác. Vì sao? Vì
đời trước đại Bồ tát này đã ở chỗ vô lượng Phật nơi phương khác, nghe thuyết Bát
Nhã thâm sâu như thế, sanh lòng tin hiểu, ghi chép, thọ trì v.v… tâm không lười
nhác. Họ nhờ năng lực thiện căn như thế, nên từ cõi kia sanh vào nơi này.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ tát từ thiên chúng ở cõi
trời Đổ sử đa sanh vào cõi người. Họ cũng thành tựu công đức như thế. Vì
sao? Vì đời trước Đại Bồ tát này đã ở cõi trời Đổ sử đa chỗ Bồ tát Từ Thị thỉnh
hỏi ý nghĩa Bát nhã Ba la mật thâm sâu. Họ nhờ năng lực thiện căn như thế, nên
từ chỗ kia sanh vào cõi người, nghe thuyết Bát Nhã thâm sâu như thế sanh lòng
tin hiểu, ghi chép, thọ trì v.v… tâm không lười nhác.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có các thiện nam, thiện nữ… trụ Bồ tát
thừa, dù đời trước được nghe Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật nhưng không thỉnh
hỏi ý nghĩa sâu xa, nên nay sanh vào cõi người nghe thuyết Bát nhã Ba la mật
thâm sâu như thế, tâm ý mờ mịt, do dự khiếp sợ, hoặc sanh hiểu biết khác, khó khai ngộ được.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có các thiện nam, thiện nữ… trụ Bồ tát
thừa, dù đời trước nghe pháp nội không cho đến pháp vô tính tự tính không, nhưng
không thỉnh hỏi ý nghĩa sâu xa. Dù đời trước được nghe chơn như cho đến
cảnh giới bất tư nghì nhưng không thỉnh hỏi ý nghĩa sâu xa. Dù đời trước được
nghe tất cả pháp Phật nhưng không thỉnh hỏi ý nghĩa sâu xa, nên nay sanh trong
loài người nghe thuyết Bát nhã Ba la mật thâm sâu như thế, tâm ý mờ mịt, do dự,
khiếp nhược, hoặc sanh hiểu biết khác, khó khai ngộ được.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có các thiện nam, thiện nữ trụ Bồ tát
thừa, dù ở đời trước được nghe Bát nhã Ba la mật, cũng từng thỉnh hỏi nghĩa thú
thẳm sâu, hoặc trải một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày, năm ngày, mà chẳng
như thuyết tinh tấn tu hành. Nay sanh trong người nghe thuyết Bát nhã Ba la mật
thẳm sâu như thế, hoặc trải một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày, năm ngày mặc
dầu vậy, tâm vẫn bền chắc, không lay động được.
Nhưng nếu lìa Bát Nhã thẳm sâu đã nghe liền bèn lui mất, tâm
sanh do dự. Vì sao? Thiện Hiện! Các thiện nam, thiện nữ trụ Bồ tát thừa này nhờ
ở đời trước được nghe Bát nhã Ba la mật, cũng thỉnh hỏi nghĩa thú thẳm sâu
nhưng chẳng như thuyết tinh tấn tu hành, nên đến đời nay nếu gặp bạn lành ân
cần khuyên gắng, bèn muốn nghe thọ Bát nhã Ba la mật thẳm sâu. Nếu không bạn
lành ân cần khuyên gắng, tất đối Kinh này chẳng muốn nghe thọ. Các thiện nam,
thiện nữ đối Bát nhã Ba la mật hoặc khi muốn nghe, hoặc khi chẳng muốn, hoặc
tâm bền chắc, hoặc khi lui mất, dễ bị loạn động, tiến thối phi hằng, in như
lông nhẹ bay theo gió. Phải biết các thiện nam, thiện nữ trụ Bồ tát thừa như
thế, phát tới Đại thừa trải qua thời gian chưa lâu, chưa gần gũi nhiều chơn
thiện tri thức, chưa cúng dường nhiều chư Phật Thế Tôn, chưa từng thọ trì đọc
tụng thơ tả suy nghĩ diễn nói Bát nhã Ba la mật thẳm sâu.
Thiện Hiện phải biết: Các thiện nam, thiện nữ trụ Bồ tát thừa
này chưa học Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật. Chưa học nội không cho đến vô
tánh tự tánh không. Chưa học chơn như cho đến bất tư nghì giới. Chưa học khổ
tập diệt đạo Thánh đế. Chưa học bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định.
Chưa học tám giải thoát, tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ. Chưa học
bốn niệm trụ cho đến tám Thánh đạo chi. Chưa học không, vô tướng, vô nguyện
giải thoát môn. Chưa học Tam thừa Bồ tát thập địa. Chưa học năm nhãn, sáu thần
thông. Chưa học Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Chưa học
ba mươi hai tướng Đại sĩ, tám mươi tùy hảo. Chưa học pháp vô vong thất, tánh
hằng trụ xả. Chưa học tất cả Bồ tát hạnh. Chưa học chư Phật Vô Thượng Chánh
Đẳng Bồ đề. Chưa học Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí.
Thiện Hiện phải biết: Các thiện nam, thiện nữ trụ Bồ tát thừa
này mới hướng tới Đại thừa, đối pháp Đại thừa, chỉ được phần ít kính tin ưa
muốn, chưa có thể thơ tả thọ trì đọc tụng, tu tập suy nghĩ, vì người diễn nói Bát
nhã Ba la mật thẳm sâu.
Lại nữa, Thiện Hiện! Các thiện nam, thiện nữ trụ Bồ tát thừa,
nếu chẳng thơ tả thọ trì đọc tụng tu tập suy nghĩ vì người diễn nói Bát Nhã
thẳm sâu; nếu chẳng đem Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật nhiếp thọ hữu tình.
Cho đến nếu chẳng đem Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí nhiếp
thọ hữu tình. Các thiện nam, thiện nữ trụ Bồ tát thừa này chẳng được Bát Nhã
cho đến bố thí Ba la mật thủ hộ, cho đến chẳng được Nhất thiết trí, Đạo tướng
trí, Nhất thiết tướng trí thủ hộ. Các thiện nam, thiện nữ trụ Bồ tát thừa này
chẳng tùy thuận (tin và thực hành) tu hành Bát Nhã cho đến bố thí Ba la
mật. Cho đến chẳng có khả năng tùy thuận tu hành Nhất thiết trí, Đạo tướng trí,
Nhất thiết tướng trí. Bởi nhân duyên đây đọa bậc Thanh văn hoặc bậc Độc giác.
Vì sao? Vì các thiện nam, thiện nữ trụ Bồ tát thừa này đối Bát nhã Ba la mật
thẳm sâu chẳng thường thơ tả thọ trì đọc tụng, tu tập suy nghĩ vì người diễn
nói. Cũng chẳng thường đem Bát nhã Ba la mật thẳm sâu, nói rộng cho đến Nhất
thiết tướng trí nhiếp thọ hữu tình.
Chẳng thường tùy thuận tu hành Bát nhã Ba la mật, nói rộng
cho đến Nhất thiết tướng trí. Chẳng được Bát nhã Ba la mật thủ hộ cho đến chẳng
được Nhất thiết tướng trí thủ hộ. Bởi nhân duyên đây đọa bậc Thanh văn hoặc bậc
Độc giác. (Q. 444, ĐBN)
Thích nghĩa:
(1). Bồ tát thập địa gồm: 1- Cực hỷ địa, 2- Ly cấu
địa, 3- Phát quang địa, 4- Diệm tuệ địa, 5- Nan thắng địa, 6- Hiện tiền địa, 7-
Viễn hành địa, 8- Bất động địa, 9-Thiện tuệ địa, 10- Pháp vân địa. Xin đừng lẫn
lộn Bồ tát thập địa và Bồ tát thập vị cộng Tam thừa. Tuy cách diễn tả có khác
nhưng kết quả chỉ là một. Hai địa vị nầy tùy theo Kinh hay tùy theo các tông
phái đặt ra. Kinh Đại Bát Nhã đã phân định như vậy nên chúng tôi thích nghĩa như
vậy. Đã thích nghĩa ở Phần thứ I, Tổng luận và trong phẩm “Các Tướng Công Đức”.
Đây chỉ nhắc sơ lại.
(2). Tám nạn xứ: Nói gọn là tám nạn: (Bát nạn hay Bát nạn
xứ): Phạn ngữ: avakan, là tám điều kiện bất lợi, tám trường hợp không may có
thể xảy ra trên con đường tu học, gây sự khó khăn trở ngại cho việc tiến tu.
Tám nạn bao gồm: 1- Địa ngục (地 獄;
Phạn ngữ: naraka); 2- Súc sanh(畜生; Phạn ngữ: tiryađc); 3- Ngạ quỉ
(餓鬼; Phạn ngữ: preta); 4- Trường thọ thiên (長壽天; Phạn ngữ: dỵrghyurdeva), là
cõi trời thuộc Sắc giới với thọ mạng cao. Thọ mạng cao cũng là một chướng ngại
vì nó làm mê hoặc người tu, làm cho dễ quên những nỗi khổ của sanh lão bệnh tử
trong luân hồi; 5- Biên địa (邊地; Phạn ngữ: pratyantajanapda), là những vùng không nằm nơi trung tâm,
không thuận tiện cho việc tu học Chánh pháp; 6- Căn khuyết (根缺; Phạn ngữ: indriyavaikalya), không có đủ giác quan hoặc các giác
quan bị tật nguyền như mù, câm, điếc... 7- Tà kiến (雅見; Phạn ngữ: mithydarśana), những kiến giải sai lệch, bất thiện;
8- Như Lai bất xuất sanh (如來不出生;
Phạn ngữ: tathgatnm anutpda),
nghĩa là sanh sống trong thời gian không có Phật hoặc giáo pháp của Phật xuất
hiện.
Trong một số Kinh luận giải thích khác biệt về hai nạn xứ
thứ 5- và thứ 7-: Biên địa được thay bằng châu Uất đan việt, vì cho rằng chúng
sanh ở châu này hưởng nhiều sự sung sướng nên khó tu tập; tà kiến được thay
bằng “thế trí biện thông”, vì cho rằng người học nhiều biết rộng sẽ khó khăn
hơn trong việc tiếp nhận Chánh pháp. (Mở rộng tâm hồn)
Sơ
giải:
Phẩm “Thành Biện” của Hội thứ II, ngắn gọn dễ hiểu, đã
được tóm lược và giảng luận trong phẩm “Biện Sự”, phần sau quyển 310 cho đến
phần đầu quyển 311, Hội thứ I, ĐBN rồi, ai đọc cũng có thể hiểu, nên không phải
trùng tuyên nữa. Nếu cần có thể quay lại phẩm “Biện Sự” Hội thứ I, ôn lại.
---o0o---