PHẨM "ĐIỀU PHỤC THAM ĐẲNG"
Giữa quyển 446, tập 18, Hội thứ II, ĐBN.
(Tương đương phẩm “Trí Hướng Đến”, phần cuối Q.316,
cho đến phần đầu Q.318, Hội thứ I, ĐBN)
Gợi
ý:
Muốn cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thì Bồ tát phải điều
phục thân tâm, bằng cách lấy sự điều phục tham, sân, si và xa lìa tham, sân, si
làm tánh, làm tướng, làm trạng, làm dung mạo. Bởi lý do đó, nên phẩm này của
Hội thứ II mới có tên là “Điều Phục Tham Đẳng”. Trong khi Hội thứ I thì gọi là
“Trí Hướng Đến”. Dầu dưới "danh nghĩa" nào, một khi Bồ tát đối với Bát
nhã Ba la mật sanh tịnh tín và thắng giải thì đại Bồ tát này có thể hướng đến
Nhất thiết trí trí. Nếu có thể hướng đến Nhất thiết trí trí thì có thể làm chỗ
hướng đến cho tất cả hữu tình. Kinh Thuyết như sau:
Tóm
lược:
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật:
- Bạch Thế Tôn! Ai là người đối với Bát nhã Ba la mật sâu xa
thường sanh tịnh tín và thắng giải(1)?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Đại Bồ tát nào đối với quả vị Vô Thượng Chánh
Đẳng Bồ đề, đối với tâm cầu hướng đến, tinh tấn tu tập bố thí, tịnh giới, an
nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật; đã từng cúng dường trăm ngàn, vô số
đức Phật, ở chỗ chư Phật tu phạm hạnh lâu dài, phát thệ rộng lớn, thiện căn thuần thục, được vô lượng bạn
lành giúp đỡ, hộ niệm, mới có thể đối với Bát Nhã sâu xa như thế thường sanh
tịnh tín và thắng giải.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ tát thường đối với Bát Nhã sâu xa
như thế sanh tịnh tín và thắng giải, thì tâm đại Bồ tát này tánh như thế nào,
tướng như thế nào, (hình) trạng như thế nào, dung mạo như thế nào?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát đối với Bát Nhã sâu xa như thế
sanh tịnh tín và thắng giải thì tâm Bồ tát lấy sự điều phục tham, sân, si
và xa lìa tham, sân, si làm tánh, làm tướng, làm trạng, làm dung mạo.
Lại nữa, Thiện Hiện! Tâm đại Bồ tát này lấy điều phục tham,
sân, si và không tham, sân, si; xa lìa tham, sân, si và không tham, sân,
si làm tánh; làm tướng; làm trạng; làm dung mạo.
Thiện Hiện! Đại Bồ tát nào thành tựu tánh, tướng, trạng, mạo
như thế thì tâm mới có thể đối với Bát nhã Ba la mật thường sanh tịnh tín và
thắng giải.
Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ tát nào thường đối với Bát Nhã sâu
xa như thế sanh tịnh tín và thắng giải thì đại Bồ tát này sẽ đến đâu?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Đại Bồ tát này sẽ đến Nhất thiết trí trí.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật:
- Bạch Thế Tôn! Có phải đại Bồ tát nào đạt được Nhất thiết
trí trí thì đại Bồ tát ấy có thể làm nơi hướng đến cho tất cả hữu tình?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như ông đã nói, đại Bồ tát nào
thường đối với Bát Nhã sâu xa như thế sanh tịnh tín và thắng giải thì đại Bồ
tát này thường hướng đến Nhất thiết trí trí. Nếu thường hướng đến Nhất thiết
trí trí thì thường làm chỗ hướng đến cho tất cả hữu tình.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ tát này thường làm việc khó làm, nghĩa
là mặc áo đội mũ bền chắc và nguyện: “Tôi sẽ độ thoát tất cả hữu tình, đều giúp
họ chứng đắc Niết bàn rốt ráo”. Tuy làm việc như thế đối với hữu tình nhưng
hoàn toàn không thấy hữu tình được độ?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như ông đã nói. Lại nữa, Thiện
Hiện! Đại Bồ tát này đã mặc áo mũ không thuộc sắc, cũng không thuộc thọ, tưởng,
hành, thức. Vì sao? Vì sắc cho đến thức đều rốt ráo vô sở hữu, không Bồ
tát, không áo mũ. Nên nói áo mũ kia không thuộc sắc, cũng không thuộc thọ,
tưởng, hành, thức. Đại Bồ tát này đã mặc áo mũ không thuộc sắc cho đến Nhất
thiết trí, cũng không thuộc Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Vì sao? Vì
Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí rốt ráo đều vô sở hữu,
không Bồ tát, không áo mũ. Nên nói áo mũ kia không thuộc Nhất thiết trí, cũng
không thuộc Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Đại Bồ tát này đã mặc áo mũ
không thuộc tất cả pháp. Vì sao? Vì tất cả pháp đều rốt ráo vô sở hữu, không Bồ
tát, không áo mũ. Nên nói áo mũ kia không thuộc tất cả pháp.
Thiện Hiện! Đại Bồ tát này tu hành Bát Nhã sâu xa như thế,
nên thường mặc áo mũ công đức như vầy: Ta sẽ độ tất cả hữu tình, giúp họ chứng
đắc Niết bàn rốt ráo.
Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ tát nào thường mặc áo mũ bền chắc
như vầy: Ta sẽ độ tất cả hữu tình, đều giúp họ chứng đắc Niết bàn rốt ráo thì
Bồ tát ấy không rơi vào bậc Thanh văn và Độc giác. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì đại
Bồ tát này an lập hữu tình không giới hạn nên mặc áo mũ bền chắc như thế.
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Ông quán pháp nghĩa nào mà nói: Đại Bồ tát
thường mặc áo mũ bền chắc như thế thì không rơi vào bậc Thanh văn và Độc giác?
Cụ thọ Thiện Hiện thưa:
- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ tát này không vì độ thoát phần ít hữu
tình mà mặc áo mũ bền chắc như thế, cũng không vì cầu phần ít trí mà mặc áo mũ
bền chắc như thế. Vì sao? Vì đại Bồ tát này vì cứu vớt khắp tất cả hữu tình,
giúp họ vào Niết bàn mà mặc áo mũ bền chắc như thế; chỉ vì cầu được Nhất thiết
trí trí mà mặc áo mũ bền chắc như thế. Do đó nên không rơi vào bậc Thanh văn và
Độc giác.
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như ông đã nói.
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật:
- Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật như thế rất là sâu xa,
Không kẻ năng tu, không pháp sở tu, cũng không chỗ tu, cũng không do đây
mà được tu tập. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Chẳng phải trong nghĩa sâu xa Bát nhã Ba
la mật đây mà có phần ít thật pháp khá được gọi kẻ năng tu, pháp sở tu, hoặc nơi tu, hoặc do đây mà được tu tập.
Bạch Thế Tôn! Vì không phải trong nghĩa sâu xa của Bát nhã Ba
la mật này mà có phần ít thật pháp có thể được gọi là người thường tu và pháp
tu, hoặc chỗ tu, hoặc do đây mà được
tu tập.
Bạch Thế Tôn! Như tu hư không là tu Bát Nhã. Như tu tất cả
pháp là tu Bát Nhã. Như tu pháp không thật là tu Bát Nhã. Như tu vô sở hữu là
tu Bát Nhã. Như tu vô nhiếp thọ là tu Bát Nhã. Như tu trừ khiển là tu Bát Nhã. (Q. 446, ĐBN)
Phật hỏi:
- Thiện Hiện! Tu trừ khiển pháp nào là tu Bát Nhã?
Cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật:
- Bạch Thế Tôn! Tu trừ khiển(2) sắc là tu Bát
Nhã; tu trừ khiển thọ, tưởng,
hành, thức là tu Bát Nhã. Tu trừ
khiển mười hai xứ, mười tám
giới là tu Bát Nhã. Tu trừ
khiển ngã là tu Bát Nhã. Tu trừ khiển hữu tình, mạng giả, sanh giả, dưỡng giả, sĩ phu, bổ đặc già
la, ý sanh, nho đồng, tác giả, thọ giả, tri giả, kiến giả là tu Bát Nhã. Tu trừ khiển bố thí Ba la mật là tu Bát
Nhã; tu trừ khiển tịnh giới,
an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật là tu Bát Nhã. Tu trừ khiển pháp nội Không cho đến pháp
vô tánh tự tánh Không là tu Bát Nhã. Tu trừ khiển chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì là tu Bát Nhã. Tu trừ khiển tứ Thánh đế cho đến ba mươi bảy pháp trợ
đạo là tu Bát Nhã. Tu trừ
khiển bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc là tu Bát Nhã. Tu trừ khiển tám giải thoát, tám thắng
xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ là tu Bát Nhã. Tu trừ khiển Phật mười lực cho đến mười tám pháp
Phật bất cộng là tu Bát Nhã. Tu trừ
khiển pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả là tu Bát Nhã. Tu trừ khiển quả Dự lưu cho đến Độc giác
Bồ đề là tu Bát Nhã. Tu trừ khiển Nhất
thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí là tu Bát Nhã. Nói gọn, tu trừ
khiển tất cả các pháp Phật là tu Bát Nhã.
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như ông đã nói.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nên y Bát nhã Ba la mật sâu xa như thế
để quán sát đại Bồ tát Bất thối chuyển. Đại Bồ tát nào tuy hành Bát Nhã mà không
chấp trước, nên biết đây là đại Bồ tát Bất thối chuyển. Đại Bồ tát nào tuy
hành tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật mà không chấp
trước, nên biết đây là đại Bồ tát Bất thối chuyển. Đại Bồ tát nào tuy hành pháp
nội Không cho đến pháp vô tánh tự tánh Không mà không chấp trước, nên biết đó
là đại Bồ tát Bất thối chuyển. Đại Bồ tát nào tuy hành chơn như cho đến cảnh
giới bất tư nghì mà không chấp trước, nên biết đây là đại Bồ tát Bất thối
chuyển. Đại Bồ tát nào tuy hành Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo mà không chấp
trước, nên biết đây là đại Bồ tát Bất thối chuyển. Đại Bồ tát nào tuy hành bốn
niệm trụ nói rộng cho đến Nhất thiết tướng trí mà không chấp trước, nên biết
đây là đại Bồ tát Bất thối chuyển.
Lại nữa, Thiện Hiện! Các đại Bồ tát Bất thối chuyển khi hành Bát
nhã Ba la mật sâu xa không quán lời người và sự dạy răn của người khác cho là chơn yếu; không phải chỉ tin người
có sở tác; không bị các tham dục, sân nhuế, ngu si, kiêu mạn v.v… làm ô nhiễm
tâm, cũng không bị chúng dẫn dắt. Các đại Bồ tát Bất thối chuyển khi hành Bát
Nhã sâu xa không lìa bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Các đại Bồ tát Bất thối
chuyển khi hành Bát Nhã, nghe thuyết Bát Nhã sâu xa như thế, không những chẳng kinh, chẳng sợ, chẳng
hãi, chẳng nghi, chẳng hối, chẳng thối, chẳng chìm cũng chẳng lui bỏ sự mong
cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề mà đối với Bát Nhã sâu xa lại vui thích
muốn nghe, thọ trì, đọc tụng, thông hiểu tường tận, chánh niệm tư duy, như
thuyết tu hành, không hề nhàm chán. Nên biết đại Bồ tát này, đời trước đã từng nghe Bát Nhã thọ trì, đọc tụng,
chánh niệm tư duy v.v…
Cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ tát nào nghe thuyết Bát Nhã sâu xa như
thế, tâm không kinh, không khủng, không hãi, không chìm, không đắm, cũng không
lui bỏ sự mong cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề; đối với Bát Nhã, vui mừng
thích nghe, thọ trì, đọc tụng, thông hiểu tường tận, chánh niệm tư duy, tinh
tấn tu hành, tâm không nhàm chán, đại Bồ tát này tu hành Bát Nhã như thế nào?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Đại Bồ tát này liên tục tùy thuận hướng đến
Nhất thiết trí trí nên thực hành Bát nhã Ba la mật sâu xa như thế.
Cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật:
- Bạch Thế Tôn! Làm sao đại Bồ tát này liên tục tùy thuận
hướng đến Nhất thiết trí trí, thực hành Bát nhã Ba la mật sâu xa?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát nào liên tục tùy thuận hướng
đến không, vô tướng, vô nguyện, như hư không, vô sở hữu, không sanh, không diệt, không nhiễm, không
tịnh, chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác,
bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không,
cảnh giới bất tư nghì, không tạo, không tác, như huyễn, như mộng, như tiếng
vang, như hình tượng, như bóng sáng, như sóng nắng, như việc biến hoá, như
thành Tầm hương mà hành Bát Nhã, thì đây là đại Bồ tát liên tục tùy thuận hướng
đến Nhất thiết trí trí, thực hành Bát nhã Ba la mật sâu xa. (Q.446, ĐBN)
Cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật:
Bạch Thế Tôn! Như đức Thế Tôn đã nói, nếu đại Bồ tát liên tục tùy thuận hướng đến
không, vô tướng, vô nguyện, cho đến như thành tầm hương hành Bát nhã Ba la mật
thẳm sâu, thì Bồ tát này tiếp nối tùy thuận hướng đến Nhất thiết trí trí thực
hành Bát Nhã thẳm sâu, ấy là Bồ tát khi hành Bát Nhã thẳm sâu là hành sắc
chăng? Là hành thọ tưởng hành thức chăng? Như vậy cho đến là hành Nhất thiết
trí chăng? Là hành Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí chăng?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Đại Bồ tát này khi hành Bát Nhã sâu xa không
hành sắc, không hành thọ, tưởng, hành, thức. Như vậy, cho đến không hành Nhất
thiết trí, không hành Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Vì sao? Vì đại
Bồ tát này đã tùy thuận hướng đến Nhất thiết trí trí, không kẻ có thể hành
được, không kẻ có thể phá hoại được, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng
không chỗ trụ, không phương cõi, không số lượng, không đi, không đến. Đã không
số lượng, không đi, không đến, thì cũng chẳng thể nắm bắt, cũng chẳng thể chứng
đắc vậy.
Thiện Hiện! Nhất thiết trí trí như thế không thể lấy sắc
chứng, không thể lấy thọ, tưởng, hành, thức chứng. Như vậy, cho đến không thể
lấy Nhất thiết trí chứng, không thể lấy Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí
chứng. Vì sao? Vì sắc tức là tánh Nhất thiết trí trí; thọ, tưởng, hành, thức
tức là tánh Nhất thiết trí trí. Như vậy, cho đến Nhất thiết trí tức là tánh
Nhất thiết trí trí; Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí tức là tánh Nhất thiết
trí trí. Vì sao? Vì sắc như, hoặc Nhất thiết trí trí như, hoặc tất cả pháp như,
đều một như, không hai không khác; hoặc thọ, tưởng, hành, thức như, hoặc Nhất
thiết trí trí như, hoặc tất cả pháp như, đều một như, không hai không khác. Như
vậy, cho đến hoặc Nhất thiết trí như, hoặc Nhất thiết trí trí như, hoặc tất cả
pháp như, đều một như, không hai không khác; hoặc Đạo tướng trí, Nhất thiết
tướng trí như, hoặc Nhất thiết trí trí như, hoặc tất cả pháp như, đều một như,
không hai không khác. Thế nên, Nhất thiết trí trí không thể lấy sắc chứng;
không thể lấy thọ, tưởng, hành, thức chứng. Như vậy, cho đến không thể lấy Nhất
thiết trí chứng; không thể lấy Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí chứng.
(Đây là một đoạn kinh khó nuốt, khó tiêu hóa nhất. Phải
lưu ý).
Thích nghĩa:
(1). Thắng giải: (勝解)
Phạm: Adhimokwa. Pàli:Adhimutti. Cũng gọi Tín giải. Tên của tâm sở, 1 trong 10
Đại địa pháp thuộc 75 pháp của Câu xá, 1 trong 5 Biệt cảnh thuộc 100 pháp của
Duy thức. Nghĩa là sự hiểu rõ thù thắng, tức đối với các cảnh sở duyên (đối
tượng nhận thức) khởi lên tác dụng phán đoán chính xác. Nhưng về tâm sở
này, các phái giải thích có khác nhau. Thuyết nhất thiết hữu bộ và tông Câu xá
cho rằng Thắng giải là 1 trong 10 Đại địa pháp, có thể tương ứng với tất cả tâm
sở, tức trùm khắp tất cả tâm phẩm. Luận Câu xá quyển 4, (Đại 29, 19 thượng)
nói: Thắng giải nghĩa là đối với các cảnh có năng lực hiểu rõ chính xác. Tức
bất luận là thị phi, tà chính, tác dụng của tâm sở này đều có thể quyết đoán rõ
ràng, chính xác. Ví dụ khi tâm đối trước cảnh, dù cảnh đó là hoa hay trăng, tâm
liền quyết đoán là hoa, là trăng, cho nên tất cả tâm đều có tâm sở này. Nhưng
tông Duy thức thì cho rằng Thắng giải là 1 trong 5 Biệt cảnh, không có công năng
trùm khắp tất cả tâm sở. Luận Thành duy thức quyển 5 (Đại 31, 28 trung) nói:
Thế nào là thắng giải? Nghĩa là khi đối trước cảnh tâm quyết định rõ ràng, phán
đoán chính xác, đó là Thắng giải; còn nếu đối trước cảnh tâm còn do dự, nghi
ngờ, không thể quyết đoán, thì không phải là Thắng giải, không thể trùm khắp.
Còn Thượng tọa bộ thì chủ trương Thắng giải chính là quyết định và không khác
gì với Trí tướng. Thuyết Nhất thiết hữu bộ thì cho rằng ấn khả là tác dụng khác
của Thắng giải, vì thế khác với Thắng giải hoặc Trí tướng. Luận Đại tì bà sa
quyển 101 cho rằng Trạch diệt là tự tính của giải thoát vô vi, còn Thắng giải
thì là tự tính của giải thoát hữu vi. [X. luận Phẩm loại túc Q.1; luận Đại tì
bà sa Q.16, 28]. - Từ điển Phật Quang.
(2). Khiển có nghĩa là khiển trách, quở, lên án, phê phán.
Tu trừ khiển: Tu để trừ bỏ bình phẩm hay phê phán (người hay vật v.v…)
Lược
giải:
1. Muốn chứng giác,
muốn được Nhất thiết trí trí, muốn trở thành Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thì Bồ
tát phải liên tục tùy thuận đến Không, Vô tướng, Vô nguyện, như hư không mà tu,
tu vô sở hữu, không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, không tạo, không
tác, như mộng, như ảo, như trò biến hóa, như ảo thành. Vì Chánh giác, Nhất
thiết trí trí, quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh giác không thể lấy sắc mà
chứng, không thể lấy thọ tưởng hành thức mà chứng; cũng không thể lấy xứ giới
mà chứng, cũng không thể lấy tất cả pháp Phật mà chứng. “Vì sao? Vì đại Bồ
tát đã tùy thuận hướng đến Nhất thiết trí trí, không kẻ có thể hành được, không
kẻ có thể phá hoại được, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không chỗ trụ,
không phương cõi, không số lượng, không đi, không đến. Đã không số lượng, không
đi, không đến, thì cũng chẳng thể nắm bắt, cũng chẳng thể chứng đắc vậy”.
Phẩm“Huệ Đến
Bờ Kia”, quyển 527, Hội thứ III, ĐBN nói rõ ràng:
“ Các đại Bồ tát khi hành sâu Bát nhã Ba la mật, nếu
nhớ có sắc và nghĩ phải tu, như vậy là chẳng trừ khiển sắc, chẳng phải tu Bát
nhã Ba la mật. Nếu nhớ có thọ tưởng hành thức và nghĩ phải tu, như vậy là chẳng
trừ khiển thọ tưởng hành thức, chẳng phải tu Bát nhã Ba la mật. Nói rộng, cho đến nếu nhớ có dứt hẳn phiền não tập
khí nối nhau và nghĩ phải tu, như vậy là chẳng trừ khiển dứt hẳn phiền não tập
khí nối nhau, chẳng phải tu Bát nhã Ba la mật. Nếu nhớ có Nhất thiết trí trí và
nghĩ phải tu đây, như vậy là chẳng trừ khiển Nhất thiết trí trí, chẳng phải tu Bát
nhã Ba la mật.
“Ngược lại, các đại
Bồ tát khi hành Bát nhã Ba la mật
thậm thâm, chẳng nhớ có sắc và chẳng nghĩ phải tu trừ khiển sắc, là tu Bát nhã
Ba la mật. Chẳng nhớ có thọ tưởng hành thức và chẳng nghĩ phải tu trừ khiển thọ
tưởng hành thức, là tu Bát nhã Ba la mật. Nói rộng, cho đến chẳng nhớ có dứt hẳn phiền não tập khí
nối nhau và chẳng nghĩ phải tu trừ khiển dứt hẳn phiền não tập khí nối nhau, là
tu Bát nhã Ba la mật. Chẳng nhớ có Nhất thiết trí trí và chẳng nghĩ phải tu trừ
khiển Nhất thiết trí trí, là tu Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Vì chẳng phải kẻ tưởng có dứt tham sân si,
tùy miên trói buộc thường dễ
tu Bát nhã Ba la mật.
“Vậy nên, Tu Bồ
Đề! Nếu đại Bồ tát tu trừ
khiển sắc, cũng trừ khiển tu đây, gọi tu Bát nhã Ba la mật. Tu trừ khiển thọ
tưởng hành thức, cũng trừ khiển tu đây gọi tu Bát nhã Ba la mật. Nói rộng, cho đến tu trừ khiển dứt hẳn phiền não
tập khí nối nhau và trừ khiển tu đây, gọi tu Bát nhã Ba la mật. Tu trừ khiển
Nhất thiết trí trí và trừ khiển tu đây, gọi tu Bát nhã Ba la mật”.
Nếu cứ nghĩ
tưởng phải tu, phải hành, phải khiển, phải chứng bất cứ pháp nào dầu pháp đó mang nhiều
công đức nhất thì cũng coi như chẳng tu Bát nhã Ba la mật.
Nếu nhớ, nếu nghĩ ngũ
uẩn là cái che đậy tánh giác thì nên khiển trừ cái nhớ cái nghĩ đó. Nhưng mỗi
khi khởi niệm thì vọng sanh. Nên đức Quán Âm trong “Tâm Kinh” bảo Ngài Xá
Lợi Phất: “Nầy Xá Lợi
tử! Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc, sắc tức là không, không tức là
sắc. Thọ tưởng hành thức cũng lại như thế”. Nếu coi ngũ uẩn là không thì
không cần phải lìa cũng không cần phải khiển.
Khiển chính
là một động niệm thì khiển cũng là cái đáng trừ, đáng bỏ. Do đó, Phật nói: “Tất cả pháp chẳng có tướng, chẳng không
tướng. Nếu đại Bồ tát biết
tất cả pháp hoặc có tướng hoặc không tướng, đều đồng nhất tướng, chỗ gọi vô
tướng, tu vô tướng đây là tu Bát nhã Ba la mật”.
Vậy lìa cũng
bỏ, khiển cũng bỏ và cái bỏ sau cùng đó cũng không nên nói đến nữa. Như thế thì tâm hành diệt, ngôn ngữ
đoạn, mới an trụ tánh không, hành cảnh vô tướng, nguyện không phân biệt, tâm
mới tuyệt đối an nhiên tịch lặng. Bát Nhã
nghịch lý ở chỗ đó, vì cái suy lý thường tục bằng tri thức, thấy cái gì nghịch
lại qui ước sống thì
phải trừ, phải lìa, phải khiển mà không biết rằng chính cái phải trừ, phải lìa,
phải khiển là những biện pháp chống lại sự an tịnh của tâm, cái mà Bát Nhã gọi
là vô niệm, vô tâm.
Cuối cùng Phật dạy: “… đại Bồ tát nào
thường đối với Bát Nhã sâu xa như thế sanh tịnh tín và thắng giải thì đại Bồ
tát này thường hướng đến Nhất thiết trí trí. Nếu thường hướng đến Nhất thiết
trí trí thì thường làm chỗ hướng đến cho tất cả hữu tình”.
Đó là chúng ta chỉ giải quyết một vấn đề là tu trừ khiển.
2. Vấn đề thứ hai
mắc mỏ quá! Kinh hầu hết chỗ nào cũng nói đến hai chữ “Không hành”, thí dụ
không hành Bồ tát đạo làm sao tiến đến Bồ đề? Làm sao hiện chứng? Làm sao đắc
quả? Câu hỏi nếu không hành Bồ tát đạo thì làm sao tiến đến Bồ đề. Câu hỏi này đặt đúng chỗ. Nhưng đặt thêm mệnh
đề sau: Làm sao hiện chứng? Làm sao đắc quả? Là sai. Vì có tưởng niệm, có chủ
đích đằng sau tu hành thì gọi là hành có sở đắc! Tu thì cứ tu , hành thì cứ
hành, không ai ngăn, không ai cản được. Mỗi khi có sở đắc là không đắc, không
hiện quán. Nên kinh thường bảo là không hành hay hành như vô công dụng hạnh. Vả lại, các hành đều do tưởng tạo
ra, không thật. Vì vậy, Phật dạy:
- “Thiện Hiện! Đại Bồ tát này khi hành Bát Nhã sâu xa
không hành sắc, không hành thọ, tưởng, hành, thức. Như vậy, cho đến không hành
Nhất thiết trí, không hành Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí”.
Phật bảo khi hành Bát Nhã là không hành sắc, không hành
thọ tưởng hành thức. Chúng ta đồng ý điểm này. Vì sao? Vì ngũ uẩn còn gọi là
ngũ che, nó che tánh giác của chúng ta không cho thấy thật tướng của tất cả
pháp. Nếu không thấy thật tướng của tất cả pháp thì làm sao giác ngộ. Nên không
hành sắc thọ tưởng v.v… là đúng. Nhưng không hành tam trí, trí tối cao của
những bậc chứng ngộ thì hành cái gì? Có lẽ không ai đồng ý với câu nói này.
Nhất thiết trí trí, không có kẻ hành được, không từ
đâu đến, không đi về đâu, cũng không chỗ trụ, không phương cõi, không số lượng.
Đã không số lượng, không đi, không đến, thì cũng chẳng thể nắm bắt,
cũng chẳng thể chứng đắc vậy. Đó là câu trả lời của Phật: Nếu nắm bắt thì
cũng chẳng thể chứng đắc. Nhưng tại sao Phật chứng được? Phật chứng được là nói
theo tục đế, nói theo ý nghĩ thói quen tập tục của chúng ta chứ không phải nói
theo đệ nhất nghĩa đế. Vì vậy, những điều Phật phát biểu đều làm cho chúng ta
có cảm tưởng nghịch đời. Điều đó cũng đúng thôi. Tất cả phàm phu đều thuận theo thế gian, còn người thuận theo đạo lý
thì ngược lại với thế gian.
Sở dĩ, Phật có đắc là vì tu đến một độ nào đó sẽ chín mùi
nứt vở thì Tam minh, Ngũ nhãn, Lục thần thông… hiện ra như đức Thế Tôn sau 49
ngày thiền định khi ánh mặt trời của buổi bình minh ló dạng chiếu vào cội Bồ
đề. Phật muốn cũng không được, không muốn cũng không được, chỉ còn tùy thuận mà
thôi. Rồi Phật bảo:
- “Thiện Hiện! Nhất thiết trí trí như thế không thể lấy
sắc chứng, không thể lấy thọ, tưởng, hành, thức chứng. Như vậy, cho đến không
thể lấy Nhất thiết trí chứng, không thể lấy Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí
chứng. Vì sao? Vì sắc tức là tánh Nhất thiết trí trí; thọ, tưởng, hành, thức
tức là tánh Nhất thiết trí trí. Như vậy, cho đến Nhất thiết trí tức là tánh
Nhất thiết trí trí; Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí tức là tánh Nhất thiết
trí trí. Vì sao? Vì sắc như, hoặc Nhất thiết trí trí như, hoặc tất cả pháp như,
đều một như, không hai không khác; hoặc thọ, tưởng, hành, thức như, hoặc Nhất
thiết trí trí như, hoặc tất cả pháp như, đều một như, không hai không khác. Như
vậy, cho đến hoặc Nhất thiết trí như, hoặc Nhất thiết trí trí như, hoặc tất cả
pháp như, đều một như, không hai không khác; hoặc Đạo tướng trí, Nhất thiết
tướng trí như, hoặc Nhất thiết trí trí như, hoặc tất cả pháp như, đều một như,
không hai không khác. Thế nên, Nhất thiết trí trí không thể lấy sắc chứng;
không thể lấy thọ, tưởng, hành, thức chứng. Như vậy, cho đến không thể lấy Nhất
thiết trí chứng; không thể lấy Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí chứng”.
Khi giác ngộ rồi tự nhiên thấy tất cả pháp đều là chân
như. Thấy tất cả pháp đều một như, không hai không khác: Sắc như, thọ tưởng
hành thức như, Nhất thiết trí như, Đạo tướng trí, Nhất thiết trí trí như không
hai không khác. Người thấy như vậy nên được gọi là Như Lai!
Phẩm “Chân Như” kế tiếp sẽ làm sáng tỏ sự chứng ngộ này
của chư Phật.
---o0o---