Thứ Hai, 28 tháng 6, 2021

Hội thứ IV - 13. Phẩm “Bất Tư Nghì”

 

XIII. PHẨM “BẤT TƯ NGHÌ”(1)

Phần cuối cùng quyển 547, Hội thứ IV, TBBN.

 

Tóm lược:  

 

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã sâu xa vì việc lớn nên xuất hiện ở đời, vì việc không thể nghĩ bàn nên xuất hiện ở đời, vì việc không thể đo lường nên xuất hiện ở đời, vì việc không số lượng nên xuất hiện ở đời, vì việc không thể so sánh nên xuất hiện ở đời.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như lời ngươi nói!

Thiện Hiện! Thế nào là vì việc lớn nên Bát Nhã sâu xa xuất hiện ở đời? Nghĩa là tất cả chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều vì cứu giúp tất cả hữu tình, vì việc lớn này nên không phút giây nào tạm rời bỏ. Bát Nhã sâu xa vì việc này nên xuất hiện ở đời.

Thiện Hiện! Thế nào là Bát Nhã sâu xa vì việc không thể nghĩ bàn, vì việc không thể đo lường, vì việc không số lượng, vì việc không thể so sánh nên xuất hiện ở đời? Nghĩa là Phật tánh, Như Lai tánh, tự nhiên tánh giác, Nhất thiết trí tánh của chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều không thể nghĩ bàn, không thể đo lường, không số lượng, không thể so sánh. Bát Nhã sâu xa vì các việc này nên xuất hiện ở đời.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Chỉ có đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác có Phật tánh, Như Lai tánh, tự nhiên tánh giác, Nhất thiết trí tánh đều không thể nghĩ bàn, không thể đo lường, không số lượng, không thể so sánh. Hay là sắc, thọ, tưởng, hành, thức cho đến tất cả pháp cũng không thể nghĩ bàn, không thể đo lường, không số lượng, không thể so sánh được?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Không những Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác có Phật tánh, Như Lai tánh, tự nhiên tánh giác, Nhất thiết trí tánh không thể nghĩ bàn, không thể đo lường, không số lượng, không thể so sánh mà sắc, thọ, tưởng, hành, thức cho đến tất cả pháp cũng không thể nghĩ bàn, không thể đo lường, không số lượng, không thể so sánh. Vì sao? Vì ở trong tất cả pháp tánh chơn thật, tâm và tâm sở đều bất khả đắc.

Thiện Hiện nên biết! Tất cả sắc, thọ, tưởng, hành, thức và tất cả pháp đều không thể phô bày, không có số lượng, không so sánh. Vì sao? Vì các pháp như vậy không có tự tánh, bất khả đắc, vì tự tánh Không.

Này Thiện Hiện! Tất cả sắc, thọ, tưởng, hành, thức và tất cả pháp đều bất khả đắc, nên không thể nghĩ bàn, không thể đo lường, không có số lượng, không thể so sánh. Vì sao? Vì các pháp này không có hạn lượng, không có sở hữu, vì tự tánh Không.

Này Thiện Hiện! Tất cả sắc, thọ, tưởng, hành, thức và tất cả pháp đều không có hạn lượng, nên không thể nghĩ bàn, không thể đo lường, không có số lượng, không thể so sánh.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vì nguyên nhân nào mà các sắc, thọ, tưởng, hành, thức và tất cả pháp đều không hạn lượng?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Ý ngươi thế nào? Hư không có bị tâm và tâm sở làm hạn lượng không?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Không.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Tất cả sắc, thọ, tưởng, hành, thức và tất cả pháp cũng lại như vậy, vì tự tánh Không nên tâm và tâm sở không thể hạn lượng. Vì nhân duyên này nên sắc, thọ, tưởng, hành, thức và tất cả pháp không có hạn lượng, đều không thể nghĩ bàn, không thể đo lường, không có số lượng, không thể so sánh.

Thiện Hiện nên biết! Vì tất cả pháp đều không thể nghĩ bàn, không thể đo lường, không có số lượng, không thể so sánh nên tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều có pháp Phật, pháp Như Lai, pháp giác tự nhiên, pháp Nhất thiết trí cũng không thể nghĩ bàn, không thể đo lường, không có số lượng, không thể so sánh được.

Thiện Hiện nên biết! Các pháp này đều không thể nghĩ bàn vì đã chấm dứt sự nghĩ bàn, không thể đo lường vì đã chấm dứt sự đo lường, không có số lượng vì đã chấm dứt số lượng, không thể so sánh vì đã chấm dứt sự so sánh.

Thiện Hiện nên biết! Các pháp này đều không thể nghĩ bàn vì vượt quá sự nghĩ bàn, không thể đo lường vì vượt quá sự đo lường, không có số lượng vì vượt quá số lượng, không thể so sánh vì vượt quá sự so sánh.

Thiện Hiện nên biết! Không thể nghĩ bàn, không thể đo lường, không có số lượng, không thể so sánh đó chỉ có khái niệm, hoàn toàn không chơn thật.

Thiện Hiện nên biết! Không thể nghĩ bàn, không thể đo lường, không có số lượng, không thể so sánh đó đều như hư không, hoàn toàn vô sở hữu.

Do nhân duyên này mà tất cả pháp Phật, pháp Như Lai, pháp giác tự nhiên, pháp Nhất thiết trí của Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều không thể nghĩ bàn, không thể đo lường, không có số lượng, không thể so sánh. Thanh văn, Độc giác, thế gian, trời, người, A tu la v.v... thảy đều không thể nghĩ bàn, không thể đo lường, không có số lượng, không thể so sánh các pháp này.

Khi đức Phật thuyết pháp không thể nghĩ bàn, không thể đo lường, không có số lượng, không thể so sánh, trong chúng có năm trăm Bí sô, hai ngàn Bí sô ni những lậu hoặc không còn, tâm được giải thoát. Và có sáu mươi cận sự nam, ba mươi cận sự nữ, đối với các pháp xa lìa trần cấu, sanh pháp nhãn thanh tịnh. Và có hai vạn đại Bồ tát đắc Vô sanh pháp nhẫn. Đức Thế Tôn thọ ký cho họ trong Hiền kiếp sẽ chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề Bất thối chuyển. Tức trước đã nói: Những cận sự nam, cận sự nữ đối với các pháp xa lìa trần cấu, sanh pháp nhãn thanh tịnh, đức Phật cũng thọ ký cho họ chẳng bao lâu sẽ chứng đắc, vĩnh viễn đoạn tận các lậu, tâm và tuệ giải thoát.(2)

 

Thích nghĩa:

(1). Bất khả tư nghì: Bất khả tư nghị. Không thể nghĩ bàn. Phạm: a-cintya. Cũng gọi Bất tư nghị, Nan tư nghị (khó nghĩ bàn). Chỉ cho cảnh giới không thể nghĩ lường nói năng được. Chủ yếu được dùng để hình dung cảnh giới giác ngộ của chư Phật Bồ tát, cùng với sự mầu nhiệm sâu xa của trí tuệ và sức thần thông. Đối với những sự lý sâu xa mầu nhiệm và thần kỳ, không thể nhờ vào suy xét hoặc bàn luận mà biết được, người đời thường dùng bất khả tư nghị để hình dung. Nhưng từ ngữ này đã được viện dẫn từ Kinh điển Phật. Kinh Tăng nhất a hàm quyển 18 nói, thế giới, chúng sinh, rồng, cảnh giới Phật là bốn cái không thể nghĩ bàn. Kinh Đại bảo tích quyển 86 cũng nêu: Nghiệp, rồng, thiền, Phật là bốn cảnh giới không thể nghĩ bàn. Luận Đại trí độ quyển 30 thì bảo: Chúng sinh nhiều ít (chúng sinh không thêm không bớt), nghiệp quả báo (tất cả quả báo sai khác do sức nghiệp mà sinh), sức người ngồi thiền (do sức thiền định mà hiện thần thông), sức các rồng (một giọt nước của rồng trút xuống làm trận mưa lớn), sức của chư Phật (đức Phật đã thành tựu đầy đủ mười lực) v.v..., năm thứ kể trên đều không thể nghĩ bàn. Lại Kinh Hoa nghiêm (bản dịch cũ) quyển 30 phẩm Phật bất khả tư nghị pháp, cũng nêu ra mười thứ không thể nghĩ bàn của chư Phật là: Cõi nước, tịnh nguyện, chủng tính, xuất thế, pháp thân, âm thanh, trí tuệ, sức thần tự tại, vô ngại trụ, giải thoát v.v... Cũng Kinh trên, quyển 37 phẩm Ly thế gian còn ghi chép mười thứ không thể nghĩ bàn của Bồ tát. Những ghi chép trên đây đều nhằm nói rõ rằng, sự giải thoát, trí tuệ, sức thần thông v.v... của chư Phật và Bồ tát không thể dùng lời nói mà diễn tả, hoặc suy tư mà biết được. Thêm nữa, Kinh Hoa nghiêm và Kinh Duy Ma được gọi là Kinh Bất khả tư nghị giải thoát, đức Phật A di đà được gọi là Bất khả tư nghị quang Như Lai, Bồ tát được gọi là Bất khả tư nghị bồ tát, Nan tư nghị bồ tát v.v... đều thuộc những trường hợp kể trên. (xt. Tứ Bất Tư Nghi) -Phật Quang tự điển.

(2). Số lượng Bí sô và Bí sô ni cũng như số lượng Ưu bà tắc, Ưu bà di và Bồ tát chứng đắc các quả vị sau khi Phật thuyết trong “Tiểu Bản Bát Nhã” do Ngài Huyền Trang dịch hoặc “Tiểu Phẩm Bát Nhã” do La Thập dịch hoặc “Phật Mẫu Bát Nhã” do Thí Hộ dịch, rất khác nhau. Đó là điều đáng ngạc nhiên, vì trong cùng một pháp hội mà Kinh điển lại ghi chép rất khác nhau?

 

Lược giải:

 

Tất cả trí Phật là những năng lực siêu diệt, không thể tưởng tượng, không gì sánh bằng, không thể dùng lời nói hay văn tự diễn tả nổi. Vì thế mới nói tất cả trí tuệ Phật là bất khả tư nghì. Nhưng tại sao sắc thọ tưởng cũng bất khả tư nghì. Sắc thọ tưởng hành thức còn gọi là ngũ uẩn, ngũ che(1). Vì nó che đậy tánh giác của con người. Như trước đây chúng ta từng nói năm thủ uẩn là cái giúp ta sống, nhưng năm thủ uẩn cũng là cái lừa phỉnh chúng ta. Tại sao năm thủ uẩn giúp ta sống? Vì nếu không có thọ tưởng hành thức thì làm sao chúng ta có thể tiếp xúc với môi trường sống hay sanh địa. Ngũ uẩn, lục căn, là con người. Thiếu nó là thiếu tất cả. Không có nó, con người chỉ là gỗ đá. Nên thủ uẩn là cái giúp con người sống: Chính nó bảo vệ thân căn và khí thế gian. Nhưng tại sao lại nói ngũ uẩn cũng chính là cái lừa phỉnh con người. Thí dụ mà chúng ta thường nói là có hai người cùng vào một phòng lạnh có cùng một nhiệt độ như nhau, người mạnh khỏe thì cảm thấy mát mẻ, ưa thích... trong khi người bệnh hoạn ốm yếu thì cảm thấy rét lạnh, khó chịu! Tại sao? Vì cảm thọ là cái sai biệt tùy theo từng cá thể. Cảm thọ không phải là nhiệt kế hay hàn thử biểu, nên không thể nói lên sự thật chung cùng của thế giới khách quan.

Nhưng tại sao sắc thọ tưởng hành thức không thể nghĩ bàn không thể cân lường, không thể tính đếm, không gì ngang bằng. Trong Kinh Lăng Nghiêm Phật bảo: Năm cửa ngõ đó là địa ngục và chính năm cửa đó cũng là Niết bàn. Khi “tại triền” thì thức là cái so đo phân biệt, nên chúng sanh bị phiền não trói buộc, phải bị trầm luân trong sanh tử. Vì vậy, nói: Năm cửa ngõ đó nó là địa ngục. Nhưng một khi “xuất triền” tức thoát ly phiền não trói buộc, thì thức biến thành trí, đó chính là Niết bàn. Trí đó có đầy đủ công đức diệu dụng vô ngại, vô biên... không thể cân lường, không thể tính đếm, không gì hơn nên nói là bất khả tư nghì(2)!

 

Không những tất cả pháp, Như Lai pháp, Phật pháp, Tự nhiên trí pháp, Nhất thiết trí pháp… mà cả sắc, thọ tưởng, hành, thức không thể nghĩ bàn, không thể cân, không thể lường, không thể đếm, không gì ngang bằng, cho đến tất cả các pháp cũng không thể nghĩ bàn, không thể cân, không thể lường, không thể đếm, không gì ngang bằng. Vì trong pháp tánh, sắc thọ tưởng hành thức không có tâm, không có tâm sở; cho đến tất cả các pháp, ở trong Pháp tánh, cũng không có tâm, không có tâm sở. Không có tâm hay tâm sở tức tâm Không hay còn gọi là vô niệm, vô tâm. Đạt đến chỗ này tức là chứng Thánh, nên có đầy đủ diệu dụng không thể nghĩ bàn. Kinh Phật Mẫu Bát Nhã, Phật nói lên quan điểm này như sau:

- “Tu bồ đề! Vì sắc, thụ, tưởng, hành, thức, ở trong Pháp tính, không có tâm, không có tâm sở, nên không thể nghĩ bàn, không thể cân, cho đến tất cả các pháp cũng không thể nghĩ bàn, không thể cân. Tu bồ đề! Vì sắc, thụ, tưởng, hành, thức không thể lường, cho đến tất cả các pháp cũng không thể lường. Vì sao? Sắc, thụ, tưởng, hành, thức, không thể lường được, cho đến tất cả các pháp cũng không thể lường được. Vì không thể lường được, tức sắc, thụ, tưởng, hành, thức cho đến tất cả các pháp không có tạo tác. Vì không tạo tác, tức sắc, thụ, tưởng, hành, thức cho đến tất cả các pháp đều không sinh. Vì không sinh, nên sắc, thụ, tưởng, hành, thức cho đến tất cả các pháp đều không thể lường. Tu bồ đề, vì sắc, thụ, tưởng, hành, thức không thể đếm, cho đến tất cả các pháp cũng không thể đếm. Vì sao? Vì vượt ngoài phần, số. Tu bồ đề! Vì sắc, thụ, tưởng, hành, thức không có gì ngang bằng, cho đến tất cả các pháp cũng không có gì ngang bằng. Vì sao? Vì bình đẳng như hư không. Tất cả các pháp cũng lại như thế.

Lại nữa, Tu bồ đề! Ý ngươi nghĩ thế nào? Hư không có tâm, tâm sở không?

Tu bồ đề nói:

- Không, Thế Tôn!

Phật nói:

- Tu bồ đề! Tất cả các pháp kia cũng thế. Vì hư không không thể nghĩ bàn, tất cả các pháp cũng không thể nghĩ bàn. Vì hư không không thể cân, tất cả các pháp cũng không thể cân. Vì hư không không thể lường, tất cả các pháp cũng không thể lường. Vì hư không không thể đếm, tất cả các pháp cũng không thể đếm. Vì hư không không có gì ngang bằng, tất cả các pháp cũng không có gì ngang bằng. Vì thế, các pháp lìa mọi phân biệt. Nếu phân biệt thì đều là nghiệp thức.

Tu bồ đề, chấm dứt mọi sự cân lường tính toán gọi là không thể nghĩ bàn. Vì không cân được nên gọi là không thể cân. Vì không có hạn lượng nên gọi là không thể lường. Vì vượt ngoài các số nên gọi là không thể tính toán. Vì như hư không nên gọi là không gì ngang bằng. Vì duyên này, nên biết pháp Như Lai, pháp Phật, pháp Tự nhiên trí, pháp Nhất thiết trí, cho đến tất cả các pháp đều như hư không, không thể nghĩ bàn, không thể cân, không thể lường, không thể tính toán, không gì ngang bằng”.

 

Kết luận:

 

Đây là một bài pháp tuy rất ngắn nhưng quá thậm thâm, rất khó thâm nhập. Nhưng hiểu được nó là hiểu được tất cả pháp hay hiểu nó là thông đạt Bát Nhã. Trong toàn thể Đại Bát Nhã đều nói về cái giác này giữa chúng sanh hay thế gian (cõi mê) và Thánh giả (cõi giác) đối với tất cả pháp. Chúng sanh cõi mê hiểu tất cả pháp là qua thức do cảm thọ từ ngũ uẩn mà ra. Thấy có phân biệt nên nói tốt xấu, hay dở…Còn Thánh giả thấy các pháp như thế nào? Kinh chỗ nào cũng nói các pháp là giả, không thật như bèo bọc mộng huyễn mây; các pháp là ngu si trì độn, chẳng biết gì… cứ trơ lì như gỗ đá; các pháp là như như, chẳng lúc nào chẳng như, như vậy bởi vì nó là như vậy; vì thấy như vậy nên bảo các pháp là bình đẳng vô tướng; vì thấy không, vô tướng, vô tánh, tự tánh không… nên mới được thanh tịnh.

Lên một tầng nữa phẩm này Phật bảo tất cả pháp không thể nghĩ bàn giống như hư không, không thể tính đếm, so lường… lìa phân biệt. Nếu có phân biệt là do nghiệp thức của con người không phải do pháp. Do Thánh giả có cái thấy như vậy mới sanh trí tuệ mà đạt vô ngại trí, vô phân biệt trí, vô trước trí, vô sư trí, bình đẳng tánh trí, diệu quan sát trí, đại viên cảnh trí… Trong lúc chúng sanh thấy pháp, đòi hỏi phải có đối tượng mới gọi là thấy, không có đối tượng nói là không thấy. Thánh giả ngược lại không thấy tướng, lìa tướng nên thấy tánh, thấy chơn như thật tướng. Nên cái thấy của Thánh giả gọi không thể nghĩ bàn!

Thích nghĩa cho phần lược giải này:

(1). Ngũ uẩn: Sắc (; s, p: rūpa), chỉ thân và sáu giác quan (Lục căn) do Tứ đại chủng (s, p: mahābhūta) tạo thành, đó là bốn yếu tố đất, nước, gió, lửa. Sắc tạo nên các giác quan và đối tượng của các giác quan. Thụ (; s, p: vedanā), tức là toàn bộ các cảm giác, không phân biệt chúng là dễ chịu, khó chịu hay trung tính. Tưởng (; s: saṃjñā; p: saññā) là nhận biết các cảm giác như âm thanh, màu sắc, mùi vị…, kể cả nhận biết ý thức đang hiện diện. Hành (; s: saṃskāra; p: saṅkhāra) là những hoạt động tâm lý sau khi có tưởng, ví dụ chú ý, đánh giá, vui thích, ghét bỏ, quyết tâm, tỉnh giác… Thức (; s: vijñāna; p: viññāṇa) bao gồm sáu dạng ý thức liên hệ tới sáu giác quan: Ý thức của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. (Phỏng theo từ điển Đạo Uyển).

 (2). Thức uẩn (trong ngũ uẩn): s: vijñāna-skandha, p: viññāṇa-khandha, 識蘊, với tính cách là chủ thể của tâm, nó chỉ cho Nhãn Thức (眼識) cho đến 5 thức kia; hơn nữa thức thứ 7 Mạt Na (末那) cũng như thức thứ 8 A Lại Da (s, p: ālaya, 阿賴耶) của Duy Thức Học, cũng thuộc về Thức Uẩn này. (Phật Học Tinh Tuyển)

Duy Thức học cho rằng 8 thức (Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý, Mạt na và A lại gia) này lúc còn là chúng sanh thì gọi là thức. Lúc thành đạo thì 8 thức biến thành 4 trí: Năm thức trước nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân biến thành “Sở tác trí”. Thức thứ sáu là ý thì biến thành “Diệu quan sát trí”. Thức thứ bảy là Mạt na thức biến thành “Bình đẳng tánh trí” và thức thứ tám là A lại gia thức thì biến thành “Đại viên cảnh trí”.

Khi chưa giác ngộ tức còn trong triền phược, chúng sanh sống bằng thức vọng. Khi ngộ rồi tức thoát vỏ triền phược, trở thành Thánh thì thức biến thành trí. Trí tuệ của Thánh nhân đều không thể nói năng luận bàn, nên nói là bất khả tư nghì!

 

---o0o---