II. PHẦN THỨ
II TỔNG LUẬN
GIÁO LÝ BÁT
NHÃ
A.
BỐ CỤC ĐẠI BÁT NHÃ:
1. Phần đầu gọi là Đại Phẩm (Phạm:
Zatasàhasrikà-prajĩàpàramità)(1) tức Hội thứ I, cả thảy 16 tập, tổng
cộng 400 quyển. Nội dung nói về việc mở rộng và tu tập pháp quán Bát Nhã, hạnh
nguyện của Bồ tát và sự sâu xa thù thắng của Bát Nhã; tường thuật nhân duyên
tán thán cúng dường của các vị Đại đệ tử, chư Thiên, Thích, Phạm và công đức
rộng lớn của việc thọ trì Bát Nhã dù chỉ với một câu, đồng thời, căn cứ vào
nhân duyên thọ lãnh Bát Nhã của hai Bồ tát Thường Đề và Pháp Dũng mà nói rõ việc
được nghe Bát nhã Ba la mật là việc hi hữu (phải cần cầu mới được). Cứ theo
Pháp Uyển Châu lâm quyển 100 và Khai Nguyên Thích Giáo lục quyển 11 nói, thì
nguyên bản tiếng Phạm của hội thứ nhất gồm có 132.600 kệ tụng, tương đương với
100.000 kệ tụng Bát Nhã.
2. Phần hai gọi là Đại bản (Phạm:
Paĩcaviôzatisàhasrikà-prajĩàpàramità)(2) gồm 78 quyển kế tiếp, tức Hội thứ
II: Về nghĩa thì giống nhau, nhưng văn thì ngắn gọn hơn, sự thay đổi các
phẩm cũng khác và thiếu ba phẩm Thường Đề, Pháp Dũng v.v... Tương đương với
25.000 kệ tụng Bát Nhã hiện còn. Bản dịch Tây Tạng chia làm 76 phẩm, trong có
các phẩm Thường Đề, Pháp Dũng v.v... Theo bài tựa của Hội thứ II do Ngài Huyền
Tắc ở chùa Tây Minh soạn, thì các kinh như: Phóng quang Bát Nhã 20 quyển do
Ngài Vô Xoa La dịch vào đời Tây Tấn, Kinh Quang Tán (thiếu nửa sau) 10 quyển do
Ngài Trúc Pháp Hộ dịch vào đời Tây Tấn, Kinh Ma ha Bát nhã Ba la mật 27 quyển
do Ngài Cưu ma La thập dịch vào đời Diêu Tần v.v... đều là những bản dịch khác
của hội này.
3. Phần Ba tức Hội thứ III: Tạng giáo
gọi là Zes-rab-kyi Pha-rol-tu phyin-pa khri-brgyad-stoí-pa. Gồm 31 phẩm, 59
quyển. Về chỉ thú thì gần giống với hai hội trước, nhưng các phẩm thì khác nhau
và cũng thiếu 3 phẩm Thường Đề, Pháp Dũng v.v... Theo Pháp Uyển Châu lâm quyển
100 và Khai Nguyên Thích Giáo lục quyển 11, thì nguyên bản tiếng Phạm của hội
thứ III gồm 18.000 kệ tụng, tương đương với 18.000 tụng Bát Nhã của bản dịch
Tây Tạng. Bản dịch Tây Tạng chia làm 87 phẩm, có đủ ba phẩm Thường Đề, Pháp
Dũng v.v...
4. Phần bốn gọi là Tiểu bản Bát Nhã
(Phạm:Awỉasàhasrikà-prajĩàpàramità) tức Hội thứ IV: Gồm 29 phẩm, 18
quyển. Về yếu chỉ thì giống với ba hội trước, nhưng văn rất tỉnh lược. Theo bài
Tựa hội thứ IV của Ngài Huyền Tắc và Pháp Uyển Châu lâm, Khai Nguyên Thích Giáo
lục, thì các kinh như: Đạo hành Bát Nhã 10 quyển do Ngài Chi Lâu Ca Sấm dịch
vào đời Hậu Hán, Kinh Đại Minh Độ 6 quyển do Ngài Chi Khiêm dịch vào đời Ngô,
Kinh Tiểu phẩm Bát nhã Ba la mật,
10 quyển do Ngài Cưu ma la thập dịch vào đời Hậu Tần v.v... đều là những bản
dịch khác của hội này (Kinh Phật Mẫu xuất sinh tam pháp tạng Bát nhã Ba la mật
đa, 25 quyển do Ngài Thí Hộ
dịch vào đời Bắc Tống cũng là cùng bản với hội này). Bản tiếng Phạm gồm 8.000
kệ tụng, tương đương với 8.000 tụng Bát Nhã hiện còn.
5. Phần năm nói về Chân như Quan của Thắng Thiên Vương
tức Hội thứ V: Gồm 24 phẩm, 10 quyển. Nội dung rất vắn tắt so với bốn
hội trước. Pháp Uyển Châu lâm và Khai Nguyên Thích Giáo lục đều nói bản tiếng
Phạm của hội này có 4.000 tụng.
Đó là lược tóm 5 phần chánh của ĐBN được thuyết giảng
trong 5 Hội đầu, còn 11 Hội còn lại đại cương như sau:
6. Hội thứ VI: Gồm 17 phẩm, 8 quyển. Nội dung
hội này là đức Phật nói pháp Bát Nhã và cách tu tập Bát Nhã cho Thắng Thiên
Vương nghe. Hội này cùng bản với Kinh Thắng thiên vương Bát nhã Ba la mật đa 7
quyển do Ngài Nguyệt Bà Thủ Na dịch vào đời Trần thuộc Nam triều. Pháp Uyển
Châu Lâm và Khai Nguyên Thích Giáo lục nói, nguyên bản tiếng Phạm của hội này
là 2.500 kệ tụng.
7. Hội thứ VII: Phần Mạn thù Thất lợi, 2 quyển,
tương đương với 700 kệ tụng Bát Nhã (Phạm: Saptazatikà-prajĩàpànamità) tiếng
Phạm, không lập tên phẩm riêng. Nội dung tường thuật việc Ngài Mạn thù Thất lợi
và đức Phật thuyết pháp về nhất tướng của Như Lai và của hữu tình giới là bất
khả đắc, tướng của phúc điền là bất khả tư nghị, nhất tướng trang nghiêm Tam ma
địa v.v... Hội này là cùng bản với Kinh Văn Thù Sư Lợi sở thuyết Ma ha Bát nhã
Ba la mật 2 quyển, do Ngài Mạn Đà La Tiên dịch vào đời Lương (thu vào hội thứ
46 trong Kinh Đại bảo tích) và kinh Mạn Thù Sư Lợi sở thuyết Bát nhã Ba la mật, 1 quyển, do Ngài Tăng Già Ba La
dịch (cũng vào đời Lương). Pháp Uyển Châu Lâm và Khai Nguyên Thích Giáo lục nói
bản tiếng Phạm của hội này có 800 kệ tụng.
8. Hội thứ VIII: Phần Na già Thất lợi, 1 quyển.
Nội dung tường thuật việc Bồ tát Diệu Cát Tường thuyết giảng về các pháp thế
gian như mộng huyễn chẳng phải thật có và về pháp vị vô thượng. Hội này là đồng
bản với Kinh Nhu thủ Bồ tát vô thượng thanh tịnh phân vệ, 2 quyển, do Tường Công dịch vào đời Tống.
Pháp Uyển Châu lâm và Khai Nguyên Thích Giáo lục nói bản tiếng Phạm của hội này
có 400 kệ tụng.
9. Hội thứ IX: Năng đoạn kim cương phần, 1
quyển, tương đương với Kim cương năng đoạn Bát nhã Ba la mật đa
(Phạm:Vajracchedikàprajĩàpàramità) tiếng Phạm. Nội dung đức Phật nói về việc phát
tâm hướng tới Bồ tát thừa, tu hành theo Bát Nhã và phương pháp nhiếp phục tâm
cho tôn giả Thiện Hiện (Tu Bồ Đề) nghe. Các Kinh Kim cương Bát nhã Ba la
mật, 1 quyển do các Ngài: Cưu
ma La thập đời Diêu Tần, Bồ đề Lưu chi đời Nguyên Ngụy và Ngài Chân Đế đời Trần
dịch, Kinh Kim cương năng đoạn Bát nhã Ba la mật, 1 quyển, do Ngài Cấp Đa dịch vào đời Tùy, và Kinh Năng đoạn Kim
cương Bát nhã Ba la mật đa, 1
quyển, do Ngài Nghĩa Tịnh dịch vào đời Đường v.v... đều là đồng bản của hội
này. Pháp Uyển Châu lâm và Khai Nguyên Thích Giáo lục nói bản tiếng Phạm của
hội này có 300 kệ tụng.
10. Hội thứ X: Phần Bát Nhã lý thú, 1 quyển,
tương đương với 150 kệ tụng Bát Nhã lý thú
(Phạm:Prajĩàpàramità-nayazatapaĩcàzatikà) tiếng Phạm hiện còn. Nội dung đức
Phật nói về pháp môn: Nhất thiết pháp thậm thâm vi diệu Bát Nhã lý thú thanh
tịnh cho các Bồ tát nghe. Các kinh: Thực tướng Bát nhã Ba la mật do Ngài Bồ đề
Lưu chi dịch vào đời Đường, Kim cương đính du già lý thú Bát Nhã do Ngài Kim
Cương Trí dịch, Đại lạc Kim cương Bất không Chân thực Tam ma da do Ngài Bất
Không dịch, Biến chiếu Bát nhã Ba la mật do Ngài Thí Hộ dịch vào đời Tống
v.v... mỗi thứ 1 quyển, đều là cùng bản với hội này. Theo Pháp Uyển Châu lâm và
Khai Nguyên Thích Giáo lục nói, thì bản tiếng Phạm của hội này gồm 300 kệ tụng.
Nhưng Chí Nguyên pháp Bảo khám đồng tổng lục, quyển 1 thì bảo hội này và nguyên bản tiếng Phạm hiện còn giống
nhau, đều gồm 150 bài tụng.
11. Hội thứ XI: Phần Bố thí Ba la mật đa, 5
quyển. Nội dung Ngài Xá lợi Phất nói với các vị Bồ tát là nếu đem lòng đại bi
làm việc bố thí, thì sẽ được Nhất thiết trí trí, chứng Vô thượng Bồ đề. Còn đức
Phật thì vì Mãn từ Tử mà nói rõ nghĩa tất cả pháp chẳng phải thực có, không có
được, mất, lợi, hại, đồng thời, Ngài dùng sức thần thông khiến đại chúng thấy
các Bồ tát trong vô lượng thế giới ở 10 phương đang tu hạnh bố thí và phát tâm
cầu Nhất thiết trí.
12. Hội thứ XII: Phần Tịnh giới Ba la mật đa, 5
quyển. Nội dung Ngài Xá lợi Phất nhờ sức thần thông của đức Phật mà nói rộng về
nghĩa chân thực của tịnh giới, chỉ bảo rõ thế nào là giữ giới và thế nào là
phạm giới. Như: Phát tâm Nhị thừa là phạm giới, hướng tới Vô Thượng Chánh đẳng
Bồ đề là giữ giới; dính mắc vào tướng bố thí, phân biệt các pháp, xa lìa Nhất
thiết trí là phạm giới v.v...
13. Hội thứ XIII: Phần An nhẫn Ba la mật đa, 1
quyển. Nội dung Ngài Mãn từ Tử và Xá lợi Phất nói rõ về pháp An nhẫn Vô Thượng
Bồ đề, tức là nếu đem tâm tàm quí mà tu pháp quán không thì sẽ chấm dứt tâm
tranh đấu, được an ổn.
14. Hội thứ XIV: Phần Tinh tấn Ba la mật đa, 1
quyển. Nội dung đức Phật giải thích rõ cho Mãn từ Tử về việc an trụ nơi Bát Nhã,
ngăn dứt sáu tình, siêng chăm ba học: Đó là con đường dẫn đến hoàn thành hạnh
Bồ tát.
15. Hội thứ XV: Phần Tĩnh lự Ba la mật đa, 2
quyển. Nội dung đức Phật ở trong hội Linh sơn nói về tất cả thiền định như: Tứ
thiền, Bát giải thoát, Cửu thứ đệ định v.v... đồng thời, Ngài nói về Không Bát
Nhã tam muội cho các tôn giả Xá lợi Phất và Mãn từ Tử nghe. Theo Khai Nguyên
Thích Giáo lục, bản tiếng Phạm của hai hội thứ XI, XII mỗi hội là 2.000 kệ
tụng, hai hội XIII, XIV, mỗi hội 400 kệ tụng, hội XV có 800 kệ tụng. Nhưng Pháp
Uyển Châu lâm bảo bản tiếng Phạm của hội XIV có 800 kệ tụng.
16. Hội thứ XVI: Phần Bát nhã Ba la mật đa, 8
quyển. Nội dung đức Phật ở trong hội Trúc lâm, thành Vương Xá nói cho bồ tát
Thiện dũng Mãnh nghe về giải thoát Bát Nhã vô sở đắc. Pháp Uyển Châu lâm và
Khai Nguyên Thích Giáo lục nói, nguyên văn bản tiếng Phạm của hội này gồm 2500
kệ tụng, tương đương tiếng Phạm hiện còn (Suvikràntavikràmiparipfcchà), bản dịch
Tây Tạng chia làm 7 chương. Trong 16 hội nêu trên đây, đã có một số hội được ấn
hành nguyên bản tiếng Phạm và bản dịch Tây tạng, như các hội thứ nhất, thứ tư,
thứ bảy, thứ chín v.v... Sau khi kinh này được truyền dịch, Ngài Huyền Tắc ở
chùa Tây Minh có viết lời tựa cho mỗi hội trong 16 hội, Ngài Khuy Cơ ở chùa Đại
từ Ân soạn Đại Bát nhã Ba la mật đa kinh Lý thú phần thuật tán, 3 quyển; Ngài Nguyên Hiểu người Tân La (Triều tiên) thì soạn Đại tuệ độ
kinh tông yếu 1 quyển. Ngoài ra còn có Đại Bát Nhã kinh quan pháp, 6 quyển của Ngài Đại Ẩn đời Tống; Đại Bát Nhã kinh cương yếu, 10 quyển của Ngài Cát Đỉnh đời
Thanh v.v... Rồi đến Đại Tạng kinh cương mục chỉ yếu lục, quyển 1, quyển 2 thượng; Đại Tạng Thánh giáo pháp bảo tiêu mục
quyển 1; Duyệt Tạng Tri tân
quyển 16 đến quyển 23 v.v... cũng đều có nói về cương yếu của kinh này. Số hội,
số kệ tụng, quyển thứ, số phẩm, cùng bản dịch khác, người dịch của kinh này
được đồ biểu như sau: [X. Đại đường nội điển lục, Q.5; Cổ kim dịch kinh đồ kỉ, Q.4; Khai nguyên thích giáo lục, Q.8; Đại đường cố Tam tạng Pháp sư Huyền Trang hành trạng; Chí
nguyên pháp bảo khám đồng tổng lục,
Q.1; Phật giáo kinh điển khái thuyết; Tân Phật giáo thứ 9, mục 7 (Độ biên Hải húc, ĐBN kinh khái
quan); Tông giáo nghiên cứu tân thứ 2 đoạn 4 (Can tả Long trường, Bát Nhã kinh
chi chư vấn đề); Nguyên thủy Bát Nhã kinh chi nghiên cứu] (3).
Đó là bố cục đại cương về Đại Bát Nhã Bát nhã Ba la mật.
Ngoài cách phân chia chánh yếu của ĐBN nói trên của Phật Quang Tự điển, các nhà
khảo cứu và các học giả Phật học chú giải khác cho rằng: Trong 600 quyển của
kinh ĐBN thì chỉ có 481 quyển ở các Hội thứ 1, 3, 5, 11, 12, 13, 14, 15 và 16
(9 Hội) là do nhóm của Ngài Huyền Trang dịch. 119 quyển còn lại thuộc các Hội
thứ: 2, 4, 6, 7, 8, 9, 10 (7 Hội) đã có các vị đi trước dịch rồi và nhóm của
Ngài Huyền Trang chỉ sao lại thôi. Các nhà nghiên cứu Phật học đã dùng từ “cựu
dịch và tân dịch” để chỉ cho các công trình và lối dịch thuật kinh điển Phật
giáo trước Ngài Huyền Trang (cựu dịch) và từ Ngài Huyền Trang trở về sau (tân
dịch)(4).
---o0o---
Đó là toàn bộ nội dung Đại Bát Nhã cũng là toàn bộ lược
giải của chúng tôi. Chúng tôi lưu ý Quý vị một lần nữa: Trọng tâm chú giải của
phần thứ II Tổng luận này là Hội thứ I, Hội thứ IV (tức Tiểu Bản Bát Nhã) và
Hội thứ VI cho đến Hội thứ X. Từ Hội thứ XI trở đi cho đến kết thúc kinh ĐBN,
là nói về Lục Ba la mật, chúng tôi chỉ tóm lược hoặc điểm sơ hoặc nhấn mạnh một
vài khía cạnh đặc biệt của 6 pháp hội cuối cùng này mà thôi. Phần thứ III Tổng
luận chúng tôi mới luận giải chi tiết sáu pháp hội cuối cùng nhất là Bát nhã Ba
la mật, thành hay bại quyết định ở Hội thứ XVI này. Riêng trong 5 Hội đầu độc
giả chỉ cần đọc một Hội là có thể hiểu 4 Hội khác. Nếu có thể đọc hết càng tốt.
Tụng đi tụng lại nhiều lần rồi một ngày nào đó sẽ vỡ ra!
Cũng nên nói thêm rằng: Không có một sự tu học nào mà
không đòi hỏi một nỗ lực và lòng kiên nhẫn lâu dài, Lục Ba la mật gọi đặc tánh
này là tinh tấn Ba la mật. Có tinh tấn mới có tiến bộ. “Cố công mài sắt, có
ngày nên kim”. Một lời Phật dạy là một viên ngọc, xin chớ bỏ qua!
Trước khi nhập Niết bàn, Phật bảo:
- “A Nan! Đạo ta nay đã viên mãn. Như lời nguyện xưa, nay ta
đã có đủ bốn chúng đệ tử: Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di. Nhiều đệ tử
có thể thay ta chuyển xe pháp, và đạo ta cũng đã truyền bá khắp nơi. Bây giờ,
ta có thể rời các ngươi mà ra đi. Thân hình ta, theo luật vô thường, bây giờ
như một cổ xe đã mòn rã. Ta đã mượn nó để chở pháp, nay xe đã vừa mòn mà pháp
cũng đã lan khắp nơi, vậy ta còn luyến tiếc làm gì cái thân tiều tụy này nữa? A
Nan! Trong ba tháng nữa ta sẽ nhập Niết bàn”.
Rồi, trước khi nhập Niết bàn, Phật bảo tất cả đệ tử:
- “Này! Các người phải tự mình thắp đuốc lên mà đi! Các người
hãy lấy Pháp của ta làm đuốc! Hãy theo Pháp của ta mà tự giải thoát! Đừng tìm
sự giải thoát ở một kẻ nào khác, đừng tìm sự giải thoát ở một nơi nào khác,
ngoài các người”!
- “Này! Các người đừng vì dục vọng mà quên lời ta dặn. Mọi
vật ở đời không có gì quí giá. Chỉ có chân lý của đạo ta là bất di, bất dịch. Hãy
tinh tiến lên để giải thoát, hỡi các người rất thân yêu của ta!”
Thích nghĩa cho phần này:
(1). Phật Quang Tự Điển gọi phần đầu 400 quyển của kinh
ĐBN là Đại phẩm (Phạm: Zatasàhasrikà-prajĩàpàramità), trong khi Thiền Luận III
của Ngài D.T. Suzuki do Tuệ Sĩ dịch, lại gọi là Đại bản Bát Nhã (Satasahasrika
Pr.)
(2). Phật Quang Tự Điển gọi phần hai 78 quyển của
kinh ĐBN là Đại bản (Phạm: Paĩcaviôzatisàhasrikà-prajĩàpàramità), trong khi một số tác giả lại gọi là Đại
phẩm (Pancavimsati sahasrika Pr.). Các sách dịch cũng thường lẫn lộn hai danh
từ Đại phẩm và Đại bản. Xin quý vị đừng quá quan tâm đến sự khác biệt về cách
gọi này.
(3). Bố cục này được trích dẫn từ Phật Quang Từ điển.
(4). Trích dẫn từ bài “Giới thiệu Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa
của Đào Nguyên”.
---o0o---
Như trên đã trình bày: Đại Bát Nhã (ĐBN) do Ngài Huyền
Trang dịch thật dài rộng, khoảng hơn 7000 trang giấy đánh máy khổ lớn, lại
trùng tụng quá nhiều, nên việc đọc tụng, học hỏi, thọ trì trở nên rối rắm phức
tạp. Vì vậy, chúng tôi tóm lược để dễ học, dễ nhớ. Đó là lý do tại sao có tập
luận này ra đời. “Đại Bát Nhã Ba La Mật Tổng Luận” mà chúng tôi trình bày ở đây
THẬT SỰ CHỈ LÀ TƯ LIỆU CÁ NHÂN, nhằm tóm tắt và chiết giải trong phạm vi
hạn hẹp, để tự học hơn là lưu hành. Tuy nhiên, vì phải tra cứu và đọc tụng
thường xuyên, nên chúng tôi hoàn thành nó. Đó là duyên khởi của tập Tổng luận
này. Nhưng về sau lại thấy “tánh cách hữu ích và thực dụng” của nó, nên chúng
tôi viết thêm phần thích nghĩa và lược giải kèm theo. Kết quả, là tập Đại Bát
Nhã Ba La Mật Tổng Luận ra đời thay thế cho quyển Đại Bát Nhã tóm lược dùng để
trì tụng trước kia.
Đã có nhiều tác giả viết hay luận giải sơ về giáo lý và
triết học Đại Bát Nhã rồi, nhưng không đúc kết toàn bộ đại phẩm này (chĩ trừ bộ
Đại Độ Trí Luận của Bô tát Long Thọ) mà chỉ rút ra một số phẩm hay quyển về các
chuyên đề mà họ hiểu biết hay thích thú. Điều đó cũng dễ hiểu, vì nguyên tác
Đại Bát Nhã quá dài. Vả lại muốn chiết giải một quyển kinh, trước hết phải
trình bày kinh đó nói gì, rồi dựa vào đó thích nghĩa và lược giải. Nhưng trình
bày một quyển kinh mà ghi lại hàng trăm hay hàng ngàn trang (như Phẩm “Khó Tin
Hiểu” tổng cộng có đến 103 quyển) thì lại quá dài dòng, dễ tạo sự chán chường,
mỏi mệt cho đọc giả. Đó chính là lý do tại sao xưa nay không có bản chú giải
nào viết trọn vẹn về Đại Bát Nhã (gồm 16 Hội) ra đời.
Đại Bát Nhã Ba La Mật Tổng Luận này, trước hết tóm lược
các giáo lý chính của Đại Bát Nhã do Ngài Huyền Trang dịch, kế đến thích nghĩa
và sau cùng là lược giải. Đây chỉ là viên đá nhỏ đầu tiên trong việc xây dựng
lâu đài Đại Bát Nhã. Công việc của chúng tôi chỉ có thể nói là “gợi ý” cho các
bậc có đạo học sâu dày trong việc truyền bá và xiển dương giáo lý Bát Nhã và
đồng thời giúp ích phần nào cho những ai muốn trì tụng, học hỏi Kinh Đại Bát
Nhã mà không có điều kiện nghiên cứu nguyên bản (dài 600 quyển, hơn 7000 trang
đánh máy khổ lớn)
Trong kinh Đại Bát Nhã này có một nhân vật rất đáng
thương, phải chẻ xương, bán tủy để cầu Bát Nhã. Đó là Bồ tát Thường Đề hay còn
gọi là “Bồ tát Thường Khóc”. Một chữ do Phật thuyết là một hạt châu, còn mỗi
chữ mà chúng tôi nặn nọc, đào xới là một giọt mồ hôi, một giọt nước mắt (do lao
động) để cống hiến cho đọc giả. Chúng tôi chiết giải bản kinh này vào tuổi 70
(1), với hy vọng hoàn tất nó trước khi qua cõi khác (giống như Ngài Huyền Trang
vậy, khi hoàn tất bản dịch Đại Bát Nhã từ Phạn sang Hán, năm kế thì Ngài qua
đời). Đó cũng là ước nguyện của chúng tôi khi hoàn tất bản Tổng luận này!
Xin trở lại vấn đề: Bản tổng luận này chỉ là tư liệu
nghiên cứu cá nhân, nên chỉ rút gọn lại các chi tiết rườm rà và các trùng tụng
không cần thiết(2). Tuy nhiên, phần triết lý và tôn giáo chánh tông không những
giữ nguyên mà chúng tôi còn triển khai nữa. Kinh ĐBN do Ngài Huyền Trang dịch
từ Phạn ra Hán và HT. Thích Trí Nghiêm dịch từ Hán ra Việt rất dài rộng, so với
kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa do Ngài La Thập dịch, mặc dầu cũng được coi là
đại phẩm, nhưng vỏn vẹn chỉ 27 quyển mà thôi (3). Ngay bản tóm lược mà chúng tôi sắp trình bày đây, tuy gọi là
tóm lược, nhưng đúc kết hết toàn bộ 24 tập, 600 quyển, nên có thể nói còn dài
và rộng hơn MHBNBLMĐ nhiều và dĩ nhiên bản tổng luận này, nếu so với các tiểu
bản khác như Tiểu Phẩm Bát Nhã của La Thập, Đạo Hành kinh do Ca Lâu Chi Sấm
dịch hay Phật Mẫu Bát Nhã kinh do Thí Hộ dịch v.v… còn dài rộng hơn nhiều.
Trong khi tóm tắt, chúng tôi cố gắng giữ nguyên tác tới
mức tối đa, vì kinh luận của chư Phật, Tổ mà nguỵ tạo, thay đổi… thì tội lỗi
không thể nào lường nổi. Chắc quý vị đều không quên câu chuyện của lão chồn
núi, chỉ nói nhằm chữ “bất lạc” với “bất muội” mà bị đày làm kiếp chồn 500
đời(4).
Để giữ tánh chất trung thực của kinh, chúng tôi lấy hai
bản dịch chính, cùng một dịch giả là HT Thích Trí Nghiêm: 1/. Là bản đăng trong
tuvienquangduc.com (cảo bản chính do HT. Thích trí Nghiêm đích thân dịch thuật,
in năm 1997, đây là bản chưa nhuận văn, vì văn phong rất cổ kính) và 2/. Là bản
đăng trong thuvienhoasen.org
(do một nhóm tỳ kheo và cư sĩ đã nhuận văn bản gốc của cố HT Thích Trí
Nghiêm, phát hành năm 2003, có vẽ Việt nhiều hơn) để tóm lược. Kèm theo chúng
tôi còn lấy bản dịch đã in thành sách, có đăng trong quangduc.com (cũng chính
do nhóm tỳ kheo và cư sĩ đã nhuận văn bản gốc của HT Thích Trí Nghiêm nói trên)
để củ soát hai bản dịch trên. Trong trường hợp gặp khó khăn trong vấn về dịch
thuật, chúng tôi tham khảo thêm bản kinh nguyên văn bằng chữ Hán đăng trong
hoavouu.com.
Để so chiếu thêm chúng tôi trích dẫn thêm Kinh MHBNBLMĐ do
HT Thích Trí Tịnh dịch cũng như các trích dẫn của nhiều kinh sách khác (hiện có
trên thị trường) thuộc hệ Bát Nhã như đã lược thuật ở phần bố cục. Ở mỗi phẩm,
chúng tôi có thích nghĩa và lược giải, đồng thời trích dẫn thêm lời bình giảng
trí tuệ của các Đạo sư, Thiền sư hay các học giả Phật học được xem như bậc thầy
v.v... Ngoài ra, chúng tôi cố gắng lượm lặt một số kinh nghiệm thiền có liên
quan đến chủ đề, cống hiến độc giả để việc học hỏi thêm phần hứng thú.
Thích nghĩa:
(1). Khi bắt đầu luận giải kinh này chúng tôi đã 70 tuổi
đời. Bây giờ, củ soát lại
trước khi hoàn tất, tính lại chúng tôi đã ngoài 80. Hơn 10 năm nặng nhọc mới
hoàn tất thiên khảo luận này. Mong rằng nó đem lại phần nào hữu ích cho những
người trì tụng nó.
(2). Nói như vậy không đúng lắm, vì trùng tụng (tụng đi
tụng lại nhiều lần các đoạn kinh hay kệ) trong Phật giáo Đại thừa có một chủ
đích hết sức đặc biệt như pháp môn trì danh niệm Phật, hành giả không cần biết
có vãng sanh hay không, chỉ một mặt tụng đi tụng lại danh hiệu Phật và phó thác
dòng sanh mạng của mình cho Phật A Di Đà. Tụng tụng không dứt, tụng không xen
kẽ để niệm niệm nối nhau, niệm cho đến khi thành phiến (khối), niệm cho đến
nhất tâm, niệm cho đến không thấy mình là người niệm, không thấy Phật là người
được niệm, năng sở, chủ khách tan hoang. Đó là chủ đích của tụng niệm. Trong
các thiền đường, tịnh xá hay già lam... các sư và Phật tử tụng “Tâm kinh Bát
nhã Ba la mật” cũng không ngoài chủ đích đó.
Chủ ý của Bát Nhã cũng vậy, muốn hành giả Bát Nhã quên đi
những cảm quan hay ý thức dễ dãi của cuộc sống qui ước thường tục. Rồi do sự
đọc tụng nhiều năm tự nhiên bùng nổ một giác quan mới, nẩy sanh từ vùng đất sâu
thẳm của tâm linh chưa hề được khai phá, bây giờ trở thành vùng đất phì nhiêu
cho ta những bông hoa tươi đẹp nhất. Hiện tượng này gọi là “nối kết”
(neuro-connection). Nói theo “Thần kinh học” là sự kết hợp mới do kích thích cơ
học hay tâm lý (shock) cho phép hệ thống dây thần kinh móc nối với một vùng não
bộ, trong đó có chứa sẵn những năng khiếu chưa hề được khai phá.
Điều đó có thể tin được lắm: Cảm quan và ý thức bất cứ lúc
nào cũng hiện diện, khống chế cuộc sống thường nhật. Dĩ nhiên nó lấn áp, che mờ
tánh giác, và một khi các cảm quan và ý thức này bị ru ngủ, một giác quan mới
nẩy sanh, sẽ nhảy vào thay thế. Đó chính là trực giác thực chứng (kinh nghiệm)
mà các Thiền sư thường dùng các thủ thuật như đánh, đạp, la, hét thô tục hay
nói ngược đời để dựng dậy cái trực giác đã ngái ngủ từ bao năm. Đó là cách hóa
đạo kỳ đặc của các Ngài.
Sự trì tụng của Bát Nhã cũng như lối diễn đạt nghịch đảo
táo bạo của nó cũng có tác dụng như vậy, chỉ khác là sự trì tụng đòi hỏi thời
gian chứng ngộ, gọi là tiệm tu; trong khi phương tiện táo bạo của Thiền sư có
thể thức tỉnh thiền sinh tức khắc hay nói là đốn ngộ.
Câu chuyện một chú bé 17 tuổi tên Lachlan Connors ở
Colorado bị chấn thương não trở thành một thiên tài âm nhạc, có thể chứng minh
lời chú giải này. Cậu Lachlan chơi môn thể thao tên là Lacrosse bị chấn thương
hai lần: Lần thứ nhất bất tỉnh nhưng hồi phục nhanh chóng; lần thứ hai quá
nặng, phải lưu lại bệnh viên một thời gian. Sau khi khôi phục, cậu không được
phép chơi môn thể thao đó nữa. Lachlan tự nhiên thích nhạc và trở thành nhạc sĩ
giỏi, có thể chơi hơn mười nhạc cụ khác nhau kể cả hai nhạc khí không thuộc
nước Mỹ là harmonica và bagripes (“kèn tò te” của Irsh hay Scottish). Từ khi
xảy ra tai nạn, Lachlan có thể nghe và chơi nhạc từ lúc hắn chưa đọc được ký
hiệu nhạc(chơi mò). Từ bé mẹ hắn bảo hắn không có năng khiếu này, vì bà có mua
cho cậu một cây dương cầm, cậu có tập nhưng không chơi được.
Erin Weaver, một chuyên viên nổi tiếng giảo nghiệm về
thương tật não, chẩn đoán theo câu chuyện được kể, tuyên bố rằng có thể có hai
trường hợp: “Một là khả năng về nhạc cụ đã ngủ (dormant) trước khi bị chấn
thương và tự nhiên được khám phá ra chúng trong thời gian Lachlan không tập
trung về thể thao nữa; hai là khi bị chấn thương bằng cách nào đó đã làm cho bộ
óc khôi phục khả năng (rewired his brian), nếu thật sự hắn đã mất khả năng ấy”.
Lachlan kể lại cho dài CBS4: “Tôi thành thật nghĩ là có một cái gì đó đã móc
nối lại. Một cái gì đó thay đổi và cám ơn Chúa đã ban cho”.
Sự “chạm dây” này có tánh cách cơ học như những người già
sau khi bị đột quụy, tự nhiên có thể vẽ được, hát được… Lối trì tụng lâu dài,
lối nói nghịch đảo của Bát Nhã hoặc lối la, hét, đánh, đạp, mắng, nhiếc… của
các Thiền sư cũng có thể tác động làm bùng nổ hiện tượng “rewire” này.
(3). Kinh MHBNBLMĐ do HT. Thích trí Tịnh dịch gồm 3 tập,
30 quyển, có thêm 3 quyển: Bồ tát Thường Đề, Bồ tát Pháp Dũng và phẩm kết
khuyến.
(4). Câu chuyện lão chồn núi bị đọa thân chồn 500 đời
trong Cảnh Đức Truyền Đăng Lục (Thiền sư Bách Trượng Hoài Hải, pháp tự đời thứ
hai của Nam Nhạc Hoài Nhượng).
---o0o---