PHẨM
“BỒ TÁT HẠNH”
Phần
đầu quyển 464, Hội thứ II, ĐBN.
(Tương
đương với phẩm “Xảo Tiện Hành”, phần sau Q.365
cho
đến hết Q.366, Hội thứ I, ĐBN)
Tóm lược:
Bấy
giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
-
Bạch Thế Tôn! Thế Tôn đã dạy Bồ tát phải thực hành Bồ tát hạnh. Vậy, pháp
gì là Bồ tát hạnh?
Phật
bảo Thiện Hiện:
-
Bồ tát hành Bồ tát hạnh là vì quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, hoặc làm những
việc lợi ích cho chúng sanh. Đó gọi là Bồ tát hạnh.
Cụ
thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
-
Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ tát phải hành Bồ tát hạnh ở đâu?
Phật
bảo:
-
Thiện Hiện! Các đại Bồ tát phải hành Bồ tát hạnh nơi sắc không, nơi thọ,
tưởng, hành, thức không. Phải hành Bồ tát hạnh nơi mười hai xứ cho đến mười
tám giới không. Phải hành Bồ tát hạnh nơi nhãn xúc cho đến ý xúc không. Phải
hành Bồ tát hạnh nơi các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do
ý xúc làm duyên sanh ra không. Phải hành Bồ tát hạnh nơi địa giới cho đến thức
giới không. Phải nương vào bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật để hành Bồ
tát hạnh. Phải nương vào pháp nội không cho đến pháp vô tánh tự tánh không để
hành Bồ tát hạnh. Phải nương vào chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì để hành
Bồ tát hạnh. Phải nương vào Tứ Thánh đế cho đến ba mươi bảy pháp trợ đạo để
hành Bồ tát hạnh. Phải nương vào bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc để
hành Bồ tát hạnh. Phải nương vào tám giải thoát, tám thắng xứ, chín thứ đệ
định, mười biến xứ để hành Bồ tát hạnh. Phải nương vào Như Lai mười lực để hành
Bồ tát hạnh. Phải nương vào bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt để
hành Bồ tát hạnh. Phải nương vào đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả để hành Bồ tát
hạnh. Phải nương vào mười tám pháp Phật bất cộng, pháp không quên mất, tánh
luôn luôn xả để hành Bồ tát hạnh. Phải nương vào Nhất thiết trí, Đạo tướng trí,
Nhất thiết tướng trí để hành Bồ tát hạnh. Phải nương vào việc trang nghiêm cõi
Phật, thành thục hữu tình để hành Bồ tát hạnh. Phải nương vào việc phát sanh
văn tự Đà la ni để hành Bồ tát hạnh. Phải nương vào việc ngộ nhập văn tự Đà la
ni để hành Bồ tát hạnh. Phải nương vào việc ngộ nhập không văn tự Đà la ni để
hành Bồ tát hạnh. Phải nương vào việc làm phát sanh biện tài vô ngại để hành Bồ
tát hạnh. Phải nương vào cảnh giới hữu vi để hành Bồ tát hạnh. Phải nương vào
cảnh giới vô vi để hành Bồ tát hạnh.
Thiện
Hiện! Các đại Bồ tát khi tu hành Bồ Tát hạnh như thế, như Phật Vô Thượng Chánh
Đẳng Bồ đề đối trong các pháp chẳng tác hai tướng(1).
Thiện
Hiện! Nếu đại Bồ tát khi hành Bát nhã Ba la mật như thế, gọi là Vô Thượng Chánh
Đẳng Bồ đề tu Bồ Tát hạnh. Thiện Hiện! Các Bồ tát nếu năng tu Bồ Tát hạnh được
như thế, mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Bấy
giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
-
Bạch Thế Tôn! Thế Tôn đã nói về Phật đà, Phật đà ấy dựa vào nghĩa gì để
gọi là Phật đà?
Phật
bảo Thiện Hiện:
-
Này Thiện Hiện! Vì có thể giác ngộ nghĩa chơn thật nên gọi Phật đà, giác ngộ
được pháp chơn thật nên gọi Phật đà. Đối với nghĩa chơn thật có thể hiểu thông
suốt, có thể hiện Đẳng giác nên gọi Phật đà. Đối với các pháp, giác ngộ hoàn
toàn thật tánh của nó, tận cùng tánh của nó nên gọi là Phật đà. Như thật khai
ngộ cho tất cả hữu tình xa lìa các phiền não điên đảo nên gọi Phật đà.
Bấy
giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
-
Thế Tôn đã nói về Bồ đề, Bồ đề ấy nương vào nghĩa gì mà gọi là Bồ đề?
Phật
bảo Thiện Hiện:
-
Bồ đề là nghĩa không, là chơn như, là thật tế, là pháp tánh, là pháp giới.
Lại
nữa, Thiện Hiện! Giả lập danh tướng, thi thiết lời nói, năng chơn thật giác
được tối thượng thắng diệu, nên gọi Bồ đề.
Lại
nữa, Thiện Hiện! Nghĩa không thể hoại là nghĩa Bồ đề, nghĩa không phân biệt là
nghĩa Bồ đề.
Lại
nữa, Thiện Hiện! Là chân chánh, là thật, chẳng hư dối, chẳng đổi thay, nên gọi
là Bồ đề.
Lại
nữa, Thiện Hiện! Duy giả danh tướng, không thật khá được, nên gọi Bồ đề.
Lại
nữa, Thiện Hiện! Chư Phật sở hữu chơn tịnh khắp giác nên gọi Bồ đề.
Lại
nữa, Thiện Hiện! Chư Phật do đây đối tất cả pháp, tất cả chủng tướng hiện
Đẳng chánh giác nên gọi Bồ đề.
Bấy
giờ cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
-
Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ tát vì Bồ đề nên khi tu hành sáu Ba la mật cho đến
Nhất thiết trí trí, đối những pháp nào làm ích làm tổn, làm tăng làm giảm, làm
sanh làm diệt, làm nhiễm làm tịnh?
Phật
bảo Thiện Hiện:
Các
đại Bồ tát vì Bồ đề, nên khi tu hành sáu Ba la mật cho đến Nhất thiết trí trí,
đối tất cả pháp không ích không tổn, không tăng không giảm, không sanh không
diệt, không nhiễm không tịnh. Vì sao? Đại Bồ tát này vì Bồ đề nên hành Bát
Nhã thẳm sâu, đối tất cả pháp đều vô sở duyên làm phương tiện, chẳng làm
ích tổn, chẳng làm tăng giảm, chẳng làm sanh diệt, chẳng làm nhiễm
tịnh, vì hiện tiền vậy.
Cụ
thọ Thiện Hiện thưa rằng:
-
Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ tát vì Bồ đề, nên khi tu hành sáu Ba la mật cho đến
Nhất thiết trí trí, đối với tất cả pháp đều không lấy sở duyên làm phương tiện,
chẳng làm ích tổn, chẳng làm tăng giảm, chẳng làm sanh diệt, chẳng làm nhiễm
tịnh, vì hiện tại tiền vậy. Đại Bồ tát này hành Bát nhã Ba la mật-đa thẳm sâu
làm sao nhiếp thọ bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Làm sao nhiếp thọ nội Không
cho đến vô tánh tự tánh không. Làm sao nhiếp thọ chơn như cho đến bất tư nghì
giới? Làm sao nhiếp thọ tứ Thánh đế cho đến ba mươi bảy pháp trợ đạo. Làm sao
nhiếp thọ bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Làm sao nhiếp thọ tám
giải thoát cho đến mười biến xứ. Làm sao nhiếp thọ không, vô tướng, vô nguyện
giải thoát môn. Làm sao nhiếp thọ các bậc Bồ Tát. Làm sao nhiếp thọ Đà la ni
môn, Tam ma địa môn. Làm sao nhiếp thọ năm nhãn, sáu thần thông? Làm sao nhiếp
thọ Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Làm sao nhiếp thọ
pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả. Làm sao nhiếp thọ Nhất thiết trí, Đạo
tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Làm sao vượt các Thanh văn, Duyên giác… vào Bồ
Tát Chánh tánh ly sanh, lần hồi chứng được Nhất thiết trí trí?
Phật
nói:
-
Thiện Hiện! Các đại Bồ tát khi hành Bát Nhã thẳm sâu chẳng lấy hai nên
nhiếp thọ tu hành sáu Ba la mật, cho đến chẳng lấy hai nên lần hồi chứng được
Nhất thiết trí trí.
Cụ
thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:
-
Nếu đại Bồ tát khi hành Bát Nhã thẳm sâu chẳng lấy hai nên nhiếp thọ tu hành
sáu Ba la mật, cho đến chẳng lấy hai nên lần hồi chứng Nhất thiết trí trí, làm
sao đại Bồ tát từ sơ phát tâm cho đến thành chánh quả, hằng thời tăng trưởng
tất cả thiện pháp?
Phật
bảo:
-
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát lấy hai mà hành, thời các thiện pháp chẳng thể tăng
trưởng. Vì sao? Ngu phu dị sanh đều nương đối đãi, nên sở khởi thiện pháp chẳng
tăng trưởng được. Nếu đại Bồ tát hành chẳng hai, từ sơ phát tâm cho đến khi
thành chánh quả, hằng thời tăng trưởng tất cả thiện pháp.
Vậy
nên, Thiện Hiện! Các đại Bồ tát căn lành kiên cố, thế gian trời, người, A tu
la… chẳng thể hủy hoại (tâm Bồ đề) khiến đọa Thanh văn, Độc giác… Các
pháp dục ác bất thiện thế gian chẳng năng chế phục, khiến cho khi hành sáu Ba
la mật cho đến Nhất thiết trí trí chẳng ngừng tăng trưởng.
Như
vậy, Thiện Hiện! Các đại Bồ tát nên hành Bát Nhã thẳm sâu không hai.
Cụ
thọ Thiện Hiện thưa rằng:
-
Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ tát vì căn lành nên hành Bát Nhã thẳm sâu chăng?
Phật
nói:
-
Chẳng phải. Khi ấy các đại Bồ tát chẳng vì căn lành mà hành Bát Nhã thẳm
sâu. Cũng chẳng vì căn chẳng lành mà hành Bát nhã Ba la mật-đa thẳm sâu. Vì
sao? Các đại Bồ tát phải hành như thế. Nếu chưa gần gũi chư Phật Thế Tôn, nếu
các căn lành chưa cực viên mãn, nếu chưa được chơn thiện hữu nhiếp thọ, quyết
chẳng năng được Nhất thiết trí trí.
Cụ
thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:
-
Đại Bồ tát làm sao gần gũi chư Phật, viên mãn căn lành, được chơn thiện hữu
nhiếp thọ, chóng năng chứng được Nhất thiết trí trí?
Phật
nói:
-
Thiện Hiện! Các đại Bồ tát từ sơ phát tâm gần gũi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác
nghe thuyết Chánh pháp, chỗ gọi Khế Kinh cho đến Luận nghị. Nghe rồi thọ trì,
hằng hằng ôn tập cho khéo thông lợi. Đã khéo thông lợi, suy nghĩ quán sát. Đã
quán sát rồi, thấy ý thú sâu. Thấy ý thú rồi, lại giải thông suốt. Đã giải
thông suốt, được Đà la ni khởi vô ngại biện, cho đến chứng được Nhất thiết trí
trí. Tùy sanh chỗ nào, đối giáo nghĩa Chánh pháp đã nghe trì thường chẳng quên
mất. Ở chỗ chư Phật rộng trồng căn lành. Do sức căn lành nhiếp thọ, nên chẳng
đọa sanh trong các cảnh giới ác và các nạn xứ. Lại nhờ căn lành đã nhiếp thọ
nên ý lạc thanh tịnh. Được sức ý lạc thanh tịnh nhiếp thọ nên thường thành thục
hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật không trái ngược. Lại nhờ căn lành nhiếp thọ nên
thường chẳng xa lìa bạn lành chơn tịnh là các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và
chúng đại Bồ tát, Độc giác, Thanh văn và những vị năng ngợi khen Phật Pháp Tăng
khác nữa.
Như
vậy, Thiện Hiện! Các đại Bồ tát gần gũi chư Phật, viên mãn căn lành, được chơn
thiện hữu thường nhiếp thọ, chóng năng chứng được Nhất thiết trí trí.
Vậy
nên, Thiện Hiện! Các đại Bồ tát hành Bát nhã Ba la mật muốn mau chứng được Nhất
thiết trí trí, phải siêng tinh tấn gần gũi chư Phật, nhiếp thọ viên mãn căn
lành đã trồng, vâng thờ bạn lành chớ sanh nhàm mỏi.
Thích
nghĩa:
(1).
Chẳng tác hai tướng hay chẳng tạo hai tướng: Tăng ích-tổn giảm, sanh-diệt,
nhiễm-tịnh, có-không… Đó là các pháp đối đãi, do thức phân biệt tạo nên. Do
phân biệt nên có chấp, vì có chấp nên mới có thiên lệch, đứng bên này hay bên
kia, tâm không còn tự tại nữa. Đại thừa nghĩa chương quyển 1 nói, lý Nhất thực mầu
nhiệm, vắng lặng, lìa các tướng, như như bình đẳng, không đây, không kia, cho
nên gọi là Bất nhị. Kinh Hoa nghiêm còn đi xa hơn khi tuyên bố “đừng chấp hai
tướng, vì một cũng không mà hai cũng không”! Phẩm “Tịnh Đạo”, quyển 507, Hội
thứ III, ĐBN, Phật bảo: “Như vậy, vì tất cả pháp nhất tánh chẳng hai. Tu Bồ
Đề phải biết: Các pháp nhất tánh tức là vô tánh. Các pháp vô tánh tức là nhất
tánh. Các pháp nhất tánh vô tánh như thế vốn là thật tánh. Vốn thật tánh đây vô
tạo vô tác. Nếu Bồ tát Ma ha tát năng như thật biết được nhất tánh, vô tánh, vô
tạo, vô tác, tức năng xa lìa được tất cả chấp trước”. TB
Sơ giải:
1.
Phần đầu của phẩm “Bồ Tát Hạnh” của Hội thứ I, thuyết về tất cả hạnh của Bồ tát
tu hành để phục vụ chúng sanh. Bồ tát hạnh chẳng qua là học tất cả pháp Phật để
thành tựu chúng sanh, thanh tịnh Phật độ;
2.
Phần thứ hai thuyết về Bồ đề;
3.
Phần thứ ba nói về pháp môn bất nhị:
Bát
nhã Ba la mật và Pháp chẳng hai (pháp môn bất nhị) được thuyết trong phẩm “Biển
Học”, quyển 465, thuật lại đàm thoại của Phật và cụ thọ Thiện Hiện như sau:
“Cụ
thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
-
Những gì là có, những gì là chẳng có?
Phật
bảo Thiện Hiện:
-
Hai là có, không hai là chẳng có.
Thiện
Hiện lại hỏi:
-
Thế nào là hai? Thế nào là không hai?
Phật
bảo:
-
Tưởng sắc cho đến tưởng thức là hai, tưởng sắc không cho đến tưởng thức không
là không hai. Tưởng nhãn xứ cho đến tưởng ý xứ là hai; tưởng nhãn xứ không cho
đến tưởng ý xứ không là không hai. Tưởng sắc xứ cho đến tưởng pháp xứ là hai;
tưởng sắc xứ không cho đến tưởng pháp xứ không là không hai. Tưởng nhãn giới
cho đến tưởng ý giới là hai; tưởng nhãn giới không cho đến tưởng ý giới không
là không hai. Tưởng sắc giới cho đến tưởng pháp giới là hai; tưởng sắc giới
không cho đến tưởng pháp giới không là không hai. Tưởng nhãn thức giới cho đến
tưởng ý thức giới là hai; tưởng nhãn thức giới không cho đến tưởng ý thức giới
không là không hai. Tưởng nhãn xúc cho đến tưởng ý xúc là hai; tưởng nhãn xúc
không cho đến tưởng ý xúc không là không hai. Tưởng về các thọ do nhãn xúc làm
duyên sanh ra, cho đến tưởng về các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là hai;
tưởng về các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra không, cho đến tưởng về các
thọ do ý xúc làm duyên sanh ra không là không hai. Tưởng địa giới cho đến tưởng
thức giới là hai; tưởng địa giới không cho đến tưởng thức giới không là không
hai. Tưởng nhân duyên cho đến tưởng tăng thượng duyên là hai; tưởng nhân duyên
không cho đến tưởng tăng thượng duyên không là không hai. Tưởng vô minh cho đến
tưởng lão tử là hai; tưởng vô minh không cho đến tưởng lão tử không là không
hai; tưởng bố thí cho đến tưởng Bát nhã Ba la mật là hai; tưởng bố thí không
cho đến tưởng Bát nhã Ba la mật không là không hai. Tưởng pháp nội không cho
đến tưởng pháp vô tánh tự tánh không là hai; tưởng pháp nội không không cho đến
tưởng pháp vô tính tự tính không không là không hai. Tưởng chơn như cho đến
tưởng cảnh giới bất tư nghì là hai; tưởng chơn như không cho đến tưởng cảnh
giới bất tư nghì không là không hai. Tưởng Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo là hai;
tưởng Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo không là không hai. Tưởng bốn niệm trụ cho
đến tưởng tám chi Thánh đạo là hai; tưởng bốn niệm trụ không cho đến tưởng tám
chi Thánh đạo không là không hai. Tưởng bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô
sắc là hai; tưởng bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc không là không
hai. Tưởng tám giải thoát cho đến tưởng mười biến xứ là hai; tưởng tám giải
thoát không cho đến tưởng mười biến xứ không là không hai. Tưởng pháp môn giải
thoát không, vô tướng, vô nguyện là hai; tưởng pháp môn giải thoát không, vô
tướng, vô nguyện không là không hai. Tưởng Tịnh quán địa cho đến tưởng Như Lai
địa là hai; tưởng Tịnh quán địa không cho đến tưởng Như Lai địa không là không
hai. Tưởng Cực hỷ địa cho đến tưởng Pháp vân địa là hai; tưởng Cực hỷ địa không
cho đến tưởng Pháp vân địa không là không hai. Tưởng pháp môn Đà la ni, pháp
môn Tam ma địa là hai; tưởng tất cả pháp môn Đà la ni, pháp môn Tam ma địa
không là không hai. Tưởng năm loại mắt, sáu phép thần thông là hai; tưởng năm
loại mắt, sáu phép thần thông không là không hai. Tưởng Như Lai mười lực cho
đến tưởng mười tám pháp Phật bất cộng là hai; tưởng Như Lai mười lực không cho
đến tưởng mười tám pháp Phật bất cộng không là không hai. Tưởng ba mươi hai
tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của bậc Đại sĩ là hai; tưởng ba mươi hai tướng tốt,
tám mươi vẻ đẹp của bậc Đại sĩ không là không hai. Tưởng pháp không quên mất,
tánh luôn luôn xả là hai; tưởng pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả không là
không hai. Tưởng Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí là hai;
tưởng Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí không là không hai.
Tưởng quả Dự lưu cho đến tưởng Độc giác Bồ-đề là hai; tưởng quả Dự lưu không
cho đến tưởng Độc giác Bồ đề không là không hai. Tưởng tất cả Bồ tát hạnh và
quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề là hai; tưởng tất cả hạnh của đại Bồ tát và
quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề không là không hai. Tưởng cảnh giới hữu vi,
cảnh giới vô vi là hai; tưởng cảnh giới hữu vi, cảnh giới vô vi không là không
hai. (Q. 465, ĐBN)
Thiện
Hiện! Cho đến tất cả tưởng đều là hai, cho đến tất cả hai đều là có, cho đến
tất cả có đều là sanh tử. Đã sanh tử thì không thể giải thoát sanh, lão, bệnh,
tử, sầu than, lo, buồn, khổ não.
Thiện
Hiện! Không các tưởng đều là không hai. Các pháp không hai đều là chẳng có. Các
pháp chẳng có đều không sanh tử. Người không sanh tử thì có thể giải thoát
sanh, lão, bệnh, tử v.v...
Thiện
Hiện! Do nhân duyên này nên biết tất cả những người có tưởng hai thì chắc chắn
không thể bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật,
không chứng đắc, không hiện quán cho đến thuận nhẫn, người ấy còn chẳng có
huống chi có thể biết khắp tất cả sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Như vậy, cho đến
không thể biết khắp tất cả Nhất thiết trí trí, người ấy còn không thể tu bốn
niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo, huống chi có thể đắc quả Dự lưu cho đến Độc
giác Bồ đề, hoặc là có thể chứng đắc Nhất thiết trí trí và có thể dứt hẳn tất
cả phiền não tập khí nối nhau”.
Đó
là pháp môn bất nhị. Ngày nào còn lẩn quẩn trong vòng đối đãi thì ngày đó không
tránh khỏi luân hồi khổ ải!
Xin
xem lại phẩm “Xảo Tiện Hành”, phần sau quyển 365 cho đến hết quyển 366, Hội
thứ I, ĐBN.
Điểm
đáng lưu ý của phẩm này là thuyết về Bồ đề, cần phải học. Vì sao? Vì Bồ đề tức
là Phật, Phật tức Bồ đề không hai không khác!
---o0o---