Thứ Tư, 16 tháng 6, 2021

Hội thứ II - 69. Phẩm "Bồ Tát Hạnh"

 

PHẨM “BỒ TÁT HẠNH”

 

Phần đầu quyển 464, Hội thứ II, ĐBN.

(Tương đương với phẩm “Xảo Tiện Hành”, phần sau Q.365

cho đến hết Q.366, Hội thứ I, ĐBN)

 

Tóm lược:

 

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thế Tôn đã dạy Bồ tát phải thực hành Bồ tát hạnh. Vậy, pháp gì là Bồ tát hạnh?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Bồ tát hành Bồ tát hạnh là vì quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, hoặc làm những việc lợi ích cho chúng sanh. Đó gọi là Bồ tát hạnh.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ tát phải hành Bồ tát hạnh ở đâu?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Các đại Bồ tát phải hành Bồ tát hạnh nơi sắc không, nơi thọ, tưởng, hành, thức không. Phải hành Bồ tát hạnh nơi mười hai xứ cho đến mười tám giới không. Phải hành Bồ tát hạnh nơi nhãn xúc cho đến ý xúc không. Phải hành Bồ tát hạnh nơi các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra không. Phải hành Bồ tát hạnh nơi địa giới cho đến thức giới không. Phải nương vào bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật để hành Bồ tát hạnh. Phải nương vào pháp nội không cho đến pháp vô tánh tự tánh không để hành Bồ tát hạnh. Phải nương vào chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì để hành Bồ tát hạnh. Phải nương vào Tứ Thánh đế cho đến ba mươi bảy pháp trợ đạo để hành Bồ tát hạnh. Phải nương vào bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc để hành Bồ tát hạnh. Phải nương vào tám giải thoát, tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ để hành Bồ tát hạnh. Phải nương vào Như Lai mười lực để hành Bồ tát hạnh. Phải nương vào bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt để hành Bồ tát hạnh. Phải nương vào đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả để hành Bồ tát hạnh. Phải nương vào mười tám pháp Phật bất cộng, pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả để hành Bồ tát hạnh. Phải nương vào Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí để hành Bồ tát hạnh. Phải nương vào việc trang nghiêm cõi Phật, thành thục hữu tình để hành Bồ tát hạnh. Phải nương vào việc phát sanh văn tự Đà la ni để hành Bồ tát hạnh. Phải nương vào việc ngộ nhập văn tự Đà la ni để hành Bồ tát hạnh. Phải nương vào việc ngộ nhập không văn tự Đà la ni để hành Bồ tát hạnh. Phải nương vào việc làm phát sanh biện tài vô ngại để hành Bồ tát hạnh. Phải nương vào cảnh giới hữu vi để hành Bồ tát hạnh. Phải nương vào cảnh giới vô vi để hành Bồ tát hạnh.

Thiện Hiện! Các đại Bồ tát khi tu hành Bồ Tát hạnh như thế, như Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề đối trong các pháp chẳng tác hai tướng(1).

Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát khi hành Bát nhã Ba la mật như thế, gọi là Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề tu Bồ Tát hạnh. Thiện Hiện! Các Bồ tát nếu năng tu Bồ Tát hạnh được như thế, mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thế Tôn đã nói về Phật đà, Phật đà ấy dựa vào nghĩa gì để gọi là Phật đà?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Này Thiện Hiện! Vì có thể giác ngộ nghĩa chơn thật nên gọi Phật đà, giác ngộ được pháp chơn thật nên gọi Phật đà. Đối với nghĩa chơn thật có thể hiểu thông suốt, có thể hiện Đẳng giác nên gọi Phật đà. Đối với các pháp, giác ngộ hoàn toàn thật tánh của nó, tận cùng tánh của nó nên gọi là Phật đà. Như thật khai ngộ cho tất cả hữu tình xa lìa các phiền não điên đảo nên gọi Phật đà.

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Thế Tôn đã nói về Bồ đề, Bồ đề ấy nương vào nghĩa gì mà gọi là Bồ đề?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Bồ đề là nghĩa không, là chơn như, là thật tế, là pháp tánh, là pháp giới.

Lại nữa, Thiện Hiện! Giả lập danh tướng, thi thiết lời nói, năng chơn thật giác được tối thượng thắng diệu, nên gọi Bồ đề.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nghĩa không thể hoại là nghĩa Bồ đề, nghĩa không phân biệt là nghĩa Bồ đề.

Lại nữa, Thiện Hiện! Là chân chánh, là thật, chẳng hư dối, chẳng đổi thay, nên gọi là Bồ đề.

Lại nữa, Thiện Hiện! Duy giả danh tướng, không thật khá được, nên gọi Bồ đề.

Lại nữa, Thiện Hiện! Chư Phật sở hữu chơn tịnh khắp giác nên gọi Bồ đề.

Lại nữa, Thiện Hiện! Chư Phật do đây đối tất cả  pháp, tất cả chủng tướng hiện Đẳng chánh giác nên gọi Bồ đề.

Bấy giờ cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ tát vì Bồ đề nên khi tu hành sáu Ba la mật cho đến Nhất thiết trí trí, đối những pháp nào làm ích làm tổn, làm tăng làm giảm, làm sanh làm diệt, làm nhiễm làm tịnh?

Phật bảo Thiện Hiện:

Các đại Bồ tát vì Bồ đề, nên khi tu hành sáu Ba la mật cho đến Nhất thiết trí trí, đối tất cả pháp không ích không tổn, không tăng không giảm, không sanh không diệt, không nhiễm không tịnh. Vì sao? Đại Bồ tát này vì Bồ đề nên hành Bát Nhã thẳm sâu, đối tất cả pháp đều vô sở duyên làm phương tiện, chẳng làm ích tổn, chẳng làm tăng giảm, chẳng làm sanh diệt, chẳng làm nhiễm tịnh, vì hiện tiền vậy.

Cụ thọ Thiện Hiện thưa rằng:

- Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ tát vì Bồ đề, nên khi tu hành sáu Ba la mật cho đến Nhất thiết trí trí, đối với tất cả pháp đều không lấy sở duyên làm phương tiện, chẳng làm ích tổn, chẳng làm tăng giảm, chẳng làm sanh diệt, chẳng làm nhiễm tịnh, vì hiện tại tiền vậy. Đại Bồ tát này hành Bát nhã Ba la mật-đa thẳm sâu làm sao nhiếp thọ bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Làm sao nhiếp thọ nội Không cho đến vô tánh tự tánh không. Làm sao nhiếp thọ chơn như cho đến bất tư nghì giới? Làm sao nhiếp thọ tứ Thánh đế cho đến ba mươi bảy pháp trợ đạo. Làm sao nhiếp thọ bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Làm sao nhiếp thọ tám giải thoát cho đến mười biến xứ. Làm sao nhiếp thọ không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn. Làm sao nhiếp thọ các bậc Bồ Tát. Làm sao nhiếp thọ Đà la ni môn, Tam ma địa môn. Làm sao nhiếp thọ năm nhãn, sáu thần thông? Làm sao nhiếp thọ Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Làm sao nhiếp thọ pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả. Làm sao nhiếp thọ Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Làm sao vượt các Thanh văn, Duyên giác… vào Bồ Tát Chánh tánh ly sanh, lần hồi chứng được Nhất thiết trí trí?

Phật nói:

- Thiện Hiện! Các đại Bồ tát khi hành Bát Nhã thẳm sâu chẳng lấy hai nên nhiếp thọ tu hành sáu Ba la mật, cho đến chẳng lấy hai nên lần hồi chứng được Nhất thiết trí trí.

Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:

- Nếu đại Bồ tát khi hành Bát Nhã thẳm sâu chẳng lấy hai nên nhiếp thọ tu hành sáu Ba la mật, cho đến chẳng lấy hai nên lần hồi chứng Nhất thiết trí trí, làm sao đại Bồ tát từ sơ phát tâm cho đến thành chánh quả, hằng thời tăng trưởng tất cả thiện pháp?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát lấy hai mà hành, thời các thiện pháp chẳng thể tăng trưởng. Vì sao? Ngu phu dị sanh đều nương đối đãi, nên sở khởi thiện pháp chẳng tăng trưởng được. Nếu đại Bồ tát hành chẳng hai, từ sơ phát tâm cho đến khi thành chánh quả, hằng thời tăng trưởng tất cả thiện pháp.

Vậy nên, Thiện Hiện! Các đại Bồ tát căn lành kiên cố, thế gian trời, người, A tu la… chẳng thể hủy hoại (tâm Bồ đề) khiến đọa Thanh văn, Độc giác… Các pháp dục ác bất thiện thế gian chẳng năng chế phục, khiến cho khi hành sáu Ba la mật cho đến Nhất thiết trí trí chẳng ngừng tăng trưởng.

Như vậy, Thiện Hiện! Các đại Bồ tát nên hành Bát Nhã thẳm sâu không hai.

Cụ thọ Thiện Hiện thưa rằng:

- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ tát vì căn lành nên hành Bát Nhã thẳm sâu chăng?

Phật nói:

- Chẳng phải. Khi ấy các đại Bồ tát chẳng vì căn lành mà hành Bát Nhã thẳm sâu. Cũng chẳng vì căn chẳng lành mà hành Bát nhã Ba la mật-đa thẳm sâu. Vì sao? Các đại Bồ tát phải hành như thế. Nếu chưa gần gũi chư Phật Thế Tôn, nếu các căn lành chưa cực viên mãn, nếu chưa được chơn thiện hữu nhiếp thọ, quyết chẳng năng được Nhất thiết trí trí.

Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:

- Đại Bồ tát làm sao gần gũi chư Phật, viên mãn căn lành, được chơn thiện hữu nhiếp thọ, chóng năng chứng được Nhất thiết trí trí?

Phật nói:

- Thiện Hiện! Các đại Bồ tát từ sơ phát tâm gần gũi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác nghe thuyết Chánh pháp, chỗ gọi Khế Kinh cho đến Luận nghị. Nghe rồi thọ trì, hằng hằng ôn tập cho khéo thông lợi. Đã khéo thông lợi, suy nghĩ quán sát. Đã quán sát rồi, thấy ý thú sâu. Thấy ý thú rồi, lại giải thông suốt. Đã giải thông suốt, được Đà la ni khởi vô ngại biện, cho đến chứng được Nhất thiết trí trí. Tùy sanh chỗ nào, đối giáo nghĩa Chánh pháp đã nghe trì thường chẳng quên mất. Ở chỗ chư Phật rộng trồng căn lành. Do sức căn lành nhiếp thọ, nên chẳng đọa sanh trong các cảnh giới ác và các nạn xứ. Lại nhờ căn lành đã nhiếp thọ nên ý lạc thanh tịnh. Được sức ý lạc thanh tịnh nhiếp thọ nên thường thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật không trái ngược. Lại nhờ căn lành nhiếp thọ nên thường chẳng xa lìa bạn lành chơn tịnh là các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và chúng đại Bồ tát, Độc giác, Thanh văn và những vị năng ngợi khen Phật Pháp Tăng khác nữa.

Như vậy, Thiện Hiện! Các đại Bồ tát gần gũi chư Phật, viên mãn căn lành, được chơn thiện hữu thường nhiếp thọ, chóng năng chứng được Nhất thiết trí trí.

Vậy nên, Thiện Hiện! Các đại Bồ tát hành Bát nhã Ba la mật muốn mau chứng được Nhất thiết trí trí, phải siêng tinh tấn gần gũi chư Phật, nhiếp thọ viên mãn căn lành đã trồng, vâng thờ bạn lành chớ sanh nhàm mỏi.

 

Thích nghĩa:

(1). Chẳng tác hai tướng hay chẳng tạo hai tướng: Tăng ích-tổn giảm, sanh-diệt, nhiễm-tịnh, có-không… Đó là các pháp đối đãi, do thức phân biệt tạo nên. Do phân biệt nên có chấp, vì có chấp nên mới có thiên lệch, đứng bên này hay bên kia, tâm không còn tự tại nữa. Đại thừa nghĩa chương quyển 1 nói, lý Nhất thực mầu nhiệm, vắng lặng, lìa các tướng, như như bình đẳng, không đây, không kia, cho nên gọi là Bất nhị. Kinh Hoa nghiêm còn đi xa hơn khi tuyên bố “đừng chấp hai tướng, vì một cũng không mà hai cũng không”! Phẩm “Tịnh Đạo”, quyển 507, Hội thứ III, ĐBN, Phật bảo: “Như vậy, vì tất cả pháp nhất tánh chẳng hai. Tu Bồ Đề phải biết: Các pháp nhất tánh tức là vô tánh. Các pháp vô tánh tức là nhất tánh. Các pháp nhất tánh vô tánh như thế vốn là thật tánh. Vốn thật tánh đây vô tạo vô tác. Nếu Bồ tát Ma ha tát năng như thật biết được nhất tánh, vô tánh, vô tạo, vô tác, tức năng xa lìa được tất cả chấp trước”. TB

 

Sơ giải:

 

1. Phần đầu của phẩm “Bồ Tát Hạnh” của Hội thứ I, thuyết về tất cả hạnh của Bồ tát tu hành để phục vụ chúng sanh. Bồ tát hạnh chẳng qua là học tất cả pháp Phật để thành tựu chúng sanh, thanh tịnh Phật độ;

2. Phần thứ hai thuyết về Bồ đề;

3. Phần thứ ba nói về pháp môn bất nhị:

Bát nhã Ba la mật và Pháp chẳng hai (pháp môn bất nhị) được thuyết trong phẩm “Biển Học”, quyển 465, thuật lại đàm thoại của Phật và cụ thọ Thiện Hiện như sau:

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Những gì là có, những gì là chẳng có?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Hai là có, không hai là chẳng có.

Thiện Hiện lại hỏi:

- Thế nào là hai? Thế nào là không hai?

Phật bảo:

- Tưởng sắc cho đến tưởng thức là hai, tưởng sắc không cho đến tưởng thức không là không hai. Tưởng nhãn xứ cho đến tưởng ý xứ là hai; tưởng nhãn xứ không cho đến tưởng ý xứ không là không hai. Tưởng sắc xứ cho đến tưởng pháp xứ là hai; tưởng sắc xứ không cho đến tưởng pháp xứ không là không hai. Tưởng nhãn giới cho đến tưởng ý giới là hai; tưởng nhãn giới không cho đến tưởng ý giới không là không hai. Tưởng sắc giới cho đến tưởng pháp giới là hai; tưởng sắc giới không cho đến tưởng pháp giới không là không hai. Tưởng nhãn thức giới cho đến tưởng ý thức giới là hai; tưởng nhãn thức giới không cho đến tưởng ý thức giới không là không hai. Tưởng nhãn xúc cho đến tưởng ý xúc là hai; tưởng nhãn xúc không cho đến tưởng ý xúc không là không hai. Tưởng về các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến tưởng về các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là hai; tưởng về các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra không, cho đến tưởng về các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra không là không hai. Tưởng địa giới cho đến tưởng thức giới là hai; tưởng địa giới không cho đến tưởng thức giới không là không hai. Tưởng nhân duyên cho đến tưởng tăng thượng duyên là hai; tưởng nhân duyên không cho đến tưởng tăng thượng duyên không là không hai. Tưởng vô minh cho đến tưởng lão tử là hai; tưởng vô minh không cho đến tưởng lão tử không là không hai; tưởng bố thí cho đến tưởng Bát nhã Ba la mật là hai; tưởng bố thí không cho đến tưởng Bát nhã Ba la mật không là không hai. Tưởng pháp nội không cho đến tưởng pháp vô tánh tự tánh không là hai; tưởng pháp nội không không cho đến tưởng pháp vô tính tự tính không không là không hai. Tưởng chơn như cho đến tưởng cảnh giới bất tư nghì là hai; tưởng chơn như không cho đến tưởng cảnh giới bất tư nghì không là không hai. Tưởng Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo là hai; tưởng Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo không là không hai. Tưởng bốn niệm trụ cho đến tưởng tám chi Thánh đạo là hai; tưởng bốn niệm trụ không cho đến tưởng tám chi Thánh đạo không là không hai. Tưởng bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc là hai; tưởng bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc không là không hai. Tưởng tám giải thoát cho đến tưởng mười biến xứ là hai; tưởng tám giải thoát không cho đến tưởng mười biến xứ không là không hai. Tưởng pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện là hai; tưởng pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện không là không hai. Tưởng Tịnh quán địa cho đến tưởng Như Lai địa là hai; tưởng Tịnh quán địa không cho đến tưởng Như Lai địa không là không hai. Tưởng Cực hỷ địa cho đến tưởng Pháp vân địa là hai; tưởng Cực hỷ địa không cho đến tưởng Pháp vân địa không là không hai. Tưởng pháp môn Đà la ni, pháp môn Tam ma địa là hai; tưởng tất cả pháp môn Đà la ni, pháp môn Tam ma địa không là không hai. Tưởng năm loại mắt, sáu phép thần thông là hai; tưởng năm loại mắt, sáu phép thần thông không là không hai. Tưởng Như Lai mười lực cho đến tưởng mười tám pháp Phật bất cộng là hai; tưởng Như Lai mười lực không cho đến tưởng mười tám pháp Phật bất cộng không là không hai. Tưởng ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của bậc Đại sĩ là hai; tưởng ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của bậc Đại sĩ không là không hai. Tưởng pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả là hai; tưởng pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả không là không hai. Tưởng Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí là hai; tưởng Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí không là không hai. Tưởng quả Dự lưu cho đến tưởng Độc giác Bồ-đề là hai; tưởng quả Dự lưu không cho đến tưởng Độc giác Bồ đề không là không hai. Tưởng tất cả Bồ tát hạnh và quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề là hai; tưởng tất cả hạnh của đại Bồ tát và quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề không là không hai. Tưởng cảnh giới hữu vi, cảnh giới vô vi là hai; tưởng cảnh giới hữu vi, cảnh giới vô vi không là không hai. (Q. 465, ĐBN)

Thiện Hiện! Cho đến tất cả tưởng đều là hai, cho đến tất cả hai đều là có, cho đến tất cả có đều là sanh tử. Đã sanh tử thì không thể giải thoát sanh, lão, bệnh, tử, sầu than, lo, buồn, khổ não.

Thiện Hiện! Không các tưởng đều là không hai. Các pháp không hai đều là chẳng có. Các pháp chẳng có đều không sanh tử. Người không sanh tử thì có thể giải thoát sanh, lão, bệnh, tử v.v...

Thiện Hiện! Do nhân duyên này nên biết tất cả những người có tưởng hai thì chắc chắn không thể bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật, không chứng đắc, không hiện quán cho đến thuận nhẫn, người ấy còn chẳng có huống chi có thể biết khắp tất cả sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Như vậy, cho đến không thể biết khắp tất cả Nhất thiết trí trí, người ấy còn không thể tu bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo, huống chi có thể đắc quả Dự lưu cho đến Độc giác Bồ đề, hoặc là có thể chứng đắc Nhất thiết trí trí và có thể dứt hẳn tất cả phiền não tập khí nối nhau”.

Đó là pháp môn bất nhị. Ngày nào còn lẩn quẩn trong vòng đối đãi thì ngày đó không tránh khỏi luân hồi khổ ải!

Xin xem lại phẩm “Xảo Tiện Hành”, phần sau quyển 365 cho đến hết quyển 366, Hội thứ I, ĐBN.

Điểm đáng lưu ý của phẩm này là thuyết về Bồ đề, cần phải học. Vì sao? Vì Bồ đề tức là Phật, Phật tức Bồ đề không hai không khác!

 

---o0o---