VI. PHẨM
“TÙY HỶ HỒI HƯỚNG”
Bắt đầu
quyển 543 cho đến quyển 544, Hội thứ IV, TBBN.
Gợi ý:
Giáo lý của
phẩm này không có gì khó. Sở dĩ, thấy khó, thấy rắc rối là vì lối diễn tả và
cách hành văn (văn từ chương cú). Chúng tôi, đã đọc cả 4 phẩm “Tùy
Hỉ Hồi Hướng” của cả 4 Hội thuộc Kinh ĐBN, và hai phẩm “Hồi Hướng” của hai Kinh
khác nữa là Kinh “Tiểu Phẩm Bát Nhã” do La Thập dịch và Kinh “Phật Mẫu Bát Nhã”
do Thí Hộ dịch. Tất cả văn từ chương cứu gần như nhau chỉ khác nhau ở cách diễn
tả. Tuy nhiên, hai Kinh sau viết rõ ràng hơn, nên chúng tôi có trích dẫn sau
đây để quý vị có dịp tụng đọc, so chiếu. Chúng tôi không dám phê bình Kinh, chỉ
viết gợi ý với mục đích báo cho độc giả biết khi đọc tụng 2 phẩm của 2 Kinh
này.
Tóm lược:
Quyển thứ
543
Bấy giờ, đại Bồ tát Từ Thị bảo cụ
thọ Thiện Hiện:
- Đại đức! Các đại Bồ tát ở nơi pháp
môn Bát Nhã sâu xa này tùy hỷ hồi hướng thu được các công đức, so với công đức
bố thí, trì giới, an nhẫn, tịnh lự của chúng sanh khác là tối tôn, là thù
thắng, là tôn quí, cao đẹp, nhiệm mầu, vi diệu, vô thượng, trên hết, không gì
hơn, không gì sánh bằng. Vì vậy, ở nơi chánh pháp sâu xa này, nên tùy hỷ đúng
lý.
Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện hỏi đại Bồ
tát Từ Thị:
- Các đại Bồ tát đã khởi tâm tùy hỷ
hồi hướng, duyên theo vô lượng, vô biên, vô số thế giới khắp mười phương không
thể nghĩ bàn. Mỗi mỗi thế giới không thể nghĩ bàn có vô lượng, vô biên, vô số
Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, cắt đường qua lại các cõi, chấm dứt sự hý luận, đã
vào cảnh giới Vô dư y bát Niết bàn. Từ lúc mới phát tâm cho đến chứng đắc quả
vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, tuần tự như vậy cho đến khi nhập vào cảnh giới
Vô dư y bát Niết bàn, cho đến khi Chánh pháp diệt, trong khoảng thời gian đó,
tất cả giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn, và
căn lành đều tương ưng với sáu pháp Ba la mật. Hoặc căn lành tương ưng với công
đức viên mãn của Phật. Hoặc căn lành tương ưng với lực vô úy. Hoặc căn lành
tương ưng với thần thông Ba la mật. Hoặc căn lành tương ưng với Bát Nhã sâu xa.
Hoặc căn lành tương ưng với đại nguyện Ba la mật. Hoặc căn lành tương ưng với
Nhất thiết trí trí. Hoặc vì lợi ích an vui tất cả hữu tình nên đại từ, đại bi,
đại hỷ, đại xả. Hoặc vì vô lượng, vô số công đức của chư Phật. Hoặc chứng quả
vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề diệu lạc. Hoặc đã được đại tự tại Ba la mật đối
với các pháp. Hoặc đã được vô lượng diệu hạnh của thần thông cao tột, có thể
chinh phục tất cả những gì không thể chinh phục. Hoặc có oai lực dõng mãnh như
thật của Như Lai không còn sự chướng ngại, không đối, không gì sánh bằng, không
gì ví dụ nổi, không giới hạn. Hoặc tri kiến Phật. Hoặc mười lực Ba la mật của
Phật. Hoặc đã chứng Phật pháp bốn điều không sợ cao tột viên mãn. Hoặc đã chứng
Phật pháp có thể phát khởi các pháp thắng nghĩa. Hoặc chuyển bánh xe pháp, hoặc
cầm đuốc pháp, hoặc đánh trống pháp, hoặc thổi loa pháp, hoặc rưới mưa pháp,
hoặc lập pháp hội, hoặc đem pháp vị ban cho các hữu tình tùy ý vui hưởng, để họ
được đầy đủ. Hoặc đối với giáo pháp Vô thượng là pháp của chư Phật, pháp của
Độc giác, pháp của Thanh văn, đã có sự điều phục thắng giải, quyết định hướng
tới tam Bồ đề. Hoặc Phật Thế Tôn thọ ký quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề cho
các Bồ tát. Hoặc tất cả căn lành thù thắng kia, gọi là căn lành tương ưng bố
thí cho đến Ba la mật. Hoặc thọ ký Bồ đề cho Độc giác Bổ đặc già la, Độc giác
thừa. Hoặc tất cả căn lành thù thắng kia là căn lành tương ưng sự quán sát mười
hai duyên khởi. Hoặc thọ ký Bồ đề cho Thanh văn Bổ đặc già la, Thanh văn thừa.
Hoặc tất cả căn lành thù thắng kia, gọi là căn lành tương ưng ba phước nghiệp
thí tánh, giới tánh, tu tánh. Hoặc căn lành vô lậu của bậc học và vô học. Hoặc
căn lành của các phàm phu đã gieo trồng với các pháp. Hoặc bốn chúng đệ tử của
chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác là Bí sô, Bí sô ni, cận sự nam, cận sự nữ, đã
có ba việc phước nghiệp do thí tánh, giới tánh, tu tánh. Hoặc đối với giáo pháp
chư Phật đã thuyết cho trời, rồng, Dược xoa, nói rộng cho đến người chẳng phải
người v.v… đã gieo trồng căn lành. Hoặc đã gieo trồng căn lành sau khi Phật
nhập Niết bàn. Hoặc các loài hữu tình thân tâm tin ưa đã phát khởi các căn lành
thù thắng và các công đức khác đối với Phật, Pháp, Tăng và các Thiện sĩ. Các
căn lành này và các công đức tất cả hợp nhóm, quán sát cân lường, hiện tiền
phát khởi tâm tùy hỷ rất tôn rất thắng rất diệu rất thượng. (Q. 543, TBBN)
Lại đem sự
tùy hỷ tương ưng với các việc phước nghiệp và ban cho hữu tình một cách bình
đẳng, rồi cùng nhau hồi hướng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Nguyện đem
căn lành này cùng loài hữu tình đồng hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ
đề. Như vậy, việc phát khởi tùy hỷ hồi hướng và các việc phước nghiệp được phát
sanh khác là tối tôn, là thù thắng, là tôn quí, là cao đẹp, là nhiệm mầu, là vi
diệu, là vô thượng, là trên hết, không gì hơn, không gì sánh bằng. “Nơi ý hiểu sao? Bồ tát Ma ha tát kia duyên
việc như thế khởi hành tướng tâm tùy hỷ hồi hướng như thế là có sở duyên khá
được như thế, như Bồ tát kia chỗ lấy tướng chăng?
Bấy giờ, Từ
thị Bồ tát đáp lời Thiện Hiện rằng: Bồ tát Ma ha tát kia duyên việc như thế,
khởi hành tướng tâm tùy hỷ hồi hướng như thế, thật không có sở duyên khá được
như thế, như tướng Bồ tát kia đã lấy.
Khi ấy, cụ
thọ Thiện Hiện thưa Từ thị Bồ tát rằng: Nếu không các việc sở duyên như thế,
như Bồ tát kia chỗ lấy tướng ấy, các Bồ tát kia tùy hỷ hồi hướng đâu chẳng đều
thành tướng điên đảo, tâm điên đảo, thấy điên đảo?”.(1). Vì sao?
Như có kẻ tham đắm việc vô thường cho là thường, khổ cho là vui, vô ngã bảo là
ngã, bất tịnh cho là tịnh, liền phát khởi tưởng, tâm, kiến điên đảo. Nhưng sở duyên thật sự vô sở hữu. Bồ đề và
tâm cũng lại như vậy, tất cả pháp và tất cả cảnh giới cũng như vậy. Nếu tất
cả chủng loại đều vô sở hữu, không sai khác thì những gì là sở duyên, những gì
là tâm tùy hỷ, những gì là Bồ đề, những gì là hồi hướng? Tại sao đại Bồ tát này
duyên việc như vậy mà khởi tâm tùy hỷ hồi hướng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ
đề?
Bồ tát Từ Thị trả lời với Thiện
Hiện:
- Đã khởi lên sự tùy hỷ hồi hướng
như vậy thì không nên đối trước các Bồ tát mới học Đại thừa kia mà nói. Vì sao?
Vì người kia nghe tất cả sự tùy hỷ hồi hướng như vậy thì tâm tin ưa, cung kính
sẽ lui mất ngay. Như vậy, pháp tùy hỷ hồi hướng nên vì đại Bồ tát Bất thối
chuyển, hoặc người đã từng cúng dường vô lượng chư Phật, đã phát nguyện lớn,
gieo trồng căn lành lâu dài, đã được nhiều bạn lành hộ trì mà khai thị phân
biệt. Vì sao? Vì những người kia nghe được sự tùy hỷ hồi hướng này chẳng kinh,
chẳng sợ, chẳng lui, chẳng mất.
Các đại Bồ tát nên đem tùy hỷ cùng
hành các việc phước nghiệp như thế hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Chính
lúc bấy giờ, nên khởi nghĩ này: “Chỗ đáng dụng tâm tùy hỷ hồi hướng, chỗ dụng
tâm đây tận diệt ly biến(2)(盡tận 。 滅diệt 。 離ly 。 變biến). Việc sở duyên đây và các căn lành cũng đều như
tâm tận diệt ly biến”. Trong đây những gì là chỗ dụng tâm? Lại lấy gì làm sở
duyên và các căn lành mà nói tùy hỷ hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề? Vì
tâm này đối tâm chẳng lẽ có tùy hỷ hồi hướng, vì không có hai tâm khởi cùng lúc
vậy. Tâm cũng chẳng thể tùy hỷ hồi hướng tự tâm. Vậy nên tâm tùy hỷ hồi hướng
và việc sở duyên đều bất khả đắc.
Khi ấy, trời Đế Thích thưa Thiện
Hiện:
- Các chúng Bồ tát mới học Đại thừa
nghe việc này, tâm họ sẽ không kinh sợ lui mất. Làm sao chúng đại Bồ tát đối
với việc sở duyên mà khởi tâm tùy hỷ? Làm sao gìn giữ sự tùy hỷ tương ưng các
việc phước nghiệp, để hồi hướng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề mà không trái
lý?
Bấy giờ, Thiện Hiện nương oai lực Bồ
tát Từ Thị bảo Đế Thích:
- Các đại Bồ tát duyên theo tất cả
Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trong vô lượng, vô biên, vô số thế giới khắp mười
phương không thể nghĩ bàn để cắt đứt đường qua lại các cõi, chấm dứt sự hý
luận, quét sạch mây mù, dọn dẹp gai gốc, bỏ các gánh nặng, hết sự trói buộc các
cõi, chánh trí giải thoát, tâm được tự tại, đạt đến cứu cánh đệ nhất, vào cảnh
giới Vô dư y Niết bàn. Từ lúc mới phát tâm cho đến chứng đắc quả vị Vô Thượng
Chánh Đẳng Bồ đề đã cầu, chuyển pháp luân vi diệu, cứu độ các hữu tình. Sau khi
nhập Niết bàn cho đến chánh pháp diệt, trong khoảng thời gian đó đã gieo trồng
các công đức căn lành, và chúng đệ tử đã gieo trồng căn lành với giáo pháp của
Phật, đồng thời khởi lên các công đức khác. Tập hợp tất cả xem xét cân lường và
hiện tiền phát khởi tâm tùy hỷ tối tôn, tối thắng, tối thượng, tối diệu. Lại
đem các việc phước nghiệp tương ưng tâm tùy hỷ này ban cho các hữu tình một
cách bình đẳng, rồi cùng nhau hồi hướng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Lúc
bấy giờ, nhờ vào phương tiện thiện xảo nên vị ấy không rơi vào tưởng điên đảo,
tâm điên đảo, kiến điên đảo.
Đại Bồ tát Từ Thị bảo cụ thọ Thiện
Hiện:
- Đại Bồ tát tự mình khởi lên tâm
tương ưng với sự tùy hỷ hồi hướng nhưng chẳng
khởi lên vọng tưởng về tâm tùy hỷ hồi hướng ấy. Đối với công đức của Phật và các
đệ tử mà không khởi lên tư tưởng về công đức của chư Phật và các đệ tử; đối với
căn lành mà Bồ tát đã gieo trồng với các trời, người, A tu la v.v... mà chẳng
khởi lên vọng tưởng về căn lành đối với các trời, người, A tu la v.v…, nhưng có
thể tùy hỷ hồi hướng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, thì sự phát khởi tâm
tùy hỷ hồi hướng của đại Bồ tát ấy không rơi vào tưởng, tâm, kiến điên đảo. Đại
Bồ tát nào đối với tâm khởi lên sự tùy hỷ hồi hướng tương ưng mà dấy lên tâm
tưởng về tùy hỷ hồi hướng; đối với công đức Phật và các đệ tử, mà khởi lên
tưởng về công đức của Phật và các đệ tử; đối với căn lành mà các trời, người, A
tu la v.v… đã gieo trồng mà khởi lên tưởng về căn lành của các trời, người, A
tu la v.v… đã gieo trồng, có thể tùy hỷ hồi hướng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng
Bồ đề; sự khởi lên tâm tùy hỷ hồi hướng của đại Bồ tát như vậy là rơi ngay vào cảnh tưởng tâm, kiến điên đảo.
Các đại Bồ tát đem tâm như vậy nhớ nghĩ về tất cả căn lành công đức của chư
Phật và các đệ tử, biết đúng đắn tâm này đã tận diệt ly biến, không thể tùy hỷ
và biết đúng đắn pháp kia tánh nó cũng vậy, chẳng phải sự tùy hỷ. Và hiểu một
cách đúng đắn tâm hồi hướng và pháp tánh cũng vậy, chẳng phải hồi hướng. Chơn
chánh hiểu rõ pháp được hồi hướng, tánh nó cũng vậy chẳng phải được hồi hướng. Nếu
có thể dựa vào sự trình bày như vậy để tùy hỷ và hồi hướng là chánh, chẳng phải
tà thì các đại Bồ tát đều phải khởi lên sự tùy hỷ hồi hướng như vậy, để hồi
hướng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Như chư
Phật Thế Tôn, nếu đại Bồ tát trong quá, khứ, vị lai, hiện tại, cắt đứt đường
qua lại các cõi, chấm dứt sự hý luận, từ lúc mới phát tâm cho đến chứng đắc quả
vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, tiến dần đến khi nhập vào cảnh giới Vô dư y bát
Niết bàn, như vậy cho đến Chánh pháp diệt, trong khoảng thời gian đó bao căn
lành tương ưng với Ba la mật của chư Phật. Hoặc căn lành tương ưng với Ba la
mật mà Phật Thế Tôn đã thọ ký cho Bồ tát. Hoặc căn lành tương ưng với sự quán
sát duyên khởi mà Phật Thế Tôn đã thọ ký cho Độc giác. Hoặc căn lành tương ưng
đã phát khởi thí tánh, giới tánh, tu tánh mà Phật Thế Tôn đã thọ ký cho hàng
Thanh văn. Hoặc căn lành tất cả hữu lậu, vô lậu của bậc hữu học. Hoặc căn lành
vô lậu của bậc Vô học. Hoặc giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải
thoát tri kiến uẩn của Phật Thế Tôn. Hoặc vì lợi ích an vui cho tất cả hữu tình
nên đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả. Hoặc vô lượng, vô số Phật pháp khác. Hoặc
Phật Thế Tôn tuyên thuyết Chánh pháp. Hoặc các căn lành kia an trụ thắng giải
do siêng năng tu học với Chánh pháp. Hoặc căn lành của các loài dị sanh đã gieo
trồng với Chánh pháp. Hoặc căn lành của các trời, rồng, A tu la v.v... đã gieo
trồng lúc lắng nghe Chánh pháp, và sau khi nghe pháp; cho đến căn lành của loài
bàng sanh lúc lắng nghe Chánh pháp và sau khi nghe pháp. Hoặc căn lành của các
trời, người v.v... đã gieo trồng sau khi Phật Thế Tôn nhập Niết bàn. Tập hợp
tất cả cân lường và hiện tiền phát khởi tâm tùy hỷ tối tôn, tối thắng, tối
thượng, tối diệu.
Lại đem các việc phước nghiệp tương
ưng sự tùy hỷ này ban cho các hữu tình một cách bình đẳng, rồi cùng nhau hồi
hướng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Trong lúc này, nếu chơn chính hiểu rõ
các pháp được tùy hỷ hồi hướng tận diệt ly biến; các pháp được tùy hỷ hồi hướng
tự tánh đều là Không. Tuy biết như vậy nhưng vẫn thường tùy hỷ hồi hướng quả vị
Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Vả lại, trong lúc này nếu hoàn toàn
hiểu rõ chơn chính không có pháp nào có thể tùy hỷ hồi hướng với pháp nào. Vì
sao? Vì tất cả pháp tự tánh đều là Không. Trong cái Không ấy hoàn toàn không có
pháp tùy hỷ hồi hướng. Tuy biết như vậy nhưng vẫn thường tùy hỷ hồi hướng quả
vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Đại Bồ tát này sẽ không rơi vào cảnh tưởng, tâm,
kiến điên đảo.
Vì sao? Vì đại Bồ tát này không chấp trước tâm tùy hỷ và căn lành
công đức đã tùy hỷ; đối với tâm hồi hướng và sự hồi hướng quả vị Vô Thượng
Chánh Đẳng Bồ đề cũng không chấp trước. Do không chấp trước nên chẳng rơi vào
cảnh điên đảo. Đại Bồ tát khởi tâm tùy hỷ hồi hướng như vậy mới gọi là sự tùy
hỷ hồi hướng chơn chánh vô thượng, xa lìa tất cả hư vọng phân biệt.
Đại Bồ tát nào đối với pháp có thể
tùy hỷ hồi hướng mà khởi lên vọng tưởng về pháp có thể tùy hỷ hồi hướng; đối
với pháp được tùy hỷ hồi hướng khởi lên vọng tưởng về pháp được tùy hỷ hồi
hướng, rồi khởi lên sự tùy hỷ hồi hướng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Đại
Bồ tát này đã khởi lên sự tùy hỷ hồi hướng như vậy thì rơi vào tưởng, tâm, kiến
điên đảo. Sự tùy hỷ hồi hướng này đều sai. Bồ tát nên biết mà phương tiện lánh
xa.
Lại nữa, này
Thiện Hiện! Đại Bồ tát nào đối với sự tu hành, làm các việc phước nghiệp, như
thật biết rõ, xa lìa, vắng lặng; đối với tâm thường tùy hỷ hồi hướng cũng như
thật hiểu rõ, xa lìa, vắng lặng. Biết như vậy rồi hành sâu Bát nhã Ba la mật,
nhưng trong các pháp hoàn toàn không có chấp thủ mà khởi lên tâm tùy hỷ hồi
hướng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Đại Bồ tát này đã khởi tâm tùy hỷ hồi
hướng ấy nên không rơi vào tưởng, tâm, kiến điên đảo. (Q.543, TBBN)
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát
đối sở tu làm các việc phước nghiệp như thật biết rõ xa lìa vắng lặng. Đối tâm
năng tùy hỷ hồi hướng cũng như thật biết rõ xa lìa vắng lặng. Biết như thế rồi
hành Bát nhã Ba la mật sâu thẳm, đối trong các pháp trọn không chấp lấy mà khởi
tùy hỷ hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Đại Bồ tát này sở khởi tâm tùy hỷ
hồi hướng thời chẳng đọa nơi tưởng điên đảo, tâm điên đảo, kiến điên đảo.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ tát
nào đối với căn lành công đức của chư Phật Thế Tôn và các đệ tử đã diệt độ, nếu
muốn phát khởi tâm tùy hỷ hồi hướng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề ấy, nên
nghĩ như vầy: Như đức Phật Thế Tôn và các đệ tử đều đã diệt độ, tự tánh
chẳng phải có, căn lành công đức cũng lại như vậy. Ta đã phát khởi tâm tùy hỷ
hồi hướng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, và sự hồi hướng quả vị Vô Thượng
Chánh Đẳng Bồ đề, tánh tướng cũng vậy đều bất
khả đắc. Biết như vậy rồi, đối với các căn lành làm phát sanh sự tùy hỷ hồi
hướng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thì không thể sanh tưởng, tâm, kiến
điên đảo, gọi là sự tùy hỷ hồi hướng Bồ đề chơn chánh.
Đại Bồ tát
nào lấy sự chấp tướng làm phương tiện hành Bát Nhã sâu xa, đối với căn lành
công đức của Phật và các đệ tử đã diệt độ, chấp giữ tướng tùy hỷ hồi hướng Bồ
đề, đây chẳng phải là sự tùy hỷ hồi hướng đúng đắn. Do đó liền rơi vào tưởng,
tâm, kiến điên đảo.
Đại Bồ tát nào không chấp giữ tướng làm phương tiện tu hành sâu Bát nhã Ba la mật,
đối với căn lành công đức của Phật và đệ tử đã diệt độ, lìa tướng rồi tùy hỷ
hồi hướng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, mới gọi là sự tùy hỷ hồi hướng
đúng đắn. Do đây chẳng rơi vào tưởng, tâm, kiến điên đảo. (Q.543, TBBN)
Bấy giờ, đại Bồ tát Từ Thị hỏi cụ
thọ Thiện Hiện:
- Đại đức! Vì sao đối với căn lành
công đức của chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và chúng đệ tử, đại Bồ tát tùy hỷ
tương ưng việc phước nghiệp hoàn toàn không chấp tướng mà có thể tùy hỷ hồi
hướng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề?
Thiện Hiện đáp:
- Nên biết đại Bồ tát đã học Bát nhã
Ba la mật và có những phương tiện thiện xảo như vậy, tuy không chấp tướng nhưng
hoàn thành được việc làm, chẳng phải lìa Bát nhã Ba la mật mà có được sự tùy hỷ
hồi hướng chơn chánh. Vì thế chúng đại Bồ tát muốn thành tựu phải học Bát nhã
Ba la mật.
Đại Bồ tát Từ Thị nói:
- Đại đức Thiện Hiện chớ nói lời ấy.
Vì sao? Vì trong Bát Nhã sâu xa, chư Phật Thế Tôn cùng chúng đệ tử và căn lành công
đức được thành tựu đều vô sở hữu và bất
khả đắc. Sự tùy hỷ với các việc phước nghiệp đã tạo thành và phát tâm hồi
hướng Vô thượng Bồ đề cũng vô sở hữu và bất khả đắc. Trong đây, khi đại Bồ tát
hành sâu Bát nhã Ba la mật phải quán như vầy: Bản tánh căn lành công đức của
chư Phật và chúng đệ tử đời quá khứ đều đã diệt. Sự tùy hỷ với các việc phước
nghiệp tạo thành và phát tâm hồi hướng Vô thượng Bồ đề tánh đều vắng lặng. Đối
với căn lành công đức của chư Phật Thế Tôn và chúng đệ tử, nếu ta chấp lấy tướng
phân biệt, đối với sự tùy hỷ tương ưng với các việc phước nghiệp và chấp lấy
tướng phân biệt sự phát tâm hồi hướng Vô thượng Bồ đề, lấy sự chấp giữ tướng
phân biệt này, phương tiện khởi lên sự tùy hỷ hồi hướng quả vị Vô Thượng Chánh
Đẳng Bồ đề, thì chư Phật Thế Tôn đều không chấp nhận.
Vì sao? Vì chấp lấy tướng phân biệt
tùy hỷ hồi hướng Vô thượng Bồ đề đối với chư Phật Thế Tôn và các đệ tử đã diệt
độ thì gọi là bậc đại sở hữu, bởi quá khứ đã diệt nên không có sở hữu. Vị lai,
hiện tại đức Phật và các đệ tử chưa đến, không trụ cũng bất khả đắc. Nếu bất
khả đắc thì chẳng phải chấp thủ tướng cảnh. Nếu chấp thủ tướng ấy rồi phát sanh
sự tùy hỷ hồi hướng thì liền rơi vào cảnh điên đảo. Nếu có sự thất niệm mà chấp
thủ tướng, thì nên biết chẳng phải là sự tùy hỷ hồi hướng đúng đắn. Phải không chấp thủ tướng, không có sự phân
biệt mới gọi là sự tùy hỷ hồi hướng đúng đắn.
Vì vậy, chúng đại Bồ tát nên học
phương tiện thiện xảo của Bát nhã Ba la mật. Nhờ năng lực của phương tiện thiện
xảo này mới có thể chơn chánh phát sanh sự tùy hỷ hồi hướng.
Nếu đại Bồ tát muốn học phương tiện
thiện xảo như vậy phải thường lắng nghe thọ trì, đọc tụng Bát nhã Ba la mật sao
cho thông suốt hoàn toàn, tư duy đúng lý, siêng thưa hỏi Thầy nghĩa lý thâm
sâu. Vì sao? Vì nếu chẳng nương vào Bát Nhã sâu xa, thì quyết chẳng thể đắc
phương tiện thiện xảo. Nếu không có phương tiện thiện xảo này mà có thể phát
sanh sự tùy hỷ hồi hướng chơn chánh, thì không có sự việc ấy.
Vì sao? Vì đối với các công đức v.v…
của chư Phật và chúng đệ tử quá khứ mà chấp lấy tướng phân biệt rồi tùy hỷ hồi
hướng thì chư Phật Thế Tôn đều chẳng tùy hỷ. Vì vậy, chúng đại Bồ tát muốn chơn
chánh phát khởi tùy hỷ hồi hướng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề đối với công
đức căn lành của chư Phật và các đệ tử, không nên lấy sở đắc và chấp tướng phân
biệt tùy hỷ hồi hướng. (Q. 543, TBBN)
Nếu ở trong đó mà khởi lên có sở đắc
và chấp lấy tướng phân biệt rồi tùy hỷ hồi hướng thì đức Phật nói việc đó chẳng
có ý nghĩa và không lợi ích gì cả. Vì sao? Vì tâm tùy hỷ hồi hướng như vậy là vọng
tưởng phân biệt gọi là xen lẫn chất độc. Như thức ăn nước uống với đầy đủ màu
sắc mỹ vị thơm ngon hảo hạng nhưng lẫn chất độc. Người ngu trí cạn lại ham ăn
uống nên nuốt vào. Ban đầu tuy có thích thú vui mừng vừa ý. Nhưng sau khi thức
ăn tiêu hóa phải chuốc lấy các khổ, hoặc đến chết, hoặc gần mất mạng.
Cũng như vậy, có một người hoàn toàn
không giỏi thọ trì, chẳng giỏi quán sát về câu văn nghĩa lý của Bát Nhã sâu xa,
chẳng giỏi đọc tụng, chẳng giỏi thông suốt nghĩa lý sâu xa, nhưng lại bảo người
có chủng tánh Đại thừa: Thiện nam tử, hãy đến đây! Ông đối với giới uẩn, định
uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn của chư Phật Thế Tôn
trong quá khứ, vị lai, hiện tại và vô lượng, vô biên công đức. Hoặc đệ tử Phật
ở chỗ chư Phật gieo trồng các căn lành. Hoặc đức Phật Thế Tôn đã thọ ký quả vị
Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề cho các Bồ tát và các Bồ tát ấy đã gieo trồng căn
lành. Hoặc đức Phật Thế Tôn đã thọ ký cho Thanh văn, Độc giác, loài hữu tình
kia đã gieo trồng căn lành. Hoặc các trời, người, A tu la v.v... ở chỗ chư Phật
đã gieo trồng căn lành cho đến khi Chánh pháp chưa diệt tận. Hoặc các thiện nam
tử, thiện nữ v.v… đã gieo trồng căn lành và đã có sự thành tựu công đức do phát
sanh căn lành tùy hỷ hồi hướng. Như vậy, tập hợp tất cả cân lường và hiện tiền
tùy hỷ ban cho các hữu tình một cách bình đẳng, rồi cùng nhau hồi hướng quả vị
Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Sự tùy hỷ
hồi hướng như đã nói này lấy có sở đắc và chấp lấy tướng phân biệt làm phương
tiện. Thí như đồ ăn, thức uống của thế gian có lẫn chất độc nên trước ngon sau
hại. Đây chẳng phải sự tùy hỷ hồi hướng hoàn hảo. Vì sao? Vì lấy hữu sở đắc và
chấp thủ tướng phân biệt mà phát khởi tâm tùy hỷ hồi hướng là đều lẫn chất độc.
Những người thuộc chủng tánh Bồ tát không nên tùy theo những điều đã nói trên
mà tu học.
Vì vậy, Đại đức phải nói thế nào cho
các thiện nam v.v… trụ Bồ tát thừa nên tùy hỷ hồi hướng đối với căn lành công
đức của chư Phật và các đệ tử trong mười phương ba đời, để đáng gọi là sự tùy
hỷ hồi hướng đúng đắn, tốt đẹp không độc hại?
Cụ thọ Thiện Hiện đáp lời Từ Thị:
- Các thiện nam tử v.v… trụ Bồ tát
thừa hành sâu Bát nhã Ba la mật, muốn không hủy báng Phật và phát tâm tùy hỷ
hồi hướng thì nên nghĩ thế này: Như các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác với
Phật nhãn thông suốt không có sự chướng ngại, biết tất cả căn lành công đức có
tánh như vậy, có tướng như vậy, có pháp như vậy mà nên tùy hỷ. Nay ta cũng nên
tùy hỷ như vậy. Như các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác với Phật nhãn thông
suốt biết rõ, không có chướng ngại, đem các việc phước nghiệp hồi hướng quả vị
Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề như vậy. Nay ta cũng nên hồi hướng như vậy.
Các thiện nam, thiện nữ trụ Bồ tát
thừa nên khởi sự tùy hỷ hồi hướng như vậy đối với căn lành công đức của chư Như
Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và các đệ tử. Nếu khởi lên sự tùy hỷ hồi hướng như vậy
thì chẳng hủy báng Phật, được chư Phật Thế Tôn đồng tùy hỷ. Tâm tùy hỷ hồi
hướng của đại Bồ tát như vậy chẳng lẫn các chất độc, xa lìa các lầm lỗi nên
được gọi là sự tùy hỷ hồi hướng chơn chánh, tốt đẹp, xứng chơn pháp giới, ý vui
thắng giải cùng với sự viên mãn hoàn toàn.
Lại nữa, Đại sĩ! Các thiện nam,
thiện nữ trụ Bồ tát thừa hành sâu Bát nhã Ba la mật, đối với căn lành công đức
của chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và các đệ tử nên khởi lên sự tùy hỷ hồi
hướng như vầy: Như giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri
kiến uẩn và các pháp khác của Phật chẳng rơi vào ba cõi, chẳng thuộc ba đời; sự
tùy hỷ hồi hướng cũng lại như vậy. Vì sao? Vì các pháp kia tự tánh là Không,
nên chẳng rơi vào ba cõi, chẳng thuộc ba đời, sự tùy hỷ hồi hướng cũng lại như
vậy. Nghĩa là chư Như Lai tự tánh là Không, nên chẳng rơi vào ba cõi, chẳng
thuộc ba đời. Công đức của chư Phật tự tánh là Không nên chẳng rơi vào ba cõi,
chẳng thuộc ba đời. Thanh văn, Độc giác và trời, người v.v... tự tánh cũng là
Không, nên chẳng rơi vào ba cõi, chẳng thuộc ba đời. Các căn lành kia tự tánh là Không, nên chẳng rơi vào ba cõi, chẳng
thuộc ba đời. Đối với sự tùy hỷ kia tự tánh là Không, nên chẳng rơi vào ba cõi,
chẳng thuộc ba đời. Pháp được hồi hướng tự tánh là Không, nên chẳng rơi vào ba
cõi, chẳng thuộc ba đời. Người hồi hướng tự tánh là Không, nên chẳng rơi vào ba
cõi, chẳng thuộc ba đời.
Khi hành sâu
Bát nhã Ba la mật, đại Bồ tát nào như thật biết rõ tánh tướng các pháp thì
chẳng rơi vào ba cõi, chẳng thuộc ba đời. Nếu chẳng rơi vào ba cõi, chẳng thuộc
ba đời, tức không thể lấy tướng làm phương tiện, lấy hữu sở đắc làm phương tiện
để phát sanh sự tùy hỷ hồi hướng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Vì sao? Vì
tất cả pháp tự tánh không sanh. Nếu pháp không sanh thì vô sở hữu. Không thể
lấy pháp vô sở hữu kia để tùy hỷ hồi hướng, vì vô sở hữu. Sự tùy hỷ hồi hướng
quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của đại Bồ tát như vậy chẳng xen lẫn chất
độc, không bị mất và hư hoại gọi là đại hồi hướng, không đọa, không thuộc, xứng
chơn pháp giới, rốt ráo viên mãn. Nếu các thiện nam, thiện nữ trụ Bồ tát thừa
lấy tướng làm phương tiện, hoặc lấy hữu sở đắc làm phương tiện để phát khởi tâm
tùy hỷ hồi hướng đối với căn lành công đức của chư Như Lai và các đệ tử, phải biết
đây là sự tùy hỷ hồi hướng phi pháp. Tâm tùy hỷ hồi hướng phi pháp, chẳng được
chư Phật Thế Tôn khen ngợi.
Khi hành Bát
Nhã sâu xa, đại Bồ tát nào nghĩ như vầy: Như căn lành công đức mà tất cả Như
Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trong mười phương thế giới như thật thông suốt có pháp
như vậy, có thể dựa vào pháp này để phát sanh sự tùy hỷ hồi hướng không trái
ngược; nay ta cũng nên dựa vào pháp như vậy để phát sanh sự tùy hỷ hồi hướng
quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Đây là sự tùy hỷ hồi hướng chơn chánh. Do đây
chắc chắn sẽ chứng Vô thượng Bồ đề, chuyển pháp luân vi diệu làm lợi ích cho
tất cả hữu tình.
Bấy giờ, Thế Tôn khen Thiện Hiện:
- Hay thay! Nay ông mới có thể vì
các đại Bồ tát làm Phật sự lớn. Vì sao? Vì ông đã vì các đại Bồ tát tuyên nói
sự tùy hỷ hồi hướng không trái ngược. Như chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác như
thật biết rõ những căn lành v.v… có tánh như vậy, có tướng như vậy, có pháp như
vậy và phát sanh sự tùy hỷ hồi hướng không trái ngược. Tâm tùy hỷ hồi hướng như
vậy xứng chơn pháp giới, rốt ráo viên mãn. Nay chính ông mới có thể tuyên
thuyết đúng như thật.
Thiện Hiện nên biết! Nếu các thiện
nam, thiện nữ phương tiện giáo hóa hữu tình trong hằng hà sa số Tam thiên đại
thiên thế giới đều làm cho họ an trụ mười thiện nghiệp đạo thì sẽ được công đức.
Đối với công đức ấy, các đại Bồ tát này đã khởi lên sự tùy hỷ hồi hướng không
trái ngược. Đối với công đức ấy là tối tôn, là thù thắng, là tôn quí, là cao
đẹp, là nhiệm mầu, là vi diệu, là vô thượng, là trên hết, không gì hơn, không
gì sánh bằng.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Ngoài việc
làm họ trụ mười thiện nghiệp đạo, nếu các thiện nam, thiện nữ phương tiện giáo
hóa hằng hà sa số Tam thiên đại thiên thế giới hữu tình, đều làm cho họ an trụ
bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, năm phép thần thông thì sẽ được
công đức. Đại Bồ tát này đã khởi lên sự tùy hỷ hồi hướng không trái ngược. Đối
với công đức ấy là tối tôn, là thù thắng, là tôn quí, là cao đẹp, là nhiệm mầu,
là vi diệu, là vô thượng, là trên hết, không gì hơn, không gì sánh bằng.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Ngoài việc
làm cho họ trụ bốn tịnh lự v.v… nếu các thiện nam, thiện nữ phương tiện giáo
hóa hằng hà sa số Tam thiên đại thiên thế giới hữu tình, đều làm cho họ an trụ
quả Dự lưu, hoặc quả Nhất lai, hoặc quả Bất hoàn, hoặc quả A la hán, hoặc Độc giác
Bồ đề thì sẽ được công đức. Đại Bồ tát này đã khởi lên sự tùy hỷ hồi hướng
không trái ngược. Đối với công đức ấy là tối tôn, là thù thắng, là tôn quí, là
cao đẹp, là nhiệm mầu, là vi diệu, là vô thượng, là trên hết, không gì hơn,
không gì sánh bằng.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Ngoài việc
khiến họ trụ quả Dự lưu v.v…, giả sử hằng hà sa số Tam thiên đại thiên thế giới
hữu tình đã có công đức do thành tựu quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán,
Độc giác Bồ đề. Đại Bồ tát này đã khởi lên sự tùy hỷ hồi hướng không trái
ngược. Đối với công đức ấy gọi là tối tôn, là thù thắng, là tôn quí, là cao
đẹp, là nhiệm mầu, là vi diệu, là vô thượng, là trên hết, không gì hơn, không
gì sánh bằng. (Q.543, TBBN)
Lại nữa, này Thiện Hiện! Ngoài việc
đã có công đức do thành tựu quả Dự lưu v.v... Giả sử hằng hà sa số Tam thiên
đại thiên thế giới hữu tình khắp mười phương đều phát tâm quả vị Vô Thượng
Chánh Đẳng Bồ đề, nếu hằng hà sa số Tam thiên đại thiên thế giới hữu tình khắp
mười phương ở chỗ các Bồ tát kia, mỗi mỗi đều đem y phục, thức ăn, nước uống,
đồ nằm, thuốc men và vô số thứ nhạc cụ thượng hạng, trải qua hằng hà sa số đại
kiếp, dùng hữu sở đắc làm phương tiện,
cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen, thì ý ngươi thế nào? Do nhân duyên
này, các hữu tình được phước nhiều chăng?
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều! Bạch
Thiện Thệ! Rất nhiều! Phước này nếu có hình sắc thì hằng hà sa thế giới khắp
mười phương không thể chứa hết được.
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như
lời ngươi nói! Đối với căn lành công đức chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và các
đệ tử, nếu các thiện nam, thiện nữ trụ Bồ tát thừa phát khởi sự tùy hỷ hồi
hướng không trái ngược, thì sẽ được công đức hơn trước, rất nhiều vô lượng, vô
số, tính đếm thí dụ không thể được. Vì sao? Vì các thiện nam, thiện nữ trụ Bồ
tát thừa này đã khởi lên sự tùy hỷ hồi hướng không trái ngược, dùng vô sở đắc làm phương tiện, vì được Bát
Nhã sâu xa, dùng phương tiện thiện xảo hộ trì nên xứng pháp giới, tối thắng,
không gì so sánh được.
Bấy giờ, bốn Đại thiên vương đều
cùng với quyến thuộc hai vạn Thiên tử đảnh lễ chân Phật, chắp tay cung kính
đồng thưa:
- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ tát này đã
khởi lên sự tùy hỷ hồi hướng không trái ngược, dùng vô sở đắc làm phương tiện,
được Bát Nhã sâu xa dùng phương tiện thiện xảo hộ trì, nên oai lực rộng lớn,
xứng chơn pháp giới, mau chứng đắc Nhất thiết trí trí, hơn hẳn sự bố thí có sở
đắc đã nói ở trước, vô lượng, gấp bội lần không thể nào sánh được.
Khi ấy, trời Đế Thích cho đến vua
trời Tha hóa tự tại cùng quyến thuộc mười vạn Thiên tử đều mang các thứ quí đẹp
của cõi trời: Tràng hoa, hương xoa, hương bột v.v… y phục, chuỗi anh lạc, tràng
phan, bảo cái, nhiều ngọc quí lạ, và tấu nhạc trời để dâng lên Phật, cúng
dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen, đảnh lễ sát chân Phật và chắp tay thưa:
- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ tát này đã
khởi lên sự tùy hỷ hồi hướng không trái ngược, dùng vô sở đắc làm phương tiện,
được Bát Nhã sâu xa dùng phương tiện thiện xảo hộ trì, oai lực rộng lớn, xứng
chơn pháp giới, mau chứng đắc Nhất thiết trí trí, hơn hẳn sự bố thí có sở đắc
mà trước đã nói, vô lượng, gấp bội lần không thể nào sánh được.
Khi ấy, trời Đại phạm, nói rộng cho
đến trời Sắc cứu cánh đều cùng vô lượng trăm ngàn chúng trời đến trước Phật,
đảnh lễ chân Ngài, chắp tay cung kính, đồng thưa:
- Bạch Thế Tôn! Thật hiếm có! Bạch
Thiện Thệ! Thật kỳ lạ! Đại Bồ tát này đã khởi lên sự tùy hỷ hồi hướng không
trái ngược, dùng vô sở đắc làm phương tiện, được Bát Nhã sâu xa dùng phương
tiện thiện xảo hộ trì, nên oai lực rộng lớn, xứng chơn pháp giới, mau chứng đắc
Nhất thiết trí trí, hơn hẳn sự bố thí có sở đắc mà trước đã nói, vô lượng, gấp
bội lần không thể nào sánh được.
Thích nghĩa quyển 543:
(1). Đoạn
Kinh dịch được ghi đậm nét này khó hiểu: “... Nơi ý hiểu sao? Bồ tát Ma ha tát kia duyên việc như thế khởi hành
tướng tâm tùy hỷ hồi hướng như thế là có sở duyên khá được như thế, như Bồ tát
kia chỗ lấy tướng chăng?
Bấy giờ, Từ
thị Bồ tát đáp lời Thiện Hiện rằng: Bồ tát Ma ha tát kia duyên việc như thế,
khởi hành tướng tâm tùy hỷ hồi hướng như thế, thật không có sở duyên khá được
như thế, như tướng Bồ tát kia đã lấy.
Khi ấy, cụ
thọ Thiện Hiện bảo Từ thị Bồ tát rằng: Nếu không các việc sở duyên như thế, như
Bồ tát kia chỗ lấy tướng ấy, các Bồ tát kia tùy hỷ hồi hướng đâu chẳng đều
thành tướng điên đảo, tâm điên đảo, thấy điên đảo?”
Nguyên văn bằng chữ Hán là: “於ư 意ý 云vân 何hà . 彼bỉ 菩Bồ 薩Tát 摩Ma 訶Ha 薩Tát. 緣duyên 如như 是thị 事sự. 起khởi 如như 是thị 行hành 相tướng 隨tùy 喜hỷ 迴hồi 向hướng 心tâm. 為vi 有hữu 如như 是thị 所sở 緣duyên 可khả 得đắc. 如như 彼bỉ 菩Bồ 薩Tát 所sở 取thủ 相tương/tướng 不phủ.
爾nhĩ 時thời. 慈Từ 氏Thị 菩Bồ 薩Tát 答đáp 具cụ 壽thọ 善thiện 現hiện 言ngôn.
彼bỉ 菩Bồ 薩Tát 摩Ma 訶Ha 薩Tát. 緣duyên 如như 是thị 事sự. 起khởi 如như 是thị 行hành 相tướng 隨tùy 喜hỷ 迴hồi 向hướng 心tâm. 實thật 無vô 如như 是thị 所sở 緣duyên 可khả 得đắc. 如như 彼bỉ 菩Bồ 薩Tát 所sở 取thủ 之chi 相tướng.
時thời. 具cụ 壽thọ 善thiện 現hiện 謂vị 慈Từ 氏Thị 菩Bồ 薩Tát 言ngôn.
若nhược 無vô 如như 是thị 所sở 緣duyên 諸chư 事sự. 如như 彼bỉ 菩Bồ 薩Tát 所sở 取thủ 相tương/tướng 者giả. 彼bỉ 諸chư 菩Bồ 薩Tát. 隨tùy 喜hỷ 迴hồi 向hướng. 豈khởi 不bất 皆giai 成thành 想tưởng 心tâm 見kiến 倒đảo”.
Ý nghĩa của đoạn
Kinh trên tương đương với đoạn Kinh sau đây trong “Phật Thuyết
Phật Mẫu Xuất Sinh Tam Pháp Tạng Bát Nhã Ba La Mật Đa” do Thí Hộ dịch, diễn đạt như
sau:
“Tu bồ đề hỏi Bồ tát Từ Thị: Người
tu Bồ tát này có các duyên, các sự, các tướng từ tâm sinh ra. Tướng được tâm
nắm bắt như thế có thể đạt được chăng?
Bấy giờ, Bồ tát Từ Thị nói với Tôn
giả Tu bồ đề: Không thể, Tu bồ đề! Các duyên, các sự, các tướng có được từ tâm
sinh ra; tướng được tâm nắm bắt như thế đều chẳng thể đạt được.
Tu bồ đề bạch Bồ tát Từ Thị: Nếu các
duyên, các sự, các tướng do tâm nắm bắt như thế chẳng thể đạt được, có phải
người này sẽ không có tưởng điên đảo, tâm điên đảo, kiến điên đảo chăng?”
Chúng tôi
nghĩ cách dịch của Ngài Thích từ Chiếu, chùa Châu Lâm (Huế), nói lên được ý nghĩa
của đoạn Kinh này mặc dầu hai đoạn Kinh có cấu trúc khác nhau.
Lưu ý: Cả hai bản dịch
trong thuvienhoasen.org hay tuvienquangduc.com đều khó
hiểu như nhau. Nếu phỏng dịch: “Bồ tát nào dùng tâm sở duyên, khởi sự tùy hỷ
hồi hướng thì sự tùy hỷ hồi hướng đó là nắm bắt tướng, nên sanh tưởng điên đảo,
tâm điên đảo, kiến điên đảo”, có lẽ ngắn gọn, dễ hiểu hơn. Nhưng chúng tôi
không muốn sửa Kinh văn, nên phải trích dẫn bản chữ Hán trong hoavouu.com để
quý vị tự soi sáng! Phải thú thật rằng chúng tôi gặp nhiều lúng túng không
những trong cách chuyển ngữ của phẩm “Tùy Hỷ Hồi Hướng” của TBBN này mà còn gặp
trở ngại trong tất cả các phẩm tương đương của cả ba Hội trước! Vì không thể
nhắm mắt trích dẫn một cách thiếu trách nhiệm, nên mới có lưu ý này. Cuối phần
tóm lược của phẩm này, chúng tôi trích dẫn nguyên văn phẩm “Hồi Hướng” của Kinh
“Tiểu Phẩm Bát Nhã”, do La Thập dịch, và phẩm “Tùy Hỷ Hồi Hướng” thuộc “Phật
Mẫu Bát Nhã Kinh” do Thí Hộ dịch như phần gợi ý nói trên, để quý vị có dịp so
chiếu.
(2). Tâm
tận diệt ly biến: Bản dịch chính
của HT Thích Trí Nghiệm đăng trong tuvienquangduc.com dịch là “tâm tận diệt ly
biến”. Bản dịch đã củ soát của một nhóm tỳ kheo và các sư sĩ đăng trong
thuvienhoasen.org cũng dịch là “tâm tận diệt ly biến”. Bản gốc bằng chữ Hán
đăng trong hoavouu.com ghi bằng chữ Hán có phụ âm là “心tâm 盡tận 滅diệt 離ly 變biến”, nghĩa là tất cả các bản dịch trên giữ y nguyên văn,
không dịch gì cả. Nếu dùng lối chiết tự để giải thích riêng rẽ bốn từ này
thì: Tận(盡)
là hết, không còn gì; Diệt(滅) là tan mất; Ly(離) là
chia ly; Biến(變) là biến mất.
- Phẩm “Tùy Hỷ Hồi Hướng”, quyển 432, Hội thứ II, ĐBN
dịch “tâm tận diệt ly biến” là “diệt tận
ly biến”, dịch như không dịch.
- Phẩm “Tùy
Hỉ Hồi Hướng” Hội thứ III, ĐBN dịch là “tâm hết diệt lìa biến”. Dịch như vậy
xác nghĩa nhưng rất khó hiểu, nhưng rất phù hợp với Kinh văn.
- Phẩm 6:
“Tùy Hỷ Hồi Hướng”, Kinh “Phật Mẫu Bát Nhã”, do Ngài Thí Hộ dịch từ Phạn sang
Hán và Thầy Thích Từ Chiếu dịch từ Hán sang Việt, dịch tận diệt ly biến là tận, diệt, ly trong câu Kinh như sau: “Lại nữa,
nếu các Bồ tát Ma ha tát lấy tâm có sở
đắc mà hồi hướng, thì tâm này chính là tận, chính là diệt, chính là ly. Tâm
tận, diệt đó không thể hồi hướng”.
Nếu tâm còn
sở đắc thì “hết thuốc chữa” nên không thể hồi hướng. Tâm chỉ có thể hồi hướng
phải là tâm không còn năng sở, nắm bắt, không còn phân biệt chấp đắm thì mới có
thể gọi là hồi hướng chân thật.
Quyển thứ
544
Đức Phật bảo trời Tịnh cư và các
chúng trời:
- Ngoài việc hằng hà sa số Tam thiên
đại thiên thế giới hữu tình khắp mười phương đều phát tâm quả vị Vô thượng
Chánh Đẳng giác. Giả sử tất cả hữu tình ở vô biên thế giới khắp mười phương đều
phát tâm quả vị Vô thượng Chánh Đẳng giác, nếu có tất cả hữu tình trong vô biên
thế giới khắp mười phương, ở chỗ các Bồ tát kia mỗi mỗi đều đem y phục, thức
ăn, nước uống, giường nằm, thuốc thang, và vô lượng thứ nhạc cụ thượng hạng,
trải qua hằng hà sa số đại kiếp, dùng có
sở đắc làm phương tiện, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen; lại có
các thiện nam, thiện nữ trụ Bồ tát thừa khởi lên sự tùy hỷ hồi hướng không trái
ngược đối với căn lành công đức của chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và các đệ
tử, thì được công đức hơn trước rất nhiều, vô lượng, vô số, tính đếm thí dụ
không thể sánh kịp. (Q.544, TBBN)
Vì sao? Vì các thiện nam, thiên nữ
trụ Bồ tát thừa phát khởi tâm tùy hỷ hồi hướng không trái ngược, dùng vô sở đắc
làm phương tiện, được phương tiện thiện xảo Bát Nhã sâu xa hộ trì, nên xứng
chơn pháp giới, tối thắng không gì bằng. Các hữu tình kia cho dù được nhiều
phước, nhưng dùng hữu sở đắc làm phương tiện, khởi lên sự tùy hỷ hồi hướng đối
với pháp này thì trăm phần không bằng một, ngàn phần không bằng một, cho đến
muôn ức phần cũng không bằng một.
Chư Thiên nên biết: Ngoài việc này,
giả sử hằng hà sa số Tam thiên đại thiên thế giới hữu tình khắp mười phương đều
phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng giác, phổ khắp đối với giới uẩn, định uẩn,
tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn của tất cả Như Lai Ứng Chánh
Đẳng Giác trong quá khứ, hiện tại, vị lai và vô lượng, vô biên các Phật pháp
khác, hoặc căn lành của các đệ tử, hoặc căn lành của các hữu tình khác đã tập
hợp, đang tập hợp, sẽ tập hợp. Tập hợp tất cả cân lường, dùng hữu tướng và có sở đắc làm phương tiện, hiện tiền tùy hỷ hồi
hướng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Nếu các thiện nam tử v.v… trụ Bồ tát
thừa phát sanh quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, phổ khắp đối với giới uẩn,
định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn của tất cả Như Lai
Ứng Chánh Đẳng Giác trong quá khứ, hiện tại, vị lai và vô lượng, vô biên Phật
pháp khác, hoặc căn lành của các đệ tử, hoặc căn lành của các hữu tình khác đã
tập hợp, đang tập hợp, sẽ tập hợp. Tập hợp tất cả cân lường, hiện tiền phát
khởi tối tôn, tối thắng, tối thượng, tối diệu, không thể nghĩ bàn, không thể
cân lường, vô thượng không gì sánh bằng, tùy hỷ tương ưng các việc phước
nghiệp.
Lại đem sự tùy hỷ tương ưng các việc
phước nghiệp này ban cho các hữu tình một cách bình đẳng, rồi cùng nhau hồi
hướng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Sự phát khởi tùy hỷ hồi hướng này so
với sự phát khởi tùy hỷ hồi hướng trước gấp bội trăm lần, ngàn lần, cho đến vô
cực lần, cũng lại hơn trước rất nhiều. Vì sao? Vì sự phát khởi tùy hỷ hồi
hướng này lấy vô tướng, vô sở đắc làm phương tiện, còn sự phát khởi tùy hỷ hồi
hướng trước lấy có tướng và có sở đắc làm phương tiện. (Q.544, TBBN)
Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:
- Như lời Thế Tôn dạy: Nếu các thiện
nam, thiện nữ trụ Bồ tát thừa hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, phổ
khắp đối với công đức căn lành của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và các đệ
tử trong quá khứ, hiện tại, vị lai. Tập hợp tất cả như vậy cân lường và hiện
tiền phát khởi tối tôn, tối thắng, tối thượng, tối diệu, không thể nghĩ bàn,
không thể cân lường, vô thượng không gì sánh bằng, tùy hỷ tương ưng với phước
nghiệp sự; lại đem sự tùy hỷ tương ưng với các việc phước nghiệp này ban cho
các hữu tình một cách bình đẳng, rồi cùng nhau hồi hướng quả vị Vô Thượng Chánh
Đẳng Bồ đề, thì sự phát khởi tùy hỷ hồi hướng này hơn hẳn sự phát khởi tùy hỷ
hồi hướng trước vô số lần.
Bạch Thế
Tôn! Ngang đâu mà nói sự phát khởi tùy hỷ hồi hướng sau hơn sự phát khởi tùy hỷ
hồi hướng trước cho đến gấp bội vô số lần?
Phật dạy:
- Này Thiện
Hiện! Các thiện nam tử trụ Bồ tát thừa này, đối với pháp ba đời chẳng lấy chẳng
bỏ, chẳng trọng chẳng khinh, chẳng hữu sở đắc, chẳng phải vô sở đắc, không chỗ
phân biệt, không phân biệt khác, không chỗ quán thấy, không tùy quán thấy. Quán
pháp như thế đều là đã chứa nhóm phân biệt, biết được tất cả pháp không sanh,
không diệt, không đi không đến, không vào không ra, không họp không tan. Trong
đây không có pháp đã, đang, sẽ sanh, cũng không có pháp đã, đang, sẽ diệt. Ta
phải như pháp chơn như pháp giới, dùng vô sở đắc làm phương tiện, khởi lên sự
tùy hỷ hồi hướng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Thiện Hiện
nên biết! Ngang đây, sự phát khởi tùy hỷ hồi hướng này hơn sự phát khởi tùy hỷ
hồi hướng có sở đắc tưởng, sở đắc kiến ở trước đến gấp bội vô số lần.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Đối với chư
Phật Thế Tôn và các đệ tử trong quá khứ, hiện tại, vị lai, các thiện nam tử
v.v… trụ Bồ tát thừa muốn bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát
nhã Ba la mật tương ưng căn lành, phát sanh sự tùy hỷ hồi hướng không trái
ngược, nên nghĩ: Như chơn giải thoát bố thí cũng vậy. Như chơn giải thoát tịnh
giới cũng vậy. Như chơn giải thoát an nhẫn cũng vậy. Như chơn giải thoát tinh
tấn cũng vậy. Như chơn giải thoát tịnh lự cũng vậy. Như chơn giải thoát Bát Nhã
cũng vậy. Như chơn giải thoát giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải
thoát tri kiến uẩn cũng vậy. Như chơn giải thoát sự tùy hỷ cũng vậy. Như chơn
giải thoát tùy hỷ tương ưng với các việc phước nghiệp cũng vậy. Như chơn giải
thoát chư Phật Thế Tôn và bậc Độc giác cũng vậy. Như chơn giải thoát Thanh văn
đã nhập Niết bàn cũng vậy.
Như chơn giải thoát các pháp quá khứ
đã diệt cũng vậy. Như chơn giải thoát các pháp vị lai chưa sanh cũng vậy. Như
chơn giải thoát các pháp hiện tại đang truyền bá cũng vậy. Như chơn giải thoát
các đệ tử của Phật trong quá khứ cũng vậy. Như chơn giải thoát các đệ tử của
Phật đời vị lai cũng vậy. Như chơn giải thoát hiện tại các đệ tử của Phật trong
vô lượng, vô số, vô biên thế giới khắp mười phương cũng vậy. Như chơn giải
thoát tất cả căn lành công đức cũng vậy. Như tánh các pháp không trói, không
mở, không ô nhiễm, không thanh tịnh, không phát khởi, không chấm dứt, không
sanh, không diệt, không chấp thủ, không xả bỏ.
Ta đối với căn lành công đức này
hiện tiền tùy hỷ, đem căn lành này ban cho các hữu tình chung hưởng một cách
bình đẳng, dùng sự không dời chuyển và không hư hoại, không tướng trạng, không
chứng đắc làm phương tiện để hồi hướng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Sự
tùy hỷ hồi hướng như vậy chẳng phải có thể tùy hỷ hồi hướng, vì không có sự tùy
hỷ, sự hồi hướng. Nếu khởi lên sự tùy hỷ hồi hướng như vậy thì không lưu
chuyển, không đoạn, không sanh, không diệt.
Thiện Hiện nên biết! Các thiện nam,
thiên nữ trụ Bồ tát thừa này đã khởi lên sự tùy hỷ hồi hướng không trái ngược,
hơn sự tùy hỷ hồi hướng có tướng, có
chứng đắc ở trước, cho đến gấp bội vô số lần. Đại Bồ tát nào thành tựu sự
tùy hỷ hồi hướng như vậy sẽ mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Giả sử hằng
hà sa số Tam thiên đại thiên thế giới hữu tình khắp mười phương đều phát tâm
quả vị Vô thượng Chánh Đẳng giác, hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề,
phương tiện thiện xảo tu Bồ tát hạnh: Nghĩa là tu bố thí, trì giới, an nhẫn,
tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã.
Lại có hằng hà sa số Tam thiên đại
thiên thế giới hữu tình khắp mười phương đều phát tâm quả vị Vô thượng Chánh
đẳng giác, hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Mỗi vị Bồ tát này đều
mang y phục, giường nằm, thuốc thang, đồ ăn nước uống mỹ vị và vô lượng thứ
nhạc cụ hảo hạng mà bố thí, trải qua
hằng hà sa… đại kiếp, dùng hữu sở đắc
làm phương tiện cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen các vị Bồ tát
kia.
Đại Bồ tát nào được phương tiện
thiện xảo của Bát Nhã sâu xa hộ trì, phổ khắp đối với giới uẩn, định uẩn, tuệ
uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn của chư Phật Thế Tôn ở quá khứ,
hiện tại, vị lai. Hoặc giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát
tri kiến uẩn của các Độc giác. Hoặc giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát
uẩn, giải thoát tri kiến uẩn của các Thanh văn. Hoặc ba việc phước nghiệp thí
tánh, giới tánh, tu tánh của các hữu tình. Tất cả như vậy tập hợp cân lường và
hiện tiền phát khởi rất tôn, rất thắng, tối thượng, tối diệu, không thể nghĩ
bàn, không thể cân lường, vô thượng không gì sánh bằng, tùy hỷ tương ưng các
việc phước nghiệp. Lại đem sự tùy hỷ tương ưng các việc phước nghiệp này ban
cho các hữu tình một cách bình đẳng, rồi cùng nhau hồi hướng quả vị Vô Thượng
Chánh Đẳng Bồ đề.
Thiện Hiện nên biết! Các Bồ tát này
tùy hỷ hồi hướng các việc phước nghiệp hơn các Bồ tát trước đã nói gấp bội trăm
lần, ngàn lần, cho đến vô số lần. Vì sao? Vì các chúng Bồ tát trước dùng hữu sở
đắc làm phương tiện tu bố thí, còn sự tùy hỷ hồi hướng của Bồ tát này dùng vô sở đắc làm phương tiện. (Q.544, TBBN)
Lại nữa, này Thiện Hiện! Ngoài việc
hằng hà sa số Tam thiên đại thiên thế giới hữu tình khắp mười phương phát tâm
quả vị Vô thượng Chánh đẳng giác, hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề,
các chúng Bồ tát dùng hữu sở đắc làm
phương tiện, tu bố thí tương ưng
các việc phước nghiệp. Giả sử hằng hà sa số Tam thiên đại thiên thế giới hữu
tình khắp mười phương đều phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng giác, hướng đến
quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, và các Bồ tát này đều trụ hằng hà sa số
đại kiếp, tu thân diệu hạnh, tu ngữ diệu hạnh, tu ý diệu hạnh, dùng hữu sở đắc làm phương tiện thọ trì tịnh giới. Vì đại Bồ tát được phương
tiện thiện xảo của Bát Nhã sâu xa hộ trì, phổ khắp đối với giới uẩn, định uẩn,
tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn của chư Phật Thế Tôn trong quá
khứ, hiện tại, vị lai. Hoặc giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải
thoát tri kiến uẩn của các Độc giác. Hoặc giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải
thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn của các Thanh văn. Hoặc ba việc phước nghiệp
thí tánh, giới tánh, tu tánh của các hữu tình. Tất cả như vậy tập hợp lại cân
lường và hiện tiền phát khởi rất tôn, rất thắng, tối thượng, tối diệu, không
thể nghĩ bàn, không thể cân lường, vô thượng không gì sánh bằng, tùy hỷ tương
ưng các việc phước nghiệp. Lại đem sự tùy hỷ tương ưng các việc phước nghiệp
này ban cho các hữu tình một cách bình đẳng, rồi cùng nhau hồi hướng quả vị Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Thiện Hiện nên biết! Các Bồ tát này
tùy hỷ hồi hướng các việc phước nghiệp hơn các Bồ tát trước đã nói gấp bội trăm
lần, ngàn lần, cho đến vô số lần. Vì sao? Vì các chúng Bồ tát trước dùng hữu sở đắc làm phương tiện tu tịnh
giới, còn sự tùy hỷ hồi hướng của Bồ tát này dùng vô sở đắc làm phương tiện. (Q.544,
TBBN)
Lại nữa, này Thiện Hiện! Ngoài việc
hằng hà sa số Tam thiên đại thiên thế giới hữu tình khắp mười phương phát tâm
quả vị Vô thượng Chánh đẳng giác, hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề,
các chúng Bồ tát dùng có sở đắc làm
phương tiện, tu tịnh giới tương ưng các việc phước nghiệp. Giả sử hằng hà
sa số tam thiên đại thiên thế giới hữu tình khắp mười phương đều phát tâm quả
vị Vô thượng Chánh đẳng giác, hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, và
các Bồ tát này đều trụ hằng hà sa số đại kiếp thường thọ trì an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã. Vì đại Bồ tát được
phương tiện thiện xảo của Bát Nhã sâu xa hộ trì, phổ khắp đối với giới uẩn,
định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn của chư Phật Thế Tôn
trong quá khứ, hiện tại, vị lai. Hoặc giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát
uẩn, giải thoát tri kiến uẩn của các Độc giác. Hoặc giới uẩn, định uẩn, tuệ
uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn của các Thanh văn. Hoặc ba việc
phước nghiệp thí tánh, giới tánh, tu tánh của các hữu tình. Tất cả như vậy tập
hợp lại cân lường và hiện tiền phát khởi rất tôn, rất thắng, tối thượng, tối
diệu, không thể nghĩ bàn, không thể cân lường, vô thượng không gì sánh bằng,
tùy hỷ tương ưng các việc phước nghiệp. Lại đem sự tùy hỷ tương ưng các việc
phước nghiệp này ban cho các hữu tình một cách bình đẳng, rồi cùng nhau hồi
hướng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Thiện Hiện nên biết ! Bồ tát này đem vô sở đắc làm phương tiện tu an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã nên
sự tùy hỷ hồi hướng của bồ tát này hơn Bồ tát tùy hỷ hồi hướng có sở đắc gấp
trăm lần, cho đến vô số lần. (Q.544,
TBBN)
Toàn quyển
544 của phẩm “Tùy Hỷ Hồi Hướng” so sánh tùy hỷ hồi hướng lấy tướng và vô tướng,
lấy sở đắc và vô sở đắc làm phương tiện. Nếu lấy tướng và hữu sở đắc làm phương
tiện tuy được công đức, nhưng đó chỉ là công đức hữu lậu. Nếu thiện nam thiện
nữ trụ Bồ tát thừa, chẳng lấy chẳng bỏ tướng hay vô tướng, chẳng trọng chẳng
khinh, chẳng hữu sở đắc, chẳng vô sở đắc, không phân biệt không phân biệt khác
cũng không chấp đắm thì phước đức vô lậu không thể tính đếm hết!
--- o0o ---
Phẩm “Hồi Hướng” của Kinh Tiểu Phẩm Bát Nhã do La Thập
dịch:
Để làm sáng
tỏ phẩm “Tùy Hỷ Hồi Hướng” cho cả bốn Hội, chúng tôi trích dẫn phẩm phẩm 7 có tên là “Hồi Hướng” trong
Tiểu Phẩm Bát Nhã do La Thập dịch
từ Phạn sang Hán. Phiên âm và lược dịch do Ô. Nguyên Tánh (Trần Tiễn Khánh) và
Ô. Nguyên Hiển (Trần Tiễn Huyến). Việt dịch: Chùa Châu Lâm. Tuệ Quang Wisdom
Light Foundation thực hiện.
“Bấy giờ, Bồ tát Di lặc nói với Tu
bồ đề:
Phước đức tùy hỷ của Bồ tát Ma ha
tát, so với phước đức bố thí, trì giới, tu thiền của chúng sinh khác, thì rất
lớn, tối thắng, tối thượng, rất kỳ diệu.
Bấy giờ, Tu bồ đề:
Nếu Bồ tát ở vô lượng a tăng kỳ thế
giới trong mười phương vô lượng chư Phật diệt độ trong quá khứ, chư Phật này từ
lúc mới phát tâm cho đến được Vô thượng Chính đẳng Chính giác, nhập Niết bàn Vô
dư cho đến lúc pháp diệt. Ở khoảng giữa này có phước đức thiện căn của sáu Ba
la mật; và phước đức bố thí, trì giới, tu thiền của các đệ tử Thanh văn; phước
đức vô lậu của hàng Hữu học, Vô học và các phẩm Giới, Định, Tuệ, Giải thoát,
Giải thoát tri kiến. Đại từ, đại bi, làm lợi ích, an ổn chúng sinh, của chư
Phật; vô lượng Phật pháp và chư Phật sở thuyết; từ nơi pháp này chúng sinh thọ
học, phước đức của các chúng sinh này và phước đức gieo được của chúng sinh sau
khi chư Phật diệt độ, tập hợp, đo lường các phước đức, khởi tâm tối đại, tối
thắng, tối thượng, tối diệu mà tùy hỷ. Tùy hỷ rồi thì hồi hướng Vô thượng Chính
đẳng Chính giác, quán thế này: Phước đức này của ta sẽ được Vô thượng Chính
đẳng Chính giác. Nếu Bồ tát nghĩ: Ta
lấy tâm này hồi hướng Vô thượng Chính đẳng Chính giác, có thể được các duyên
các sự theo tâm chấp thủ như thế không?
Di lặc nói:
Các duyên các sự này không thể đắc, giống như các tướng do tâm nắm giữ.
Tu bồ đề
nói: Nếu các duyên các sự này không phải như thế, người này sẽ không có tưởng
điên đảo, kiến điên đảo, tâm điên đảo; vô thường cho là thường, khổ cho
là lạc, bất tịnh cho là tịnh, vô ngã cho là ngã, sinh tưởng điên đảo, kiến điên
đảo, tâm điên đảo. Nếu các duyên các sự như thật, Bồ đề cũng như vậy, tâm cũng
như vậy. Nếu các duyên, các sự, Bồ đề và tâm không khác nhau, thì tâm tùy hỷ
hồi hướng Vô thượng Chính đẳng Chính giác này là gì?
Di lặc nói: Tu bồ đề, pháp hồi hướng
như vậy không nên nói trước Bồ tát mới phát tâm. Vì sao? Tâm tín lạc, cung
kính, thanh tịnh mà người này có được đều sẽ bị diệt mất. Tu bồ đề, pháp hồi hướng
như vậy nên nói trước Bồ tát Bất thoái chuyển. Nếu là thiện tri thức thì tùy
theo đó mà nói; người này nghe như vậy mà không kinh, không sợ, không mất,
không lui. Phước đức tùy hỷ của Bồ tát nên như thế mà hồi hướng Nhất thiết trí.
Tâm hồi hướng được sử dụng, tâm này chính là tận, là diệt. Tâm hồi hướng Vô
thượng Chính đẳng Chính giác là gì? Nếu dùng tâm khởi tâm hồi hướng thì hai tâm
này không cùng nhau. Lại nữa, tính của tâm không thể hồi hướng được.
Lúc đó, Thích đề hoàn nhân nói với
Tu bồ đề: Bồ tát mới phát tâm nghe việc này sẽ không kinh sợ sao? Nay làm thế
nào để Bồ tát dùng tùy hỷ phước đức mà hồi hướng như thật?
Bấy giờ, Tu bồ đề vì Bồ tát Di lặc
mà nói rằng: Bồ tát, đối với chư Phật quá khứ, đạo đã đoạn, hành đã diệt, hý
luận đã hết, diệt gai góc, trừ gánh nặng, được lợi mình, hết kết sử, chính trí,
giải thoát, tâm được tự tại. Chư Phật trong vô lượng a tăng kỳ thế giới, có
được năng lực phước đức thiện căn, và các đệ tử ở chỗ chư Phật, thiện căn gieo
được; tập hợp, đo lường các phước đức này, lấy tâm tối đại, tối thắng, tối
thượng, tối diệu mà tùy hỷ. Tùy hỷ rồi, hồi hướng Vô thượng Chính đẳng Chính
giác. Bồ tát này nay tại sao không rơi vào tưởng điên đảo, kiến điên đảo, tâm
điên đảo?
Nếu Bồ tát này dùng tâm như thế hồi
hướng Vô thượng Chính đẳng Chính giác, trong tâm như thế không khởi tướng của
tâm, tức là hồi hướng Vô thượng Chính đẳng Chính giác. Nếu Bồ tát này, trong
tâm như thế, khởi tướng của tâm, tức rơi vào tưởng điên đảo, kiến điên đảo, tâm
điên đảo. Nếu lúc Bồ tát tùy hỷ, tâm như thế các tướng tận diệt, biết như thật
tướng tận diệt, pháp tướng tận diệt tức không thể hồi hướng. Tâm hồi hướng cũng
là tướng như thế, pháp được hồi hướng cũng là tướng như thế. Nếu có thể hồi
hướng như thế, gọi là Chính hồi hướng.
Bồ tát Ma ha tát nên lấy tùy hỷ
phước đức để hồi hướng như thế. Nếu Bồ tát, đối với phước đức của chư Phật quá
khứ, cùng thiện căn gieo được nhờ nghe pháp của các đệ tử và người phàm phu cho
tới súc sinh, và sự phát tâm cầu Nhất thiết trí nhờ nghe pháp của các Thiên
long, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lâu la, Khẩn na la, Ma hầu la dà, người,
loài phi nhân, v.v... tập hợp, đo lường các phước đức như thế, lấy tâm tối đại,
tối thắng, tối thượng, tối diệu mà tùy hỷ; tùy hỷ rồi, hồi hướng Vô thượng
Chính đẳng Chính giác. Đó gọi là tùy hỷ phước đức chính hồi hướng Vô thượng
Chính đẳng Chính giác.
Lại nữa, Bồ tát biết như thế, không có Pháp nào là pháp có thể hồi hướng;
đó gọi là chính hồi hướng Vô thượng Chính đẳng Chính giác. Nếu Bồ tát hồi
hướng như vậy, tức không rơi vào tưởng điên đảo, kiến điên đảo, tâm điên đảo.
Vì sao? Vì Bồ tát này không tham trước hồi hướng, nên gọi là Hồi hướng vô
thượng. Nếu có Bồ tát, đối với phước đức, cho đó là pháp sinh khởi, chấp tướng,
phân biệt, thì không thể dùng phước đức này để hồi hướng. Vì sao? Pháp tác khởi
như thế đều rời tướng. Phước đức tùy hỷ cũng rời tướng. Nếu Bồ tát biết pháp
tác khởi được nghĩ đến rời tướng, thì nên biết đó là hành Bát nhã Ba la mật.
Lại nữa, phước đức thiện căn của chư
Phật đã diệt độ trong quá khứ cũng như vậy; hồi hướng mà dùng pháp, tánh, tướng
hồi hướng cũng như vậy. Nếu có thể biết như thế, gọi là chính hồi hướng Vô
thượng Chính đẳng Chính giác. Vì sao? Chư
Phật không tán đồng sự hồi hướng chấp thủ tướng. Nếu pháp quá khứ tận diệt,
pháp như thế là vô tướng, không thể lấy tướng để đắc. Nếu như thế mà lại phân
biệt, gọi là chấp thủ tướng. Nếu như thế mà không phân biệt, gọi là chính hồi
hướng. Tại sao không phân biệt chấp thủ tướng mà có thể hồi hướng? Vì Bồ tát
lấy việc như thế, phải học phương tiện Bát nhã Ba la mật. Nếu không nghe, không
được phương tiện Bát nhã Ba la mật, tức không thể vào được việc như thế. Nếu
không nghe, không được phương tiện Bát nhã Ba la mật, mà lấy các phước đức để
chính hồi hướng thì không có việc như thế. Vì sao? Người này đối với thân chư
Phật quá khứ và các phước đức đều đã diệt độ, mà phân biệt chấp thủ tướng để
được phước đức như thế, muốn dùng để hồi hướng. Hồi hướng như vậy, chư Phật
không tán đồng, cũng không tùy hỷ. Vì sao? Vì như thế là có sở đắc đối với pháp; có nghĩa là phân biệt chấp thủ tướng đối
với chư Phật diệt độ ở quá khứ; có sở đắc mà hồi hướng tức là tham trước lớn.
Lấy tâm có sở đắc như thế để hồi hướng, chư Phật không nói có lợi ích lớn. Vì
sao? Hồi hướng như thế có tên là tạp độc suy não. Ví như thức ăn ngon mà trong
có độc. Tuy có màu sắc đẹp, hương thơm, nhưng vì có độc nên không thể ăn. Người
ngu si không trí, nếu ăn thức ăn này, lúc đầu tuy hương thơm vừa ý nhưng khi
tiêu hóa thì mới cảm thấy rất khổ sở.
Như vậy có người không phải chính
thọ, tụng đọc, mà không hiểu nghĩa của nó mà lại dạy các đệ tử hồi hướng, nói
rằng: Hãy đến đây, các Thiện nam tử. Như các phẩm Giới, Định, Tuệ, Giải thoát,
Giải thoát tri kiến của chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại; thiện căn gieo được
của các đệ tử Thanh văn và người phàm phu, và chư Phật thọ ký cho chúng sinh
thành Phật Bích Chi, thiện căn gieo được của Phật Bích Chi như thế, và các Bồ
tát được thọ ký Vô thượng Chính đẳng Chính giác, thiện căn gieo được của Bồ tát
như thế; tập hợp đo lường các phước đức như thế mà tùy hỷ. Tùy hỷ rồi, hồi
hướng Vô thượng Chính đẳng Chính giác. Người này hồi hướng như thế. Sự hồi
hướng như thế vì phân biệt chấp thủ
tướng nên gọi tạp độc. Giống như thức ăn tạp độc, người có sở đắc không có
sự hồi hướng. Vì sao? Vì có sở đắc đều
là tạp độc. Vì sao? Bồ tát nên suy nghĩ thế này về thiện căn phước đức của
chư Phật quá khứ, vị lai và hiện tại: Nên hồi hướng như thế nào để gọi là chính
hồi hướng Vô thượng Chính đẳng Chính giác?
Nếu Bồ tát muốn không hủy báng chư
Phật thì nên hồi hướng thế này: Như phước đức được biết đến của chư Phật, có
tướng gì, tánh gì, thể gì, thực gì, ta cũng như thế mà tùy hỷ; ta lấy sự tùy hỷ
như thế mà hồi hướng Vô thượng Chính đẳng Chính giác. Bồ tát hồi hướng như thế
tức không có lầm lỗi, không hủy báng chư Phật; hồi hướng như thế tức không phải
tạp độc, cũng gọi là theo chư Phật dạy.
Lại nữa, Bồ tát nên lấy tùy hỷ phước
đức để hồi hướng thế này: Giống như phẩm
Giới, Định, Tuệ, Giải thoát, Giải thoát tri kiến không hệ thuộc Dục giới, Sắc
giới, Vô sắc giới; không phải quá khứ, vị lai, hiện tại, vì không có hệ thuộc.
Phước đức hồi hướng như thế cũng không hệ thuộc; pháp được hồi hướng cũng không
hệ thuộc, chỗ hồi hướng cũng không hệ thuộc. Nếu có thể hồi hướng như vậy thì
không phải tạp độc. Nếu không hồi hướng như thế gọi là tà hồi hướng. Pháp hồi
hướng của Bồ tát giống như pháp hồi hướng được biết đến của chư Phật ở ba đời;
ta cũng hồi hướng Vô thượng Chính đẳng Chính giác như thế. Đó gọi là Chính hồi
hướng.
Bấy giờ, Phật khen Tu bồ đề: Lành
thay! lành thay! Tu bồ đề! Ông hãy làm Phật sự vì các Bồ tát Ma ha tát. Tu bồ
đề! Nếu có chúng sinh ở Tam thiên đại thiên thế giới đều hành tâm từ bi hỷ xả,
bốn Thiền, bốn Định vô sắc, năm Thần thông, cũng không bằng phước đức hồi hướng
của Bồ tát này, tối đại, tối thắng, tối thượng, tối diệu.
Lại nữa, Tu bồ đề! Nếu có chúng sinh
trong Tam thiên đại thiên thế giới đều phát tâm Vô thượng Chính đẳng Chính
giác. Mỗi một Bồ tát như thế, trong hằng hà sa kiếp, dùng tâm sở đắc để cúng dường chúng sinh trong hằng hà sa thế giới, áo
quần, thức ăn, thuốc, đồ nằm, thuốc men, tất cả nhạc cụ. Mỗi một Bồ tát như
vậy, trong hằng hà sa kiếp, đều lấy tâm sở đắc cúng dường các chúng sinh này áo
quần, thức ăn, đồ nằm, thuốc men, tất cả nhạc cụ, ý ông thế nào? Các Bồ tát này
nhờ nhân duyên này, được phước nhiều không?
Tu bồ đề bạch Phật: Rất nhiều, Thế
tôn! Không thể thí dụ! Nếu phước đức này có hình tướng thì hằng hà sa thế giới
không thể dung chứa nổi.
Phật khen Tu bồ đề: Lành thay, lành
thay! Tu bồ đề, thì phước đức bố thí bằng tâm có sở đắc trước đây, trăm phần
không bằng một phần, ngàn vạn ức phần không bằng một phần, cho tới tính đếm thí
dụ cũng không thể bằng.
Bấy giờ, hai vạn Thiên tử ở trời Tứ
thiên vương chắp tay lễ Phật, bạch rằng: Bạch Thế Tôn! Sự hồi hướng của Bồ tát
như thế gọi là Đại hồi hướng. Vì phương tiện, nên hơn cả phước đức bố thí của
Bồ tát có sở đắc. Vì sao? Vì sự hồi hướng của Bồ tát như thế được Bát nhã Ba la
mật gia hộ.
Bấy giờ, mười vạn Thiên tử ở trời
Đao lợi dùng hoa hương trời, hương thoa, hương bột, thiên y, cờ phướn, kỹ nhạc
để cúng dường Phật, đều nói thế này: Bạch Thế Tôn! Sự hồi hướng của Bồ tát như
thế gọi là Đại hồi hướng. Vì phương tiện, nên hơn cả phước đức bố thí của Bồ
tát có sở đắc. Vì sao? Vì sự hồi hướng của Bồ tát như thế được Bát nhã Ba la
mật gia hộ.
Mười vạn Thiên tử ở Dạ Ma thiên,
mười vạn Thiên tử ở Đâu suất đà thiên, mười vạn Thiên tử ở Hóa lạc thiên, đều
nói thế này: Bạch Thế Tôn! Sự hồi hướng của Bồ tát như thế gọi là Đại hồi
hướng. Vì phương tiện, nên hơn cả phước đức bố thí của Bồ tát có sở đắc. Vì
sao? Vì sự hồi hướng của Bồ tát như thế được Bát nhã Ba la mật gia hộ. Vì
phương tiện nên hơn cả phước đức bố thí của Bồ tát có sở đắc. Vì sao? Hồi hướng
của Bồ tát như thế được Bát nhã Ba la mật hộ niệm.
Các Thiên tử ở Phạm phụ thiên, Phạm
chúng thiên, Đại Phạm thiên, Quang thiên, Thiểu quang thiên, Vô lượng quang
thiên, Quang âm thiên, Tịnh thiên, Thiểu tịnh thiên, Vô lượng tịnh thiên, Biến
tịnh thiên, Vô vân hành thiên, Phước sanh thiên, đều chấp tay lễ Phật, nói thế
này: Bạch Thế Tôn! Thiện nam, Thiện nữ cầu Phật đạo như thế rất hiếm có, vì
được Bát nhã Ba la mật gia hộ, nên hơn cả phước đức bố thí của Bồ tát có sở
đắc. Vì sao? Vì sự hồi hướng của Bồ tát như thế được Bát nhã Ba la mật gia hộ.
Bấy giờ, Phật bảo các Thiên tử ở
Tịnh cư thiên: Ngoài chúng sinh ở Tam thiên đại thiên thế giới này, nếu chúng
sinh ở hằng hà sa thế giới trong mười phương đều phát tâm Bát nhã Ba la mật.
Nếu mỗi một Bồ tát như thế trong hằng hà sa kiếp, dùng tâm có sở đắc, cúng
dường áo quần, thức ăn, đồ nằm, thuốc men, tất cả nhạc cụ, cho chúng sinh ở
hằng hà sa thế giới trong mười phương. Mỗi một Bồ tát như vậy đều ở hằng hà sa
kiếp, dùng tâm có sở đắc, cúng dường áo quần, thức ăn, đồ nằm, thuốc men, tất
cả nhạc cụ, cho các chúng sinh này. Nếu có Bồ tát, đối với các phẩm Giới, Định,
Tuệ, Giải thoát, Giải thoát tri kiến của chư Phật quá khứ, vị lại, hiện tại, và
thiện căn gieo được của các đệ tử Thanh văn và người phàm phu; tập hợp, đo
lường các công đức như thế, dùng tâm tối đại, tối thắng, tối thượng, tối diệu
mà tùy hỷ. Tùy hỷ rồi, hồi hướng Vô thượng Chính đẳng Chính giác thì phước đức
vị đó rất nhiều.
Bấy giờ, Tu bồ đề bạch Phật: Bạch
Thế Tôn! Như lời Phật dạy, tập hợp đo lường các phước đức như thế, dùng tâm tối
đại, tối thắng, tối thượng, tối diệu mà tùy hỷ. Tùy hỷ rồi, hồi hướng Vô thượng
Chính đẳng Chính giác. Bạch Thế Tôn! Thế nào là tùy hỷ tối đại, tối thắng, tối
thượng, tối diệu?
Phật bảo Tu bồ đề: Nếu Bồ tát, đối với các pháp quá khứ, vị
lại, hiện tại, mà không nắm, không bỏ, không niệm, không đắc; trong đó không có
pháp, dù đã sinh diệt, dù đang sinh diệt, dù sẽ sinh diệt, như thực tướng của
các Pháp. Tùy hỷ hồi hướng Vô thượng Chính đẳng Chính giác cũng như thế. Tu bồ
đề! Đó gọi là tùy hỷ hồi hướng tối đại, tối thắng, tối thượng, tối diệu của Bồ
tát.
Lại nữa, Tu bồ đề! Bồ tát, nếu muốn
đối với bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ, giải thoát,
giải thoát tri kiến của chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai mà tùy hỷ, thì nên
tùy hỷ như thế. Như trì giới giải thoát cũng thế. Như định tuệ giải thoát, giải
thoát, giải thoát tri kiến, cũng thế. Như tín giải giải thoát cũng thế. Như tùy
hỷ giải thoát cũng thế. Như Pháp giải thoát chưa sinh ở vị lai cũng thế. Như
chư Phật và đệ tử giải thoát trong mười phương vô lượng a tăng kỳ thế giới ở
hiện tại cũng thế. Như chư Phật và đệ tử giải thoát trong vô lượng a tăng kỳ
thế giới ở vị lai cũng thế. Các pháp tướng như thế không hệ thuộc, không trói
buộc, không giải, không thoát; vì hồi hướng Vô thượng Chính đẳng Chính giác như
thế không sinh, không diệt.
Tu bồ đề! Đó gọi là tùy hỷ hồi hướng
tối đại, tối thắng, tối thượng, tối diệu của Bồ tát. Hồi hướng như thế hơn cả
các Bồ tát ở hằng hà sa thế giới trong mười phương dùng tâm có sở đắc, trong
hằng hà sa kiếp, cúng dường áo quần, thức ăn, thuốc men, tất cả nhạc cụ, cho
chúng sinh ở hằng hà sa thế giới trong mười phương dùng tâm có sở đắc để bố
thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định. Đối với phước đức tùy hỷ hồi
hướng này, trăm phần không bằng một phần, trăm ngàn vạn ức phần không bằng một
phần cho tới tính đếm thí dụ cũng không thể bằng”.
--- o0o ---
Phần đầu phẩm “Tùy Hỷ Hồi Hướng”, Phật Mẫu Bát Nhã
Kinh
do Thí Hội dịch:
Phẩm “Hồi
Hướng” trên của “Tiểu Phẩm Bát Nhã” do La Thập dịch tuy ngắn gọn, nhưng văn từ
không được lưu loát như phẩm “Tùy Hỷ Hồi Hướng” của “Kinh Phật Thuyết Phật Mẫu Xuất Sinh Tam Pháp Tạng Bát Nhã Ba La Mật” do
Thí Hội dịch. Nên nhân đây chúng tôi trích dẫn phần đầu phẩm này, tương đương với quyển 543 của TBBN do Ngài Huyền
Trang dịch để Quý vị độc giả tham cứu thêm. Chúng ta không có dịp trở lại vấn
đề này nữa. Thà không biết thì thôi, biết phải rõ ràng thấu đáo. Đây là một
phẩm nói về tùy hỉ hồi hướng hay nhất so với tất cả các phẩm cùng một đề tài
của nhiều kinh khác nhau mà chúng ta có dịp đọc qua:
“Bấy giờ, Bồ tát Từ Thị nói với Tôn
giả Tu bồ đề: Nếu Bồ tát Ma ha tát ở nơi
pháp môn Bát nhã Ba la mật sâu xa này, tùy hỷ hồi hướng, thu được công đức,
so với công đức bố thí, trì giới, tu định của chúng sinh khác thì tối thượng,
tối cực, tối thắng, tối diệu, rộng lớn, không thể suy lường, không có gì bằng,
không thể so sánh. Vì thế, ở nơi Chính pháp sâu xa này, nên tùy hỷ hồi hướng
đúng lý.
Bấy giờ, Tôn giả Tu bồ đề bạch Bồ
tát Từ Thị: Nếu Bồ tát Ma ha tát ở mười phương, tất cả chỗ, vô lượng vô số vô
biên ba ngàn Đại thiên thế giới không thể nghĩ bàn, không thể tính đếm; trong
mỗi một thế giới, có vô lượng vô số vô biên Như Lai Ứng cúng Chính đẳng Chính
giác đã nhập Niết bàn ở quá khứ. Các Như Lai này từ mới phát tâm cho đến thành
tựu quả Vô thượng Chính đẳng Chính giác, đã nhập cảnh giới Đại Niết bàn Vô dư y
cho đến Pháp diệt đến nay. Trong khoảng thời gian đó có các nhóm giới, định,
tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến của chư Phật Thế Tôn, và thiện căn tương
ưng sáu Ba la mật của chư Phật, thiện căn tương ưng công đức của chư Phật,
thiện căn tương ưng Phương tiện, Nguyện, Lực, Trí Ba la mật, thần thông rộng
lớn, thiện căn sinh ra tương ưng Chính hành của Nhất thiết trí trí, cho đến
nhóm công đức đại từ, đại bi, vô lượng vô biên lợi ích an lạc tất cả chúng sinh
của Phật. Tất cả pháp môn Ba la mật như thế sinh ra tất cả thần thông tối
thắng, đủ loại pháp hành lìa chướng, không dính mắc, trí lực như thật của Như
Lai, tri kiến của Như Lai, không gì có thể hơn, không gì sánh bằng, không hạn
lượng, không có cái được quán sát; cho đến mười Lực, bốn Vô sở úy, tất cả các
pháp môn thắng nghĩa đầy đủ, viên mãn của Như Lai. Có Như Lai chuyển bánh xe
Đại Pháp, cầm đèn Đại Pháp, đánh trống Đại Pháp, thổi tù và Đại Pháp, tạo niềm
vui Đại Pháp, mưa cơn mưa Đại Pháp, hiểu trí Đại Pháp, lấy tài vật Đại Pháp thí
cho các chúng sinh, nói các pháp Phật, các pháp Duyên Giác và pháp Thanh Văn,
rộng khiến chúng sinh tu học, trong đó có tất cả thiện căn tối thắng. Và chư
Phật đó, vì các chúng Bồ tát Ma ha tát, thụ ký sẽ đắc quả Vô thượng Chính đẳng
Chính giác; các Bồ tát này có thiện căn tương ưng sáu Ba la mật.
Lại vì những người theo Duyên Giác
thừa, thụ ký quả Duyên Giác, nên họ có được tất cả thiện căn.
Lại có những người theo Thanh Văn
thừa, thực hành bố thí, trì giới, tu định, có được công đức, và thiện căn như
thế của các bậc Hữu học vô lậu, Vô học vô lậu.
Lại có các dị sinh ngu muội trồng
được thiện căn, và bốn chúng Tỷ khưu, Tỷ khưu ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di thực hành
công đức bố thí, trì giới, tu định; cho đến Thiên, Long, Dạ xoa, Càn thát bà, A
tu la, khẩn na la, ma hầu la dà, người, và phi nhân, các loại bàng sinh, nghe
Phật nói pháp trồng được thiện căn. Cho đến sau khi Như Lai nhập Niết bàn, tất
cả chúng sinh trồng được thiện căn ở Phật, Pháp, Tăng. Đủ loại thiện căn, đủ
loại công đức như thế, có tính chất cùng tận, không cùng tận, hòa hợp, tụ tập,
tính đếm, đo lường. Người tu Bồ tát lấy tâm tối thượng, tối cực, tối thắng, tối
diệu, quảng đại, không thể đo lường, không gì bằng, không thể so sánh, thảy đều tùy hỷ. Lấy công đức tùy hỷ
như thế hồi hướng Vô thượng Chính đẳng Chính giác, nói như thế này: “Ta
nguyện dùng thiện căn này, để đắc quả Vô thượng Chính đẳng Chính giác”. Người tu Bồ tát này có các duyên, các sự,
các tướng từ tâm sinh ra. Tướng được tâm nắm bắt như thế có thể đạt được không?
Bấy giờ, Bồ
tát Từ Thị nói với Tôn giả Tu bồ đề: Không thể, Tu bồ đề! Các duyên, các sự,
các tướng có được từ tâm sinh ra; tướng được tâm nắm bắt như thế đều không thể
đạt được.
Tu bồ đề
bạch Bồ tát Từ Thị: Nếu các duyên, các sự, các tướng được tâm nắm bắt như thế
có phải người này sẽ có tưởng điên đảo, tâm điên đảo, kiến điên đảo không? Vì
sao? Vì có cái sinh ra. Vô thường cho là thường, khổ cho là lạc, bất tịnh cho
là tịnh, vô ngã cho là ngã, tâm nghi hoặc cho là tư duy chân chính. Vì thế ở
nơi tưởng, tâm, kiến đều thành điên đảo. Nếu ở nơi các duyên, các sự, các
tướng, tất cả đều trú pháp Như thực, tức không có cái sinh ra, cũng không có
cái được nắm bắt. Do thế nên tâm pháp cũng vậy, các pháp cũng vậy, Bồ đề cũng
vậy. Nếu các duyên, các sự, các tướng, Bồ đề và tâm đều không khác, thì đối với
sở duyên nào để nắm bắt tướng nào, sẽ lấy tâm nào để tùy hỷ công đức? Lại lấy
thiện căn nào để hồi hướng Vô thượng Chính đẳng Chính giác?
Bấy giờ, Bồ tát Từ Thị bảo Tôn giả
Tu bồ đề: Như ông đã nói, pháp hồi hướng này không nên vì Bồ tát mới phát ý kia
mà tuyên thuyết như thế. Vì sao? Nếu họ nghe nói như thế, thì tâm tin hiểu, ưa
thích, cung kính, thanh tịnh có được đều bị khuất mất. Vì nghĩa này, không nên
nói với họ. Nếu có người trú Bồ tát bất thoái chuyển, tùy thuận Thiện tri thức,
thì nên vì họ tuyên thuyết như thế. Bồ tát đó nghe pháp này rồi, không khiếp,
không sợ, cũng không thoái lui. Bồ tát Ma ha tát như thế có thể lấy công đức
tùy hỷ như thật hồi hướng Nhất thiết trí kia.
Bấy giờ, Tôn giả Tu bồ đề bạch Bồ
tát Từ Thị: Nếu Bồ tát khởi tâm tùy hỷ, tâm hồi hướng; tâm này chính là tận,
chính là diệt, chính là ly. Nên lấy tâm nào để có thể tùy hỷ? Lại dùng tâm nào
để hồi hướng Vô thượng Chính đẳng Chính giác? Hai tâm này không cùng khởi, cũng
không có. Nếu tự tính các tâm lại không thể hồi hướng, thì lấy tâm nào để có
thể hồi hướng?
Bấy giờ, Thiên chủ Đế Thích bạch Tôn
giả Tu bồ đề: Nếu có Bồ tát mới phát ý nghe nói như thế mà không sợ hãi sinh
thoái lui không? Tôn giả, nay thế nào là như thật tùy hỷ, như thật hồi hướng?
Thế nào mới là pháp tùy hỷ? Lại nữa, thế nào là tâm hồi hướng?
Bấy giờ, Tôn giả Tu bồ đề nương oai
thần và sức gia trì của Bồ tát Từ Thị, lại bạch Bồ tát Từ Thị: Các Bồ tát Ma ha
tát đều đã tu tập các Phật đạo quá khứ, đã diệt hý luận, trừ khử gai góc, bỏ
các gánh nặng, được thiện lợi lớn; có các trói buộc đều đã hết, chính trí vô
ngại, tâm được tự tại, các tâm khéo yên. Các Bồ tát này, ở mười phương, tất cả
chỗ, vô lượng vô số ba ngàn Đại thiên thế giới, trong mỗi thế giới, có vô lượng
vô số chư Phật Như Lai đã nhập Niết bàn trong quá khứ. Các Như Lai này từ mới
phát tâm cho đến thành tựu quả Vô thượng Chính đẳng Chính giác, đã nhập cảnh
giới Đại Niết bàn Vô dư y, cho đến Pháp diệt đến nay. Trong khoảng thời gian
đó, có thiện căn tương ưng các Ba la mật của chư Phật Thế Tôn, và đủ loại thiện
căn phúc hạnh của chư Phật; thiện căn các nhóm giới, định, tuệ, giải thoát,
giải thoát tri kiến, của chư Phật; cho đến nhóm công đức đại từ, đại bi, vô
lượng vô biên lợi ích an lạc tất cả chúng sinh, của Phật; và đủ loại pháp môn
được Phật thuyết. Tất cả chúng sinh học trong đó, tin hiểu, an trú, có được
thiện căn. Và Phật Thế Tôn, vì các Bồ tát, thụ ký Vô thượng Chính đẳng Chính
giác; các Bồ tát này có thiện căn tương ưng sáu Ba la mật.
Lại vì những người theo Duyên Giác
thừa, thụ ký quả Duyên Giác, nên họ có được tất cả thiện căn.
Lại có những người theo Thanh Văn
thừa, thực hành bố thí, trì giới, tu định, có được công đức, và thiện căn như
thế của các bậc Hữu học vô lậu, Vô học vô lậu.
Lại có các dị sinh ngu muội trồng
được thiện căn; cho đến Thiên, Long, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lâu la,
Khẩn na la, Ma hầu la dà, người, và phi nhân, các loại bàng sinh, nghe Phật
thuyết pháp trồng được thiện căn, cho đến sau khi Như Lai nhập Niết bàn, tất cả
chúng sinh trồng được thiện căn. Đủ loại thiện căn, đủ loại công đức như thế,
hòa hợp, tụ tập, tính đếm, đo lường; các
Bồ tát này đều tùy hỷ, dùng công đức tùy hỷ này hồi hướng Vô thượng Chính đẳng
Chính giác.
Thưa Ngài Từ Thị, nếu Bồ tát Ma ha
tát hồi hướng như thế, làm thế nào để không rơi vào tưởng điên đảo, tâm điên
đảo, kiến điên đảo?
Bấy giờ, Bồ tát Từ Thị bảo Tôn giả
Tu bồ đề: Nếu Bồ tát Ma ha tát, khi dùng tâm tùy hỷ và hồi hướng, ở trong tâm này không sinh tâm tưởng, biết
như thật tâm không có tướng nắm bắt. Nếu Bồ tát Ma ha tát có thể lấy công
đức tùy hỷ như thế, hồi hướng Vô thượng Chính đẳng Chính giác, tức Bồ tát Ma ha
tát này không rơi vào tưởng, tâm, kiến điên đảo. Nếu ở nơi tâm lại không biết
như thật, dùng tưởng có sở đắc mà hồi
hướng, thì Bồ tát Ma ha tát này không thể xa lìa tưởng, tâm, kiến điên đảo.
Lại nữa, nếu các Bồ tát Ma ha tát
lấy tâm có sở đắc mà hồi hướng, thì
tâm này chính là tận, chính là diệt, chính là ly. Tâm tận, diệt đó không thể
hồi hướng. Nếu dùng tâm không có sở đắc
mà hồi hướng, tức là Pháp tính như thật hồi hướng. Nếu pháp hồi hướng như thế,
tức Pháp tính cũng thế; Pháp tính hồi hướng như thế, tức các pháp cũng thế. Nếu
Bồ tát Ma ha tát có thể hồi hướng như thế, thì đó là hồi hướng đúng, không gọi
là hồi hướng sai. Pháp hồi hướng này, Bồ tát Ma ha tát nên học như thế.
Lại nữa, Tôn giả Tu bồ đề! Nếu Bồ
tát Ma ha tát, giống như thiện căn của chư Phật quá khứ, tùy hỷ hồi hướng như
thế; nếu đều đã tu tập các Phật đạo vị lai, đã diệt hý luận, được thiện lợi
lớn. Các Như Lai này, từ mới phát tâm cho đến thành tựu quả Vô thượng Chính
đẳng Chính giác, đã nhập cảnh giới Đại Niết bàn Vô dư y cho đến Pháp diệt đến
nay. Trong khoảng thời gian đó có thiện căn tương ưng các Ba la mật của chư
Phật Thế Tôn, và thiện căn các uẩn giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri
kiến, của chư Phật đó; cho đến nhóm công đức đại từ, đại bi, vô lượng vô biên
lợi ích, an lạc tất cả chúng sinh của Phật; và đủ loại pháp môn được Phật
thuyết. Tất cả chúng sinh học trong đó, tin hiểu, an trú, có được thiện căn. Và
Phật Thế Tôn, vì các Bồ tát, thụ ký Vô thượng Chính đẳng Chính giác; các Bồ tát
này có thiện căn tương ưng sáu Ba la mật.
Lại vì những người theo Duyên Giác
thừa thụ ký Duyên Giác để họ có tất cả thiện căn.
Lại nữa, có những người theo Thanh
Văn thừa thực hành bố thí, trì giới, tu định, có được công đức; và thiện căn
như thế của các bậc Hữu học vô lậu, Vô học vô lậu.
Lại có các dị sinh ngu muội trồng
được thiện căn, cho đến Thiên, Long, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lâu la,
Khẩn na la, Ma hầu la dà, người, và phi nhân, các loại bàng sinh, nghe Phật
thuyết pháp trồng được thiện căn; cho đến sau khi Như Lai nhập Niết bàn, tất cả
chúng sinh trồng được thiện căn. Đủ loại thiện căn, đủ loại công đức như thế,
hòa hợp, tụ tập, tính đếm, đo lường; các Bồ tát này đều tùy hỷ, dùng công đức tùy hỷ này hồi hướng Vô
thượng Chính đẳng Chính giác.
Tôn giả Tu bồ đề, Bồ tát đó khi dùng
tâm tùy hỷ và hồi hướng, nếu ở trong tâm này không sinh tâm tưởng, biết như
thật tâm không có tướng nắm bắt, có thể lấy công đức tùy hỷ như thế, hồi hướng
Vô thượng Chính đẳng Chính giác, tức Bồ tát này không rơi vào tưởng, tâm, kiến
điên đảo. Nếu ở nơi tâm lại không biết như thật, dùng tưởng có sở đắc mà hồi
hướng, thì Bồ tát này không thể xa lìa tưởng, tâm, kiến điên đảo.
Lại nữa, nếu các Bồ tát lấy tâm có sở đắc mà hồi hướng, thì tâm này
chính là tận, chính là diệt, chính là ly. Tâm tận, diệt đó không thể hồi hướng.
Nếu dùng tâm không có sở đắc mà hồi
hướng, tức là Pháp tính như thật hồi hướng. Nếu pháp hồi hướng như thế tức
Pháp tính cũng thế; Pháp tính hồi hướng như thế, tức các pháp cũng thế. Nếu hồi
hướng như vậy, thì đó là hồi hướng đúng, không gọi là hồi hướng sai.
Lại nữa, Tôn giả Tu bồ đề. Bồ tát Ma
ha tát, giống như thiện căn của chư Phật vị lai, tùy hỷ hồi hướng như thế; nếu
ở nơi chư Phật Như Lai hiện tại, từ mới phát tâm cho đến thành tựu quả Vô
thượng Chính đẳng Chính giác, đã nhập cảnh giới Đại Niết bàn Vô dư y
cho đến Pháp diệt đến nay. Trong khoảng thời gian đó có tất cả thiện căn của
chư Phật Thế Tôn, cho đến thiện căn tất cả chúng sinh trồng được sau khi Như
Lai nhập Niết bàn. Đủ loại thiện căn, đủ loại công đức như thế, hòa hợp, tụ
tập, tính đếm, đo lường; các Bồ tát này đều tùy hỷ, dùng công đức tùy hỷ này
hồi hướng Vô thượng Chính đẳng Chính giác.
Tôn giả Tu bồ đề, Bồ tát đó khi dùng
tâm tùy hỷ và hồi hướng, ở trong tâm này
không sinh tâm tưởng, biết như thật tâm không có tướng nắm bắt. Nếu có thể
tùy hỷ công đức như thế, hồi hướng Vô thượng Chính đẳng Chính giác, tức Bồ tát
này không rơi vào tưởng, tâm, kiến điên đảo. Nếu lại dùng tâm có sở đắc mà hồi
hướng, thì Bồ tát này không thể xa lìa tưởng, tâm, kiến điên đảo. Bồ tát Ma ha
tát đó nên như thật biết khi dùng tâm để hồi hướng thì tâm này chính là tận,
chính là diệt, chính là ly. Tâm tận, diệt đó không thể hồi hướng. Nếu dùng tâm không có sở đắc mà hồi hướng, tức là
Pháp tính như thật hồi hướng. Nếu pháp hồi hướng như thế, tức Pháp tính cũng
thế; Pháp tính hồi hướng như thế, tức các pháp cũng thế. Nếu Bồ tát Ma ha tát,
ở trong pháp quá khứ, hiện tại, vị lai như thế, có thể như thật biết hồi hướng
như thật, thì đó là hồi hướng đúng, không gọi là hồi hướng sai.
Lại nữa, Tu bồ đề. Bồ tát Ma ha tát
nếu muốn như thật hồi hướng Vô thượng Chính đẳng Chính giác, nên quán các pháp giống như hư không, rời
tất cả tướng. Vì sao? Nếu ở nơi các
pháp biết rõ như thật; tức không tâm, không phải không tâm, chính là cái biết;
không pháp, không phải không pháp, chính là tướng được biết. Nếu Bồ tát, ở
trong pháp như thế, có thể hồi hướng, thì gọi là hồi hướng tối thượng; vì thế
được gọi là Bồ tát Ma ha tát chính tu phúc hành. Vì sao? Nếu đủ loại pháp và đủ
loại hành đều tịch tĩnh, thì công đức tùy hỷ có được để hồi hướng Vô thượng
Chính đẳng Chính giác cũng như vậy. Nếu như thật biết các hành đều tịch tĩnh
không động, tức Bồ tát Ma ha tát này có thể đầy đủ phương tiện Bát nhã Ba la
mật. Sau khi Phật Thế Tôn nhập Niết bàn, có được thiện căn, dù thể, dù tướng,
dù tự tính, dù Pháp tính, đều như thật biết, tức có thể hồi hướng Vô thượng
Chính đẳng Chính giác. Vì sao? Vì tất cả hành pháp tương ưng của chư Phật Thế
Tôn đều không phải ba đời. Nếu đời quá khứ thì pháp đó đã ly, đã diệt, đã tận;
nếu đời vị lai thì chưa đến; nếu đời hiện tại thì nay tức không đình trú(tạm
trú); lại không có sở đắc, chẳng phải là tướng của cảnh giới. Nếu nắm bắt
tướng, tức ở nơi Vô thượng Chính đẳng Chính giác, trú không bình đẳng, tương
ưng tà niệm, sinh tưởng nghi hoặc, không thể an trú chính niệm chính ý, nghĩ
sai, biết sai; như thế thì không gọi là hồi hướng Vô thượng Chính đẳng Chính
giác. Nếu Bồ tát Ma ha tát, ở nơi các thiện căn, không có tướng được nắm bắt, không
có tâm sở đắc; lấy tâm này hồi hướng, tức là hồi hướng Vô thượng Chính đẳng
Chính giác. Pháp hồi hướng như thế, Bồ tát nên học. Nếu học như thế, thì có thể
đầy đủ phương tiện thiện xảo. Nếu dùng các thiện căn có phương tiện thiện xảo
này để hồi hướng, tức được gần Nhất thiết trí. Nếu các Bồ tát Ma ha tát ưa muốn
tu học phương tiện này, nên ở nơi pháp môn Bát nhã Ba la mật này, nghe nhận,
đọc tụng, ghi nhớ, suy nghĩ, thưa hỏi nghĩa đó; hiểu được rồi thì rộng nói cho
người khác. Đó là phương tiện Bát nhã Ba la mật. Nếu không được phương tiện Bát
nhã Ba la mật, tức không thể dùng các thiện căn hồi hướng Vô thượng Chính đẳng
Chính giác. Vì sao? Ngã tướng đã diệt, các hành đã lắng, xa lìa tất cả tướng có
sở đắc.
Nếu lại có người ở nơi tất cả các
pháp mà khởi tướng nắm bắt, rơi vào cái
thấy nghi hoặc, không thể an trú trong pháp như thật, ở nơi pháp như thật
sinh tưởng có sở đắc. Nếu dùng thiện căn như thế hồi hướng Vô thượng Chính đẳng
Chính giác, chư Phật Như Lai không thừa nhận là có khả năng, cũng không tùy hỷ.
Vì sao? Hồi hướng như thế gọi là Đại tham, ở nơi tất cả các pháp sinh tâm nghi
hoặc. Hơn nữa, ở nơi các tướng không tịch, sinh tưởng có sở đắc, Như Lai Ứng
cúng Chính đẳng Chính giác cũng không nói là có lợi ích lớn; mà hồi hướng này
gọi là khổ não tạp độc. Ví như thức ăn uống ngon nhất thế gian, các sắc, hương,
vị đều đầy đủ, nhưng trong thức ăn đó có lẫn chất độc. Những người có trí biết
có chất độc nên không lấy ăn; kẻ ngu si không trí không thể biết được nên mới
lấy ăn. Khi mới ăn vào, sắc, hương, vị ngon tuy đáng ưa thích, nhưng khi thức
ăn đã tiêu hóa, khổ báo mới xuất hiện; vì nguyên do này mà bị mất mạng.
Tôn giả Tu bồ đề, nay ông nên biết
những người có thiện căn tùy hỷ, phát tâm hồi hướng, không thể thụ trì, đọc
tụng Bát nhã Ba la mật cũng thế. Vì sao? Không thể đầy đủ phương tiện Bát nhã
Ba la mật nên không thể hiểu rõ chính nghĩa sâu thẳm, không thể an trú ở đạo
Như thật, tự mình không biết rõ pháp Như thật đó. Lại vì người khác lần lượt
dạy truyền, nói như thế này: “Thiện nam tử các ông, ở nơi chư Phật Thế Tôn quá
khứ, vị lai, hiện tại, có thiện căn các nhóm giới, định, tuệ, giải thoát, giải
thoát tri kiến, và có chư Phật Thế Tôn quá khứ, hiện tại, vị lai, từ mới phát
tâm cho đến thành tựu quả Vô thượng Chính đẳng Chính giác, đã nhập cảnh giới
Đại Niết bàn Vô dư y, trong thời gian đó có được công đức. Và, vì các Bồ tát Ma
ha tát, thụ ký sẽ đắc quả Vô thượng Chính đẳng Chính giác; các Bồ tát này có
được thiện căn. Lại vì những người theo Duyên Giác thừa thụ ký Duyên Giác; các
Duyên Giác này có được thiện căn. Và các Thanh Văn tu bố thí, trì giới, v.v...,
sau khi Phật diệt, Pháp diệt đến nay; trong thời gian đó có được thiện căn. Cho
đến thiện căn có được của dị sinh ngu muội. Đủ loại thiện căn, đủ loại công đức
như thế, hòa hợp, tụ tập, tính đếm, đo lường, có tính chất cùng tận hay không
cùng tận, các ông đều nên tùy hỷ tất cả. Dùng thiện căn tùy hỷ này hồi hướng Vô
thượng Chính đẳng Chính giác.
Tu bồ đề, người đó nếu nói như thế,
khuyến khích khiến tùy hỷ hồi hướng như thế, thì giống như trong thức ăn ngon
có lẫn chất độc. Pháp hồi hướng này gọi là khổ não tạp độc. Những người tu hạnh
Bồ tát, ở nơi pháp mình hành trì còn không nên khởi tâm hồi hướng này, huống là
khuyến khích người khác tu pháp này như thế. Nếu ở nơi tướng này chấp là thật,
thì không gọi là tùy hỷ công đức chư Phật, không gọi là thụ trì, không gọi là
hồi hướng.
Nếu các Bồ tát ưa muốn như thật tùy
hỷ tất cả thiện căn tối thượng của chư Phật Như Lai, như thật hồi hướng Vô
thượng Chính đẳng Chính giác, thì nên tùy thuận Như Lai Ứng cúng Chính đẳng
Chính giác, như thật quán sát giống như mắt của Phật, như thật liễu tri giống
như trí của Phật. Ở nơi các thiện căn, dù thể, dù tướng, dù tự tính, dù pháp
tính, đều biết rõ như thật không có
sinh, không có sở đắc. Nếu có thể tùy hỷ thiện căn như thế, được Phật thừa
nhận là có khả năng, Phật cũng tùy hỷ. Các Bồ tát Ma ha tát tùy hỷ như thế
chính là tùy hỷ đúng. Dùng thiện căn này hồi hướng Vô thượng Chính đẳng Chính
giác; Như Lai Ứng cúng Chính đẳng Chính giác xưng tán tối thượng. Hồi hướng như
thế gọi là Đại hồi hướng, hồi hướng pháp giới khéo được viên mãn, nội tâm thanh
tịnh, giải thoát vô ngại.
Lại nữa, các Thiện nam tử, v.v...,
tu Bồ tát thừa, tu tập pháp hồi hướng như thế, ở nơi giới, định, tuệ, giải
thoát, giải thoát tri kiến, của Phật Như Lai, không bị trói buộc, không bị dính mắc; không hệ thuộc Dục giới,
không hệ thuộc Sắc giới, không hệ thuộc Vô sắc giới; lại cũng không hệ thuộc ba
đời quá khứ, vị lai, hiện tại; không hệ thuộc các pháp, không hệ thuộc pháp hồi
hướng. Người tu Bồ tát biết được như thế thì không làm hoại pháp hồi hướng. Đó
là Đại hồi hướng, khéo được viên mãn hồi hướng pháp giới. Hồi hướng như thế
không nắm các tướng, xa lìa pháp tà, gọi là hồi hướng chân chính. Như Lai Ứng cúng Chính đẳng Chính giác chân
thật thừa nhận là có khả năng, cũng tùy hỷ. Bồ tát Ma ha tát nên học như thế.
Bấy giờ, Thế Tôn khen Tôn giả Tu bồ
đề: Hay thay! Hay thay! Tu bồ đề, ông khéo làm Phật sự, có thể vì các Bồ tát Ma
ha tát thưa hỏi nghĩa này. Tu bồ đề, các Bồ tát Ma ha tát, nếu có thể hồi hướng
Pháp giới Pháp tính như thế, thì có tri kiến giống như Phật Thế Tôn. Ở nơi các
thiện căn hiểu rõ như thật, dù thể, dù tướng, dù tự tính, dù pháp tính, biết rõ không có sinh, cũng không có sở đắc.
Hồi hướng như thế được ta thừa nhận là có khả năng; ta cũng tùy hỷ. Nhóm phúc
như thế, vô lượng vô biên không thể tính đếm.
Tu bồ đề, giả như tất cả chúng sinh
ở ba ngàn Đại thiên thế giới, mỗi mỗi đều tu mười Nghiệp đạo thiện, nhóm phúc thu được số lượng rất nhiều, nhưng
Bồ tát Ma ha tát này phát tâm tối thắng, hồi hướng pháp giới, thì nhóm phúc có
được, so với nhóm phúc ở trên, là tối thượng, tối cực, tối thắng, tối diệu,
rộng lớn, không đo lường được, không có gì bằng, không thể so sánh.
Lại nữa, Tu bồ đề! Ngoài số này ra,
giả sử tất cả chúng sinh ở ba ngàn Đại thiên thế giới, mỗi một đều tu bốn hạnh Vô lượng (tức tứ vô lượng
tâm), mỗi mỗi đều được bốn pháp Thiền định, bốn định Vô sắc và năm Thần thông;
phúc hành như thế số lượng rất nhiều. Nhưng Bồ tát Ma ha tát này phát tâm tối
thắng, hồi hướng pháp giới, thì nhóm phúc có được, so với nhóm phúc ở trên, là
tối thượng, tối cực, tối thắng, tối diệu, rộng lớn, không thể đo lường, không
có gì bằng, không thể so sánh”.
Đoạn Kinh
trên so với phẩm “Tùy Hỷ Hồi Hướng”, quyển 543, TBBN do Ngài Huyền Trang dịch,
cũng như phẩm “Hồi Hướng” do La Thập dịch, dễ
hiểu hơn nhiều. Đây là pháp môn quan trọng, chớ có bỏ qua. Mở đầu cho phần
thuyết giảng pháp môn này, Bồ tát Từ Thị (tức Phật tương lai của chúng ta) bảo
Thiện Hiện:
- “Đại đức! Các đại Bồ tát ở nơi
pháp môn Bát Nhã sâu xa này tùy hỷ hồi hướng thu được các công đức, so với công
đức bố thí, trì giới, an nhẫn, tịnh lự của chúng sanh khác là tối tôn, là thù thắng, là tôn quí, cao đẹp,
nhiệm mầu, vi diệu, vô thượng, trên hết, không gì hơn, không gì sánh bằng. Vì
vậy, ở nơi chánh pháp sâu xa này, nên tùy hỷ đúng lý”.
Phẩm “Tùy Hỷ
Hồi Hướng” này của Kinh Phật Mẫu Bát Nhã do Thí Hộ dịch đã giải tỏa tất cả lúng túng cũng như những thắc mắc của chúng ta so
với năm Hội của Kinh ĐBN. Tư tưởng của cả ba Kinh (ĐBN do Ngài Huyền Trang
dịch, Tiểu Phẩm Bát Nhã do La Thập dịch và Phật Mẫu Bát Nhã do Thí Hộ dịch)
giáo lý không khác nhau, chỉ khác nhau ở lối diễn đạt. Pháp môn hồi hướng là
pháp môn đặc biệt của Đại thừa. Tôn chỉ
của Bồ tát Đại thừa tu Bồ tát đạo là hồi hướng cho tất cả chúng sanh trọn thành
Phật đạo rất quan trọng. Chớ có bỏ qua!
Lược giải:
Tùy hỷ hồi hướng không năng sở, không đắc, không chấp
tướng.
Phật bảo:
“Này Thiện Hiện! Tùy hỷ chẳng phải
năng tùy hỷ, vì không có sở tùy hỷ. Hồi hướng như thế chẳng phải năng hồi hướng
vì không có sở hồi hướng. Sở khởi tùy hỷ hồi hướng như thế, chẳng phải chuyển,
chẳng phải diệt, vì không có sanh diệt vậy. Thiện Hiện! Bồ Tát Ma ha tát này
tùy hỷ hồi hướng như thế là tối, là thắng, là tôn, là cao, là diệu, là vi diệu,
là thượng, là vô thượng, vô đẳng, vô đẳng đẳng…
Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát Ma ha tát
trọn nên tùy hỷ hồi hướng như thế, mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề”.
Tùy hỷ hồi hướng không lấy sở đắc, không chấp thủ,
không phân biệt làm phương tiện thì không rơi vào tưởng điên đảo, tâm điên đảo,
kiến điên đảo:
(…) “Này Thiện Hiện! Đại Bồ tát nào đối với sự
tu hành, làm các việc phước nghiệp, như thật biết rõ, xa lìa, vắng lặng; đối
với tâm thường tùy hỷ hồi hướng cũng như thật hiểu rõ, xa lìa, vắng lặng. Biết
như vậy rồi hành sâu Bát nhã Ba la mật, nhưng trong các pháp hoàn toàn không có chấp thủ mà khởi lên tâm tùy hỷ hồi hướng
quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Đại Bồ tát này đã khởi tâm tùy hỷ hồi
hướng ấy nên không rơi vào tưởng, tâm, kiến điên đảo”. (Q.543, TBBN)
(…) “Sự tùy hỷ hồi hướng như đã nói này lấy sở đắc và chấp tướng phân biệt làm phương tiện. Thí như đồ ăn,
thức uống của thế gian có lẫn chất độc nên trước ngon sau hại. Đây chẳng phải
sự tùy hỷ hồi hướng hoàn hảo. Vì sao? Vì lấy sở đắc và chấp thủ tướng phân biệt
mà phát khởi tâm tùy hỷ hồi hướng là đều lẫn chất độc. Những người thuộc chủng
tánh Bồ tát không nên tùy theo những điều đã nói trên mà tu học”. (Q.543, TBBN)
(…) “Này Thiện Hiện! Các thiện nam
thiện nữ trụ Bồ tát thừa này, đối với pháp ba đời chẳng lấy chẳng bỏ, chẳng
trọng chẳng khinh, chẳng hữu sở đắc, chẳng phải vô sở đắc, không chỗ phân biệt,
không phân biệt khác, không chỗ quán thấy, không tùy quán thấy. Quán các pháp
như thế đều là đã chứa nhóm phân biệt, biết được tất cả pháp không sanh, không
diệt, không đi không đến, không vào không ra, không họp không tan. Trong đây
không có pháp đã, đang, sẽ sanh, cũng không có pháp đã, đang, sẽ diệt. Ta phải
như pháp chơn như pháp giới, dùng vô sở
đắc làm phương tiện, khởi lên sự tùy hỷ hồi hướng quả vị Vô Thượng Chánh
Đẳng Bồ đề”. (Q.544, TBBN)
Phẩm “Tùy Hỷ Hồi Hướng” quyển 171, Hội thứ I, ĐBN, Phật
bảo Thiện Hiện:
“Hồi hướng chân chính là dùng vô tướng làm phương tiện, vô sở đắc làm phương tiện, vô sanh làm phương tiện, vô diệt làm phương tiện, vô nhiễm làm phương tiện, vô tịnh làm phương tiện, vô tánh tự tánh làm phương tiện, tự tướng không làm phương tiện, chơn như làm phương tiện, pháp giới làm phương tiện, pháp tánh làm phương tiện, tánh chẳng hư vọng làm phương tiện, thật tế làm phương tiện”.
Vì vậy, Phật dạy:
“Này Thiện Hiện! Thiện nam, thiện nữ ấy đối
với khắp cả các thiện căn của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, Thanh văn,
Độc giác, Bồ tát và tất cả các hữu tình khác ở quá khứ, vị lại, hiện tại trong
mười phương thế giới, chẳng thủ chẳng
xả, chẳng kiêu chẳng khinh, chẳng phải có sở đắc chẳng phải không sở đắc; lại
biết các pháp là không sanh không diệt, không nhiễm không tịnh, không tăng
không giảm, không khứ không lai, không tụ không tán, không nhập không xuất,
nghĩ như thế này: Như các pháp chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư
vọng, tánh chẳng đổi khác, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ,
thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì ở quá khứ, vị lai, hiện tại
kia, ta cũng tùy hỷ hồi hướng như thế. Này Thiện Hiện! Nếu sánh bằng sự phát
khởi tùy hỷ hồi hướng của các Bồ tát ấy, thì Ta nói là tối thắng, là tôn quí,
là cao siêu, là vi diệu, là cao cả, không gì bằng, không gì hơn. Này Thiện
Hiện! Sự tùy hỷ hồi hướng như thế hơn các sự tùy hỷ hồi hướng khác gấp trăm
lần, gấp ngàn lần, gấp trăm ngàn lần, gấp ức lần, gấp trăm ức lần, gấp ngàn ức
lần, gấp trăm ngàn ức lần, gấp vô số trăm ngàn ức lần, gấp bội số, bội toán,
bội tính, bội dụ cho đến bội cực số… Vì vậy, nên Ta nói sự phát khởi tùy hỷ hồi
hướng như thế là tối thắng, là tôn quí, là cao siêu, là vi diệu, là cao cả,
không gì bằng, không gì hơn”.
Với bao
trích dẫn và tóm lược như trên cũng tạm đủ nói lên tinh thần tùy hỷ hồi hướng
của Tiểu Bản Bát Nhã nói riêng và Đại Bát Nhã nói chung. Phương châm tùy hỷ hồi
hướng là không tâm hồi hướng, không pháp hồi hướng, không tham đắm hồi hướng.
Vì phước đức hồi hướng như thế cũng không hệ phược; pháp được hồi hướng cũng
không hệ phược, chỗ hồi hướng cũng không hệ phược, lấy vô tướng, vô sở đắc làm
phương tiện.
Cho dầu
nghèo hèn, không có tiền của như kẻ khác, nhưng biết vui theo cái vui hồi hướng
của kẻ khác thì cũng được xem như công đức ngang đồng, huống chi tự mình hồi
hướng và đem tất cả công đức có được này san sẻ với tất cả chúng sanh khác, rồi
đồng hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, mong tất cả chúng sanh trọn thành
Phật đạo.
Hồi hướng là
không dùng tướng hay sở đắc mà hồi hướng. Nếu hồi hướng mà còn thấy “tướng công
đức” thì cũng chẳng phải là hồi hướng chân chính. Bản chất hồi hướng lúc nào
cũng mang tánh cách xã hội trong tinh thần tương thân tương ái của những người
tu Đại thừa tâm bao dung, vô vị lợi vì kẻ khác, do kẻ khác, bởi kẻ khác!
Chúng ta chỉ cần biết bản chất xã hội của Bồ tát Đại
thừa được phản ảnh mãnh liệt trong sinh hoạt của Bồ tát với tôn chỉ hồi hướng
cho kẻ khác. Tu hành
không có nghĩa là đứng bên lề xã hội, quên đi những nỗi khổ đau của các chúng
sanh khác. Vì sao? Vì mục tiêu tối hậu của những người tu không phải co mình
trong cô tịch, tu tất cả các pháp Phật để chứng thật tế rồi nhập Niết bàn, giải
thoát cho riêng mình mà quên đi đồng loại đang chịu nhiều thống khổ!
Quý vị độc
giả nếu gặp trở ngại trong việc thọ trì pháp môn tùy hỷ hồi hướng của Kinh ĐBN,
xin quay lại tụng đọc thọ trì phẩm “Tùy Hỷ Hồi Hướng” của Kinh Phật Mẫu Bát Nhã
do Thí Hộ dịch. Trong tất cả các phẩm nói về tùy hỷ hồi hướng của các kinh
chúng tôi tham khảo, phẩm tùy hỷ hồi hướng của “Phật Mẫu Bát Nhã Kinh” do Thí
Hộ dịch được xem là ngắn gọn rõ ràng nhất.
---o0o---