XVI. PHẨM “CHƠN
NHƯ”.
(Cuối quyển
548 đến đầu quyển 549, Hội thứ IV, TBBN).
Gợi ý:
Giáo lý “Chơn Như” của bất cứ Hội nào trong
ĐBN cũng đều thâm thúy cả. Các Hội trước tôi trích phần Như Lai tùy Sanh do
Ngài Tuệ Sĩ dịch rất gọn và rất thanh thoát, vì Ngài dùng một chữ Như để dịch chữ Chơn như. Ở đây thay vì
chúng tôi sửa bản dịch của HT Thích Trí Nghiêm cũng như vậy, chúng tôi giữ y
nguyên văn để chánh văn ĐBN có nhiều màu sắc hơn: Độc giả có thể hiểu thế nào
là Chơn như thế nào Như hay Như như của tất cả pháp. Phẩm “Chơn Như” của Hội thứ IV này về nội
dung cũng giống như các phẩm “Chơn Như” của các Hội trước đều hay, đều thâm
thúy như nhau. Đọc thêm phẩm này để nhớ các phẩm khác, không “Bổ bề ngang cũng
bổ bề dài”, chẳng mất mát đâu cả!
Tóm lược:
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch
Phật:
- Bạch Thế Tôn! Pháp Phật đã dạy rất
sâu xa mầu nhiệm, đối với tất cả pháp đều có thể tùy thuận, không bị chướng
ngại. Pháp Phật đã dạy không có tướng chướng ngại, ngang bằng hư không, hoàn
toàn không dấu vết. Pháp Phật đã dạy không có tướng đối đãi, không có tướng thứ
hai. Pháp Phật đã dạy không có tướng ngang nhau vì không có đối địch. Pháp Phật
đã dạy hoàn toàn không lưu dấu vì không sanh, không diệt. Pháp Phật đã dạy hoàn
toàn không sanh diệt vì tất cả sanh diệt bất khả đắc. Pháp Phật đã dạy hoàn
toàn không có đường tắt vì tất cả đường tắt bất khả đắc. Pháp Phật đã dạy hoàn
toàn không hý luận vì phân biệt ngôn thuyết bất khả đắc.
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng
vậy! Đúng như lời ông nói.
Khi ấy, Thiên tử cõi Dục và cõi Sắc
liền bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đại đức Thiện Hiện
đúng thật là Phật tử, được sanh ra từ đức Như Lai. Vì sao? Vì đại đức Thiện
Hiện nói ra các pháp, tất cả đều tương ưng với Không.
(Tùy Như Lai sanh)
Cụ thọ Thiện Hiện bảo các Thiên tử
cõi Dục và cõi Sắc:
- Các Ngài bảo tôi đúng thật là Phật
tử, được sanh ra từ đức Như Lai. Thế nào là Thiện Hiện được sanh ra từ đức Như
Lai? Nghĩa là theo chơn như của Như Lai sanh ra mà tất cả pháp sanh bất khả
đắc. Vì sao? Vì chơn như của Như Lai không đến, không đi, bản tánh không sanh.
Chơn như của Thiện Hiện cũng không đến, không đi, bản tánh không sanh, nên nói
Thiện Hiện sanh ra từ đức Như Lai.
Chơn như của Như Lai tức chơn như
của tất cả pháp; chơn như của tất cả pháp tức chơn như của Như Lai. Chơn như
như thế không có tánh chơn như, cũng không có tánh không chơn như. Chơn như của
Thiện Hiện cũng như vậy, nên nói Thiện Hiện sanh ra từ đức Như Lai.
Chơn như của Như Lai thường trụ làm
tướng, chơn như của Thiện Hiện cũng như vậy, nên nói Thiện Hiện sanh ra từ đức
Như Lai.
Chơn như của Như Lai không đổi khác,
không phân biệt, chuyển khắp các pháp. Chơn như của Thiện Hiện cũng như vậy,
nên nói Thiện Hiện sanh ra từ đức Như Lai.
Chơn như của Như Lai không bị chướng
ngại, chơn như của tất cả pháp cũng không bị chướng ngại. Hoặc chơn như của Như
Lai, hoặc chơn như của tất cả pháp đồng một chơn như, không hai, không khác,
không tạo, không tác. Chơn như như vậy luôn là tướng chơn như, không lúc nào là
không phải tướng chơn như, nên không hai, không khác. Chơn như của Thiện Hiện
cũng như vậy, nên nói Thiện Hiện sanh ra từ đức Như Lai.
Chơn như của Như Lai đối với tất cả
pháp không nhớ nghĩ, không phân biệt. Chơn như của Thiện Hiện cũng như vậy, nên
nói Thiện Hiện sanh ra từ đức Như Lai.
Chơn như của Như Lai không riêng
khác, không thể đắc. Chơn như của Thiện Hiện cũng như vậy, nên nói Thiện Hiện
sanh ra từ đức Như Lai.
Chơn như của Như Lai không rời chơn
như của tất cả pháp; chơn như của tất cả pháp không rời chơn như của Như Lai.
Chơn như như vậy luôn là tướng chơn như, không có lúc nào không có tướng chơn
như. Chơn như của Thiện Hiện cũng như vậy, nên nói Thiện Hiện sanh ra từ đức
Như Lai.
Mặc dù nói tùy sanh nhưng không có
sự tùy sanh, vì chơn như của Thiện Hiện không khác Phật.
Chơn như của Như Lai không có quá
khứ, không có tương lai, không có hiện tại. Chơn như của tất cả pháp cũng không
có quá khứ, không có tương lai, không có hiện tại. Chơn như của Thiện Hiện cũng
như vậy, nên nói Thiện Hiện sanh ra từ đức Như Lai.
Chơn như của Thiện Hiện theo(1) chơn
như của Như Lai. Chơn như của Như Lai theo chơn như quá khứ; chơn như của quá
khứ theo chơn như của Như Lai. Chơn như của Như Lai theo chơn như vị lai; chơn
như của vị lai theo chơn như của Như Lai. Chơn như của Như Lai theo chơn như
hiện tại; chơn như của hiện tại theo chơn như của Như Lai. Chơn như của Như Lai
theo chơn như ba đời; chơn như của ba đời theo chơn như của Như Lai. Chơn như
ba đời, chơn như của Như Lai không hai, không khác. Chơn như của tất cả pháp và
chơn như của Thiện Hiện cũng không hai, không khác, nên nói Thiện Hiện sanh ra
từ đức Như Lai.
Chơn như của tất cả hạnh đại Bồ tát
tức là chơn như của quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật. Các đại Bồ
tát do chơn như nên chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, nên gọi là Như
Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Đối với chơn như các pháp này, ta sanh lòng tin hiểu
sâu xa nên nói Thiện Hiện được sanh ra từ đức Như Lai.
Đang nói về tướng chơn như này thì
nơi tam thiên đại thiên thế giới biến động sáu cách, y như lúc Phật chứng đắc
quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề không khác, nên nói Thiện Hiện được sanh ra
từ đức Như Lai.
Nhưng Thiên tử nên biết! Thiện Hiện
ta không do sắc mà theo Như Lai sanh; không do thọ, tưởng, hành, thức mà theo
Như Lai sanh. Không do quả Dự lưu mà theo Như Lai sanh; không do quả Nhất lai,
Bất hoàn, A la hán mà theo Như Lai sanh. Không do Độc giác Bồ đề mà theo Như
Lai sanh. Không do quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật mà theo Như
Lai sanh. Chỉ do chơn như nên theo Như Lai sanh.
Thiên tử nên biết! Nhưng Thiện Hiện
ta không theo sắc sanh; không theo thọ, tưởng, hành, thức sanh. Không theo quả
Dự lưu sanh; không theo quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán sanh. Không theo Độc
giác Bồ đề sanh. Không theo quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật
sanh. Chỉ theo chơn như sanh, nên Thiện Hiện ta theo Như Lai sanh.(2)
Khi ấy, Xá lợi Tử bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Chơn như này thật
sâu xa mầu nhiệm.
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng
vậy! Đúng như lời ông nói. Chơn như này thật sâu xa mầu nhiệm.
Đang lúc nói tướng chơn như này có
ba trăm Bí sô đoạn tận các lậu, tâm được giải thoát, đắc quả A la hán và có năm
trăm Bí sô xa lìa trần cấu, ở trong các pháp đắc pháp nhãn thanh tịnh; năm ngàn
Thiên tử được thành thục nghiệp đời trước, cùng lúc chứng đắc Vô sanh pháp nhẫn;
sáu mươi Bồ tát không còn các lậu, tâm được giải thoát.
Phật dạy:
- Này Xá lợi Tử! Hiện trong đại
chúng này có sáu mươi Bồ tát đã gần gũi cúng dường năm trăm đức Phật thời quá
khứ. Mặc dù họ có tu bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự nhưng không
lãnh hội phương tiện thiện xảo Bát nhã Ba la mật sâu xa, sanh tư tưởng khác đi,
tu hạnh khác đi nên không vào Chánh tánh ly sanh của Bồ tát. Do đó trong hiện
tại tuy được nghe pháp lớn nhưng nhờ sức nhân đời trước không còn các lậu, tâm
được giải thoát.
Thế nên, này Xá lợi Tử! Các Đại Bồ
tát tuy có đạo Bồ tát là không, vô tướng, vô nguyện, nhưng không lãnh hội
phương tiện thiện xảo Bát nhã Ba la mật sâu xa, liền chứng thật tế, rơi vào
Thanh văn hay Độc giác địa.
Xá lợi Tử! Ví như có con chim, thân
nó to lớn cả trăm do tuần, hoặc hai trăm cho đến năm trăm do tuần, mà lông cánh
chim chưa mọc đủ hoặc đã hư rụng. Chim này từ trời Ba mươi ba rơi xuống châu
Thiệm bộ, giữa đường chợt nghĩ: Bây giờ ta trở lại cõi trời Ba mươi ba. Ý ông
hiểu sao? Chim này có thể bay về lại cõi trời Ba mươi ba được không?
Xá lợi Tử bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Không.
Phật dạy:
- Này Xá lợi Tử! Giữa đường, chim
này muốn đến châu Thiệm bộ mà thân không bị tổn hại, không bị khổ. Ý ông hiểu
sao? Chim ấy có được toại nguyện không?
Xá lợi Tử bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Không. Chim ấy khi
đến châu Thiệm bộ thân nó chắc chắn bị tổn hại và khổ đau, hoặc đưa đến chết
hay sắp chết. Vì sao? Vì chim này thân to lớn mà bị rơi từ trên cao với lông
cánh chưa mọc hay bị hư rụng.
Phật dạy:
- Này Xá lợi Tử! Đúng vậy! Đúng vậy!
Đúng như lời ông nói. Có các thiện nam tử v.v… trụ Bồ tát thừa cũng như vậy,
mặc dù có phát tâm quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, đã trải qua hằng hà sa số
kiếp tu bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, cũng tu pháp môn giải
thoát không, vô tướng, vô nguyện nhưng không lãnh hội phương tiện thiện xảo Bát
nhã Ba la mật sâu xa mà chứng thật tế, liền rơi xuống địa vị Thanh văn hoặc Độc
giác.
Xá lợi Tử! Các thiện nam tử trụ Bồ
tát thừa này tuy nhớ giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát
tri kiến uẩn của chư Phật Thế Tôn ba đời nhưng tâm chấp tướng, không thấy, không biết công đức chân thật ngũ uẩn
này của chư Phật, chỉ nghe tiếng Không, chấp trước lấy tướng, hồi hướng quả vị
Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề là rơi ngay xuống Thanh văn hoặc Độc giác địa. Vì
sao? Xá lợi Tử! Vì các Bồ tát ấy không lãnh hội phương tiện thiện xảo Bát nhã
Ba la mật sâu xa nên dù có đem vô số thiện căn đã tu tập hồi hướng đạo quả Bồ
đề vẫn không đủ sức vậy.
Khi ấy, Xá lợi Tử bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Theo ý con hiểu về
nghĩa Phật dạy, các thiện nam tử v.v… trụ Bồ tát thừa nếu xa lìa phương tiện thiện xảo Bát nhã Ba la mật, thì dầu cho có đầy
đủ vô lượng phước đức tư lương mà đối với Bồ đề sẽ có đắc hoặc không đắc. Thế
nên các đại Bồ tát muốn chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, nhất định
không nên xa lìa phương tiện thiện xảo Bát nhã Ba la mật.
Phật dạy:
- Này Xá lợi Tử! Đúng vậy! Đúng vậy!
Đúng như lời ông nói. (Hết quyển 548,
TBBN)
Quyển thứ 549.
(Quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề: Khó tin, khó hiểu,
khó chứng)
Bấy giờ, các Thiên tử cõi Dục, cõi
Sắc cung kính chấp tay đồng bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật rất là thâm sâu, khó tin, khó hiểu vô cùng. Bạch
Thế Tôn! Quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề cũng thật là thâm sâu, khó tin, khó
hiểu vô cùng. Bạch Thế Tôn! Quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề khó tin, khó
hiểu, cũng khó chứng đắc.
Phật dạy các Thiên tử:
- Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời
các ông nói. Những hữu tình thành tựu ác tuệ, tinh tấn thấp kém, thắng giải
thấp kém, không có phương tiện thiện xảo, bị lệ thuộc bởi bạn ác. Họ đối với Bát
nhã Ba la mật sâu xa thật khó tin, khó hiểu, đối với quả vị Vô Thượng Chánh
Đẳng Bồ đề của chư Phật cũng khó tin, khó hiểu. Do đó quả vị Vô Thượng Chánh
Đẳng Bồ đề cũng khó chứng đắc.
Khi ấy, Thiện Hiện bạch Phật:
- Như Thế Tôn dạy, quả vị Vô Thượng
Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật đã khó tin, khó hiểu, cũng khó chứng đắc. Vì sao
quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề rất khó tin, khó hiểu, cũng khó chứng đắc?
Trong đây hoàn toàn không thể có sự chứng đắc. Vì sao? Vì tất cả pháp rốt ráo
là Không, nên trong Không không có pháp có thể chứng pháp khác. Vì sao? Vì tất
cả pháp tự tánh đều Không. Vì đoạn hẳn pháp này nên nói pháp như vậy. Pháp này
cũng không, do nơi nghĩa này cho nên đối với quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề
của chư Phật, nếu có người chứng đắc hoặc pháp được chứng, nếu có người biết,
hoặc pháp được biết, tất cả đều Không. Vì lý do đó mà con suy nghĩ: Quả vị Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật có thể dễ hiểu, có thể dễ chứng đắc, chứ
không phải khó tin, khó hiểu, khó chứng đắc, vì tất cả pháp đều là Không. Tin
biết như vậy sẽ chứng đắc ngay.
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Quả vị Vô Thượng
Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật, vì người tin hiểu và người chứng bất khả đắc,
nên nói khó tin, khó hiểu và khó chứng đắc. Vì quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ
đề của chư Phật chẳng thật có, nên nói
khó tin, khó hiểu và khó chứng đắc. Vì quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề
của chư Phật không có chứa nhóm, nên nói
khó tin, khó hiểu và khó chứng đắc.
Xá lợi Tử bảo Thiện Hiện:
- Vì tất cả pháp rốt ráo Không, cho
nên quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật rất khó tin, khó hiểu, rất
khó chứng đắc. Vì sao? Vì tất cả pháp
đều không có tự tánh, đều như hư không. Ví như hư không không suy nghĩ: Ta
đối với quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề phải tin hiểu và phải chứng đắc. Các
pháp cũng vậy, đều như hư không hoàn toàn không có tự tánh. Thế nên quả vị Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề rất khó tin, khó hiểu, rất khó chứng đắc.
Này Thiện Hiện! Nếu quả vị Vô Thượng
Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật dễ tin hiểu, dễ chứng đắc thì sẽ không có hằng hà
sa các chúng Bồ tát phát tâm hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề sau
lại thối lui. Cho nên biết quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề rất khó tin, khó
hiểu, rất khó chứng đắc.
Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện thưa Xá
lợi Tử:
- Ý Tôn giả thế nào? Sắc đối với quả
vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề có thối lui không?
Xá lợi Tử thưa:
- Thiện Hiện! Không.
- Ý Tôn giả hiểu sao? Thọ, tưởng,
hành, thức đối với quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề có thối lui không?
Xá lợi Tử thưa:
- Thiện Hiện! Không.
- Ý Tôn giả hiểu sao? Lìa sắc có
pháp nào đối với quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thối lui không?
Xá-lợi Tử thưa:
- Thiện Hiện! Không.
- Ý Tôn giả hiểu sao? Lìa thọ,
tưởng, hành, thức có pháp nào đối với quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thối
lui không?
Xá lợi Tử thưa:
- Thiện Hiện! Không.
- Ý Tôn giả hiểu sao? Chơn như của
sắc đối với quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề có thối lui không?
Xá lợi Tử thưa:
- Thiện Hiện! Không.
- Ý Tôn giả hiểu sao? Chơn như của
thọ, tưởng, hành, thức đối với quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề có thối lui
không?
Xá-lợi Tử thưa:
- Thiện Hiện! Không.
- Ý Tôn giả hiểu sao? Lìa chơn như
của sắc có pháp nào đối với quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thối lui không?
Xá lợi Tử thưa:
- Thiện Hiện! Không.
- Ý Tôn giả hiểu sao? Lìa chơn như
của thọ, tưởng, hành, thức có pháp nào đối với quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ
đề thối lui không?
Xá lợi Tử thưa:
- Thiện Hiện! Không.
- Thưa Tôn giả Xá lợi Tử! Ý Tôn giả
hiểu sao? Sắc có thể chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề không?
Xá lợi Tử thưa:
- Thiện Hiện! Không.
- Ý Tôn giả hiểu sao? Thọ, tưởng,
hành, thức có thể chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề không?
Xá lợi Tử thưa:
- Thiện Hiện! Không.
- Ý Tôn giả hiểu sao? Lìa sắc có
pháp nào có thể chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề không?
Xá lợi Tử thưa:
- Thiện Hiện! Không.
- Ý Tôn giả hiểu sao? Lìa thọ,
tưởng, hành, thức có pháp nào có thể chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề
không?
Xá lợi Tử thưa:
- Thiện Hiện! Không.
- Ý Tôn giả hiểu sao? Chơn như của
sắc có thể chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề không?
Xá lợi Tử thưa:
- Thiện Hiện! Không.
- Ý Tôn giả hiểu sao? Chơn như của
thọ, tưởng, hành, thức có thể chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề không?
Xá-lợi Tử thưa:
- Thiện Hiện! Không.
- Ý Tôn giả hiểu sao? Lìa chơn như
của sắc có pháp nào có thể chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề không?
Xá lợi Tử thưa:
- Thiện Hiện! Không.
- Ý Tôn giả hiểu sao? Lìa chơn như
của thọ, tưởng, hành, thức có pháp nào có thể chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng
Bồ đề không?
Xá lợi Tử thưa:
- Thiện Hiện! Không.
- Thưa Tôn giả Xá lợi Tử! Ý Tôn giả
hiểu sao? Chơn như đối với quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề có thối lui không?
Xá lợi Tử thưa:
- Thiện Hiện! Không.
- Ý Tôn giả hiểu sao? Lìa chơn như
có pháp nào đối với quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thối lui không?
Xá lợi Tử thưa:
- Thiện Hiện! Không.
- Thưa Tôn giả Xá lợi Tử! Ý Tôn giả
hiểu sao? Chơn như có thể chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề không?
Xá lợi Tử thưa:
- Thiện Hiện! Không.
- Ý Tôn giả hiểu sao? Lìa chơn như
có pháp nào có thể chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề không?
Xá lợi Tử thưa:
- Thiện Hiện! Không.
- Thưa Tôn giả Xá lợi Tử! Ý Tôn giả
hiểu sao? Lại có pháp nào chẳng phải sắc v.v..., chẳng lìa sắc v.v…, chẳng phải
chơn như, chẳng lìa chơn như, đối với quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề có thối
lui không?
Xá lợi Tử thưa:
- Thiện Hiện! Không.
- Thưa Tôn giả Xá lợi Tử! Ý Tôn giả
hiểu sao? Lại có pháp nào chẳng phải sắc v.v..., chẳng lìa sắc v.v…, chẳng phải
chơn như, chẳng lìa chơn như, có thể chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề
không?
Xá lợi Tử thưa:
- Thiện Hiện! Không.
Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện bảo Xá lợi
Tử:
- Nếu tất cả pháp là chắc thật, là
tồn tại thì hoàn toàn không có sở hữu, đều bất khả đắc; vậy nói những pháp nào
có thể đối với quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề mà có thối chuyển?
Tôn giả Xá lợi Tử bảo Thiện Hiện:
- Như Tôn giả đã nói, trong Vô sanh
pháp nhẫn hoàn toàn không có pháp, cũng không có Bồ tát, nên có thể nói đối với
quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề có thối chuyển. Nếu vậy thì tại sao Phật dạy
có ba hạng người trụ Bồ tát thừa chỉ nên nói một? Và như Tôn giả nói thì không
có sự sai khác của ba thừa mà chỉ có một thừa Chánh đẳng giác?
Khi ấy, Mãn Từ Tử liền bạch cụ thọ
Xá lợi Tử:
- Nên hỏi Thiện Hiện là chấp nhận có
một Bồ tát thừa phải không? Sau đó hỏi tiếp như vầy: Đâu cần phải thành lập ba
thừa khác nhau mà chỉ cần có một thừa Chánh đẳng giác.
Xá lợi Tử hỏi Thiện Hiện:
- Thầy chấp nhận có một Bồ tát thừa
không?
Thiện Hiện đáp:
- Ý Tôn giả hiểu sao? Trong chơn như
phải chăng có ba thừa sai khác nhau?
Xá lợi Tử đáp:
- Thiện Hiện! Không. Chơn như còn
không có tướng ba thừa có thể đắc, huống là trong ấy có ba thừa khác.
- Ý Tôn giả hiểu sao? Trong chơn như
có một thừa để đắc không?
Xá-lợi Tử thưa:
- Thiện Hiện! Không. Chơn như còn
không có một tướng được, huống là trong ấy có một thừa.
- Ý Tôn giả hiểu sao? Phải chăng
trong chơn như thấy có một pháp, một Bồ tát không?
Xá lợi Tử thưa:
- Thiện Hiện! Không.
Cụ thọ Thiện Hiện nói với Xá lợi Tử:
- Nếu tất cả pháp là chắc thật, là
tồn tại thì hoàn toàn không có sở hữu, đều bất khả đắc, Bồ tát cũng vậy.
Tôn giả có nghĩ: Đây là Thanh văn,
đây là Độc giác, đây là Bồ tát? Như vậy là ba, hay như vậy là một?
Này Xá lợi Tử! Nếu đại Bồ tát đối
với tất cả pháp đều không sở đắc, đối với chơn như của pháp cũng không sở đắc,
đối với các Bồ tát cũng không sở đắc, đối với chư Như Lai cũng không sở đắc,
nên biết đó là Bồ tát chơn thật.
Này Xá lợi Tử! Đại Bồ tát nào nghe
nói chơn như không có tướng sai khác mà không kinh, không sợ, không chìm đắm,
không mất đi thì Đại Bồ tát đó nhanh chóng chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ
đề. Trong khoảng thời gian ấy nhất định không thối chuyển.
Khi ấy, đức Thế Tôn khen Thiện Hiện:
- Hay thay! Hay thay! Hôm nay chính
ông là người có thể vì các Bồ tát giảng nói pháp chính yếu hay nhất. Những điều
ông nói đều là sức oai thần của Như Lai.
Thiện Hiện nên biết: Nếu đại Bồ tát
đối với pháp chơn như bất khả đắc tướng, sanh lòng tin hiểu sâu xa, biết tướng
không sai khác của tất cả pháp; nghe nói các pháp chơn như bất khả đắc tướng
như vậy, không kinh, không sợ, không chìm đắm, không mất, đại Bồ tát đó nhanh
chóng chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Xá lợi Tử bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ tát nào thành
tựu pháp này sẽ nhanh chóng chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề phải không?
Phật dạy:
- Xá lợi Tử! Đúng vậy! Đúng vậy! Đại
Bồ tát nào thành tựu được pháp này sẽ chóng chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng
Bồ đề, không rơi vào các địa vị Thanh văn, Độc giác.
Thiện Hiện bạch Phật:
- Nếu đại Bồ tát nào muốn nhanh chóng
chứng đắc sự mong cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề nên trụ thế nào và nên
học thế nào?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát
muốn nhanh chóng chứng đắc sự mong cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, nên trụ bình đẳng đối với các hữu tình, khởi
tâm bình đẳng đối với hữu tình: Tâm từ, tâm bi, tâm hỷ, tâm xả, tâm lợi ích,
tâm an vui, tâm nhu hòa, tâm cung kính, tâm không tổn, tâm không hại, tâm ngay
thẳng, tâm như cha, tâm như mẹ, tâm như anh em, tâm như chị em, tâm làm nương
tựa… Và đem tâm này tương ưng cùng lời nói.
Thiện Hiện nên biết: Đại Bồ tát nào
muốn nhanh chóng chứng đắc sự mong cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, đối
với hữu tình nên trụ như vậy và nên học như vậy.
Thích nghĩa:
(1). Chữ
“do”, “theo” hay “từ” dịch trong các phẩm “Chơn Như” thuộc thuvienhoasen.org
(quyển 321 và quyển 447); chữ “theo” thuộc tuvienquangduc.com (cũng ở quyển
447). Cả ba chữ “do, từ hay theo” không bằng chữ “tùy” dịch trong quyển 321,
phẩm “Chơn Như” thuộc bản dịch thứ nhất, chưa nhuận bút, xuất bản 1997. Trong
tuvienquangduc.com hay trong Kinh MHBNBLMĐ, tập II, quyển thứ 18, phẩm “Đại
Như” dùng chữ “tùy”. Nguyên văn bằng chữ Hán là “世 Thế 尊 Tôn . 上 thượng 座 tòa 善 thiện 現 hiện 隨 tùy 如 Như 來 Lai 生 sanh . 佛 Phật 真 chân 弟 đệ 子 tử ”. Việt
dịch “Bạch Thế Tôn Thượng tọa Thiện Hiện tùy
Như Lai sanh, là chân đệ tử Phật”. Chữ “tùy” ở đây được giữ y nguyên văn
chữ Hán nên có vẻ “thông” hơn thay vì dùng các chữ “do, từ hay theo”. TB.
(2). Tuệ sĩ
phụ chú: Trong các bản Hán, riêng bản Tiểu phẩm của La Thập chỉ dùng một chữ
Như, thay vì Chơn như hay Như như, nên rất độc đáo, và đã được trích dịch trọn
cả đoạn về “Tùy Như Lai sinh” sau đây, để thưởng thức chơi:
“Tùy Như mà hành, nên Tu Bồ Đề tùy Như Lai
sinh.
Như Như Lai Như không lai không khứ,
Tu Bồ Đề Như bản lai cũng không lai không khứ, cho nên Tu Bồ Đề tùy Như Lai
sinh. Lại nữa, Như Lai Như tức thị Nhất thiết pháp Như. Nhất thiết pháp Như tức
thị Như lai Như; Như lai Như tức là Phi Như, cho nên Tu Bồ Đề tùy Như lai Sinh.
Như Như lai Như, nhất thiết xứ và nhất thiết xứ thường không hoại không phân
biệt, cho nên Tu Bồ Đề tùy Như lai sinh. Như Như lai Như không phải trụ không
phải không trụ, Tu Bồ Đề Như cũng như vậy, cho nên Tu Bồ Đề tùy Như lai sinh.
Như Như lai Như không chỗ chướng ngại, Nhất thiết pháp Như cũng không chỗ
chướng ngại, cho nên Tu Bồ Đề tùy Như lai sinh. Lại nữa, Như lai Như và Nhất
thiết pháp Như đều là Nhất Như không hai không khác. Như đó không tác, không
phi Như; nếu Như đó không phi Như, cho nên Như đó không hai không khác. Cho nên
Tu Bồ Đề tùy Như lai sinh. Lại nữa, Như lai Như trong Nhất thiết xứ không hoại
không phân biệt, Nhất thiết pháp Như cũng không hoại không phân biệt, Như thế
Như lai Như vì không thể phân biệt nên không hoại không khác, cho nên Tu Bồ Đề
tùy Như lai sinh. Như Như lai Như không rời Nhất thiết pháp như, Như đó không
khác các Pháp, Như đó không phi Như, nên thường mọi thời là Như đó. Tu Bồ Đề
Như vì không khác Như đó, nên Như thật tùy Như mà hành cũng không có sở hành.
Cho nên Tu Bồ Đề tùy Như lai sinh. Như Như lai Như phi quá khứ, phi hiện tại,
phi vị lai, Nhất thiết pháp Như cũng vậy. Cho nên tu Bồ Đề tùy Như mà hành nên
được gọi là tùy Như Lai sinh. Lại nữa, Như lai tức thị Như lai Như, như Như lai
Như tức thị quá khứ Như, quá khứ Như tức thị Như lai Như; như Như lai Như
tức thị hiện tại Như, hiện tại Như tức thị Như lai Như. Quá khứ, vị lai, hiện
tại Như và Như lai Như không hai không khác. Nhất thiết pháp Như và Tu Bồ Đề
Như cũng không hai không khác, cho nên Tu Bồ Đề tùy Như lai sinh. Bồ tát Như
tức thị Như khi chứng ngộ Chính giác tối thượng. Bồ tát lấy Như đó mà chứng đắc
giác ngộ tối thượng. Gọi là Như lai. Khi Phật nói về Như đó, đất rung động bằng
sáu cách. Do bởi Như đó, Tu Bồ Đề tùy Như lai sinh”.
Lược giải:
1. Pháp Phật dạy như thế nào?
“Pháp Phật đã dạy không có tướng
chướng ngại, ngang bằng hư không, hoàn toàn không dấu vết. Pháp Phật đã dạy
không có tướng đối đãi, không có hai tướng”.
Phật nói như
thế này hay như thế khác, đôi khi tưởng chừng như tương phản hay mâu thuẫn
nhau. Nhưng thực chất không phải vậy. Khi Phật nói nhiễm tịnh, tội phước, nói
như vậy là có đối đãi, có hai tướng. Nếu không so sánh phân biệt chỉ rõ thì
chúng sanh không thể nào hiểu những điều Phật muốn nói. Thế giới của chúng sanh
là thế giới chia chẻ phân hóa, chúng sanh sống trong thế giới này nên hiểu một
cách dễ dàng, vì hiểu nên chỉ hành theo cái thấy biết như vậy, nên dễ bị trôi
lăn. Khi Phật nói thế giới của đệ nhất nghĩa đế là không nhiễm tịnh, không tội
phước. Dĩ nhiên, những lời này hoàn toàn nghịch lý với cái thấy biết của chúng
sanh, và những lời nói đó làm cho người trần mắt thịt luôn luôn lẫn lộn, luôn
luôn hoài nghi.
Nhưng một
khi hiểu được lời Phật dạy, từ bỏ thế giới phân hai, tu tập để đạt đến chỗ tịch
tĩnh, không còn phân biệt chấp trước nữa, thì có thể chứng nhập giới xứ của chư
Như Lai. Tất cả lời Phật dạy, tất cả pháp Phật đều như vậy, toàn đại phẩm ĐBN
chỗ nào cũng thấy nghịch lý, mâu thuẫn làm cho chúng ta ngỡ ngàng, cho đến ngờ
vực hay hoang mang. Vì vậy, Kinh nhiều lần khuyến cáo: Đừng kinh, đừng khủng,
đừng lo buồn, đừng hối tiếc... thì mới có thể học, có thể viên mãn Bát nhã Ba
la mật. Một trong hàng trăm lời giáo huấn của chư Phật mà chúng ta khó tiếp thu
như phẩm “Phật Mẫu”, quyển 306, Hội thứ I, Phật bảo: “Như Lai biết: Biến ngại là tướng của sắc”.
Thế gian cũng biết sắc trần là cái dễ lôi cuốn, làm mất tâm. Nên nói sắc trần
là một trong những thứ đen tối, che đậy tánh giác. Nhưng trong một đoạn Kinh
khác, Phật lại bảo: “Sắc tức là Bát nhã Ba la mật, Bát nhã Ba la mật tức là
sắc hay sắc là Nhất thiết trí trí, Nhất thiết trí trí là sắc”. Phải chăng đó là cái mâu thuẫn của Phật.
Phật không bao giờ huyễn hoặc những người con Phật. Một khi hiểu tất cả pháp
tuy thiên sai vạn biệt nhưng tánh chơn như không khác, tất cả đều một như, khi
hiểu ra như thế thì có thể hiểu sắc tức là Bát nhã Ba la mật, Bát nhã Ba la mật
tức sắc hay sắc là Nhất thiết trí trí và Nhất thiết trí trí là sắc. Nên đoạn
Kinh trên Phật bảo tiếp: “Nhẫn đến Nhất thiết chủng trí là Bát nhã Ba la
mật, Bát nhã Ba la mật là Nhất thiết chủng trí. Sắc tướng như, nhẫn đến Nhất
thiết chủng trí tướng như là một như, không hai, không khác”.
Vì vậy, có
thể nói: Bát Nhã có khả năng soi thấy thế giới như thế là như thế, thấy các
pháp trong bản tính như thực (yathàbhùtum)
của chúng. Đấy là cái thấy xuyên qua tướng trạng để trực ngộ được chân tánh
của vạn hữu mà tuyên bố rằng thấy như
thế là thấy các pháp như trong chân như thật tướng của chúng.
Để “tri nhận các pháp Như thực hay thấy Chân
như thật tướng của chúng”, Thiền sư D.T. Suzuki nói: “Phật tử
hành đạo trải qua các giai đoạn khác nhau của tâm linh, nhưng ở trong Chân như
chúng không hai, không phân biệt. Bồ tát từ Chân như nhất tướng đó mà có thể
nhập vào Pháp tánh. Sau khi nhập vào Pháp tánh, ở đó cũng không sinh ra phân
biệt. Dù khi nghe những giáo pháp khác, Bồ tát cũng không hủy báng, vì biết
rằng có nhiều pháp môn sai khác dẫn vào Pháp tánh. Dù khi nghe những danh tướng
và ngôn thuyết, Bồ tát cũng không sinh nghi hoặc đối với công năng thù thắng
của Chân như mà Ngài đang hộ trì trong mình”.
“Một trong những hoạt dụng của Bát
Nhã, vậy thì, chính là tri nhận các pháp Như thực hay thấy Chân như tướng của
chúng. Trong Chân như đó, thấy rằng hết thảy mọi loài, mọi sự hữu, không bị
nhiễm ô, do đó chúng là một với chư Phật và trong phương diện đặc biệt này có
thể gọi các Ngài là chư Như Lai. Vì tất cả là một như thế, nên tất cả cùng là
anh em (anujatà) với nhau, kể cả chư Phật và Bồ tát. Cái thai mẹ sinh ra hết
thảy những anh em này đích danh là Như Lai tạng (Tathagata- garbha). Vai trò
làm mẹ của Bát Nhã ở đây thành xác chứng hơn bao giờ hết, và ý nghĩa đó thường
được dùng để tán dương Bát Nhã càng tự nhiên”.
Với lối giải
thích sâu sắc đó, đoạn Kinh “Tùy Như Lai sanh” sau đây trở nên dễ hiểu hơn:
2. Tùy Như Lai sanh.
Thế nào
Thiện Hiện tùy Như Lai sanh? Chư
Thiên cõi Dục, cõi Sắc lại thưa Phật:
- “Bạch Thế Tôn! Đại đức Thiện Hiện
là chơn đệ tử Phật, tùy Như Lai sanh. Vì sao? Vì đại đức Thiện Hiện đã thuyết
tất cả pháp đều tương ưng với không.
Cụ thọ Thiện Hiện bảo chư Thiên cõi
Dục, cõi Sắc:
- Chư Thiên các ông nói Thiện Hiện
là chơn đệ tử Phật, tùy Như Lai sanh. Thế nào là Thiện Hiện tùy Như Lai sanh?
Nghĩa là tùy Như Lai như sanh. Vì sao? Vì Như Lai như không đến, không đi, Thiện Hiện như cũng không đến, không đi, nên
nói Thiện Hiện tùy Như Lai sanh. Như Lai như tức tất cả pháp như, tất cả pháp như tức Như Lai như. Như, như thế
là không tánh như, cũng không phải không
tánh như. Thiện Hiện như cũng lại như vậy, nên nói Thiện Hiện tùy Như Lai
sanh. Như Lai như thường trụ là tướng,
Thiện Hiện như cũng lại như vậy, nên nói Thiện Hiện tùy Như Lai sanh. Như Lai
như không biến đổi, không phân biệt,
chuyển khắp các pháp. Thiện Hiện như cũng lại như vậy, nên nói Thiện Hiện
tùy Như Lai sanh. Như Lai như không quái
ngại, tất cả pháp như cũng không quái ngại. Hoặc Như Lai như, hoặc tất cả
pháp như, đều đồng một như không
hai, không khác, không tạo, không tác. Như, như thế là tướng thường như, không thời nào chẳng như. Vì tướng thường như,
không thời nào chẳng như nên không hai không khác. Thiện Hiện như cũng lại như
vậy, nên nói Thiện Hiện tùy Như Lai sanh. Như Lai như khắp mọi nơi không nhớ nghĩ, không phân biệt. Thiện Hiện như cũng
lại như vậy, nên nói Thiện Hiện tùy Như Lai sanh. Như Lai như không đổi khác, bất khả đắc. Thiện Hiện
như cũng lại như vậy, nên nói Thiện Hiện tùy Như Lai sanh. Như Lai như không lìa tất cả pháp như, tất cả pháp như không lìa Như
Lai như. Như, như thế thường như, không thời nào chẳng tướng như. Thiện Hiện
như cũng lại như thế nên nói Thiện Hiện tùy Như Lai sanh. Dù nói tùy sanh mà
không có chỗ tùy sanh, vì Thiện Hiện như chẳng khác Phật vậy.
Như Lai như không quá khứ, không vị
lai, không hiện tại. Tất cả pháp như cũng không quá khứ, không vị lai, không
hiện tại. Thiện Hiện như cũng lại như vậy, nên nói Thiện Hiện tùy Như Lai sanh.
Quá khứ như tức Như Lai như, Như Lai như tức quá khứ như. Vị lai như tức Như
Lai như, Như Lai như tức vị lai như. Hiện tại như tức Như Lai như, Như Lai như
tức hiện tại như. Hoặc quá khứ như, hoặc
vị lai như, hoặc hiện tại như, hoặc Như Lai như, đều đồng một như không hai,
không khác.
Sắc như tức Như Lai như, Như Lai như
tức sắc như. Thọ, tưởng, hành, thức như tức Như Lai như, Như Lai như tức thọ,
tưởng, hành, thức như. Hoặc sắc như, hoặc thọ, tưởng, hành, thức như, hoặc Như
Lai như, đều đồng một như không hai, không khác. Mười hai xứ như, mười tám giới
như, tứ thiền như, tứ vô sắc định như, mười tám pháp bất cộng như, Nhất thiết
trí như, Đạo tướng trí như, Nhất thiết chủng trí như… cho đến quả vị Giác ngộ
tối cao như tức Như Lai như, Như Lai như tức mười hai xứ như, mười tám giới
như, tứ thiền như, tứ vô sắc định như, mười tám
pháp bất cộng như, Nhất thiết trí như, Đạo tướng trí như, Nhất thiết
chủng trí như… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao như đều đồng một như không hai,
không khác. Bồ tát hạnh như tức Như Lai như, Như Lai như tức Bồ tát hạnh như.
Quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề như tức Như Lai như, Như Lai như tức quả vị
Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề như. Hoặc tất cả Bồ tát hạnh như, hoặc quả vị Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề như, hoặc Như Lai như, đều đồng một như không hai, không khác. Nhất thiết trí như tức Như
Lai như, Như Lai như tức Nhất thiết trí như. Đạo tướng trí, Nhất thiết chủng
trí như tức Như Lai như, Như Lai như tức Đạo tướng trí, Nhất thiết chủng trí
như. Hoặc Nhất thiết trí như, hoặc Đạo tướng trí, Nhất thiết chủng trí như,
hoặc Như Lai như, đều đồng một như không hai, không khác.
Thiên chúng nên biết, các Đại Bồ tát
đang chứng tất cả pháp như như thế nên gọi là Như Lai ứng Chánh Đẳng Giác. Thưa
Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác! Con tin hiểu sâu sắc các pháp như như thế nên nói
Thiện Hiện tùy Như Lai sanh”(1).
Để giải thích “các pháp như thật” và “Như Lai tùy sinh”,
không gì hơn là chúng tôi lấy một đoạn luận giải “Bát Nhã như
là soi thấy các Pháp Như thực” trong
Thiền Luận III, của Thiền sư D.T. Suzuki để quí vị thưởng thức thêm:
“Do công năng vô chấp đó, chúng ta
có thể nói rằng Bát Nhã có khả năng nhìn thấy thế giới như thế là như thế, thấy
các pháp trong bản tính như thực (yathàbhùtum) của chúng. Đây là hoạt dụng
đặc sắc nhất của Bát Nhã mà Bồ tát sở đắc khi Ngài chứng ngộ rằng đến thì như
thế mà đến, đến từ Bát Nhã, và do đó biết rằng Bát Nhã sinh ra Ngài cũng như
sinh ra hết thảy chư Phật. Một khi đôi mắt của Bồ tát mở ra cho sự thực này, Bồ
tát quan sát thế gian và hết thảy thiên sai vạn biệt của thế gian trong tổng trạng
chân thực của chúng. Nói thế tức là, trong tầm tri giác của chúng ta, thế gian
không ngừng biến đổi, chịu đủ hình thái thành và hoại. Nhưng Bồ tát khi mà trí
Bát Nhã của Ngài đã khai ngộ hoàn toàn, nhận thấy rằng, năm uẩn tạo thành thế
gian này dù có những biến dịch bên ngoài của chúng, trong tự tánh (svabhava) chúng không hề bị hoại diệt, chúng không
mang những hoại tướng, không bị chi phối bởi những thành hoại, không bị chi
phối bởi sinh tử, không bị chi phối bởi những tham dục và phiền não.
Kinh điển Bát nhã Ba la mật vừa là
một nền triết học và vừa là một nền tôn giáo, nên giáo thuyết của nó luôn luôn
hỗn hợp bản thể học và tâm lý học. Sự thực, nó không nói tới sự hữu là như thế
nào, nhưng nói tới những gì có nơi con người. Biết rõ thế gian tức biết rõ tinh
thần của con người và những tạo tác của nó. Không có những vấn đề siêu hình nào
mà cùng lúc không là những vấn đề về giải thoát và giác ngộ. Do đó khi Bồ tát
nhận thấy thế gian như là như thực (yathàbhùtam) Ngài cũng nhận thấy các loại
tâm của con người như thế là như thế; thế rồi Ngài mới thi thiết các phương
tiện thiện xảo (upàya) của mình. Vậy,
Kinh nói, bằng con mắt của trí Bát Nhã, Bồ tát thấy rõ các loại tâm của tất cả
các loại hữu tình, và Ngài biết rõ chúng sai biệt như thế nào, sai biệt về cá
tính, sai biệt về hoạt dụng, sai biệt về thọ báo, sai biệt về giá trị đạo đức,
về tâm tính, vân vân. Rồi tri kiến như thực (yathàbhùtam) của Ngài thấu triệt
qua những giả tướng này và nhận ra rằng các tâm của chúng; tịnh hay bất tịnh,
nhiếp tâm hay loạn tâm, nhiễm tâm hay ly nhiễm tâm, tất cả đều không tự tánh,
không thủ trước, không phân biệt. Đấy được coi là nhìn vạn hữu trong chân như
tướng của chúng, trong đó mọi sai biệt tan biến hết, đồng thời tự hiển lộ tự
thân như thực trong ánh sáng của trí Bát Nhã.
Do đó, đương nhiên tri kiến như thực
trong các Kinh Bát nhã Ba la mật có nghĩa là tri kiến xuyên qua bức màn trùng
điệp phủ tối đôi mắt chúng ta, và rồi dùng trí Bát Nhã nắm lấy vạn hữu trong
chân như của chúng. Chân như (tathatà)(2) là một chữ quá lạ, nhưng trong thuật
ngữ Phật giáo, nó là một trong những chữ ý vị nhất. Hiểu rõ nghĩa của nó là
hiểu toàn bộ hệ thống tư tưởng của đạo Phật. Chân như là như như và đừng có hiểu lộn thành như nhau hay như một.
Khi người ta nói đến vô dị tướng, thì có thể tưởng rằng các dị tướng bị biến
thành vô sở tri hay vô sở hữu, để bộc lộ cái tướng như một của chúng. Nhưng cái
mà các hành giả Bát Nhã muốn nói là những cái được thấu hiểu trong những tương
quan chân thực của chúng, không chỉ tương quan giữa cái này với cái kia mà
tương quan với lý tính hiện hữu của chúng.
“Kinh Bát Nhã có một đoạn dành cho Tu Bồ Đề (Subhùti) luận về Như lai
Tùy sinh (Tathàgata-anujata). Tùy sinh (Anujàta) có nghĩa, sinh sau hay “sinh
ra tùy theo”. Chính Tu Bồ Đề (Subhuti), người nói triết học Bát Nhã, sinh ra
sau Như lai, tức em ruột của Như lai, hay nói đúng hơn, Tu Bồ Đề được sinh ra
tùy theo tự tướng của Như lai. Đó là một trong các đoạn quan trọng nhất của Bát
Nhã, nhất là khi xét tới liên hệ với
giáo thuyết Chân như. Như Lai (Tathagata) thông thường được coi như là
một biệt hiệu của Phật, nghĩa đen hoặc “người đến như thế” hoặc “người đi như
thế”. Điểm quan trọng ở đây là ý nghĩa của chữ Như (tatha) hơn là Lai
(agata, đến hay gata, đi); hình như tác giả của Kinh Bát Nhã nhấn mạnh trên chữ
tatha coi đó là chìa khóa để hiểu giáo pháp Tathata (Chân như) hay Yathabhutam
(Như thực). Khi ông nói tới Chân như của Như Lai (tathagata- tathata), ông muốn
nói lý tánh, căn nguyên, hay lý tắc cho sự xuất hiện có thể có của Như Lai
trong thế gian. Vì vậy, Tu Bồ Đề mà được sinh ra sau (anujata) Chân như của Như
Lai, thì có nghĩa là Tu Bồ Đề và Như Lai cùng đến từ bào thai vũ trụ mà Kinh
Lăng già (Lankavatara) và các Kinh Phật khác gọi là Như Lai tạng (tathagatagarbha). Với giải thích sơ khởi này, đoạn
dưới đây nói về Tùy sinh (Anujata) và Như Lai (Tathagata) sẽ trở nên dễ hiểu
hơn.
“Khi nói Tu Bồ Đề sinh ra sau Như
Lai, nói thế có nghĩa như vầy: Như của Như Lai là Như của Tu Bồ Đề, Như Như
không hai không khác, vì Chân Như là một trong hết thảy các loại hữu tình và ở
đây không hai tưởng, không phân biệt, không phân đôi; trong hết thảy Chân Như
không có đến và cũng không có đi vì bản lai vô sinh; chúng không chỗ trụ nơi
chúng thường trụ như là những pháp sai biệt; chúng là vô tác, vì có nghĩa rằng
chúng không phải là sở tri như là đang hoạt dụng trong một phương thế quyết
định nào đó để biểu lộ những tự tướng sai biệt của chúng; thế nhưng chúng cũng
không phải là thường tịch và vô sở tác; chúng luôn luôn như Như trong tất cả
mọi xứ sở, trong tất cả mọi thời gian, trong tất cả mọi cảnh giới, trong tất cả
mọi tụ tập nhân duyên; trong chúng không từng có quá khứ, không từng có hiện
tại, không từng có vị lai mặc dù chúng hữu tình được coi như đang hiện hữu, tồn
tại và biến mất; chúng không lệ thuộc sự phân biệt, không sắc tướng sai biệt,
là bất khả đắc; và sau hết dù với những phẩm tính đó chúng vẫn xuất hiện như là
những thực tại, có thể được định danh, được định nghĩa và được phân biệt, mặc
dù như thế chúng không còn là Chân như nữa. Vì những lý do đó, Chân như của Tu
Bồ Đề là Chân như của Như Lai, và Chân như của Như Lai là Chân như của hết thảy
các pháp, cả hai không hai không khác. Chân như nhất như hiển hiện ở đây, nhưng
ngay khi nói về Chân như như thế, Chân như không còn là Chân như nữa. Chân như
chỉ là giả danh, nhưng nếu không có giả danh đó không có Như Lai, không có Tu
Bồ Đề, không có Phật, không có A la hán, không có các loại hữu tình. Duy chỉ
Như Lai mới thấu triệt như thế, không một chúng sinh nào có thể nắm nổi lý này.
Tu Bồ Đề, vì Ngài thấu hiểu, nên có thể diễn nói những huyền diệu sâu xa của Bát
nhã Ba la mật đa, và vì lý do đó, Ngài là Tùy sinh của Như Lai”. (3)
Như như là
tướng của tất cả vạn pháp, tướng như này chẳng lúc nào chẳng như trong mọi cảnh
giới trong mọi xứ mọi thời, chỉ có Như Lai mới thấu triệt như này, nên các vị
mới được gọi là chư Như Lai. Vì thấy biết như vậy nên Như Lai mới được xem là
bình đẳng và vì bình đẳng nên mới nói là thanh tịnh.
Người thấy
được như này tức là chứng chơn như, pháp giới, pháp tánh, bình đẳng tánh, ly sanh
tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế... hay nói khác là giác ngộ.
1. Quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề:
Khó tin, khó hiểu, khó chứng chăng?
Phật trả
lời:
“Quả vị Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật, vì người tin hiểu và người chứng đắc bất
khả đắc, nên nói khó tin, khó hiểu và khó chứng đắc. Vì quả vị Vô Thượng Chánh
Đẳng Bồ đề của chư Phật chẳng thật có, nên nói khó tin, khó hiểu và khó chứng
đắc. Vì quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật không có chứa nhóm, nên
nói khó tin, khó hiểu và khó chứng đắc”.
Danh tướng
là giả, chỉ là giả danh chẳng thật có, do người ta đặt ra hay do người khác gán
cho mình. Chứng hay không là do tu hành đến một lúc nào đó “tâm thông” thì tự
thầm ngộ. Vả lại, tu Phật nếu tiệm tu như đức Thích ca Mâu ni phải mất ba a
tăng kỳ kiếp mới chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, chứng hay không là do
Phật tự biết, thầm ngộ nên Phật bảo là khó hiểu khó chứng.
Thiện Hiện
cũng hiểu biết như thế nên bảo Xá Lợi Tử:
“Này Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ tát đối
với tất cả pháp đều không sở đắc, đối với pháp như cũng không sở đắc, đối với
các Bồ tát cũng không sở đắc, đối với chư Như Lai cũng không sở đắc, nên biết
đó là Bồ tát chơn thật.
Này Xá Lợi Tử! Đại Bồ tát nào nghe
nói chơn như không có tướng sai khác mà không kinh, không sợ, không chìm đắm,
v.v... thì Đại Bồ tát đó nhanh chóng chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Trong khoảng thời gian ấy nhất định không thối chuyển”.
Phật kết
luận:
- “Hay thay! Hay thay! Hôm nay chính
ông là người có thể vì các Bồ tát giảng nói pháp chính yếu hay nhất. Những điều
ông nói đều là sức oai thần của Như Lai.
Thiện Hiện nên biết: Nếu đại Bồ tát
đối với pháp như bất khả đắc tướng, sanh lòng tin hiểu sâu xa, biết tướng không
sai khác của tất cả pháp; nghe nói các pháp như bất khả đắc tướng như vậy, không
kinh, không sợ, không chìm đắm... đại Bồ tát đó nhanh chóng chứng quả vị Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề”.
Vậy, Bồ tát
nào nếu muốn nhanh chóng chứng đắc sự mong cầu
quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, nên trụ bình đẳng, lấy tứ vô lượng tâm từ bi
hỷ xả, tâm lợi ích, tâm an vui, tâm nhu hòa, tâm cung kính, tâm như cha, tâm
như mẹ, tâm như anh em... đối với hữu tình. Phải trụ như vậy, phải học như vậy.
Phải trụ phải học như vậy là trụ trong chơn như thật tướng của tất cả pháp.
“Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là quả
vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Như Như của các pháp gọi là quả vị Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Thiện Hiện nên biết: Vì các pháp như
không có thêm bớt nên quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật cũng không
thêm bớt. Nếu đại Bồ tát thường an trụ tác ý tương ưng với Như Như như vậy, thì
liền gần quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Thế nên, này Thiện Hiện! Nghĩa không
thể nói, tuy không thêm bớt nhưng không thối chuyển tác ý Như như. Ba la mật
tuy không thêm bớt nhưng không thối lui sự mong cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng
Bồ đề. Đại Bồ tát nào an trụ tác ý Như Như như như vậy mà tu hành bố thí cho
đến Bát nhã Ba la mật, liền gần quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề”.
Chính văn
của phẩm này không bằng chánh văn của các phẩm “Chơn Như” của các Hội khác. Nên
chúng tôi mới dẫn chứng lời bình giảng của Thiền sư D.T. Suzuki để sáng tỏ hơn.
Chúng ta sẽ trở lại vấn đề này với chủ đề “cái thấy từ bờ kia” trong LUẬN #3,
phần thứ III, Tổng luận.
Thích nghĩa cho phần lược giải này:
(1). Đây là
nguyên văn đoạn Kinh nói về “Như Lai tùy sinh”, phẩm “Chân Như”, quyển 447, Hội
thứ II, ĐBN do Ngài Huyền Trang dịch, cũng đồng với đoạn Kinh trong phẩm “Chân
Như” ở cuối quyển 548, Hội thứ IV, TBBN mà chúng ta đang thảo luận, nhưng lối
diễn tả dễ hiểu, nên chúng tôi trích dịch lại để quý vị thưởng thức thêm.
(2). Chơn
như hoặc Như như hoặc Như hoặc tánh Như, tướng như hay pháp như… sẽ được dùng
tùy trường hợp. (Chú giải trong Thiền luận III). Lưu ý độc giả khi đọc đến các
từ này thì phải hiểu là chúng tôi không phải chỉ đề cập đến từ chơn như không
thôi mà chúng tôi muốn nói đến thập nhị chơn như hay còn gọi Thập nhị vô vi hay
Thập nhị không: Chỉ cho 12 tên gọi của Chơn như. 1- Chơn như, 2- Pháp giới, 3-
Pháp tính, 4- Bất hư vọng tính, 5- Bất biến dị tính, 6- Bình đẳng tính, 7- Ly
sinh tính, 8- Pháp định, 9- Pháp trụ, 10- Thật tế, 11- Hư không giới, 12- Bất
tư nghị giới. Đôi khi còn nói rộng ra là Phật tánh, Như Lai tạng, Bản lai diện
mục v.v… vì là để diễn tả cái trạng thái chân thật của tất cả các pháp không
phân biệt bất cứ một pháp nào.
(3). Chúng tôi trích dẫn lời luận giải này của
Thiền sư D.T. Suzuli nhiều lần không những trong phẩm này mà còn trong các phẩm
của các Hội khác nữa. Vì đây, là lời luận giải trí tuệ có thể giúp chúng ta
hiểu biết về Chơn như. Như chúng tôi nhiều lần lưu ý ai hiểu được thập bát chủng không và thập nhị chơn như, thì được xem như
thông đạt Bát Nhã hay Giác ngộ.
Phẩm này
phải thọ trì tụng đọc nhiều lần mới có thể thâm nhập được! Vì các pháp không, như như, bình đẳng và thanh tịnh
là pháp ấn của chư Như Lai. Ngày nào nắm vững và thông suốt giáo lý của các
pháp này thì có thể nói là chứng ngộ như như Như lai không khác!
Phẩm “Tướng
Không”, quyển 550, Hội thứ IV, ĐBN, cụ thọ Thện Hiện hỏi Phật:
- “Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là quả
vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Như Như của các pháp gọi là quả vị Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề”.
Câu trả lời
này của Phật đủ bảo đảm tầm quan trọng trong sự hiểu biết tất cả pháp như như
của những người thọ trì Bát Nhã. “Như như của các pháp gọi là Vô Thượng Chánh
Đẳng Bồ đề”.
---o0o---