PHẨM “VÔ
KHUYẾT”
Phần cuối
quyển 474 cho đến hết quyển 475, Hội thứ II, ĐBN.
(Tương đương phẩm “Thành Thục Hữu Tình”, phần cuối
Q.390
cho đến phần đầu Q.393, Hội thứ I, ĐBN)
Tóm lược:
Bấy giờ cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ tát tuy tinh
tấn tu hành bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật; an trụ nội không cho đến vô tính
tự tính không; an trụ chơn như cho đến cảnh giới bất khả tư nghì; an trụ Thánh
đế khổ, tập, diệt, đạo; tu hành bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo; tu hành
bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; tu hành tám giải thoát cho đến mười
biến xứ; tu hành pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện; tu hành Cực hỷ
địa cho đến Pháp vân địa; tu hành tất cả môn Đà la ni, môn Tam ma địa; tu hành
năm loại mắt, sáu phép thần thông; tu hành Như Lai mười lực cho đến mười tám
pháp Phật bất cộng; tu hành ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của bậc Đại
sĩ; tu hành pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; tu hành Nhất thiết trí, Đạo
tướng trí, Nhất thiết tướng trí; tu hành tất cả Bồ tát hạnh; tu hành Vô Thượng
Chánh Đẳng Bồ đề. Nhưng, nếu đạo Bồ đề
(1) tu chưa được viên mãn thì chẳng thể chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Bạch Thế Tôn! Đại Bồ tát nên tu đạo
Bồ đề như thế nào để được viên mãn, chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề?
Phật bảo:
- Này Thiện Hiện! Nếu khi đại Bồ tát
hành sâu Bát Nhã, đầy đủ phương tiện thiện xảo thù thắng, do lực phương tiện
thiện xảo này, nên khi tu hành bố thí Ba la mật, chẳng thấy bố thí, chẳng thấy
người thí, chẳng thấy người thọ thí, cũng chẳng lìa các pháp như vậy mà hành bố
thí Ba la mật. Khi đại Bồ tát ấy bố thí như vậy, thì có khả năng soi sáng ba
đạo Bồ đề (Thanh văn Bồ đề, Bích chi Bồ
đề và Chánh đẳng Bồ đề), tu đạo Bồ đề sớm được thành tựu. (Q.474, ĐBN)
Như vậy, Thiện Hiện! Các đại Bồ tát
hành sâu Bát Nhã, bằng phương tiện thiện xảo tu Bồ đề đạo làm cho viên mãn, thì
chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Nếu khi đại Bồ tát hành sâu Bát Nhã, đầy
đủ phương tiện thiện xảo thù thắng, do lực phương tiện thiện xảo này, nên tu
tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật, nói rộng cho đến tu
tất cả Bồ tát hạnh và Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Bấy giờ, cụ thọ Xá lợi Tử bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ
tát hành sâu Bát Nhã, dũng mãnh, chuyên cần chơn chánh tu đạo Bồ đề?
Phật bảo:
- Này Xá lợi Tử! Nếu khi đại Bồ tát
hành sâu Bát Nhã, bằng phương tiện thiện xảo, chẳng hợp sắc, thọ, tưởng, hành, thức; chẳng ly sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Chẳng hợp mười hai xứ cho đến
mười tám giới, chẳng ly mười hai xứ cho đến mười tám giới. Chẳng hợp nhãn xúc
cho đến ý xúc; chẳng ly nhãn xúc cho đến ý xúc. Chẳng hợp nhãn xúc làm duyên
sanh ra các thọ, cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ; chẳng ly nhãn xúc làm
duyên sanh ra các thọ, cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ. Chẳng hợp địa
giới cho đến thức giới; chẳng ly địa giới cho đến thức giới. Chẳng hợp nhân
duyên cho đến tăng thượng duyên; chẳng ly nhân duyên cho đến tăng thượng duyên.
Chẳng hợp các pháp từ duyên sanh ra; chẳng ly các pháp từ duyên sanh ra. Chẳng
hợp vô minh cho đến lão tử; chẳng ly vô minh cho đến lão tử. Vì sao? Vì các pháp như vậy đều không có tự
tánh để hợp, để ly.
Này Xá lợi Tử! Nếu khi đại Bồ tát
hành sâu Bát Nhã, bằng phương tiện thiện xảo, chẳng hợp bố thí cho đến Bát nhã
Ba la mật; chẳng ly bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Chẳng hợp nội không cho
đến vô tánh tự tánh không; chẳng ly nội không cho đến vô tánh tự tánh không.
Chẳng hợp chơn như cho đến cảnh giới bất khả tư nghì; chẳng ly chơn như cho đến
cảnh giới bất khả tư nghì. Nói rộng ra, chẳng hợp với tất cả pháp Phật, cũng
chẳng ly tất cả pháp Phật. Vì sao? Vì các pháp như vậy đều không có tự tánh để
hợp, để ly.
Này Xá lợi Tử! Ấy là các đại Bồ tát
hành sâu Bát Nhã, dũng mãnh, chuyên cần chơn chánh tu Bồ đề đạo như vậy.
Xá lợi Tử lại bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp đều
không có tự tánh để hợp, để ly thì tại sao đại Bồ tát hướng đến Bát nhã Ba la
mật để tu để học? Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ tát không học Bát nhã Ba la mật thì
quyết không bao giờ chứng đắc sở cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề?
Phật bảo:
- Này Xá lợi Tử! Đúng vậy! Đúng như
ông nói. Nếu đại Bồ tát không học Bát nhã Ba la mật thì không bao giờ chứng đắc
được sở cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Này Xá lợi Tử! Các đại Bồ tát mong
cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề phải có phương tiện thiện xảo thì mới chứng
được, chẳng phải không có phương tiện thiện xảo mà có thể chứng được. Khi các
đại Bồ tát hành sâu Bát Nhã, nếu thấy có pháp tự tánh khá được thời nên nắm giữ
(chấp giữ). Nếu chẳng thấy có pháp tự
tánh khá được sẽ nắm giữ cái gì? Nghĩa là chẳng nắm giữ đây là Bát Nhã cho đến
bố thí Ba la mật. Đây là sắc cho đến thức. Đây là nhãn xứ cho đến ý xứ. Đây là
sắc xứ cho đến pháp xứ. Đây là nhãn giới cho đế ý giới. Đây là sắc giới cho đến
pháp giới. Đây là nhãn thức giới cho đến ý thức giới. Đây là nhãn xúc cho đến ý
xúc. Đây là nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra
các thọ. Đây là địa giới cho đến thức giới. Đây là nhân duyên cho đến tăng
thượng duyên. Đây là các pháp từ duyên sanh ra. Đây là vô minh cho đến lão tử.
Đây là nội không cho đến vô tính tự tính không. Đây là chơn như cho đến cảnh
giới bất khả tư nghì. Nói rộng ra, đây là tất cả Phật pháp. (Hết Q.474, ĐBN)
Này Xá lợi Tử! Các đại Bồ tát hành
sâu Bát Nhã, như thật rõ biết tánh của
tất cả pháp đều chẳng thể nắm giữ. Nghĩa là Bát Nhã cho đến bố thí Ba la
mật, đều chẳng thể nắm giữ. Sắc cho đến thức cũng chẳng thể nắm giữ. Mười hai
xứ cho đến mười tám giới cũng chẳng thể nắm giữ. Nhãn xúc cho đến ý xúc chẳng
thể nắm giữ. Nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ, cho đến ý xúc làm duyên sanh
ra các thọ cũng chẳng thể nắm giữ. Địa giới cho đến thức giới cũng chẳng nằm
giữ. Nhân duyên cho đến tăng thượng duyên cũng chẳng thể nắm giữ. Các pháp từ
duyên sanh ra cũng chẳng thể nắm giữ. Vô minh cho đến lão tử cũng chẳng thể nắm
giữ. Nội không cho đến vô tánh tự tánh không cũng chẳng thể nắm giữ. Chơn như
cho đến cảnh giới bất khả tư nghì cũng chẳng thể nắm giữ. Nói rộng ra, cho đến tất cả Phật pháp cũng chẳng thể nắm
giữ.
Này Xá lợi
Tử! Các đại Bồ tát hành Bát nhã Ba la mật, vì như thật rõ biết tánh của tất cả
pháp chẳng thể nắm giữ, nên không bị chướng ngại đối với tất cả pháp.
Này Xá lợi
Tử! Chẳng thể nắm giữ Ba la mật, tức là không
chướng ngại Ba la mật. Không chướng ngại Ba la mật, tức là Bát nhã Ba la mật.
Các đại Bồ tát nên học như vậy.
Này Xá lợi
Tử! Nếu đại Bồ tát khéo học như vậy, thì đối với tất cả pháp đều không có chỗ
đắc; sự học còn chẳng được, huống nữa là Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, huống nữa
là được Bát nhã Ba la mật, huống nữa là được pháp của Dị sanh, Thanh văn,
Độc giác, Bồ tát và Phật. Vì sao? Vì không có một chút pháp nào là thật có tự
tánh. Trong tất cả pháp không có tự tánh, những gì là pháp Dị sanh? Những gì là
pháp Dự lưu? Nhất lai? Bất hoàn? A la hán? Những gì là pháp Độc giác? Những gì
là pháp Bồ tát? Những gì là pháp Như Lai?
Này Xá lợi
Tử! Các pháp như vậy đã chẳng thể đắc được, thì nương vào những pháp nào mà có
thể hiển bày có Dị sanh. Dị sanh đã chẳng thể đắc được, thì làm sao có thể hiển
bày đây là Dự lưu, đây là Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, đây là Độc giác, đây là
Bồ tát, đây là Như Lai?
Khi ấy, Xá lợi Tử thưa:
- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp đều
không có tự tánh, đều chẳng thật có, thì dựa vào đâu mà có thể rõ biết đây là
Dị sanh, đây là pháp Dị sanh; nói rộng cho đến đây là Như Lai, đây là pháp Như
Lai?
Phật bảo:
- Này Xá lợi Tử! Ý ông nghĩ sao?
Thật có sắc hoặc đã, hoặc đang như các kẻ Dị sanh ngu si chấp không? Như vậy,
cho đến, thật có tất cả Bồ tát hạnh hoặc đã, hoặc đang như các kẻ Dị sanh ngu
si chấp không? Thật có Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề hoặc đã, hoặc đang như các kẻ
Dị sanh ngu si chấp không? Thật có Dị sanh, Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la
hán, Độc giác, Bồ tát, Phật hoặc đã, hoặc đang như các kẻ Dị sanh ngu si chấp
không?
Xá lợi Tử thưa:
- Không, bạch Thế Tôn! Chỉ do Dị
sanh ngu si điên đảo chấp như vậy.
Phật bảo:
- Này Xá lợi Tử! Các đại Bồ tát hành Bát nhã Ba la mật, bằng phương tiện
thiện xảo, tuy quán các pháp đều không có tự tánh, đều chẳng thật có, nhưng dựa
vào tục đế để cầu hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề; vì hữu tình mà phương tiện
giảng nói, khiến cho được hiểu biết chơn chánh, xa lìa các điên đảo.
Xá lợi Tử lại bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Tại sao như vậy?
Phật bảo:
- Này Xá lợi Tử! Khi các đại Bồ tát
hành Bát nhã Ba la mật, thành tựu phương tiện thiện xảo như vầy: Đó là hoàn
toàn không thấy có một chút thật pháp
nào có thể trụ ở trong ấy. Nếu trụ trong ấy thì có chướng ngại. Do chướng
ngại nên bị thối mất. Do thối mất nên tâm liền yếu hèn. Do tâm yếu hèn nên sanh
biếng nhác. (Q.475, ĐBN)
Này Xá lợi Tử! Vì tất cả pháp đều không thật có, lìa ngã và ngã sở, đều lấy vô tánh
làm tự tánh, bản tánh không tịch, tự tướng không tịch. Chỉ có Dị sanh ngu
si mê lầm điên đảo, chấp trước sắc
uẩn cho đến thức uẩn. Chấp trước xứ cho đến giới. Chấp trước nhãn xúc cho đến ý
xúc. Chấp trước nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ, cho đến ý xúc làm duyên
sanh ra các thọ. Chấp trước địa giới cho đến thức giới. Chấp trước nhân duyên
cho đến tăng thượng duyên. Chấp trước các pháp từ duyên sanh ra. Chấp trước vô
minh cho đến lão tử. Chấp trước bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Chấp trước
nội không cho đến vô tánh tự tánh không. Chấp trước chơn như cho đến cảnh giới
bất khả tư nghì. Nói rộng ra, chấp trước
tất cả Phật pháp.
Do nhân
duyên này, nên các đại Bồ tát quán tất cả pháp đều không thật có, lìa
ngã và ngã sở; đều lấy vô tánh làm tự tánh, bản tánh không tịch, tự tướng
vắng lặng, mà hành sâu Bát Nhã, tự an lập như huyễn sư, vì các hữu tình mà nói
pháp; vì những người san tham mà nói pháp bố thí; vì những người phá giới mà
nói tịnh giới; vì những người sân nhuế mà nói an nhẫn. Vì những người biếng
nhác mà nói tinh tấn; vì những người tán loạn mà nói tĩnh lự; vì những người
ngu si mà nói Bát Nhã. (Q.475, ĐBN)
Các đại Bồ tát ấy an lập hữu tình,
khiến cho trụ bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật rồi, lại vì họ mà nói Thánh pháp
thù thắng có thể ra khỏi sanh tử, khiến cho các hữu tình nương vào đó tu học,
mà được quả Dự lưu, hoặc được quả Nhất lai, quả Bất hoàn, quả A la hán, hoặc
được quả Độc giác, hoặc nhập Bồ tát Chánh tánh ly sanh, hoặc trụ bậc đại Bồ
tát, hoặc chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Khi ấy, Xá lợi Tử lại bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Khi các đại Bồ tát
hành sâu Bát Nhã, sao chẳng gọi là có sở đắc; nghĩa là các hữu tình thật chẳng
có, mà làm cho họ an trụ bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật; lại vì hữu tình mà
giảng nói Thánh pháp thù thắng có thể ra khỏi sanh tử, khiến cho được quả Dự
lưu, cho đến chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề?
Phật bảo:
- Này Xá lợi Tử! Khi các đại Bồ tát
hành sâu Bát Nhã, đối với các hữu tình, thật chẳng có chỗ đắc. Vì sao? Này Xá
lợi Tử! Vì khi các đại Bồ tát ấy hành sâu Bát Nhã, chẳng thấy chút hữu tình nào
có thể đắc, chỉ có thế tục giả gọi là hữu tình. Khi các đại Bồ tát hành sâu Bát
Nhã, an trụ nhị đế, vì các hữu tình mà giảng nói chánh pháp. Thế nào gọi là nhị
đế? Một là thế tục đế. Hai là thắng nghĩa đế. Trong hai đế, tuy hiển
bày hữu tình đều chẳng thể được, nhưng khi các đại Bồ tát hành sâu Bát Nhã,
phương tiện thiện xảo, vì các hữu tình mà tuyên nói chánh pháp, khiến cho các
hữu tình nghe chánh pháp rồi, rõ biết ở trong hiện pháp còn chẳng thể đắc ngã,
huống là sẽ đắc sở cầu là quả chứng.
Như vậy, Xá lợi Tử! Khi các đại Bồ
tát hành sâu Bát Nhã, phương tiện thiện xảo, tuy vì hữu tình tuyên nói chánh
pháp, khiến tu chánh hạnh, để chứng chánh quả, nhưng tâm của vị ấy hoàn toàn
không thấy có sở đắc. Vì đã thấu đạt tất cả pháp đều bất khả đắc.
Khi ấy, cụ
thọ Xá lợi Tử lại bạch Phật:
- Bạch Thế
Tôn! Các đại Bồ tát ấy, tuy đối với các pháp, chẳng đắc nhất tánh, chẳng đắc dị
tánh, chẳng đắc tổng tánh, chẳng đắc biệt tánh, nhưng mặc giáp đại công đức như vậy. Do mặc
giáp đại công đức như vậy, nên chẳng lưu chuyển ở cõi Dục, chẳng lưu chuyển ở
cõi Sắc, chẳng lưu chuyển ở cõi Vô sắc, chẳng lưu chuyển ở cõi hữu vi, chẳng
lưu chuyển ở cõi vô vi. Tuy giáo hóa hữu tình, làm cho ra khỏi ba cõi, nhưng đối
với hữu tình, hoàn toàn không có sở đắc; cũng lại chẳng đắc sự an lập hữu tình.
Vì sự an lập hữu tình chẳng thể nắm bắt được nên không buộc không mở. Do không
buộc không mở nên không nhiễm không tịnh; vì không nhiễm không tịnh nên chẳng
khá rõ biết các thú sai khác; vì chẳng khá rõ biết các thú sai khác nên không
nghiệp, không phiền não; vì không nghiệp không phiền não nên cũng không bị quả
báo. Đã không bị quả báo thì làm sao biết được có ngã và hữu tình lưu chuyển
các thú, hiện ở ba cõi, đủ các loại sai khác?
Phật bảo:
- Này Xá lợi
Tử! Đúng vậy! Đúng như ông nói. Nếu các hữu tình trước có sau không thì Bồ tát,
chư Phật đều có nhầm lẫn. Nếu các cõi sanh tử trước có sau không thì Bồ tát,
chư Phật cũng có nhầm lẫn. Trước không sau có cũng như vậy. Cho nên, này Xá lợi
Tử! Dù Phật có xuất hiện ở đời hay không xuất hiện ở đời thì pháp tướng thường
trụ, chơn như, pháp giới, tánh chẳng hư vọng trọn không thay đổi. Vì tất cả
pháp, pháp tánh, pháp giới, pháp trụ, pháp định, chơn như, thật tế, tánh chẳng
hư vọng, tánh chẳng đổi khác đều như hư không. Trong ấy, còn không có ngã v.v…
có thể đắc, huống nữa là có các pháp như sắc, thọ, tưởng v.v… có thể đắc. Đã
không có các pháp có thể đắc, thì lẽ nào có các cõi sanh tử. Các cõi sanh tử đã
chẳng thể đắc thì lẽ nào có sự thành thục hữu tình, khiến cho họ được giải
thoát! Chỉ dựa vào thế tục mà giả nói là có.
Này Xá lợi Tử! Từ Phật quá khứ, các
đại Bồ tát nghe tất cả pháp tự tánh đều không, sau khi nghe xong, đại Bồ tát
này buộc niệm tư duy như thật, vì giải thoát cho các hữu tình điên đảo chấp
trước, mà cầu hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Trong khi cầu hướng Vô Thượng
Chánh Đẳng Bồ đề, đại Bồ tát chẳng nghĩ rằng: Đối với pháp này, ta đã, hay sẽ
được, khiến có thể dẫn dắt hữu tình kia vượt qua chỗ chấp trước mà thoát khỏi các
khổ sanh tử.
Này Xá lợi Tử! Vì giải thoát cho các
hữu tình thoát khỏi điên đảo chấp trước, các đại Bồ tát ấy mặc giáp bị công đức
đại thệ trang nghiêm, dũng mãnh tinh cần chơn chánh, không luyến ái, không thối
bỏ Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, không còn do dự đối với Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ
đề, nghĩa là ta sẽ chứng được hay không chứng được! Chỉ chánh niệm rằng: Ta
nhất định sẽ chứng Vô thượng Bồ đề, làm lợi ích chơn thật cho các hữu tình,
nghĩa là làm cho họ thoát khỏi mê lầm điên đảo, thoát khỏi sự luân hồi các cõi,
thọ khổ sanh tử.
Này Xá lợi Tử! Các đại Bồ tát tuy
cởi bỏ mê lầm điên đảo cho các hữu tình, thoát khỏi các cõi sanh tử, nhưng
không có sở đắc, chỉ dựa vào thế tục mà nói có. Như nhà ảo thuật, hoặc đệ tử
của ông ta dựa vào thuật Đế võng (Phạm thiên), hóa làm vô lượng trăm ngàn
ức các loài hữu tình, lại hóa làm đủ loại thức ăn thượng diệu, bố thí cho hữu
tình đều được no đủ. Làm việc ấy xong, huyễn sư xướng rằng: Ta đã được phước tụ
rộng lớn.
Này Xá lợi Tử! Ý ông nghĩ sao? Huyễn
sư ấy, hoặc đệ tử của ông ta, thật có làm cho hữu tình no đủ không?
Xá lợi Tử đáp:
- Không. Bạch Thế Tôn!
Phật bảo:
- Này Xá lợi Tử! Các đại Bồ tát cũng
lại như vậy. Từ lúc mới phát tâm, vì muốn làm lợi ích cho các hữu tình, nên tu
hành bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. An trụ nội Không cho đến vô tánh tự tánh
Không. An trụ chơn như cho đến cảnh giới bất khả tư nghì. An trụ Thánh đế khổ,
tập, diệt, đạo. Tu hành bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo. Tu hành bốn
tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Tu hành tám giải thoát cho đến mười
biến xứ. Tu hành pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Tu hành Cực hỷ
địa cho đến Pháp vân địa. Tu hành tất cả môn Đà la ni, môn Tam ma địa. Tu hành
năm loại mắt, sáu phép thần thông. Tu hành Như Lai mười lực cho đến mười tám
pháp Phật bất cộng. Tu hành ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của bậc Đại
sĩ. Tu hành pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả. Tu hành Nhất thiết trí, Đạo
tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Viên mãn đạo đại Bồ đề của Bồ tát, thành thục
hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật.
Này Xá lợi Tử! Các đại Bồ tát tuy
làm việc ấy, nhưng đối với hữu tình và tất cả pháp, hoàn toàn không có sở đắc,
cũng chẳng nghĩ rằng: Ta đem pháp này điều phục các loài hữu tình như vậy,
khiến cho họ lìa xa điên đảo chấp trước, không còn luân hồi sanh tử các cõi.
Bấy giời cụ thọ Thiện Hiện bạch
Phật:
- Bạch Thế Tôn! Vì sao nói đạo Bồ đề
của Bồ tát, nếu các đại Bồ tát tu hành đạo này, phương tiện thiện xảo thành
thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật thì sớm chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề?
Phật bảo:
- Này Thiện Hiện! Từ lúc mới phát
tâm, các đại Bồ tát đã hành bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật; đã hành nội không
cho đến vô tánh tự tánh không; đã hành chơn như cho đến cảnh giới bất khả tư
nghì; đã hành Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo; đã hành bốn niệm trụ cho đến tám
chi Thánh đạo; đã hành bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; đã hành tám
giải thoát cho đến mười biến xứ; đã hành pháp môn giải thoát không, vô tướng,
vô nguyện; đã hành Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa; đã hành tất cả môn Đà la
ni, môn Tam ma địa; đã hành năm loại mắt, sáu phép thần thông; đã hành Như Lai
mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng; đã hành pháp không quên mất, tánh
luôn luôn xả; đã hành Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí và vô
lượng vô biên Phật pháp khác đều là đạo
Bồ đề của Bồ tát.
(Hành Bố thí Ba la mật)
Các đại Bồ tát hành đạo này, phương
tiện thiện xảo thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, sớm chứng Vô Thượng
Chánh Đẳng Bồ đề, mà không có tưởng hữu tình, tưởng cõi Phật…
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Khi các đại Bồ tát
tu hành bố thí Ba la mật, phương
tiện thiện xảo thành thục hữu tình như thế nào?
Phật bảo:
- Này Thiện Hiện! Có đại Bồ tát khi
tu hành bố thí Ba la mật phương tiện thiện xảo, tự hành bố thí, cũng khuyên
người khác hành bố thí, ân cần truyền trao dạy bảo cho người kia rằng: Các
thiện nam tử! Chớ chấp trước bố thí, nếu chấp bố thí thì sẽ lại thọ thân, nếu
lại thọ thân thì do đây mà lần lượt sẽ thọ vô lượng khổ lớn. Trong thắng nghĩa
đế hoàn toàn không có sự bố thí, cũng không có người thí, người thọ thí, vật
thí và các quả thí. Các pháp như vậy đều bản tánh không. Trong bản tánh không
không có pháp để nắm giữ. Tánh không của các pháp cũng chẳng thể nắm giữ.
Như vậy Thiện Hiện! Các đại Bồ tát
tu hành bố thí Ba la mật, tuy đối với hữu tình, tự mình hành bố thí, cũng
khuyên người khác bố thí, nhưng đối với sự bố thí, người thí, người thọ thí,
vật thí và quả thí đều chẳng thể đắc được. Bố thí Ba la mật như vậy, gọi là vô sở đắc Ba la mật. (Q.475, ĐBN)
Này Thiện Hiện! Khi đại Bồ tát ấy
đối với pháp vô sở đắc này, dùng phương tiện thiện xảo giáo hóa hữu tình, làm
cho họ trụ quả Dự lưu, hoặc quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, hoặc Độc giác Bồ
đề, hoặc hướng đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Như vậy, Thiện Hiện! Khi các đại Bồ
tát tu hành bố thí Ba la mật, thì thành thục hữu tình, làm cho được lợi ích
lớn.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ tát ấy tự
mình hành bố thí, cũng khuyên người khác hành bố thí, không khen ngợi kẻ hành
trái ngược với pháp bố thí, hoan hỷ tán dương người hành bố thí.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ tát ấy hành
bố thí như vậy rồi, thì được sanh vào nhà đại tộc Sát đế lợi, hoặc sanh vào nhà
đại tộc Bà la môn, hoặc sanh vào đại tộc Cư sĩ giàu sang, hoặc làm tiểu vương
trong một nước nhỏ, hoặc làm đại vương trong một nước lớn, hoặc làm Chuyển luân
vương trong bốn châu giàu sang tự tại. Đại Bồ tát ấy sanh vào các chỗ tôn quí
như vậy, dùng tứ nhiếp sự thu nhiếp các hữu tình. Trước là dạy cho hữu tình an
trụ bố thí, do nhân duyên bố thí này mà tâm họ được điều hòa an lành. Thứ đến làm
cho họ an trụ tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát Nhã. Lại khiến cho họ
an trụ bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Lại khiến cho họ an trụ bốn
niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo. Lại khiến cho họ an trụ pháp môn giải thoát
không, vô tướng, vô nguyện.
Đại Bồ tát ấy khiến cho các hữu tình
an trụ các thiện pháp như vậy rồi, được quả Dự lưu cho đến được quả A la hán;
hoặc dần dần chứng được Độc giác Bồ đề; hướng nhập Chánh tánh ly sanh, dần dần
tu học các địa Bồ tát, sớm hướng đến Vô Thượng Bồ đề.
Lại dạy họ rằng: Này các thiện nam!
Các ông nên phát nguyện sớm chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, làm các việc thù
thắng lợi ích cho các hữu tình. Các loài hữu tình hư vọng phân biệt, chấp chặt
các pháp hoàn toàn không có tự tánh cho là có tự tánh. Do điên đảo hư vọng chấp
có như vậy, cho nên các ông phải thường chuyên cần tinh tấn tự mình loại trừ
điên đảo, cũng khuyên người khác đoạn trừ điên đảo. Tự mình giải thoát sanh tử,
cũng làm cho người khác thoát khỏi sanh tử. Tự mình được lợi lớn, cũng làm cho
người khác được lợi lớn.
Này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát
thường nên tu hành bố thí Ba la mật
như vậy. Do tu bố thí Ba la mật, nên từ lúc mới phát tâm cho đến khi thành tựu
Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, không đọa vào cõi ác, hay nơi biên địa bần cùng. Vì
muốn làm lợi ích cho các hữu tình, nên đời đời sanh trong cõi người làm Chuyển
luân vương, giàu sang tự tại, được nhiều lợi ích. Vì sao? Vì tùy theo uy thế
của nghiệp mà được quả như vậy. Nghĩa là khi Bồ tát đó làm Chuyển luân vương,
thấy kẻ ăn xin đến, liền nghĩ rằng: Vì việc gì mà ta lưu chuyển trong sanh tử,
làm Chuyển luân vương. Trụ trong sanh tử, lẽ nào ta chẳng làm lợi ích cho các
hữu tình mà được quả thù thắng ấy. Ngoài việc này, không làm việc khác! Nghĩ
vậy xong, Bồ tát bảo kẻ ăn xin: Ngươi cần gì, ta sẽ thí cho. Khi ngươi lấy vật
như lấy vật của mình, ngươi chớ nghĩ là ta cho ngươi. Vì sao? Vì ta nhờ các
ngươi mà được lợi ích, được thọ thân đây đầy đủ tài vật, nên tài vật đây là do
các ngươi mà có. Các ngươi cứ tùy ý lấy dùng, hoặc đem cho người khác, chớ có
nghi ngại.
Khi đại Bồ tát thương xót các hữu
tình như vậy, thì sẽ sớm được viên mãn
vô duyên đại bi. Do đại bi đây sớm viên mãn, nên tuy luôn làm lợi ích cho
vô lượng hữu tình, nhưng đối với hữu tình, hoàn toàn không có sở đắc, cũng lại
chẳng được quả thù thắng. Bồ tát rõ biết như vậy, nhưng vì thế tục mà nói làm
đủ loại việc lợi ích cho các hữu tình. Lại như thật biết các việc làm ấy đều
như tiếng vang, tuy hiện tương tự có nhưng không chơn thật. Do đây, đối với tất
cả pháp, Bồ tát đều không nắm lấy.
Này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát
thường nên tu hành bố thí Ba la mật như vậy, đó là bố thí cho hữu tình, song
hoàn toàn không nhớ nghĩ. Thậm chí đến cả xương thịt của mình, Bồ tát còn thí,
huống nữa là xả các tài vật bên ngoài! Bồ tát bố thí các tài vật, nhiếp thọ hữu
tình, khiến cho sớm được giải thoát sanh, lão, bệnh, tử.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Những tài vật nào
nhiếp thọ hữu tình, khiến cho sớm được giải thoát sanh, lão, bệnh, tử?
Phật bảo:
- Này Thiện Hiện! Đó là “tài vật” bố
thí cho đến Bát nhã Ba la mật; hoặc tài vật nội không cho đến vô tính tự tính
không; hoặc tài vật chơn như cho đến cảnh giới bất khả tư nghì; hoặc tài vật
Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo; hoặc tài vật bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh
đạo; hoặc tài vật bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; hoặc tài vật tám
giải thoát cho đến mười biến xứ; hoặc tài vật pháp môn giải thoát không, vô
tướng, vô nguyện; hoặc tài vật Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa; hoặc tài vật
Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa; hoặc tài vật tất cả môn Đà la ni, môn Tam ma
địa; hoặc tài vật ngũ nhãn, lục thần thông; hoặc tài vật Như Lai mười lực cho
đến mười tám pháp Phật bất cộng; hoặc tài vật pháp không quên mất, tánh luôn
luôn xả; hoặc tài vật Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng tri; hoặc
tài vật quả Dự lưu cho đến Độc giác; hoặc tài vật tất cả Bồ tát hạnh; hoặc tài
vật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. (Tất cả
pháp Phật đều là tài vật để làm pháp thí)
Này Thiện Hiện! Các tài vật thiện
pháp như vậy nhiếp thọ hữu tình, làm cho sớm được giải thoát sanh, lão, bệnh,
tử.
(Thọ trì tịnh giới Ba la mật)
Lại nữa Thiện Hiện! Các đại Bồ tát
an trụ bố thí Ba la mật, tự mình hành bố thí, cũng khuyên các hữu tình bố thí
xong; nếu thấy hữu tình hủy phạm tịnh giới, thì vô cùng thương xót, dạy họ
rằng: Nay các ông nên thọ trì tịnh giới,
ta sẽ thí cho các ông đủ loại tài vật, khiến cho không còn thiếu thốn. Do các
ông thiếu thốn các đồ dùng, tài vật, nên hủy phạm tịnh giới, làm các nghiệp ác.
Ta sẽ cung cấp đầy đủ tài vật tùy theo nhu cầu của các ông. Các ông an trụ luật
nghi giới rồi, dần dần làm cho khổ cạn mỏng, nương vào pháp tam thừa, tùy theo
pháp thích hợp với mình mà được thoát ly sanh tử, đạt đến chỗ an vui rốt ráo.
Này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát ấy an
trụ Ba la mật, tự thọ trì tịnh giới, cũng khuyên người khác thọ trì tịnh giới,
không tán dương kẻ làm trái nghịch với pháp thọ trì tịnh giới, hoan hỷ tán thán
người thọ trì tịnh giới.
Như vậy Thiện Hiện! Các đại Bồ tát
tu hành bố thí Ba la mật, khuyên các hữu tình an trụ tịnh giới, giải thoát tất
cả khổ sanh, lão, bệnh, tử, chứng được an lạc lợi ích rốt ráo.
(Nên tu an nhẫn Ba la mật)
Lại nữa Thiện Hiện! Các đại Bồ tát
an trụ bố thí Ba la mật, nếu thấy hữu tình oán giận lẫn nhau, thì nên thương
xót dạy họ như vầy: Vì nhân duyên gì mà các ông oán giận lẫn nhau? Nếu các ông
vì sự thiếu thốn, tương duyên lưu chuyển làm các điều ác thì nên theo ta mà
đòi, ta sẽ giúp cho. Những tài vật gì các ông cần dùng, ta đều thí cho, khiến
cho không còn thiếu thốn. Các ông không nên oán hận lẫn nhau, mà nên tu an nhẫn, phát khởi tâm từ.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ tát ấy an trụ
bố thí Ba la mật, khuyên các hữu tình tu an nhẫn xong, vì muốn họ kiên cố nên
dạy thêm như vầy: Nhân duyên sân hận hoàn toàn không cố định chắc thật, đều do
tâm phân biệt hư vọng sanh ra, vì tất cả pháp đều bản tánh không. Đối với việc
không thật, vì duyên gì mà các ông vọng khởi sân hận, sát hại lẫn nhau. Các ông
chớ duyên vào tâm phân biệt hư vọng mà oán hận lẫn nhau, tạo các ác nghiệp sẽ
đọa địa ngục, bàng sanh, cõi quỉ và cõi ác khác thọ các khổ não. Khổ ấy đớn
đau, sắc bén dữ dội, cắt xé thân tâm thật khó nhẫn được. Các ông chớ chấp việc
chẳng thật có, mà oán hận nhau, tạo nghiệp ác ấy. Do nghiệp ác đây mà thân
người hạ liệt còn khó có được, huống nữa là được sanh lên trời, hoặc được gặp
Phật, nghe chánh pháp, tu hành theo lời Phật dạy.
Các ông nên biết, thân người khó
được, Phật xuất hiện ở đời khó gặp, sanh được niềm tin lại còn khó hơn. Nay các
ông đã đủ các việc ấy, chớ vì sân nhuế mà làm mất cơ hội quí báu ấy. Nếu để mất
cơ hội thì chẳng thể tìm cầu được. Cho nên các ông đối với các hữu tình, chớ
khởi sân nhuế, nên tu an nhẫn.
Này Thiện Hiện! đại Bồ tát ấy an trụ
bố thí Ba la mật, tự mình hành an nhẫn, cũng khuyên người khác hành an nhẫn,
không tán dương kẻ làm trái ngược với pháp hành an nhẫn, hoan hỷ tán thán người
hành an nhẫn.
Như vậy Thiện Hiện! Các đại Bồ tát
ấy an trụ bố thí Ba la mật, khuyên các hữu tình tu hành an nhẫn. Các loài hữu
tình do triển chuyển ấy, dần dần nương vào tam thừa mà được giải thoát.
(Tu tinh tấn Ba la mật)
Lại nữa Thiện Hiện! Các đại Bồ tát
ấy an trụ bố thí Ba la mật, thấy các hữu tình thân tâm biếng nhác, mà vô cùng
thương xót, dạy bảo như vầy: Vì duyên gì mà các ông lại biếng nhác, không
chuyên cần tinh tấn tu các thiện
pháp?
Những hữu tình kia thưa rằng: Chúng
tôi thiếu thốn tài vật, nên đối với các việc thiện, chúng tôi chẳng chuyên cần
tu tập được.
Bồ tát liền bảo: Ta có thể thí cho
các ông những tài vật mà các ông thiếu thốn. Các ông nên chuyên cần tu tập các
pháp bố thí, tịnh giới, an nhẫn v.v…
Các hữu tình được Bồ tát ấy thí cho
các tài vật thì không còn thiếu thốn, liền phát khởi thân tâm tinh tấn, tu các
thiện pháp sớm được viên mãn. Do các thiện pháp được viên mãn, nên dần dần phát
sanh các pháp vô lậu. Nhờ pháp vô lậu nên được quả Dự lưu, hoặc quả Nhất lai,
Bất hoàn, A la hán, hoặc Độc giác Bồ đề, hoặc hướng nhập các địa Bồ tát, dần
dần chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát ấy an
trụ bố thí Ba la mật, tự mình hành tinh tấn, cũng khuyên người khác hành tinh
tấn, không tán dương kẻ làm trái ngược với pháp hành tinh tấn, hoan hỷ tán thán
người hành tinh tấn.
Như vậy Thiện Hiện! Các đại Bồ tát
ấy an trụ bố thí Ba la mật, làm cho các hữu tình sớm lìa xa biếng nhác, chuyên
cần tu các thiện pháp, sớm được giải thoát, lại có khả năng làm lợi lạc cho các
hữu tình.
(Tu tĩnh lự Ba la mật)
Lại nữa Thiện Hiện! Các đại Bồ tát
ấy an trụ bố thí Ba la mật, thấy các hữu tình các căn tán loạn, quên mất chánh
niệm, thì rất thương xót, dạy bảo như vầy: Vì duyên gì các ông không tu tĩnh lự, làm cho tán loạn, thất niệm,
trầm luân sanh tử, thọ khổ vô cùng?
Những hữu tình kia đáp: Chúng tôi
thiếu thốn tài vật, nên đối với tĩnh lự, chúng tôi không chuyên cần tu tập
được.
Bồ tát liền bảo: Ta có thể thí cho
các ông những tài vật mà các ông thiếu. Từ nay các ông không nên phát khởi tầm
tứ hư vọng, phan duyên trong ngoài, nhiễu loạn tâm mình.
Các hữu tình được Bồ tát ấy thí cho
tài vật, không còn thiếu thốn, liền có khả năng đoạn trừ tầm tứ hư vọng, nhập
định sơ thiền, dần dần lại nhập đệ nhị, đệ tam, đệ tứ thiền; nương vào các tĩnh
lự này, lại dẫn phát bốn loại vô lượng từ, bi, hỷ, xả. Tĩnh lự, vô lượng làm
chỗ nương tựa, lại có thể dẫn phát bốn định vô sắc. Tĩnh lự, vô lượng, vô sắc
điều hòa tâm khiến cho nhu nhuyến rồi, tu bốn niệm trụ, triển chuyển cho đến
tám chi Thánh đạo. Do đây lại có thể dẫn phát các thiện pháp thù thắng không,
vô tướng, vô nguyện… Tùy theo pháp thích hợp với mình mà được quả tam thừa.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ tát ấy an trụ
bố thí Ba la mật, tự mình tu tĩnh lự, cũng khuyên người khác tu tĩnh lự, không
tán dương kẻ làm trái ngược với pháp tu tĩnh lự, hoan hỷ tán thán người tu tĩnh
lự.
Như vậy Thiện Hiện! Các đại Bồ tát
ấy an trụ bố thí Ba la mật, khuyên các hữu tình sớm lìa tán loạn, tu các tĩnh
lự, được lợi lạc lớn.
(Tu Bát nhã Ba la mật)
Lại nữa Thiện Hiện! Các đại Bồ tát
ấy an trụ bố thí Ba la mật, thấy các hữu tình ngu si điên đảo, thì rất thương
xót dạy bảo rằng: Vì duyên gì các ông không tu diệu tuệ(tu Bát Nhã),
ngu si điên đảo thọ khổ vô cùng?
Những hữu tình ấy đáp: Chúng tôi
thiếu tài vật, nên đối với diệu tuệ, chúng tôi không chuyên cần tu được. Bồ tát
liền bảo: Tôi có thể thí cho các ông các vật mà các ông thiếu thốn. Các ông nên
nhận nó. Trước tu bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự được viên mãn, rồi
quán sát kỹ thật tướng các pháp, tu hành Bát nhã Ba la mật. Nghĩa là khi ấy, nên quán sát kỹ có một chút
pháp nào có thể nắm giữ được chăng? Ngã, hữu tình, cho đến tri giả,
kiến giả có thể nắm giữ được chăng? Sắc cho đến thức có thể nắm giữ được chăng?
Mười hai xứ cho đến mười tám giới có thể nắm giữ được chăng? Nhãn xúc cho đến ý
xúc có thể nắm giữ được chăng? Nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ, cho đến ý
xúc làm duyên sanh ra các thọ có thể nắm giữ được chăng? Địa giới cho đến thức
giới có thể nắm giữ được chăng? Nhân duyên cho đến tăng thượng duyên có thể nắm
giữ được chăng? Các pháp từ duyên sanh ra có thể nắm giữ được chăng? Vô minh
cho đến lão tử có thể nắm giữ được chăng? Dục giới, sắc giới, vô sắc giới có
thể nắm giữ được chăng? Bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật có thể nắm giữ được
chăng? Nội Không cho đến vô tính tự tính Không có thể nắm giữ được chăng? Chơn
như cho đến cảnh giới bất khả tư nghì có thể nắm giữ được chăng? Nói rộng ra,
tất cả pháp Phật có thể nắm giữ được chăng?
Các hữu tình ấy đã được tài vật,
không còn thiếu thốn, nương vào lời Bồ tát đã dạy, trước tu tập bố thí, tịnh
giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự được viên mãn rồi, lại quán sát kỹ thật tướng
các pháp, tu hành Bát nhã Ba la mật. Khi quán sát kỹ các pháp
như trước đã nói, thấu rõ thật tánh các pháp đều không thể đắc. Vì không thể
đắc nên không chấp thủ. Do không chấp thủ nên không thấy chút pháp nào có sanh
có diệt, có nhiễm có tịnh. Khi đối với các pháp, các hữu tình ấy không nắm giữ,
nên đối với tất cả chỗ, không khởi phân biệt. Nghĩa là không phân biệt, đây là
địa ngục, bàng sanh, cõi quỷ, hoặc A tu la, hoặc trời, hoặc
người; cũng không phân biệt đây là trì giới, đây là phạm giới; cũng không phân
biệt đây là Dị sanh, đây là bậc Thánh, đây là Dự lưu, đây là Nhất lai, là Bất
hoàn, A la hán, đây là Độc giác, đây là Bồ tát, đây là Phật, đây là hữu vi, đây
là vô vi. Do hữu tình kia không phân biệt như vậy nên theo pháp thích hợp với
mình, mà dần dần chứng được Niết bàn của tam thừa, rốt ráo an vui.
Này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát ấy an
trụ bố thí Ba la mật, tự mình tu Bát Nhã, cũng khuyên người khác tu Bát Nhã,
không khen ngợi kẻ làm trái ngược với pháp tu Bát Nhã, hoan hỷ tán thán người
tu Bát Nhã.
Như vậy Thiện Hiện! Các đại Bồ tát
an trụ bố thí Ba la mật, khuyên các hữu tình chuyên cần tu Bát Nhã, khiến cho
được lợi ích an lạc rốt ráo.
Lại nữa Thiện Hiện! Các đại Bồ tát
an trụ bố thí, tự mình hành bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật, cũng khuyên người
khác hành bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật rồi, lại thấy hữu tình luân hồi các
cõi, thọ vô lượng khổ chưa được giải thoát. Vì muốn làm cho họ thoát khỏi sanh
tử khổ, nên trước hết Bồ tát dùng đủ loại tài vật để làm lợi ích, sau đó đem
các pháp vô lậu xuất thế, phương
tiện thiện xảo mà nhiếp hóa họ.
Các hữu tình ấy được tài vật rồi,
không còn thiếu thốn, thân tâm quyết định mạnh mẽ, có thể an trụ nội không cho
đến vô tánh tự tánh không; cũng có thể an trụ chơn như cho đến cảnh giới bất
khả tư nghì; nói rộng ra cũng có thể an trụ tất cả pháp Phật; cũng có thể tu vô
lượng vô biên các Phật pháp khác.
Các hữu tình ấy do được các pháp vô
lậu nhiếp thọ, nên giải thoát sanh tử, chứng được Niết bàn, an lạc cứu cánh.
Này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát ấy an
trụ bố thí Ba la mật, tự mình hành đủ loại pháp vô lậu thù thắng, cũng khuyên
người khác hành đủ loại pháp vô lậu thù thắng, không tán dương kẻ làm trái
ngược với pháp hành đủ loại pháp vô lậu thù thắng, hoan hỷ tán thán người hành
đủ loại pháp vô lậu thù thắng.
Như vậy Thiện Hiện! Các đại Bồ tát
ấy an trụ bố thí Ba la mật, dùng pháp vô lậu nhiếp thọ hữu tình, khiến cho họ
giải thoát các khổ sanh tử, chứng được Niết bàn thường vui rốt ráo, cũng có thể
vì người khác làm lợi ích lớn.
Lại nữa Thiện Hiện! Các đại Bồ tát
an trụ bố thí Ba la mật, thấy các hữu tình không có nơi nương tựa, thiếu thốn
đủ điều, nhiều khổ não, liền sanh tâm thương yêu, với những lời an ủi: Ta có
thể vì các ngươi mà làm nơi nương tựa, khiến cho các ngươi thoát khỏi các việc
thọ khổ. Với các vật cần dùng như: Thức ăn, thức uống, y phục, đồ nằm, xe cộ,
nhà cửa, hương hoa, kỹ nhạc, đèn sáng, tài bảo, người hầu và các loại tài vật
cần dùng khác mà các ngươi cần, các ngươi cứ tùy ý đòi, chớ có nghi ngại. Ta sẽ
theo ý các ngươi mà cho tất cả, khiến các ngươi được lợi ích an lạc mãi mãi.
Khi các ngươi nhận vật ta bố thí,
thì nên nghĩ đó là vật của mình, chớ có nghĩ tưởng khác. Vì sao? Vì nhiều đời
nhiều kiếp, ta tích tụ được tài vật, được lợi lạc, chỉ vì nhờ các ngươi. Nay
các ngươi cứ tự nhiên, đối với tài vật này, tùy ý lấy dùng. Thọ nhận rồi, trước
hết các ngươi nên tự dùng cho chơn chánh, tu
tập các nghiệp thiện; sau đó lấy tài vật này thí cho các hữu tình, cũng làm
cho họ tu các nghiệp thiện. Nghĩa là khiến cho tu bố thí cho đến Bát nhã Ba la
mật; cũng khiến cho an trụ nội không cho đến vô tính tự tính không; cũng khiến
cho an trụ chơn như cho đến cảnh giới bất khả tư nghì; nói rộng ra cũng khiến
cho an trụ tất cả pháp Phật; cũng khiến cho tu vô lượng vô biên các Phật pháp
khác.
Này Thiện Hiện! Các đại Bồ tát ấy
chỉ dạy cho các hữu tình như vậy rồi, tùy theo pháp mà họ thích hợp, lại khiến
cho họ tu tập các pháp vô lậu, trụ quả Dự lưu, hoặc quả Nhất lai, quả Bất hoàn,
A la hán, hoặc Độc giác Bồ đề hoặc Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Như vậy Thiện Hiện! Các đại Bồ
tát tu hành bố thí Ba la mật, phương tiện thiện xảo thành thục hữu tình, làm cho
họ thoát khỏi cõi ác sanh tử, chứng đắc Niết bàn của tam thừa, làm lợi ích cho
mình, cho người, rốt ráo an lạc.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! đại Bồ tát tu hành
tịnh giới Ba la mật và đạo đại Bồ đề của Bồ tát, phương tiện thiện xảo thành
thục hữu tình như thế nào?
Phật bảo:
- Này Thiện Hiện! Khi các đại Bồ tát
tu hành tịnh giới Ba la mật, phương tiện thiện xảo, thấy các hữu tình thiếu
thốn tài vật, phiền não mạnh mẽ, chẳng thể tu các thiện pháp thì liền bảo rằng:
Các ông nếu vì thiếu thốn tài vật mà chẳng thể tu thiện, thì ta sẽ thí cho các
loại tài vật. Các ông chớ khởi phiền não ác nghiệp, nên tu tập các pháp thiện
như bố thí v.v… Đại Bồ tát ấy an trụ tịnh giới Ba la mật, nên nhiếp thọ các
loài hữu tình như vầy: Đối với người xan tham, nên khiến cho họ tu bố thí, không còn luyến tiếc thân
mạng, tiền của. Đối với người phá giới, khiến cho họ tu tịnh giới, khéo thọ trì thực hành mười thiện nghiệp đạo, trụ
luật nghi giới, không khuyết, không mất, không nhơ không tạp, cũng không chấp
thủ. Đối với người sân nhuế, khiến cho họ tu
an nhẫn. Đối với người biếng nhác, khiến cho họ tu tinh tấn. Đối với người tâm tán loạn, khiến cho họ tu tĩnh lự. Đối với người ngu si, khiến
cho họ tu diệu tuệ. Đối với người
chấp các pháp, khiến cho họ tu pháp
Không. Đối với người không có các loại công đức thù thắng khác, khiến cho
họ tu học đầy đủ.
Như vậy Thiện Hiện! Các đại Bồ tát
an trụ tịnh giới Ba la mật, thành thục hữu tình, phương tiện thiện xảo, khiến
cho họ thoát khỏi cõi ác sanh tử, chứng đắc Niết bàn của tam thừa, làm lợi ích
cho mình, cho người, rốt ráo an lạc.
Thiện Hiện nên biết, Các đại Bồ tát
tu hành bốn Ba la mật khác (phương tiện
thiện xảo, nguyện, lực, trí Ba la mật), và đạo Bồ đề của Bồ tát khác, mỗi
mỗi đều có thể làm phương tiện thiện xảo, dùng tất cả thiện pháp thành thục hữu
tình, khiến cho họ thoát khỏi cõi ác sanh tử, chứng đắc Niết bàn của tam thừa,
làm lợi ích mình người, rốt ráo an lạc.
Mỗi mỗi rộng nói như pháp bố thí đã
lược nói ở trên. (Q.475, ĐBN)
Thích nghĩa:
(1). Đạo Bồ
đề hay đạo xuất thế gian (出世間道; C:
chūshìjiāndào; J: shusse-kendō)đưa đến giác ngộ. Đạo giác ngộ được hành trì để
tăng trưởng đạo tâm: Đó là Kiến đạo (見道), Tu đạo (修道) và Cứu cánh đạo (究竟道). (Từ điển Đạo Uyển).
(2). Vô
duyên đại bi: Vô duyên là không
duyên cớ, không có nguyên nhân; bi (悲; S, P: karuṇā): Lòng thương yêu, đau xót đối
với chúng sinh; thấy chúng sanh khổ là mình khổ, thấy chúng sanh đau là mình
đau, một trong bốn phạm trú quan trọng của Chư Bồ Tát và Chư Phật. Lòng thương
yêu này trải rộng vô phân biệt đến tất cả các loài Hữu tình, xuất phát từ trí
huệ nhận ra rằng tất cả là một, là biểu hiện cụ thể của trí huệ đạt được qua
Giác ngộ (s, p: bodhi). Vì vậy, lòng bi luôn luôn cùng đi với Trí huệ (s:
prajñā). Người ta cho rằng đức Quán Thế Âm Bồ Tát là hiện thân của lòng Bi và
vì vậy, Ngài cũng mang danh hiệu Đại Bi (s: mahākaruṇika). Vô duyên đại bi có
nghĩa là lòng thương yêu vô bờ bến, vô duyên cớ, vô điều kiện của các bậc đại
tâm đối với sự đau khổ của các loài hữu tình.
Sơ giải:
Phần đầu
phẩm “Vô Khuyết”, Hội thứ II nói về sự nhiếp thọ tất cả các pháp, tư tưởng
không được khúc chiết cho lắm, nhưng ai đọc cũng có thể hiểu, nên không cần nêu
ra đây.
Phần sau của
phẩm này lại tương đương phẩm “Thành Thục Hữu Tình”, phần cuối quyển 390 cho
đến phần đầu quyển 393, Hội thứ I, ĐBN: Thuyết về chư Bồ tát dùng phương tiện
thiện xảo thập Ba la mật để thành thục hữu tình. Hai phẩm tuy có tên khác mà
giáo nghĩa không khác. Chúng ta đã tụng quá nhiều về sáu pháp Ba la mật này
rồi. Vì đây là phương tiện hữu hiệu nhất giúp Bồ tát để cầu quả Vô Thượng Chánh
Đẳng Bồ đề, hóa độ chúng sanh. Không có phương tiện này thì không có Bồ tát,
không có Phật, cũng không có Phật đạo, không có Đại thừa. Nói như vậy, mới thấy
tánh cách quan trọng của sáu pháp đáo bỉ ngạn này! Kinh thuyết rõ ràng. Vả lại, các
giáo pháp của toàn thể phẩm này cũng đã thuyết rải rác trong Hội thứ I và Hội
thứ II rồi, nên không có gì trở ngại trong việc tiếp thu. Tuy nhiên, nếu tụng đọc có
thắc mắc, Quý vị có thể quay lại phẩm “Thành Thục Hữu Tình”, Hội thứ I, xem
lại.
---o0o---