XIII. PHẨM
“BẤT TƯ NGHÌ”(1)
Phần cuối
cùng quyển 547, Hội thứ IV, TBBN.
Tóm lược:
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch
Phật:
- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã sâu xa vì
việc lớn nên xuất hiện ở đời, vì việc không thể nghĩ bàn nên xuất hiện ở đời,
vì việc không thể đo lường nên xuất hiện ở đời, vì việc không số lượng nên xuất
hiện ở đời, vì việc không thể so sánh nên xuất hiện ở đời.
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như
lời ngươi nói!
Thiện Hiện! Thế nào là vì việc lớn nên Bát Nhã sâu xa xuất
hiện ở đời? Nghĩa là tất cả chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều vì cứu giúp tất cả hữu tình, vì
việc lớn này nên không phút giây nào tạm rời bỏ. Bát Nhã sâu xa vì việc này nên
xuất hiện ở đời.
Thiện Hiện! Thế nào là Bát Nhã sâu
xa vì việc không thể nghĩ bàn, vì việc
không thể đo lường, vì việc không số
lượng, vì việc không thể so sánh
nên xuất hiện ở đời? Nghĩa là Phật tánh, Như Lai tánh, tự nhiên tánh giác, Nhất
thiết trí tánh của chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều không thể nghĩ bàn,
không thể đo lường, không số lượng, không thể so sánh. Bát Nhã sâu xa vì các
việc này nên xuất hiện ở đời.
Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Chỉ có đức Như Lai
Ứng Chánh Đẳng Giác có Phật tánh, Như Lai tánh, tự nhiên tánh giác, Nhất thiết
trí tánh đều không thể nghĩ bàn, không thể đo lường, không số lượng, không thể
so sánh. Hay là sắc, thọ, tưởng, hành, thức cho đến tất cả pháp cũng không thể
nghĩ bàn, không thể đo lường, không số lượng, không thể so sánh được?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Không những Như
Lai Ứng Chánh Đẳng Giác có Phật tánh, Như Lai tánh, tự nhiên tánh giác, Nhất
thiết trí tánh không thể nghĩ bàn, không thể đo lường, không số lượng, không
thể so sánh mà sắc, thọ, tưởng, hành, thức cho đến tất cả pháp cũng không thể
nghĩ bàn, không thể đo lường, không số lượng, không thể so sánh. Vì sao? Vì ở trong tất cả pháp tánh chơn thật, tâm và
tâm sở đều bất khả đắc.
Thiện Hiện nên biết! Tất cả sắc, thọ, tưởng, hành, thức và tất
cả pháp đều không thể phô bày, không có số lượng, không so sánh. Vì sao? Vì các
pháp như vậy không có tự tánh, bất khả đắc, vì tự tánh Không.
Này Thiện Hiện! Tất cả sắc, thọ,
tưởng, hành, thức và tất cả pháp đều bất
khả đắc, nên không thể nghĩ bàn, không thể đo lường, không có số lượng,
không thể so sánh. Vì sao? Vì các pháp này không có hạn lượng, không có sở hữu,
vì tự tánh Không.
Này Thiện Hiện! Tất cả sắc, thọ,
tưởng, hành, thức và tất cả pháp đều
không có hạn lượng, nên không thể nghĩ bàn, không thể đo lường, không có số
lượng, không thể so sánh.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Vì nguyên nhân nào
mà các sắc, thọ, tưởng, hành, thức và tất cả pháp đều không hạn lượng?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Ý ngươi thế nào?
Hư không có bị tâm và tâm sở làm hạn lượng không?
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Không.
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Tất cả sắc, thọ,
tưởng, hành, thức và tất cả pháp cũng lại như vậy, vì tự tánh Không nên tâm và tâm sở không thể hạn lượng. Vì nhân
duyên này nên sắc, thọ, tưởng, hành, thức và tất cả pháp không có hạn lượng,
đều không thể nghĩ bàn, không thể đo lường, không có số lượng, không thể so
sánh.
Thiện Hiện nên biết! Vì tất cả pháp
đều không thể nghĩ bàn, không thể đo lường, không có số lượng, không thể so
sánh nên tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều có pháp Phật, pháp Như Lai,
pháp giác tự nhiên, pháp Nhất thiết trí cũng không thể nghĩ bàn, không thể đo
lường, không có số lượng, không thể so sánh được.
Thiện Hiện nên biết! Các pháp này
đều không thể nghĩ bàn vì đã chấm dứt sự nghĩ bàn, không thể đo lường vì đã
chấm dứt sự đo lường, không có số lượng vì đã chấm dứt số lượng, không thể so
sánh vì đã chấm dứt sự so sánh.
Thiện Hiện nên biết! Các pháp này
đều không thể nghĩ bàn vì vượt quá sự nghĩ bàn, không thể đo lường vì vượt quá
sự đo lường, không có số lượng vì vượt quá số lượng, không thể so sánh vì vượt
quá sự so sánh.
Thiện Hiện nên biết! Không thể nghĩ
bàn, không thể đo lường, không có số lượng, không thể so sánh đó chỉ có khái niệm, hoàn toàn không chơn
thật.
Thiện Hiện nên biết! Không thể nghĩ bàn, không thể đo lường,
không có số lượng, không thể so sánh đó đều như hư không, hoàn toàn vô sở hữu.
Do nhân duyên này mà tất cả pháp
Phật, pháp Như Lai, pháp giác tự nhiên, pháp Nhất thiết trí của Như Lai Ứng
Chánh Đẳng Giác đều không thể nghĩ bàn, không thể đo lường, không có số lượng,
không thể so sánh. Thanh văn, Độc giác, thế gian, trời, người, A tu
la v.v... thảy đều không thể nghĩ bàn, không thể đo lường, không có số lượng,
không thể so sánh các pháp này.
Khi đức Phật thuyết pháp không thể
nghĩ bàn, không thể đo lường, không có số lượng, không thể so sánh, trong chúng
có năm trăm Bí sô, hai ngàn Bí sô ni những lậu hoặc không còn, tâm được giải
thoát. Và có sáu mươi cận sự nam, ba mươi cận sự nữ, đối với các pháp xa lìa trần cấu, sanh pháp nhãn thanh tịnh. Và có
hai vạn đại Bồ tát đắc Vô sanh pháp nhẫn. Đức Thế Tôn thọ ký cho họ trong Hiền
kiếp sẽ chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề Bất thối chuyển. Tức trước
đã nói: Những cận sự nam, cận sự nữ đối với các pháp xa lìa trần cấu, sanh pháp
nhãn thanh tịnh, đức Phật cũng thọ ký cho họ chẳng bao lâu sẽ chứng đắc, vĩnh
viễn đoạn tận các lậu, tâm và tuệ giải thoát.(2)
Thích nghĩa:
(1). Bất khả
tư nghì: Bất khả tư nghị. Không thể nghĩ bàn. Phạm: a-cintya. Cũng gọi Bất tư
nghị, Nan tư nghị (khó nghĩ bàn). Chỉ cho cảnh giới không thể nghĩ lường nói
năng được. Chủ yếu được dùng để hình dung cảnh giới giác ngộ của chư Phật Bồ
tát, cùng với sự mầu nhiệm sâu xa của trí tuệ và sức thần thông. Đối với những
sự lý sâu xa mầu nhiệm và thần kỳ, không thể nhờ vào suy xét hoặc bàn luận mà
biết được, người đời thường dùng bất khả tư nghị để hình dung. Nhưng từ ngữ này
đã được viện dẫn từ Kinh điển Phật. Kinh Tăng nhất a hàm quyển 18 nói, thế
giới, chúng sinh, rồng, cảnh giới Phật là bốn cái không thể nghĩ bàn. Kinh Đại
bảo tích quyển 86 cũng nêu: Nghiệp, rồng, thiền, Phật là bốn cảnh giới không
thể nghĩ bàn. Luận Đại trí độ quyển 30 thì bảo: Chúng sinh nhiều ít (chúng sinh
không thêm không bớt), nghiệp quả báo (tất cả quả báo sai khác do sức nghiệp mà
sinh), sức người ngồi thiền (do sức thiền định mà hiện thần thông), sức các
rồng (một giọt nước của rồng trút xuống làm trận mưa lớn), sức của chư Phật
(đức Phật đã thành tựu đầy đủ mười lực) v.v..., năm thứ kể trên đều không thể
nghĩ bàn. Lại Kinh Hoa nghiêm (bản dịch cũ) quyển 30 phẩm Phật bất khả tư nghị
pháp, cũng nêu ra mười thứ không thể nghĩ bàn của chư Phật là: Cõi nước, tịnh
nguyện, chủng tính, xuất thế, pháp thân, âm thanh, trí tuệ, sức thần tự tại, vô
ngại trụ, giải thoát v.v... Cũng Kinh trên, quyển 37 phẩm Ly thế gian còn ghi
chép mười thứ không thể nghĩ bàn của Bồ tát. Những ghi chép trên đây đều nhằm
nói rõ rằng, sự giải thoát, trí tuệ, sức thần thông v.v... của chư Phật và Bồ
tát không thể dùng lời nói mà diễn tả, hoặc suy tư mà biết được. Thêm nữa, Kinh
Hoa nghiêm và Kinh Duy Ma được gọi là Kinh Bất khả tư nghị giải thoát, đức Phật
A di đà được gọi là Bất khả tư nghị quang Như Lai, Bồ tát được gọi là Bất khả
tư nghị bồ tát, Nan tư nghị bồ tát v.v... đều thuộc những trường hợp kể trên.
(xt. Tứ Bất Tư Nghi) -Phật Quang tự điển.
(2). Số
lượng Bí sô và Bí sô ni cũng như số
lượng Ưu bà tắc, Ưu bà di và Bồ tát chứng đắc các quả vị sau khi Phật
thuyết trong “Tiểu Bản Bát Nhã” do Ngài Huyền Trang dịch hoặc “Tiểu Phẩm Bát
Nhã” do La Thập dịch hoặc “Phật Mẫu Bát Nhã” do Thí Hộ dịch, rất khác nhau. Đó
là điều đáng ngạc nhiên, vì trong cùng một pháp hội mà Kinh điển lại ghi chép
rất khác nhau?
Lược giải:
Tất cả trí
Phật là những năng lực siêu diệt, không thể tưởng tượng, không gì sánh bằng,
không thể dùng lời nói hay văn tự diễn tả nổi. Vì thế mới nói tất cả trí tuệ
Phật là bất khả tư nghì. Nhưng tại sao sắc thọ tưởng cũng bất khả tư nghì. Sắc
thọ tưởng hành thức còn gọi là ngũ uẩn, ngũ che(1). Vì nó che đậy tánh giác của
con người. Như trước đây chúng ta từng nói năm thủ uẩn là cái giúp ta sống,
nhưng năm thủ uẩn cũng là cái lừa phỉnh chúng ta. Tại sao năm thủ uẩn giúp ta
sống? Vì nếu không có thọ tưởng hành thức thì làm sao chúng ta có thể tiếp xúc
với môi trường sống hay sanh địa. Ngũ uẩn, lục căn, là con người. Thiếu nó là
thiếu tất cả. Không có nó, con người chỉ là gỗ đá. Nên thủ uẩn là cái giúp con
người sống: Chính nó bảo vệ thân căn và khí thế gian. Nhưng tại sao lại nói ngũ
uẩn cũng chính là cái lừa phỉnh con người. Thí dụ mà chúng ta thường nói là có
hai người cùng vào một phòng lạnh có cùng một nhiệt độ như nhau, người mạnh
khỏe thì cảm thấy mát mẻ, ưa thích... trong khi người bệnh hoạn ốm yếu thì cảm
thấy rét lạnh, khó chịu! Tại sao? Vì cảm thọ là cái sai biệt tùy theo từng cá
thể. Cảm thọ không phải là nhiệt kế hay hàn thử biểu, nên không thể nói lên sự
thật chung cùng của thế giới khách quan.
Nhưng tại
sao sắc thọ tưởng hành thức không thể nghĩ
bàn không thể cân lường, không thể tính đếm, không gì ngang bằng. Trong Kinh
Lăng Nghiêm Phật bảo: Năm cửa ngõ đó là địa ngục và chính năm cửa đó cũng là
Niết bàn. Khi “tại triền” thì thức là cái so đo phân biệt, nên chúng sanh bị
phiền não trói buộc, phải bị trầm luân trong sanh tử. Vì vậy, nói: Năm cửa ngõ
đó nó là địa ngục. Nhưng một khi “xuất triền” tức thoát ly phiền não trói buộc,
thì thức biến thành trí, đó chính là Niết bàn. Trí đó có đầy đủ công đức diệu
dụng vô ngại, vô biên... không thể cân lường, không thể tính đếm, không gì hơn
nên nói là bất khả tư nghì(2)!
Không những
tất cả pháp, Như Lai pháp, Phật pháp, Tự nhiên trí pháp, Nhất thiết trí pháp…
mà cả sắc, thọ tưởng, hành, thức không thể nghĩ bàn, không thể cân, không thể
lường, không thể đếm, không gì ngang bằng, cho đến tất cả các pháp cũng không
thể nghĩ bàn, không thể cân, không thể lường, không thể đếm, không gì ngang
bằng. Vì trong pháp tánh, sắc thọ tưởng hành thức không có tâm, không có tâm sở; cho đến tất cả các pháp, ở trong Pháp
tánh, cũng không có tâm, không có tâm sở. Không có tâm hay tâm sở tức tâm
Không hay còn gọi là vô niệm, vô tâm. Đạt đến chỗ này tức là chứng Thánh, nên
có đầy đủ diệu dụng không thể nghĩ bàn. Kinh Phật Mẫu Bát Nhã, Phật nói lên
quan điểm này như sau:
- “Tu bồ đề! Vì sắc, thụ, tưởng,
hành, thức, ở trong Pháp tính, không có tâm, không có tâm sở, nên không thể
nghĩ bàn, không thể cân, cho đến tất cả các pháp cũng không thể nghĩ bàn, không
thể cân. Tu bồ đề! Vì sắc, thụ, tưởng, hành, thức không thể lường, cho đến tất
cả các pháp cũng không thể lường. Vì sao? Sắc, thụ, tưởng, hành, thức, không
thể lường được, cho đến tất cả các pháp cũng không thể lường được. Vì không thể
lường được, tức sắc, thụ, tưởng, hành, thức cho đến tất cả các pháp không có tạo tác. Vì không tạo tác, tức sắc, thụ,
tưởng, hành, thức cho đến tất cả các pháp đều
không sinh. Vì không sinh, nên sắc, thụ, tưởng, hành, thức cho đến tất cả
các pháp đều không thể lường. Tu bồ đề, vì sắc, thụ, tưởng, hành, thức không
thể đếm, cho đến tất cả các pháp cũng không thể đếm. Vì sao? Vì vượt ngoài
phần, số. Tu bồ đề! Vì sắc, thụ, tưởng, hành, thức không có gì ngang bằng, cho
đến tất cả các pháp cũng không có gì ngang bằng. Vì sao? Vì bình đẳng như hư không. Tất cả các pháp cũng lại như thế.
Lại nữa, Tu bồ đề! Ý ngươi nghĩ thế
nào? Hư không có tâm, tâm sở không?
Tu bồ đề nói:
- Không, Thế Tôn!
Phật nói:
- Tu bồ đề! Tất cả các pháp kia cũng
thế. Vì hư không không thể nghĩ bàn, tất cả các pháp cũng không thể nghĩ bàn.
Vì hư không không thể cân, tất cả các pháp cũng không thể cân. Vì hư không không
thể lường, tất cả các pháp cũng không thể lường. Vì hư không không thể đếm, tất
cả các pháp cũng không thể đếm. Vì hư không không có gì ngang bằng, tất cả các
pháp cũng không có gì ngang bằng. Vì thế, các
pháp lìa mọi phân biệt. Nếu phân
biệt thì đều là nghiệp thức.
Tu bồ đề,
chấm dứt mọi sự cân lường tính toán gọi là không thể nghĩ bàn. Vì không cân
được nên gọi là không thể cân. Vì không có hạn lượng nên gọi là không thể
lường. Vì vượt ngoài các số nên gọi là không thể tính toán. Vì như hư không nên
gọi là không gì ngang bằng. Vì duyên này, nên biết pháp Như Lai, pháp Phật,
pháp Tự nhiên trí, pháp Nhất thiết trí, cho đến tất cả các pháp đều như hư
không, không thể nghĩ bàn, không thể cân, không thể lường, không thể tính toán,
không gì ngang bằng”.
Kết luận:
Đây là một
bài pháp tuy rất ngắn nhưng quá thậm thâm, rất khó thâm nhập. Nhưng hiểu được
nó là hiểu được tất cả pháp hay hiểu nó là thông đạt Bát Nhã. Trong toàn thể
Đại Bát Nhã đều nói về cái giác này giữa chúng sanh hay thế gian (cõi mê) và
Thánh giả (cõi giác) đối với tất cả pháp. Chúng sanh cõi mê hiểu tất cả pháp là
qua thức do cảm thọ từ ngũ uẩn mà ra. Thấy có phân biệt nên nói tốt xấu, hay
dở…Còn Thánh giả thấy các pháp như thế nào? Kinh chỗ nào cũng nói các pháp là
giả, không thật như bèo bọc mộng huyễn mây; các pháp là ngu si trì độn, chẳng
biết gì… cứ trơ lì như gỗ đá; các pháp là như như, chẳng lúc nào chẳng như, như
vậy bởi vì nó là như vậy; vì thấy như vậy nên bảo các pháp là bình đẳng vô
tướng; vì thấy không, vô tướng, vô tánh, tự tánh không… nên mới được thanh
tịnh.
Lên một tầng
nữa phẩm này Phật bảo tất cả pháp không thể nghĩ bàn giống như hư không, không
thể tính đếm, so lường… lìa phân biệt. Nếu có phân biệt là do nghiệp thức của
con người không phải do pháp. Do Thánh giả có cái thấy như vậy mới sanh trí tuệ
mà đạt vô ngại trí, vô phân biệt trí, vô trước trí, vô sư trí, bình đẳng tánh
trí, diệu quan sát trí, đại viên cảnh trí… Trong lúc chúng sanh thấy pháp, đòi
hỏi phải có đối tượng mới gọi là thấy, không có đối tượng nói là không thấy.
Thánh giả ngược lại không thấy tướng, lìa tướng nên thấy tánh, thấy chơn như
thật tướng. Nên cái thấy của Thánh giả gọi không thể nghĩ bàn!
Thích nghĩa cho phần lược giải này:
(1). Ngũ
uẩn: Sắc (色; s, p: rūpa), chỉ
thân và sáu giác quan (Lục căn) do Tứ đại chủng (s, p: mahābhūta) tạo thành, đó
là bốn yếu tố đất, nước, gió, lửa. Sắc tạo nên các giác quan và đối tượng của
các giác quan. Thụ (受; s, p:
vedanā), tức là toàn bộ các cảm
giác, không phân biệt chúng là dễ chịu, khó chịu hay trung tính. Tưởng (想; s: saṃjñā; p: saññā) là nhận biết các cảm giác như
âm thanh, màu sắc, mùi vị…, kể cả nhận biết ý thức đang hiện diện. Hành (行; s: saṃskāra; p: saṅkhāra) là những hoạt động tâm lý
sau khi có tưởng, ví dụ chú ý, đánh giá, vui thích, ghét bỏ, quyết tâm, tỉnh
giác… Thức (識; s: vijñāna; p: viññāṇa) bao gồm
sáu dạng ý thức liên hệ tới sáu giác quan: Ý thức của mắt, tai, mũi, lưỡi,
thân, ý. (Phỏng theo từ điển Đạo Uyển).
(2). Thức uẩn (trong ngũ uẩn): s:
vijñāna-skandha, p: viññāṇa-khandha, 識蘊, với tính cách là chủ thể của tâm, nó chỉ cho Nhãn
Thức (眼識) cho đến 5 thức
kia; hơn nữa thức thứ 7 Mạt Na (末那) cũng như thức thứ 8 A Lại Da (s, p: ālaya, 阿賴耶) của Duy Thức Học, cũng thuộc về
Thức Uẩn này. (Phật Học Tinh Tuyển)
Duy Thức học
cho rằng 8 thức (Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý, Mạt na và A lại gia) này lúc
còn là chúng sanh thì gọi là thức. Lúc thành đạo thì 8 thức biến thành 4 trí:
Năm thức trước nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân biến thành “Sở tác trí”. Thức thứ sáu
là ý thì biến thành “Diệu quan sát trí”. Thức thứ bảy là Mạt na thức biến thành
“Bình đẳng tánh trí” và thức thứ tám là A lại gia thức thì biến thành “Đại viên
cảnh trí”.
Khi chưa
giác ngộ tức còn trong triền phược, chúng sanh sống bằng thức vọng. Khi ngộ rồi
tức thoát vỏ triền phược, trở thành Thánh thì thức biến thành trí. Trí tuệ của
Thánh nhân đều không thể nói năng luận bàn, nên nói là bất khả tư nghì!
---o0o---