Thứ Tư, 30 tháng 6, 2021

Hội thứ IV - 25. Phẩm “Tấn Tốc”

 

XXV. PHẨM “TẤN TỐC”

 

(Phần cuối Q.552 đến phần đầu Q.553, Hội thứ IV, TBBN).

 

Tóm lược:

 

Bấy giờ cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Kính bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ tát vì tận nên học, là học Nhất thiết trí trí phải không? Nếu đại Bồ tát này vì chẳng sanh nên học, là học Nhất thiết trí trí phải không? Nếu đại Bồ tát này vì diệt nên học, là học Nhất thiết trí trí phải không? Nếu đại Bồ tát này vì chẳng khởi nên học, là học Nhất thiết trí trí phải không? Nếu đại Bồ tát này vì phi hữu nên học, là học Nhất thiết trí trí phải không? Nếu đại Bồ tát này vì xa lìa nên học, là học Nhất thiết trí trí phải không? Nếu đại Bồ tát này lìa nhiễm nên học, là học Nhất thiết trí trí phải không? Nếu đại Bồ tát này vì hư không nên học, là học Nhất thiết trí trí phải không? Nếu đại Bồ tát này vì pháp giới nên học, là học Nhất thiết trí trí phải không? Nếu đại Bồ tát này vì Niết bàn nên học, là học Nhất thiết trí trí phải không?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Nếu đại Bồ tát khi học như vậy là chẳng phải học Nhất thiết trí trí.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Do duyên nào đại Bồ tát khi học như vậy là chẳng phải học Nhất thiết trí trí?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ý ngươi thế nào? Phật chứng chơn như rất viên mãn, nên được gọi danh Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Như vậy, chơn như có thể nói là tận, cho đến có thể nói là Niết bàn chăng?

Thiện Hiện bạch:

- Thưa không! Bạch Thế Tôn. Vì sao? Vì chơn như lìa tướng, chẳng thể nói là tận, cho đến chẳng thể nói là Niết bàn.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Thế nên đại Bồ tát khi học như vậy là chẳng phải học Nhất thiết trí trí.

Thiện Hiện nên biết, nếu đại Bồ tát chẳng vì tận nên học là học Nhất thiết trí trí. Cho đến chẳng vì Niết bàn nên học, là học Nhất thiết trí trí. Vì sao? Vì Phật chứng chơn như rất viên mãn nên được danh hiệu Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Khi ấy, chứng được chơn như chẳng tận cho đến Niết bàn của Nhất thiết trí trí, nên đại Bồ tát khi học như vậy là học Nhất thiết trí trí.

Thiện Hiện nên biết! Nếu đại Bồ tát khi học như vậy chính là học phương tiện thiện xảo của Bát nhã Ba la mật, là học Phật địa, là học mười lực, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng và vô lượng, vô biên Phật pháp khác, tức là đã học Nhất thiết trí trí.

Thiện Hiện nên biết! Nếu đại Bồ tát khi học như vậy là đạt đến cứu cánh bờ kia của tất cả sự học.

Thiện Hiện nên biết! Nếu đại Bồ tát khi học như vậy thì không bị tất cả Thiên ma và ngoại đạo hàng phục được.

Thiện Hiện nên biết! Nếu đại Bồ tát khi học như vậy thì mau đắc được pháp tánh Bất thối của Bồ tát.

Thiện Hiện nên biết! Nếu đại Bồ tát khi học như vậy thì mau trụ địa vị Bất thối chuyển của Bồ tát.

Thiện Hiện nên biết! Nếu đại Bồ tát khi học như vậy thì mau an tọa tòa Bồ đề vi diệu.

Thiện Hiện nên biết! Nếu đại Bồ tát khi học như vậy chính là tự mình đi theo con đường của Như Lai Tổ phụ.

Thiện Hiện nên biết! Nếu đại Bồ tát khi học như vậy thì chính là học pháp làm chỗ hộ trì cho các hữu tình, là học tánh đại từ, đại bi vậy.

Thiện Hiện nên biết! Nếu đại Bồ tát khi học như vậy thì chính là học ba lần vận chuyển xe pháp với mười hai hành tướng Vô thượng.

Thiện Hiện nên biết! Nếu đại Bồ tát khi học như vậy thì chính là học làm cho trăm ngàn vạn ức cảnh giới hữu tình được ở nơi Niết bàn cứu cánh an lạc.

Thiện Hiện nên biết! Nếu đại Bồ tát khi học như vậy thì chính là học không đoạn tuyệt chủng tánh Như Lai.

Thiện Hiện nên biết! Nếu đại Bồ tát khi học như vậy chính là học mở cửa cam lồ chư Phật.

Thiện Hiện nên biết! Nếu đại Bồ tát khi học như vậy chính là học đặt để vô lượng, vô số, vô biên hữu tình an trụ pháp Tam thừa.

Thiện Hiện nên biết! Nếu đại Bồ tát khi học như vậy chính là học thị hiện cảnh giới vô vi chơn thật, hoàn toàn vắng lặng cho tất cả hữu tình.

Như vậy là học Nhất thiết trí trí.

Thiện Hiện nên biết! Việc học như vậy, hữu tình hèn kém chẳng thể học được. Vì sao? Vì sự học như vậy muốn cứu vớt hết thảy khổ lớn sanh tử cho tất cả hữu tình, muốn đặt yên tất cả hữu tình trong cảnh giới tốt đẹp, muốn cùng hữu tình đồng hưởng thọ lợi ích an vui hoàn toàn, muốn cùng hữu tình đồng chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, muốn cùng hữu tình đồng học diệu hạnh tự lợi, lợi tha như hư không rộng lớn không cùng tận.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát khi học như vậy thì quyết định không đọa trong tất cả cảnh giới địa ngục, ngạ quỷ, A tu la v.v...; quyết định không sanh chốn biên địa hạ tiện, tà kiến; quyết định không sanh trong nhà Chiên đà la, nhà gánh thây chết và các hạng bần cùng, hạ tiện, bất luật nghi; quyết định chẳng sanh trong nhà công xảo kỹ nhạc, buôn bán tạp uế.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát khi học như vậy thì sanh ra ở chỗ nào, hoàn toàn không bị mù, điếc, câm, ngọng, chân tay cong queo, căn chi khiếm khuyết, gù lưng, lác hủi, ung thư, điên cuồng, trĩ, lậu, ghẻ dữ, thân không quá cao, quá lùn, cũng không đen đủi và không có các bệnh ghẻ nhơ nhớp.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát khi học như vậy thì đời đời thường được quyến thuộc viên mãn, các căn viên mãn, thân thể viên mãn, âm thanh trong trẻo, dáng mạo đoan nghiêm, lời nói oai nghiêm, được nhiều người kính mến.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát khi học như vậy thì sanh ở chỗ nào đều lìa việc sát sanh, lìa trộm cắp, lìa tà hạnh, lìa lời dối gạt, lìa lời thô ác, lìa lời chia rẽ, lìa lời bẩn thỉu, cũng lìa tham dục, sân giận, tà kiến, quyết chẳng chấp nhận tà pháp hư dối, không dùng pháp tà để sanh sống. Cũng không chấp nhận hữu tình phá giới, ác kiến, hủy báng pháp để làm bạn thân.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát khi học như vậy thì hoàn toàn chẳng sanh trong cõi trời Trường thọ, đắm vui, ít trí tuệ. Vì sao? Vì đại Bồ tát này thành tựu thế lực phương tiện thiện xảo. Do thế lực phương tiện thiện xảo này, mặc dù thường nhập được tịnh lự vô lượng và định vô sắc nhưng chẳng theo thế lực đó thọ sanh, vì được Bát nhã sâu xa bảo hộ. Thành tựu phương tiện thiện xảo như vậy, ở trong các định tuy thường được xuất nhập tự tại nhưng chẳng theo thế lực của các định đó thọ sanh ở cõi trời Trường thọ, bỏ tu Bồ tát hạnh.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát khi học như vậy thì được lực thanh tịnh, vô úy thanh tịnh, Phật pháp thanh tịnh. (Q.552, TBBN)

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp bản tánh thanh tịnh thì tại sao các đại Bồ tát khi học như vậy lại chứng đắc được các lực thanh tịnh, vô úy thanh tịnh, Phật pháp thanh tịnh.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Đúng như vậy! Như lời ngươi nói! Các pháp xưa nay tự tánh thanh tịnh. Đại Bồ tát này đối với tất cả pháp bản tánh thanh tịnh, tinh tấn tu học phương tiện thiện xảo của Bát nhã sâu xa, thông suốt như thật, tâm không chìm đắm, cũng không vướng mắc, xa lìa tất cả phiền não nhiễm đắm, nên nói: Khi Bồ tát học như vậy, đối với tất cả pháp được thanh tịnh. Do nhân duyên này được lực thanh tịnh, vô úy thanh tịnh, Phật pháp thanh tịnh.

Lại nữa, Thiện Hiện! Mặc dầu tất cả pháp bản tánh thanh tịnh mà các phàm phu chẳng có tri kiến thấy biết. Đại Bồ tát này vì muốn cho họ thấy biết, hiểu rõ nên khuyên tinh tấn tu hành phương tiện thiện xảo của Bát nhã Ba la mật, nghĩ: Ta đối với bản tánh thanh tịnh của các pháp thấy biết hiểu rõ, rồi như thật khai ngộ tất cả hữu tình, làm cho chúng đối với bản tánh thanh tịnh của các pháp cũng thấy biết, hiểu rõ. Đại Bồ tát này khi học như vậy được lực thanh tịnh, vô úy thanh tịnh, Phật pháp thanh tịnh.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát khi học như vậy thì đối với tâm hạnh sai khác của các hữu tình đều thông suốt, dùng phương tiện thiện xảo đến tận bờ kia, làm cho các hữu tình biết được bản tánh thanh tịnh của tất cả pháp, chứng đắc Niết bàn thanh tịnh hoàn toàn. (Hết Q.552, TBBN)

 

Quyển thứ 553

 

Thiện Hiện nên biết! Ví như mặt đất, ít chỗ sanh ra vàng bạc, châu báu; nhiều chỗ sanh ra đất nặn các vật. Các loài hữu tình cũng như vậy, ít người học Bát nhã Ba la mật, nhiều người học pháp của Thanh văn, Độc giác.

Thiện Hiện nên biết! Ví như loài người, phần ít có thể làm vua Chuyển luân, phần nhiều làm các vua nhỏ. Các loài hữu tình cũng vậy, phần ít có thể tu đạo Nhất thiết trí trí, phần nhiều tu đạo Thanh văn, Độc giác.

Thiện Hiện nên biết! Ví như trong trời Địa cư cõi Dục, phần ít có thể tạo nghiệp trời Đế Thích, phần nhiều tạo nghiệp của các trời khác. Các loài hữu tình cũng vậy, phần ít cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, phần nhiều cầu quả Thanh văn, Độc giác thừa.

Thiện Hiện nên biết! Ví như trong tịnh lự thứ nhất, cõi Sắc phần ít có thể tu nghiệp đại Phạm Vương, phần nhiều tu nghiệp các chúng Phạm Thiên. Các loài hữu tình cũng vậy, phần ít đạt được bất thối chuyển quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, phần nhiều vẫn còn thối lui quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Thế nên, này Thiện Hiện! Các loài hữu tình phần ít có thể phát tâm đại Bồ đề, trong số đó càng ít người có thể tu Bồ tát hạnh, trong đó càng ít người có thể tu học Bát nhã Ba la mật, trong đó càng ít người đạt được phương tiện thiện xảo của Bát nhã Ba la mật, trong đó lại rất ít người có thể đạt được Bất thối chuyển quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Thế nên, này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát nào muốn đi vào số hữu tình rất ít ấy thì nên siêng năng tu học phương tiện thiện xảo của Bát nhã sâu xa, để đạt được bất thối chuyển quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề và mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát nào tu học phương tiện thiện xảo của Bát nhã sâu xa như vậy thì không phát sanh tâm tương ưng với nhu nhược, không phát sanh tâm tương ưng với nghi ngờ, không phát sanh tâm tương ưng với tham lam, không phát sanh tâm tương ưng với phạm giới, không phát sanh tâm tương ưng với giận dữ, không phát sanh tâm tương ưng với lười nhác, không phát sanh tâm tương ưng với tán loạn, không phát sanh tâm tương ưng với hiểu biết sai lầm.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát tu học phương tiện thiện xảo của Bát nhã sâu xa như vậy thì có thể bao gồm tất cả Ba la mật, có thể tập họp tất cả Ba la mật, có thể dẫn đường tất cả Ba la mật. Vì sao? Vì trong Bát nhã Ba la mật sâu xa dung chứa tất cả Ba la mật vậy.

Thiện Hiện nên biết! Như tà ngụy thân kiến bao gồm khắp tất cả sáu mươi hai kiến(1), Bát nhã sâu xa cũng vậy, dung chứa tất cả Ba la mật. Nếu đại Bồ tát nào tu học đúng đắn phương tiện thiện xảo của Bát nhã sâu xa thì phát sanh tất cả Ba la mật và làm cho tăng trưởng dần dần.

Thiện Hiện nên biết! Ví như mạng căn gìn giữ các căn, Bát nhã sâu xa cũng như vậy, luôn gìn giữ tất cả pháp lành thù thắng. Vì sao? Vì nếu đại Bồ tát nào tu học đúng đắn Bát nhã sâu xa thì có thể gìn giữ khắp tất cả pháp lành.

Thiện Hiện nên biết! Như mạng căn diệt, thì các căn diệt theo, Bát nhã sâu xa cũng như vậy. Nếu đại Bồ tát nào thối lui Bát nhã sâu xa này thì chính là thối lui tất cả pháp lành. Nếu đại Bồ tát nào tu học đúng đắn Bát nhã sâu xa thì có thể diệt trừ khắp tất cả pháp bất thiện.

Thế nên, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát nào muốn đạt đến rốt ráo bờ kia của tất cả Ba la mật thì nên siêng năng tu học Bát nhã Ba la mật sâu xa.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát nào thường siêng năng tu học Bát nhã sâu xa thì thành tối thượng, tối thắng đối với các hữu tình. Vì sao? Vì đại Bồ tát này thường siêng năng tu học pháp Vô Thượng của Bát nhã sâu xa vậy. (Q.553, TBBN)

Lại nữa, Thiện Hiện! Ý ngươi thế nào? Các loài hữu tình ở trong tam thiên đại thiên thế giới này có nhiều không?

Thiện Hiện bạch:

- Bạch Thế Tôn! Các loài hữu tình trong Châu Thiệm bộ còn nhiều vô số, huống là các loài hữu tình trong Tam thiên đại thiên thế giới, số đó rất nhiều.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Đúng như vậy! Như lời ngươi nói!

Thiện Hiện nên biết! Giả sử các loài hữu tình trong Tam thiên đại thiên thế giới, đồng một lúc đều được làm thân người. Được thân người rồi, đồng một lúc đều phát tâm quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, tu Bồ tát hạnh. Tu hành viên mãn rồi, đồng một lúc đều đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Lại có đại Bồ tát trọn đời thường đem y phục, thức ăn uống, phòng xá, giường nằm, thuốc men thượng diệu và các thứ vật dụng cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác này. Ý ngươi thế nào? Đại Bồ tát này do nhân duyên này được phước có nhiều không?

Thiện Hiện thưa:

- Rất nhiều, bạch Thế Tôn! Rất nhiều, bạch Thiện thệ!

Phật bảo Thiện Hiện:

- Nếu đại Bồ tát nào thường tu học Bát nhã sâu xa như vậy thì trải qua khoảng thời gian khảy móng tay, đạt được công đức nhiều hơn trước vô lượng vô số. Vì sao? Vì Bát nhã Ba la mật đầy đủ lợi ích lớn, có thể làm cho chúng đại Bồ tát mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Thế nên, này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát nào muốn chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, muốn làm thượng thủ của tất cả hữu tình, muốn lợi ích cho khắp tất cả hữu tình, muốn làm người cứu hộ cho kẻ không có người cứu hộ, làm chỗ quay về nương tựa cho kẻ không có nơi quay về nương tựa, làm nơi hướng đến cho kẻ không có nơi hướng đến, làm mắt cho người không có mắt, làm ánh sáng cho người không có ánh sáng; kẻ lạc mất chánh đạo, chỉ cho họ chánh đạo; người chưa Niết bàn, làm cho đắc Niết bàn… thì nên học Bát nhã sâu xa như vậy.

 

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát tu học Bát nhã sâu xa như vậy thì không có tất cả công đức lợi ích thù thắng ở thế gian hay xuất thế gian nào mà không đạt được. Vì sao? Vì Bát nhã sâu xa là chỗ nương tựa cho tất cả hạt giống căn lành công đức.

Thiện Hiện nên biết! Ta chưa từng thấy có đại Bồ tát nào siêng năng tu tập Bát nhã sâu xa như vậy mà không đạt được công đức lợi ích thù thắng của thế gian và xuất thế gian. (Q.553, TBBN)

Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ tát tu học Bát nhã sâu xa như vậy chẳng lẽ cũng đắc công đức căn lành của Thanh văn, Độc giác sao?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Công đức căn lành của Thanh văn, Độc giác, các chúng đại Bồ tát này cũng đều chứng đắc nhưng không trụ, không đắm trước vào đó. Bằng chánh kiến thắng trí, quán sát xong, vượt qua địa vị Thanh văn và Độc giác, vào thẳng Chánh tánh ly sanh của Bồ tát, nên các đại Bồ tát này được tất cả công đức căn lành.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các đại Bồ tát nên tu học tất cả hạt giống công đức căn lành của Thanh văn, Độc giác. Mặc dầu không cầu chứng đắc ở đó nhưng muốn thông suốt đúng đắn tất cả để giảng thuyết, chỉ dạy cho các hữu tình kia.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát khi học như vậy thì chính là gần gũi Nhất thiết trí trí, mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, thường làm lợi ích an vui cho tất cả cùng tận đời vị lai.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát nào khi tu học như vậy thì chính là ruộng phước chơn tịnh cho tất cả thế gian, trời, người, A tu la v.v…, vượt lên trên các ruộng phước của Thanh văn, Độc giác, Sa môn, Phạm chí ở thế gian, mau chứng được Nhất thiết trí trí.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát khi tu học như vậy thì sanh ra ở chỗ nào cũng không xả bỏ Bát nhã sâu xa, không lìa Bát nhã sâu xa và thường thực hành Bát nhã sâu xa như vậy.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát nào có thể thực hành Bát nhã sâu xa như vậy thì nên biết Bồ tát đó đã không thối lui Nhất thiết trí trí, hiểu biết đúng đắn tất cả pháp, xa lìa địa vị Thanh văn, Độc giác v.v… và gần gũi quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát nào khi hành Bát nhã sâu xa nghĩ thế này: Đây là Bát nhã Ba la mật, đây là thời gian tu, đây là chốn tu, ta là người tu Bát nhã sâu xa này. Ta nhờ Bát nhã sâu xa như vậy mà vứt bỏ được pháp nên vứt bỏ, nên phát sanh được Nhất thiết trí trí thì đại Bồ tát này chẳng phải hành Bát nhã Ba la mật, cũng chẳng thể hiểu rõ Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Vì Bát nhã sâu xa không nghĩ: Ta là Bát nhã Ba la mật, đây là thời tu, đây là chỗ tu, đây là người tu, đây là pháp Bát nhã Ba la mật xa lìa, đây là pháp Bát nhã Ba la mật chiếu soi, đây là quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề do Bát nhã Ba la mật chứng đắc. Ai hiểu biết như vậy là hành Bát nhã Ba la mật.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát khi thực hành Bát nhã sâu xa, nghĩ thế này: Đây chẳng phải là Bát nhã Ba la mật, đây chẳng phải là thời tu, đây chẳng phải là chốn tu, đây chẳng phải là người tu, chẳng phải nhờ Bát nhã Ba la mật mà xa lìa tất cả pháp nên xa lìa, chẳng phải nhờ Bát nhã Ba la mật mà chứng được quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì sao? Vì tất cả pháp đều trụ chơn như không sai khác vậy.

Thiện Hiện nên biết! Nếu đại Bồ tát hoàn toàn không phân biệt, không sở giác liễu là hành Bát nhã Ba la mật. (Q.553, TBBN)

 

Thích nghĩa:

(1). Sáu mươi hai kiến chấp: Tứ cú nhân ngũ uẩn = 20. 20 nhân tam thế = 60. 60 + hữu, vô = 62. Tất cả kiến chấp đều không ra ngoài 62 kiến này. Như chấp có, không, chẳng có chẳng không, cũng có cũng không; hoặc quá khứ không, hiện tại có, vị lai không; hoặc quá khứ có, hiện tại có, tam thế đều có, hoặc tam thế đều không… Cộng chung thành 62 kiến chấp. (Ngữ vựng Danh từ Thiền học).

 

Lược giải:

 

1. Học như thế nào để được Nhất thiết trí trí?

 

Nếu đại Bồ tát chẳng vì tận, chẳng vì ly, chẳng vì sanh, chẳng vì diệt, chẳng vì nhiễm tịnh, chẳng vì pháp giới cho đến chẳng vì Niết bàn nên học, là học Nhất thiết trí trí. Vì sao? Vì Phật chứng chơn như rất viên mãn nên được danh là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Khi chứng được chơn như chẳng tận cho đến Niết bàn của Nhất thiết trí trí, thì các đại Bồ tát này học như vậy tức là học Nhất thiết trí trí.

Nếu các đại Bồ tát khi học như vậy chính là học phương tiện thiện xảo của Bát nhã Ba la mật, là học Phật địa, là học Phật mười lực, là học vô lượng, vô biên Phật pháp khác, tức là đã học Nhất thiết trí trí. Nếu học như vậy là đạt đến cứu cánh bờ kia của tất cả sự học. Học như vậy thì mau trụ địa vị Bồ tát Bất thối chuyển, học như vậy thì mau an tọa tòa Bồ đề; học như vậy thì chính là tự mình đi theo con đường của Như Lai Tổ phụ; học như vậy thì chính là học không đoạn tuyệt chủng tánh Như Lai; học như vậy thì chính là học pháp làm chỗ hộ trì cho các hữu tình, là học tánh đại từ, đại bi vậy; học như vậy thì chính là học ba lần chuyển với mười hai hành tướng Vô thượng; học như vậy thì chính là học làm cho trăm ngàn vạn ức cảnh giới hữu tình được ở nơi Niết bàn cứu cánh an lạc; học như vậy thì chính là học mở cửa Cam lồ chư Phật; học như vậy thì chính là học đặt để vô lượng, vô số, vô biên hữu tình trụ pháp Tam thừa; học như vậy thì chính là học thị hiện cảnh giới vô vi chơn thật, hoàn toàn vắng lặng cho tất cả hữu tình. Học như vậy, không cần xa lìa nhiễm tịnh, cũng tự nhậm xa lìa! Đó chính là học Nhất thiết trí trí.

Nếu học như vậy thì quyết định không đọa vào ác đạo, quyết định không sanh chốn biên địa hạ tiện, tà kiến; không sanh trong nhà Chiên đà la, nhà gánh thây chết và các hạng bần cùng, hạ tiện…; học như vậy thì sanh ra ở chỗ nào, đời đời thường được quyến thuộc viên mãn, các căn viên mãn, thân thể viên mãn, dáng mạo, lời nói oai nghiêm, được nhiều người kính mến; học như vậy thì sanh ở chỗ nào đều lìa việc sát sanh, trộm cắp, tà hạnh, lìa lời dối gạt, lìa lời thô ác, lìa lời chia rẽ, lìa lời tục tằn, cũng lìa tham dục, sân giận, tà kiến, quyết chẳng chấp nhận tà pháp hư dối, không dùng pháp tà để sanh sống; cũng không chấp nhận hữu tình phá giới, ác kiến, hủy báng pháp để làm bạn thân.

Vì đại Bồ tát này thành tựu thế lực phương tiện thiện xảo. Do thế lực này, mặc dù thường nhập được tịnh lự vô lượng và định vô sắc nhưng chẳng theo thế lực đó thọ sanh, vì được Bát nhã sâu xa hộ trì. Thành tựu phương tiện thiện xảo như vậy, ở trong các định tuy thường được xuất nhập tự tại nhưng chẳng theo thế lực của các định đó thọ sanh ở cõi trời Trường thọ, bỏ tu Bồ tát hạnh.

Nếu đại Bồ tát khi học như vậy thì được lực thanh tịnh, vô úy thanh tịnh, Phật pháp thanh tịnh.

 

2. Kết quả của việc tu hành Bát nhã và các phương tiện thiện xảo:

 

1- Nếu chẳng xa lìa phương tiện thiện xảo, thì nhất định có khả năng nhập vào bậc Bất thối chuyển. Cho nên, đại Bồ tát muốn đắc, muốn nhập vào hàng ngũ Bồ tát Bất thối chuyển, nên siêng tu học phương tiện thiện xảo Bát nhã Ba la mật.

Nếu Đại Bồ tát tu học phương tiện thiện xảo Bát nhã sâu xa như thế, thì chẳng bao giờ phát khởi tâm tương ưng xan tham, phá giới, sân hận, giải đãi, tán loạn, ác tuệ; chẳng bao giờ phát khởi tâm tương ưng tham dục, sân nhuế, ngu si, kiêu mạn; chẳng bao giờ phát khởi tâm tương ưng các tội lỗi khác; chẳng bao giờ phát khởi tâm tương ưng chấp thủ sắc tướng, cũng chẳng phát khởi tâm tương ưng chấp thủ thọ, tưởng, hành, thức tướng; chẳng bao giờ phát khởi tâm tương ưng chấp thủ mười hai xứ, mười tám giới, tứ thiền, tứ định, mười tám pháp Phật bất cộng, Nhất thiết trí v.v… cho đến chẳng bao giờ phát khởi tâm tương ưng chấp thủ tướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì sao? Vì đại Bồ tát ấy tu hành phương tiện thiện xảo của Bát nhã hoàn toàn chẳng thấy có pháp nào là pháp có thể đạt được; vì không có sở đắc nên chẳng khởi tâm chấp thủ các pháp.

 

2- Nếu đại Bồ tát muốn đứng trên tất cả hữu tình, thì nên học Bát nhã. Nếu đại Bồ tát muốn làm lợi ích cho khắp tất cả hữu tình, đối với người không ai cứu hộ, làm người cứu hộ; đối với người không nơi nương tựa, làm chỗ nương dựa; người không nơi hướng về, làm chỗ hướng về; người mất chánh đạo quay về chánh đạo, người chưa được Niết bàn, khiến được Niết bàn. Nếu đại Bồ tát muốn chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, muốn đi trên cảnh giới chư Phật đã đi, muốn dạo chơi chỗ chư Phật đã dạo chơi, muốn rống tiếng rống sư tử của chư Phật, muốn đánh trống pháp, muốn dộng chuông pháp, muốn thổi loa pháp, muốn ngồi tòa cao của Phật, muốn nói pháp nghĩa vô thượng của chư Phật, muốn phá lưới nghi của tất cả hữu tình, muốn vào cõi pháp Cam lồ của chư Phật, muốn hưởng hỷ lạc vi diệu của chư Phật, thì nên học Bát nhã Ba la mật.

Lại nữa, nếu đại Bồ tát tu học Bát nhã như thế, thì không có bất cứ thiện căn công đức nào mà không có thể đạt được. Nếu đại Bồ tát học như thế, thì vượt lên trên phước điền của Sa môn, Phạm chí thế gian, Thanh văn và Độc giác, chóng đến Nhất thiết trí, mau chứng quả vị Vô Thượng Bồ đề. Nếu đại Bồ tát học như thế, thì tùy thọ sanh chỗ nào cũng chẳng bỏ, chẳng lìa Bát nhã mà trái lại thường hành Bát nhã không ngừng nghỉ.

Nếu đại Bồ tát khi hành Bát nhã Ba la mật thậm thâm mà nghĩ tưởng: Đây là lúc tu, đây là chỗ tu, đây là người tu, đây là pháp phải tu, đây là pháp phải chứng, và nhờ đây mà xa lìa được các chướng ngại phiền não và chứng đắc quả vị Vô Thượng Bồ đề. Nếu nghĩ tưởng như thế thì không hiểu Bát nhã, không hiểu Bát nhã thì không thể hành Bát nhã, không thể hành Bát nhã thì không thể chứng đắc. Nhưng nếu khi hành Bát nhã, Bồ tát lại liền nghĩ như vầy: Đây chẳng phải Bát nhã, đây chẳng phải thời tu, đây chẳng phải xứ tu, đây chẳng kẻ tu, chẳng phải nhờ Bát nhã mà có sở ly, sở đắc. Vì sao? Vì tất cả pháp đều trụ chơn như, pháp giới, thật tế... không phân biệt vậy. Nếu hành như vậy là hành sâu Bát nhã Ba la mật.

 

Kết luận:

 

Bài học quan trọng của phẩm này: "Tất cả pháp bản tánh thanh tịnh, người thấy biết như vậy tức được thanh tịnh. Thanh tịnh này không do ai làm ra, không do Phật, không do trời hay người làm ra v.v... Vì tất cả pháp đều trụ chơn như, pháp giới, thật tế... không phân biệt vậy". Vì vậy, nên phẩm "Tấn Tốc", quyển 552, Hội thứ IV, TBBN. Phật bảo: “Các pháp xưa nay tự tánh thanh tịnh. Đại Bồ tát này đối với tất cả pháp bản tánh thanh tịnh, tinh tấn tu học phương tiện thiện xảo của Bát nhã sâu xa, thông suốt như thật, tâm không chìm đắm, cũng không vướng mắc, xa lìa tất cả phiền não nhiễm đắm, nên nói: Khi Bồ tát học như vậy, đối với tất cả pháp được thanh tịnh. Do nhân duyên này được lực thanh tịnh, vô úy thanh tịnh, Phật pháp thanh tịnh”.

 

---o0o---

Hội thứ IV - 24. Phẩm “Vô Tạp Vô Dị”

 

XXIV. PHẨM “VÔ TẠP VÔ DỊ”

 

(Vẫn ở phần giữa quyển 552, Hội thứ IV, TBBN).

 

Tóm lược: 

 

(Tâm Bồ tát và Tâm ác ma)

 

Bấy giờ, Phật bảo A Nan đà:

- Khi nào đại Bồ tát tư duy Bát nhã Ba la mật, tập học Bát nhã Ba la mật, tu hành Bát nhã Ba la mật thì khi ấy tất cả ác ma trong Tam thiên đại thiên thế giới đều sanh do dự, đồng nghĩ: Đại Bồ tát này đang ở giai đoạn chứng Niết bàn hoặc là thối lui vào địa vị Thanh văn hay Độc giác hay hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, có thể làm lợi ích cho hữu tình cùng tận đời vị lai.

Lại nữa, này Khánh Hỷ! Nếu khi đại Bồ tát an trụ Bát nhã Ba la mật thì khi ấy ác ma rất buồn khổ, thân tâm run sợ như trúng phải tên độc.

Lại nữa, Khánh Hỷ! Nếu khi đại Bồ tát tu hành Bát nhã Ba la mật thì khi ấy ác ma đi đến chỗ Bồ tát đó hóa ra vô số việc đáng sợ như: Hóa làm dao kiếm, ác thú, rắn độc, lửa dữ đồng một lúc cháy bùng lên khắp bốn phía, muốn làm cho thân tâm Bồ tát khủng khiếp, kinh sợ, bỏ mất cả tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề; đối với sự tu hành tâm bị khuất phục, cho nên phát khởi một niệm loạn ý làm chướng ngại quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, là chỗ mong cầu của các ác ma kia.

Bấy giờ, Khánh Hỷ bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đều bị ác ma làm rối loạn hết cả hay là có người bị rối loạn, có người không?

Phật bảo Khánh Hỷ:

- Chẳng phải các đại Bồ tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đều bị ác ma làm rối loạn hết, mà có người bị, có người không.

Cụ thọ Khánh Hỷ bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Những đại Bồ tát nào khi tu hành Bát nhã Ba la mật bị các ma ác làm rối loạn và những đại Bồ tát nào khi tu hành Bát nhã Ba la mật không bị ác ma làm rối loạn?

Phật bảo Khánh Hỷ:

- Các đại Bồ tát đời trước nghe thuyết Bát nhã sâu xa tâm không tin hiểu, hủy báng, chê bai, thì đại Bồ tát này khi tu hành Bát nhã Ba la mật liền bị ác ma làm rối loạn. Đại Bồ tát nào đời trước nghe giảng dạy Bát nhã sâu xa, có lòng tin hiểu, chẳng hủy báng chê bai thì đại Bồ tát này khi tu hành Bát nhã Ba la mật không bị ác ma làm rối loạn.

Lại nữa, Khánh Hỷ! Đại Bồ tát nào nghe giảng dạy Bát nhã sâu xa như vậy, nghi ngờ, do dự, là có hay không, là thật hay chẳng thật, thì đại Bồ tát này khi tu hành Bát nhã Ba la mật liền bị ác ma quấy rối. Nếu đại Bồ tát nào nghe giảng dạy Bát nhã sâu xa, tâm vị đó hoàn toàn không nghi ngờ, do dự, tin chắc chắn là có thật, thì đại Bồ tát này khi tu hành Bát nhã Ba la mật không bị ma ác làm rối loạn.

Lại nữa, Khánh Hỷ! Đại Bồ tát nào xa lìa bạn lành, bị các bạn ác khống chế, chẳng nghe nghĩa lý sâu xa của Bát nhã Ba la mật; do không nghe nên không hiểu rõ; vì không hiểu rõ nên không thể tu tập; vì không tu tập nên không thể thưa hỏi: Làm thế nào để tu đúng theo Bát nhã sâu xa, làm thế nào để học đúng theo Bát nhã sâu xa, thì đại Bồ tát này khi tu hành Bát nhã Ba la mật liền bị ác ma làm rối loạn.

Đại Bồ tát nào gần gũi bạn lành, không bị bạn ác khống chế, được nghe nghĩa lý sâu xa của Bát nhã Ba la mật; do được nghe nên hiểu rõ; do hiểu rõ, lập tức tu tập; do tu tập nên hay thưa hỏi: Làm thế nào để tu đúng theo Bát nhã sâu xa, làm thế nào để học đúng theo Bát nhã sâu xa, thì đại Bồ tát này khi tu hành Bát nhã Ba la mật không bị ác ma làm rối loạn.

Lại nữa, Khánh Hỷ! Đại Bồ tát nào xa lìa Bát nhã Ba la mật, nắm giữ, khen ngợi pháp chẳng chơn diệu thì đại Bồ tát này khi tu hành Bát nhã Ba la mật liền bị ác ma làm rối loạn.

Nếu đại Bồ tát nào gần gũi Bát nhã Ba la mật, không nắm giữ, không chê pháp chẳng chơn diệu, thì đại Bồ tát này khi tu hành Bát nhã Ba la mật không bị ác ma làm rối loạn.

Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ tát nào xa lìa Bát nhã Ba la mật, hủy báng, chê bai pháp chơn diệu thì bấy giờ ác ma liền nghĩ: Nay Bồ tát này là bạn của ta. Do Bồ tát này hủy báng pháp chơn diệu nên có vô lượng các chúng Bồ tát mới học Đại thừa đối với pháp chơn diệu cũng hủy báng. Do nhân duyên này, nguyện của ta viên mãn. Mặc dầu có vô lượng các chúng Bồ tát mới học Đại thừa làm bạn với ta nhưng chẳng thể làm cho nguyện của ta đầy đủ. Nay Bồ tát này làm bạn với ta, làm cho sở nguyện của ta được đầy đủ hoàn toàn, nên Bồ tát này đúng là bạn của ta, ta nên kết nạp để tăng thêm thế lực. Đại Bồ tát này khi tu hành Bát nhã Ba la mật liền bị ác ma làm rối loạn.

Nếu đại Bồ tát nào gần gũi Bát nhã Ba la mật, khen ngợi, tin nhận pháp chơn diệu; cũng làm cho vô lượng các chúng Bồ tát mới học Đại thừa khen ngợi, tin nhận pháp chơn diệu, do đây ác ma buồn rầu, sợ hãi thì đại Bồ tát này khi tu hành Bát nhã Ba la mật không bị ác ma làm rối loạn.

Lại nữa, Khánh Hỷ! Đại Bồ tát nào khi nghe giảng dạy Kinh Bát nhã sâu xa, nói như vầy: “Bát nhã Ba la mật này lý thú sâu xa, khó thấy, khó hiểu như vậy thì thọ trì, đọc tụng… làm gì. Kinh điển này chính ta còn không thể đạt được cội nguồn, huống là những người phước mỏng, trí cạn kia”. Khi ấy, có vô lượng các Bồ tát mới học Đại thừa nghe lời nói của Bồ tát ấy, trong tâm kinh sợ, liền thối lui tâm quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, rơi vào địa vị Thanh văn hoặc Độc giác, thì đại Bồ tát này khi tu hành Bát nhã Ba la mật liền bị ác ma làm rối loạn.

Nếu đại Bồ tát nào khi nghe thuyết Kinh Bát nhã sâu xa, nói thế này: Bát nhã Ba la mật này lý thú sâu xa, khó thấy, khó biết, lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tinh tấn tu học, biên chép, truyền bá khắp nơi thì có thể chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Khi ấy, có vô lượng các Bồ tát mới học Đại thừa, nghe Bồ tát đó nói như vậy vui mừng hớn hở, đối với Bát nhã Ba la mật thường ưa lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, làm cho thông suốt hoàn toàn, tư duy đúng pháp, tinh tấn tu hành, giảng thuyết, biên chép, truyền bá cùng khắp cho mọi người cầu thẳng tới quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, thì đại Bồ tát này khi tu hành Bát nhã Ba la mật không bị ác ma làm rối loạn.

Lại nữa, Khánh Hỷ! Đại Bồ tát nào ỷ vào công đức thiện căn của mình, khinh chúng đại Bồ tát khác nên nói thế này: “Ta luôn an trụ hạnh chơn thật viễn ly, còn các ông đều không có. Ta luôn tu tập hạnh chơn thật viễn ly, còn các ông chẳng có thể”. Khi ấy, ác ma vui mừng hớn hở nói: “Bồ tát này chính là bạn bè của ta, luân hồi sanh tử sẽ chưa thoát khỏi”.

Vì lẽ gì? Vì các Bồ tát này ỷ vào công đức căn lành của mình có, khinh chúng đại Bồ tát khác, liền xa quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, chẳng thể siêng năng làm trống không cảnh giới của Ta thì đại Bồ tát này khi tu hành Bát nhã Ba la mật liền bị ác ma làm rối loạn. Nếu đại Bồ tát nào không ỷ mình có công đức căn lành, khinh chê chúng đại Bồ tát khác, tuy thường tinh tấn tu các pháp lành nhưng chẳng chấp trước các tướng pháp lành thì đại Bồ tát này khi tu hành Bát nhã Ba la mật không bị ác ma làm rối loạn.

Lại nữa, Khánh Hỷ! Nếu đại Bồ tát nào tự ỷ tên tuổi, dòng họ và công đức tu tập hạnh Đầu đà, khinh miệt các chúng Bồ tát tu các pháp thắng thiện khác, thường khen mình và hủy báng, chê bai các vị khác. Họ thật không có các hành trạng của đại Bồ tát Bất thối chuyển mà cho mình có, nên sanh các phiền não và nói: “Các ông không có danh hiệu Bồ tát, chỉ riêng ta có”. Do tăng thượng mạn khinh chê Bồ tát khác, bấy giờ ác ma rất vui mừng, nghĩ như vầy: Nay Bồ tát này làm cho cung điện và quốc độ của ta chẳng trống không, tăng thêm cảnh giới địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ.

Bấy giờ ác ma giúp thần lực cho người kia, làm cho càng tăng thêm uy thế biện tài. Do đây được nhiều người tin nhận lời nói của người đó. Nhân đó khuyên phát đồng ác kiến như người kia. Ác kiến đồng rồi, học theo pháp tà của người kia. Học theo pháp tà rồi, phiền não hừng hực, vì tâm điên đảo nên phát sanh các nghiệp thân, ngữ, ý đều luôn nhận lấy quả khổ. Do nhân duyên này tăng thêm cảnh giới địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ, làm cho cung điện, cõi nước ma đông thêm. Do đây, ác ma vui mừng hớn hở, muốn làm điều gì đều tùy ý tự tại. Đại Bồ tát này khi tu hành Bát nhã Ba la mật liền bị ác ma làm rối loạn.

Nếu đại Bồ tát nào không ỷ vào danh hiệu hư vọng cùng việc công đức tu tập Đầu đà của mình mà khinh miệt các chúng Bồ tát tu các pháp thắng thiện khác, đối với các công đức xa lìa tăng thượng mạn, thường không khen mình, cũng không chê người, luôn hiểu biết đúng những việc của ác ma, thì đại Bồ tát này khi tu hành Bát nhã Ba la mật không bị ác ma làm rối loạn.

Lại nữa, Khánh Hỷ! Khi nào đại Bồ tát này cùng với người cầu Thanh văn, Độc giác thừa gây gỗ, hủy miệt, phỉ báng nhau thì bấy giờ ác ma thấy sự việc như vậy nên nghĩ: Nay Bồ tát này tuy xa quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề nhưng không xa lắm. Tuy gần cảnh giới địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ nhưng không gần lắm. Nghĩ như vậy xong, tuy vui mừng nhưng không hớn hở.

Khi nào đại Bồ tát cùng các chúng đại Bồ tát khác khinh miệt, chê bai nhau thì khi ấy thấy sự việc như vậy, ác ma liền nghĩ: Hai Bồ tát này rất xa quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, rất gần cảnh giới địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ. Nghĩ như vậy rồi rất vui mừng hớn hở và tăng thêm sức lực của chúng, làm cho hai bên bạn bè đấu tranh luôn không dứt, làm cho vô lượng, vô biên hữu tình khác đều hết lòng nhàm chán Đại thừa, thì đại Bồ tát này khi tu hành Bát nhã Ba la mật liền bị ác ma làm rối loạn.

Đại Bồ tát nào cùng người cầu Thanh văn, Độc giác thừa chẳng đấu tranh, khinh miệt, chê bai nhau, phương tiện giáo hóa, làm cho hướng đến Đại thừa, hoặc khiến họ tu vượt lên trên thừa của mình và cùng các thiện nam tử cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, không khinh chê, hủy báng, đấu tranh nhau, cùng dạy bảo nhau tu pháp thắng thiện, mau thẳng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, chuyển vận bánh xe diệu pháp, độ các hữu tình, thì đại Bồ tát này khi tu hành Bát nhã Ba la mật không bị ác ma làm rối loạn.

Lại nữa, Khánh Hỷ! Nếu Đại Bồ tát nào chưa được thọ ký Bất thối quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, đối với các đại Bồ tát đã được thọ ký bất thối quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, sanh tâm tổn hại, khinh miệt, đấu tranh, chê bai, mắng nhiếc. Đại Bồ tát này tùy theo phát khởi bao nhiêu tâm niệm không lợi ích, thì thối lui bấy nhiêu kiếp từng tu thắng hạnh, trải qua bấy nhiêu đời xa lìa bạn lành, chịu lại bấy nhiêu đời sanh tử trói buộc. Nếu không bỏ tâm đại Bồ đề thì trở lại bấy nhiêu kiếp mặc áo giáp Hoằng thệ, siêng tu thắng hạnh không lúc nào gián đoạn, sau đó mới được bù đắp lại công đức đã bị lui sụt. (Q.552, TBBN)

Bấy giờ, Khánh Hỷ lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ tát này đã phát khởi tâm ác, sanh tử tội khổ thì phải luân hồi trải qua bấy nhiêu đời, hay ở nửa chừng cũng được ra khỏi. Đại Bồ tát này bị lui thắng hạnh thì phải siêng năng trải bấy nhiêu kiếp mặc giáp Hoằng thệ, tu các thắng hạnh không lúc nào gián đoạn, sau đó mới được bù đắp lại công đức đã bị lui sụt, hay là ở nửa chừng có thể phục hồi lại như trước?

Phật bảo Khánh Hỷ:

- Ta vì Bồ tát, Độc giác, Thanh văn thuyết cách xuất tội và phục hồi thiện pháp lại. Khánh Hỷ nên biết đại Bồ tát nào chưa được thọ ký bất thối quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, đối với các đại Bồ tát đã được thọ ký bất thối quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề sanh tâm tổn hại, đấu tranh khinh miệt, hủy nhục, chê bai, về sau không hổ thẹn, giữ ác không bỏ, không chịu như pháp tỏ bày sám hối. Ta nói loại người ấy ở nơi nửa chừng không thoát khỏi tội và phục hồi thiện pháp, phải theo số kiếp như cũ luân hồi trong sanh tử, xa lìa bạn lành, bị các khổ trói buộc. Nếu không xả bỏ tâm đại Bồ đề thì phải bấy nhiêu kiếp mặc giáp Hoằng thệ, siêng tu thắng hạnh không có lúc nào gián đoạn, sau đó mới phục hồi công đức đã bị lui sụt.

Đại Bồ tát nào chưa được thọ ký bất thối quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thì đối với các đại Bồ tát đã được thọ ký bất thối quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, tâm tổn hại, đấu tranh, khinh miệt, mắng nhiếc, hủy báng nhau, sau đó sanh hổ thẹn, tâm bỏ điều ác, liền theo đúng pháp phát lồ sám hối tội lỗi, nghĩ thế này: Ta nay đã được thân người vốn khó được, sao lại để cho khởi lên tội lỗi làm cho mất lợi lành lớn! Ta nên làm lợi ích cho tất cả hữu tình, sao lại làm hại chúng? Ta nên cung kính tất cả hữu tình như tôi tớ thờ chủ, sao lại kiêu mạn, khinh miệt, hủy nhục đối với hữu tình? Ta nên nhận chịu tất cả sự đánh đập, trách mắng của hữu tình, sao lại đối với hữu tình đem sự tàn bạo của lời nói và hành động đáp lại họ? Ta nên hòa giải tất cả, làm cho hữu tình kính mến nhau, sao lại đưa ra lời lẽ hung ác để chống chọi chúng? Ta nên chịu đựng để tất cả hữu tình giẫm đạp mãi mãi như đường sá hay như cầu cống, sao trở lại lăng nhục chúng? Ta cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề vì cứu vớt khổ lớn sanh tử cho hữu tình, làm cho được Niết bàn an vui hoàn toàn, sao lại muốn đem khổ đến cho chúng? Từ nay cho đến tận đời vị lai, ta nên như si, như câm, như mù, như điếc, đối với các hữu tình không phân biệt, giả sử có bị chém đứt đầu, chân, tay hoặc móc mắt, cắt tai, xẻo mũi, cắt lưỡi, cưa xẻ tất cả chi thể thân phần, đối với hữu tình kia ta quyết không phát khởi một niệm ác. Nếu ta có ác tâm thì liền bị thối lui tâm cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, chướng ngại sự cầu Nhất thiết trí trí, không thể làm lợi ích an vui cho hữu tình.

Khánh Hỷ nên biết! Đối với Bồ tát này, ta nói nửa chừng có thể thoát tội và phục hồi lại thiện pháp, chẳng còn trải qua nhiều kiếp số luân hồi sanh tử, không bị ác ma làm rối loạn và mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

 

(Thái độ của Bồ tát trong cuộc sống chung đụng)

 

Lại nữa, Khánh Hỷ! Các đại Bồ tát cùng với những vị cầu Thanh văn, Độc giác thừa như vậy chẳng nên giao thiệp. Giả sử cùng giao thiệp thì chẳng nên ở chung. Giả sử cùng ở chung thì chẳng nên cùng với họ bàn luận, xác quyết nghĩa lý. Vì sao? Vì nếu cùng với họ luận bàn để xác định nghĩa lý thì sẽ có thể phát sinh tâm giận dữ v.v… hoặc phát sinh lời lẽ thô ác. Nhưng các Bồ tát đối với các loài hữu tình thì không nên giận dữ v.v… Cũng không nên nói lời thô ác. Giả sử bị chém đứt đầu, chân tay, thân phần… cũng không nên nói lời giận dữ. Vì sao? Vì các đại Bồ tát nên nghĩ: Ta cầu quả vị Vô thượng Bồ đề vì cứu giúp hữu tình dứt hẳn khổ sanh tử, làm cho được lợi ích, an vui hoàn toàn, đâu cho phép gây việc ác cho họ.

Khánh Hỷ nên biết! Nếu đại Bồ tát nào đối với loài hữu tình mà giận dữ, nói ra lời thô ác thì liền bị trở ngại quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề và hư hoại vô biên pháp hạnh của Bồ tát. Thế nên, chúng đại Bồ tát muốn đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, đối với các hữu tình không nên giận dữ, cũng không nên nói lời thô ác.

 

(Đẳng học)

 

Bấy giờ Khánh Hỷ bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ tát cùng đại Bồ tát làm cách nào để cùng ở chung?

Phật bảo Khánh Hỷ:

- Các đại Bồ tát cùng đại Bồ tát ở chung nên xem nhau như đại sư. Vì sao? Vì các đại Bồ tát cùng đại Bồ tát hỗ trợ nhau nên nghĩ thế này: Đại Bồ tát kia là bạn lành chơn thật của chúng ta, cùng chúng ta làm bạn, đồng ngồi một thuyền, đồng đi một đường, đồng tới một chỗ, đồng làm một việc. Chúng ta cùng với họ cùng học một thời gian, cùng một nơi chốn và cùng được học một giáo pháp. Nếu học như vậy thì không khác nhau. Lại nghĩ: Các Bồ tát kia vì chúng ta thuyết đạo đại Bồ đề, tức là bạn lành của ta, cũng là đạo sư của ta. Nếu đại Bồ tát kia trụ ý nghĩ xen tạp, xa lìa ý nghĩ tương ưng với Nhất thiết trí trí thì ta sẽ không học chung với các vị ấy. Nếu đại Bồ tát kia lìa ý nghĩ xen tạp, không lìa ý nghĩ tương ưng Nhất thiết trí trí thì ta nên thường cùng học tập với họ.

Khánh Hỷ nên biết! Nếu đại Bồ tát luôn học như vậy thì tư lương Bồ đề mau được viên mãn, mau chứng quả vị Vô thượng Bồ đề, ở nửa chừng không bị chướng ngại.

 

Lược giải:

 

Phẩm này nêu lên ba vấn đề: 1. Người tu hành Bát nhã không chân thật hay vì tật đố nên có thể bị ác ma làm rối loạn; 2. Nói về thái độ của Bồ tát trong cuộc sống chung đụng; 3. Nói về đẳng học.

 

1. Người tu Bát nhã bị ác ma làm rối loạn:

 

Người tu các thiện pháp nhất là tu Bát nhã càng đông, càng nhiều thì bè lũ ma quân xấu ác càng giảm đi. Do đó, ma quân sẽ sầu khổ như bị tên đâm. Do đó, ma quân luôn luôn tìm cách gây rối loạn, không muốn ai cũng trở thành Bồ tát hay Phật.

Kinh phân biệt:

Bồ tát nào đời trước nghe thuyết Bát nhã sâu xa tâm không tin hiểu, hủy báng, chê bai, thì đại Bồ tát này khi tu hành Bát nhã Ba la mật liền bị ác ma làm rối loạn. Đại Bồ tát nào đời trước nghe giảng dạy Bát nhã sâu xa, có lòng tin hiểu, chẳng hủy báng chê bai thì đại Bồ tát này khi tu hành Bát nhã Ba la mật không bị ác ma làm rối loạn.

Đại Bồ tát nào nghe giảng dạy Bát nhã sâu xa như vậy, nghi ngờ, do dự, là có hay không, là thật hay giả, thì đại Bồ tát này khi tu hành Bát nhã Ba la mật liền bị ác ma quấy rối. Nếu đại Bồ tát nào nghe giảng dạy Bát nhã sâu xa, tâm vị đó hoàn toàn không nghi ngờ, do dự, tin chắc là thật, thì đại Bồ tát này khi tu hành Bát nhã Ba la mật không bị ma ác làm rối loạn.

Bồ tát nào xa lìa bạn lành, tự ỷ lại vào thiện căn, ỷ lại vào tên tuổi, dòng họ và công đức, ỷ vào sự tu tập hạnh Đầu đà… rồi sanh ra khinh miệt các chúng Bồ tát tu các pháp thắng thiện khác. Bồ tát này thường khen mình, hủy báng, chê bai các vị khác. Họ thật không có các hành trạng của đại Bồ tát Bất thối chuyển mà cho mình có, nên sanh các phiền não. Ác ma thấy vậy càng thêm vui mừng và nghĩ như vầy: Nay Bồ tát này làm cho cung điện và quốc độ của ta chẳng trống không, tăng thêm cảnh giới địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ. Do đây, ác ma vui mừng hớn hở, muốn khuynh đảo như thế nào tùy ý. Hạng Bồ tát như vậy tu hành Bát nhã Ba la mật chắc chắn bị ác ma làm rối loạn. Nếu Bồ tát nào không ỷ vào danh hiệu hư vọng, đối với các công đức không ỷ lại mà sanh kiêu mạn, thường không khen mình chê người, luôn hiểu biết đúng ma sự, thì đại Bồ tát này khi tu hành Bát nhã Ba la mật không bị ác ma làm rối loạn.

Nếu Bồ tát sanh tâm tổn hại, đấu tranh khinh miệt, hủy nhục, chê bai các Bồ tát khác, nhưng về sau không biết hổ thẹn, giữ ác không bỏ, không chịu sám hối. Loại người ấy phải theo số kiếp luân hồi trong sanh tử, xa lìa bạn lành, bị các khổ trói buộc. Nhưng nếu Bồ tát ấy sau đó sanh hổ thẹn, tâm bỏ điều ác, liền theo đúng pháp phát lồ sám hối, không xa lìa Bồ đề tâm, hoằng thệ, siêng tu thắng hạnh không có lúc nào gián đoạn, sau đó mới có thể phục hồi công đức đã bị lui sụt. Vì vậy, Phật bảo cụ thọ Khánh Hỷ:

-“Khánh Hỷ nên biết! Đối với Bồ tát này, Ta nói nửa chừng có thể thoát tội và phục hồi lại thiện pháp, chẳng còn trải qua nhiều kiếp số luân hồi sanh tử, không bị ác ma làm rối loạn và mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề”.

 

2. Thái độ của Bồ tát trong cuộc sống chung đụng:

 

Các đại Bồ tát không nên giao thiệp với các vị Thanh văn hay Độc giác. Giả sử cùng giao thiệp thì chẳng nên ở chung. Giả sử cùng ở chung thì chẳng nên cùng với họ bàn luận, xác quyết nghĩa lý. Vì sao? Vì nếu cùng với họ luận bàn để xác định nghĩa lý thì sẽ có thể phát sinh tâm giận dữ v.v… hoặc phát sinh lời lẽ thô ác.

Cả đến đối với các hữu tình đại Bồ tát cũng không nên giận dữ v.v… Cũng không nên nói lời thô ác. Giả sử bị chém bị chặt thân phần… cũng không nên nói lời giận dữ. Vì sao? Vì các đại Bồ tát nên nghĩ: Ta cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề vì cứu giúp hữu tình dứt hẳn khổ sanh tử, làm cho được lợi ích, an vui rốt ráo, lẽ đâu lại gây ác cho họ. Bởi vì, nếu đối với hữu tình mà sanh tâm sân hận tức tự mình làm hư hoại vô biên pháp hạnh của Bồ tát thì làm sao chứng đạt Vô Thượng Bồ đề.

 

3. Đẳng học:

 

Nếu đại Bồ tát cùng đại Bồ tát ở chung nên xem nhau như đại sư. Vì sao? Vì các đại Bồ tát cùng đại Bồ tát hỗ trợ nhau nên nghĩ thế này: Đại Bồ tát kia là bạn lành chơn thật của chúng ta, cùng chúng ta làm bạn, đồng ngồi một thuyền, đồng đi một đường, đồng tới một chỗ, đồng làm một việc. Chúng ta cùng họ học một giáo pháp như nhau. Nếu học như vậy thì không khác nhau. Lại nghĩ: Các Bồ tát kia vì chúng ta thuyết đạo Bồ đề, tức là bạn lành của ta, cũng là đạo sư của ta. Nếu đại Bồ tát kia trụ ý nghĩ xen tạp, xa lìa ý nghĩ tương ưng với Nhất thiết trí trí thì ta sẽ không cùng học. Nếu đại Bồ tát kia lìa ý nghĩ xen tạp, nhưng không lìa ý tưởng tương ưng Nhất thiết trí trí thì ta nên cùng học với họ.

Nếu đại Bồ tát luôn học như vậy thì tư lương Bồ đề mau được viên mãn, mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, ở giai đoạn giữa không bị chướng ngại. (Q.552, TBBN)

Các vị đồng tu trên nguyên tắc phải kính trọng lẫn nhau, coi nhau như thiện tri thức, coi nhau như bạn đồng hội, như kẻ đồng thuyền. Chỗ học, thời gian học và pháp học của chúng ta và vị ấy, tất cả đều không khác. Các vị ấy phải học lục Ba la mật, ta cũng phải học; các vị ấy cần phải học mười tám pháp không, phải học chơn như, pháp giới, pháp tánh v.v…, ta cũng phải học; các vị ấy phải học Tam giải thoát môn, ta cũng phải học; các vị ấy phải học Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết chủng trí, ta cũng phải học.

Các vị ấy vì chúng sanh nói đạo Bồ đề, tức là bạn lành chơn thật của ta, cũng là thầy ta. Nếu các vị ấy tạp loạn, điên đảo xa lìa tác ý tương ưng Nhất thiết trí, thì ta chẳng cùng học với các vị ấy. Trái lại, nếu các vị ấy lìa tạp loạn, điên đảo chẳng rời tác ý tương ưng Nhất thiết trí, thì ta luôn luôn cùng học. Nếu các vị ấy luôn luôn học như thế, thì tư lương Bồ đề mau viên mãn. Vì sao? Vì học như thế thì gọi là đẳng học. Do cái học bình đẳng đó, nên mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Bài pháp này chẳng có gì khó, chỉ nói về tâm lý và chí nguyện của những người tu hành mà thôi, ai đọc cũng có thể hiểu. Nên không cần dong dài!

 

---o0o---