VII. PHẨM
“ĐỊA NGỤC”
Cuối quyển
thứ 544, Hội thứ IV, TBBN.
Tóm lược:
(Bát Nhã không khác Phật, Phật không khác Bát Nhã)
Bấy giờ, Xá lợi Tử bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nên biết Bát Nhã sâu
xa tức là tánh Nhất thiết trí, có thể thành tựu hoàn toàn Nhất thiết trí trí ư?
Khi ấy, Phật dạy Xá lợi Tử:
- Đúng vậy! Đúng như lời ngươi nói!
Xá lợi Tử lại bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã sâu xa có
thể chiếu sáng tất cả nên phải kính lễ, không bị các pháp thế gian làm ô nhiễm,
có thể trừ hết tối tăm, phát ra ánh sáng rực rỡ, thường đem lại sự lợi lạc an
vui cao tột, làm cho những người mù được mắt sáng, làm ngọn đuốc sáng cho kẻ bộ
hành trong đêm tối, đưa kẻ lạc đường quay về nẻo chánh, hiện rõ tánh các pháp
tức là Niết bàn, chỉ rõ tất cả pháp không sanh, không diệt, là mẹ các đại Bồ
tát, là chỗ nương tựa che chở cho những kẻ không chỗ nương tựa che chở, trừ tất
cả khổ não của sanh tử, khai thị các pháp, lấy vô tánh làm tánh, có thể làm cho
chư Phật chuyển xe Pháp vô thượng đủ ba lần với mười hai hành tướng.
Bạch Thế Tôn! Đối với Bát Nhã sâu
xa, các đại Bồ tát nên trụ thế nào?
Bấy giờ, Phật dạy Xá lợi Tử:
- Đối với
Bát Nhã sâu xa, các đại Bồ tát nên như Phật mà trụ, suy nghĩ kính thờ Bát Nhã
sâu xa như suy nghĩ kính thờ Phật.
Khi ấy, trời Đế Thích thầm nghĩ: Do
nhân duyên gì hôm nay Xá lợi Tử hỏi Phật việc này? Nghĩ rồi liền hỏi Xá lợi Tử:
- Vì duyên cớ gì mà Tôn giả hỏi việc
ấy?
Xá lợi Tử bảo trời Đế Thích:
- Trước đây, đức Thế Tôn đã nói: Các
chúng đại Bồ tát được phương tiện thiện xảo của Bát Nhã sâu xa hộ trì, nên đã
khởi lên sự tùy hỷ hồi hướng tương ưng các việc phước nghiệp, mau chứng đắc
Nhất thiết trí trí, hơn hẳn các Bồ tát tu bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn,
tịnh lự và các căn lành mà có sở đắc. Do nhân duyên ấy nên hỏi việc này.
Này Kiều thi
ca! Như hàng trăm, hàng ngàn kẻ mù lòa bẩm sinh, nếu không có người mắt sáng
dùng phương tiện dẫn dắt thì dù gần đi nữa cũng không đi đúng đường, huống gì ở
xa có thể đi đến được thành lớn giàu có an vui. Cũng vậy, năm Ba la mật trước
như kẻ mù bẩm sinh, không thể đạt tới chánh đạo của Bồ tát, huống là có thể
chứng nhập thành Niết bàn, nếu không có Bát nhã Ba la mật tức là người sáng mắt
dẫn đường.
Này Kiều thi ca! Năm Ba la mật: Bố
thí, trì giới v.v... phải dựa vào Bát Nhã, gọi là người có mắt. Lại nhờ sự hộ
trì của Bát Nhã gọi là đến bờ kia. (Q.544,
TBBN)
Khi ấy, Xá lợi Tử bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ tát phát khởi
Bát nhã Ba la mật như thế nào?
Phật dạy:
- Này Xá lợi Tử! Các đại Bồ tát phát
khởi Bát nhã Ba la mật như phát khởi sắc, thọ, tưởng, hành, thức.
Này Xá lợi Tử! Như năm thủ uẩn không
thể phát khởi. Bát Nhã sâu xa cũng nên biết như vậy.
Này Xá lợi Tử! Như năm thủ uẩn chẳng
phát khởi nên gọi là phát khởi. Bát Nhã sâu xa cũng lại như vậy, chẳng phát
khởi nên gọi là phát khởi.
Xá lợi Tử bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ tát phát
khởi Bát Nhã sâu xa như vậy vì thành tựu
pháp gì?
Phật dạy:
- Này Xá lợi Tử! Các đại Bồ tát phát
khởi Bát Nhã sâu xa như vậy thì hoàn toàn không có thành tựu đối với tất cả
pháp. Vì không có thành tựu đối với tất cả pháp nên mới gọi là Bát nhã Ba la
mật(1).
Khi ấy, trời Đế Thích liền bạch
Phật:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng lẽ Bát Nhã sâu
xa không thể thành Nhất thiết trí trí sao?
Phật bảo trời Đế Thích:
- Đúng vậy!
Đúng như lời ông nói. Bát Nhã sâu xa cũng không thể thành tựu Nhất thiết trí
trí. Vì sao? Này Kiều thi ca! Vì có sở đắc nên không thể thành tựu. Vì có danh
tướng nên không thể thành tựu. Vì có tạo tác nên không thể thành tựu.
Trời Đế Thích lại bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Làm sao cho Bát Nhã
sâu xa thành tựu Nhất thiết trí trí?
Phật bảo trời Đế Thích:
- Đối với sự phát khởi Nhất thiết trí
trí, Bát Nhã sâu xa không có thành tựu nên gọi là thành.
Trời Đế Thích lại bạch Phật:
- Bạch Thế
Tôn! Thật kỳ lạ! Bạch Thiện Thệ! Thật hiếm có! Bát Nhã sâu xa không vì sự sanh
diệt tất cả pháp nên hiện ra ở thế gian, không vì sự thành hoại tất cả pháp mà
hiện ở thế gian, nhưng cùng với thế gian làm lợi ích lớn lao.
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch
Phật:
- Bạch Thế
Tôn! Nếu đại Bồ tát khởi lên tư tưởng như vầy: Đối với tất cả pháp, Bát Nhã sâu
xa hoặc sanh, hoặc diệt, hoặc thành, hoặc hoại, đại Bồ tát này liền xa lìa Bát
Nhã sâu xa chăng?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Có
nguyên nhân mà các đại Bồ tát xa lìa Bát Nhã sâu xa như vậy. Nghĩa là khởi lên
tư tưởng thế này: Bát Nhã sâu xa không có sở hữu, chẳng phải chơn thật, không
bền chắc, chẳng tự tại. Đại Bồ tát này liền xa lìa Bát Nhã sâu xa. Vì sao? Vì Bát Nhã sâu xa chẳng phải có, chẳng phải
không, chẳng phải hư, chẳng phải thật, chẳng phải bền chắc, chẳng phải không
bền chắc, chẳng phải tự tại, chẳng phải không tự tại, đối với tất cả pháp không
có sự phân biệt. (Q.544, TBBN)
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Phật nói Bát Nhã sâu
xa như vậy để hiện bày pháp nào?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Ta nói Bát Nhã sâu
xa như vậy hoàn toàn không có pháp để hiển bày. Vì sao? Vì trong giáo pháp của
Bát Nhã sâu xa này chẳng hiển bày sắc, cũng chẳng hiển bày thọ, tưởng, hành,
thức. Chẳng hiển bày quả Dự lưu, cũng chẳng hiển bày Nhất lai, Bất hoàn, A la
hán, Độc giác Bồ đề, cũng chẳng hiển bày tất cả Bồ tát hạnh và quả vị Vô Thượng
Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã sâu xa tức
là Ba la mật rộng lớn?
Phật hỏi Thiện Hiện:
- Do ý nào mà ngươi nói Bát Nhã sâu
xa tức là Ba la mật rộng lớn như vậy?
Thiện Hiện đáp:
- Bát Nhã sâu xa đối với sắc chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ;
đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ. Đối
với sắc chẳng làm cho tập hợp, chẳng làm
cho tan rã; đối với thọ, tưởng,
hành, thức cũng chẳng làm cho tập hợp, chẳng làm cho tan rã. Đối với sắc chẳng
làm cho có sức, chẳng làm cho không có
sức; đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng làm cho có sức, chẳng làm
cho không có sức.
Như vậy, cho đến đối với chư Như Lai
Ứng Chánh Đẳng Giác chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với sự chứng đắc
Nhất thiết trí trí của Phật cũng chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ. Đối với
chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chẳng làm cho tập hợp, chẳng làm cho tan; đối
với sự chứng đắc Nhất thiết trí trí của Phật cũng chẳng làm cho hợp, chẳng làm
cho tan. Đối với chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chẳng làm cho có sức, chẳng
làm cho không có sức, đối với Phật đã được Nhất thiết trí trí cũng chẳng làm
cho có sức, chẳng làm cho không có sức.
Vì sao? Vì năm uẩn cho đến Nhất
thiết trí trí chẳng phải lớn, chẳng phải nhỏ, chẳng phải hợp, chẳng phải tan,
chẳng phải có sức, chẳng phải không có sức. Vì tự tánh tất cả pháp đều là Không. Nếu đại Bồ tát khởi lên tư
tưởng như vậy chẳng phải hành Bát nhã Ba la mật.
Vì sao? Vì các tư tưởng như vậy chẳng phải quả Đẳng lưu của Bát Nhã.
Bát Nhã sâu xa không có tư tưởng như vầy: Ta phải cứu thoát một số hữu tình vào
cảnh giới Vô dư y bát Niết bàn. Nếu có tư tưởng này thì gọi là có sở đắc lớn, chẳng phải có sở đắc là có thể thành tựu được. Vì sao? Vì
hữu tình không sanh, nên biết Bát nhã Ba la mật cũng không sanh. Vì hữu tình
không tự tánh, nên biết Bát nhã Ba la mật cũng không tự tánh. Vì hữu tình xa
lìa, nên biết Bát nhã Ba la mật cũng xa lìa. Vì hữu tình không thể nghĩ bàn,
nên biết Bát nhã Ba la mật cũng không thể nghĩ bàn. Vì hữu tình không có pháp
hoại, nên biết Bát nhã Ba la mật cũng không có pháp hoại. Vì hữu tình không
giác tri, nên biết Bát nhã Ba la mật cũng không giác tri. Vì hữu tình như thật
biết thắng nghĩa, không có sự chứng ngộ, nên biết Bát nhã Ba la mật cũng như
thật biết thắng nghĩa, không có sự chứng
ngộ. Vì năng lực của hữu tình chẳng thành tựu, nên biết Bát nhã Ba la mật
cũng chẳng thành tựu.
Bạch Thế Tôn! Con duyên theo ý này
mà nói Bát Nhã sâu xa tức là Bát nhã Ba la mật rộng lớn. Vì sao? Vì Bát Nhã sâu
xa thành tựu đại sự. (Q.544, TBBN)
Bấy giờ, Xá lợi Tử bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đối với Bát Nhã sâu
xa, đại Bồ tát nào có thể tin hiểu sâu xa, không có sự ngăn ngại, không nghi
ngờ, cũng chẳng nhầm lẫn, đại Bồ tát này qua đời từ chỗ nào mà sanh đến nơi
này, hành Bát Nhã sâu xa đã bao lâu, đối với nghĩa sâu xa của pháp có thể tùy
theo đó mà hiểu rõ?
Phật dạy:
- Này Xá lợi Tử! Đại Bồ tát này từ
mười phương thế giới đã phụng sự chư Phật; ở trong pháp hội qua đời, sanh đến
nơi này. Đại Bồ tát này đã hành sâu Bát nhã Ba la mật trải qua vô lượng, vô số
đại kiếp, đối với nghĩa sâu xa của pháp có thể theo đó hiểu rõ. Vì sao? Nếu đại
Bồ tát từ thế giới phương khác đã phụng sự đức Phật; ở trong pháp hội đó qua
đời sanh đến nơi đây thì đại Bồ tát này đã gần gũi nhiều chư Phật Thế Tôn, đã
từng hỏi pháp nghĩa sâu xa trong đây; đối với Bát Nhã sâu xa hoặc thấy, hoặc
nghe, liền nghĩ: Hôm nay ta được thấy Phật, được nghe những điều Phật nói. Do
nhân duyên này, nếu nghe thuyết giảng về Bát Nhã sâu xa, dùng tai lắng nghe
cung kính lãnh thọ, chấm dứt sự nghi ngờ đối với pháp nghĩa sâu xa.
Này Xá lợi Tử! Đại Bồ tát này đã
từng cúng dường vô số chư Phật, đã nhiều kiếp hành sâu Bát nhã Ba la mật, nên
đời này mới có thể thành tựu việc này.
Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã sâu xa có
thể lắng nghe, có thể quan sát được, có thể phát khởi, có thể nhớ nghĩ, có thể
thị hiện, có thể hiện rõ nơi chốn thời gian khác nhau, có thể thuyết giảng và
biểu hiện các tướng trạng và chỉ rõ ý nghĩa sâu xa của Bát Nhã sâu xa không?
Phật dạy:
- Không thể! Thiện Hiện nên biết!
Bát Nhã sâu xa chẳng phải uẩn xứ giới tự tánh sai khác có thể chỉ rõ được. Vì
sao? Vì tất cả pháp rốt ráo xa lìa. Chẳng phải pháp xa lìa có thể chỉ rõ Bát
Nhã sâu xa.
Thiện Hiện nên biết! Lìa uẩn xứ
giới cũng không thể giác ngộ được Bát Nhã sâu xa. Vì sao? Vì ngay nơi uẩn xứ
giới có thể hiểu được các pháp rốt ráo xa lìa, nên gọi là Bát nhã Ba la mật.
Thế nên Bát nhã Ba la mật cùng với uẩn xứ giới không hai, không khác.
Thiện Hiện nên biết! Tức là tất
cả pháp rốt ráo Không, tánh xa lìa, vĩnh viễn vắng lặng nên gọi là bất khả đắc.
Vì bất khả đắc nên gọi là Bát nhã Ba la mật.
Thiện Hiện
nên biết! Lúc nào không còn tưởng, cũng không có lời nói để thiết lập về các
tưởng, thì khi đó gọi là Bát Nhã sâu xa. (Q.544,
TBBN)
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ tát tích
chứa công hạnh lâu như vậy mới có thể siêng năng tu học Bát Nhã.
(Hủy báng Chánh pháp là hủy bán Bát Nhã, hủy báng Bát
Nhã là
hủy báng Phật, Pháp, Tăng nên rơi vào vô vàn địa ngục)
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Ở đây nên phân
biệt, vì căn cơ của các Bồ tát khác nhau. Thiện Hiện nên biết! Có đại Bồ tát từ
lúc mới phát tâm đã gặp thiện hữu chơn chánh, dùng phương tiện giúp đỡ nên có
thể tu học Bát Nhã sâu xa ngay. Vì đại Bồ tát này có phương tiện thiện xảo nên
chẳng hủy báng Chánh pháp, không thấy các pháp có tăng có giảm, thường không xa
lìa chánh hạnh của Bồ tát, thường không xa lìa chư Phật Bồ tát, thường gieo
trồng căn lành để thân tâm thanh tịnh, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, thành
thục hữu tình, mau chứng đắc Nhất thiết trí trí.
Có các thiện nam thiện nữ trụ Bồ tát
thừa, tuy đã từng được gặp trăm ngàn đức Phật, ở chỗ các đức Phật tu hành phạm
hạnh, nhưng vì lấy hữu sở đắc làm phương
tiện, nên không thể tu học Bát Nhã sâu xa. Nghe thuyết Bát Nhã sâu xa này
không sanh lòng tin hiểu, nên liền bỏ đi. Vì sao? Vì các thiện nam thiện nữ trụ
Bồ tát thừa này ở chỗ đức Phật quá khứ, đã từng nghe thuyết giảng Bát Nhã sâu
xa không sanh cung kính. Vì không
cung kính nên không thường lắng nghe. Vì không thường lắng nghe nên không thể
gần gũi được. Vì không thể gần gũi nên không thể thỉnh hỏi. Vì không thỉnh hỏi
nên không thể tin hiểu. Vì không thể tin hiểu nên bỏ đi.
Do nhân duyên này làm cho nghiệp thiếu Chánh pháp càng tăng trưởng.
Do sức mạnh của thói quen từ đời trước, nay nghe thuyết Bát Nhã sâu xa này lại
bỏ đi nữa. Không sanh cung kính, nên không thể lãnh thọ.
Vì không tin nhận nên hoặc thân hoặc
tâm đều chẳng hòa hợp.
Vì chẳng hòa hợp, nên không thể hiểu
rõ nghĩa lý sâu xa của Bát nhã Ba la mật. Người ấy đối với Bát Nhã sâu xa không
thể tin nhận được, chẳng lắng nghe được, chẳng hiểu rõ được, chẳng quán sát
được nên làm cho nghiệp thiếu Chánh pháp càng tăng trưởng. Do nghiệp này nên
nghiệp tội về ác tuệ tăng trưởng. Bởi nghiệp tăng trưởng nên khi nghe Bát Nhã
sâu xa liền nhàm chán, hủy báng, vứt bỏ.
Thiện Hiện nên biết! Các thiện nam
thiện nữ trụ Bồ tát thừa này nhàm chán, hủy báng, vứt bỏ Bát Nhã sâu xa, nên
biết tức là nhàm chán, hủy báng, vứt bỏ Nhất thiết trí trí của chư Phật ba đời.
Do nhân duyên này làm cho ác nghiệp tăng trưởng rất nặng. Do nghiệp này nên đọa
vào địa ngục lớn, trải qua thời gian lâu dài chịu nhiều khổ cực. Nghĩa là vì ác
nghiệp và thói hư từ đời trước nặng nề nên căn lành của sự giác ngộ yếu ớt,
phước đức cạn mỏng nên tổn mình hại người. Đối với Phật, Pháp, Tăng tuy có được
phần tin, ưa, nhưng vì ngu si nên không thể phân biệt chỗ cạn sâu của Chánh
pháp. Đối với Đại thừa tự nhàm chán, hủy báng, vứt bỏ, cũng khiến cho các hữu
tình mới học Chánh pháp nhàm chán, hủy báng, vứt bỏ đối với Đại thừa, còn bảo:
Bát Nhã sâu xa chẳng phải thật lời Phật, không nên tu học. Họ đã làm cho người
khác hủy báng Bát Nhã, tự thân họ đối với Bát Nhã càng hủy báng hơn. Họ đã hủy
báng Bát Nhã sâu xa thì đối với Nhất
thiết trí cũng hủy báng sâu nặng. Do năng lực hủy báng Nhất thiết trí một cách
sâu nặng nên đối với Phật, Pháp, Tăng cũng hủy báng sâu nặng. Do tạo ra nghiệp
ác quá nặng này nên nhân duyên các ác nghiệp tăng trưởng, đọa vào địa ngục lớn,
lãnh chịu khổ cực dữ dội hàng trăm ngàn năm chẳng được giải thoát. Do tội nặng
ấy nên trong thế giới này họ bị đọa từ địa ngục lớn đến địa ngục lớn khác, cho
đến kiếp hỏa, kiếp thủy, kiếp phong(2) chưa phát khởi đã lãnh chịu các khổ cực
dữ dội.
Nếu khi thế giới này một khi kiếp
thủy, hỏa, phong vừa khởi lên, do ác nghiệp nặng nề của họ vẫn chưa hết, nên
sau khi qua đời thọ sanh ở thế giới khác, vẫn đọa vào địa ngục lớn giống như
trước để chịu khổ cực nặng nề suốt trăm ngàn năm. Vì người kia tội nặng nên ở
thế giới phương khác vẫn ở hết địa ngục lớn này đến địa ngục lớn khác, cho đến
khi kiếp hỏa, kiếp thủy, kiếp phong chưa xuất hiện vẫn lãnh chịu các khổ cực dữ
dội.
Nếu ở thế giới phương khác ba kiếp
thủy, hỏa, phong tùy lúc khởi lên, vì ác nghiệp nặng nề của họ chưa hết được,
nên sau khi qua đời thọ sanh ở thế giới phương khác, cũng đọa vào địa ngục lớn
như trước chịu khổ cực nặng nề suốt trăm ngàn năm. Vì tội nặng nên dù ở thế
giới khác họ vẫn đọa hết địa ngục lớn này đến địa ngục lớn khác, cho đến lúc ba
kiếp hỏa, kiếp thủy, kiếp phong chưa xuất hiện đã lãnh chịu các khổ cực dữ dội.
Cứ như vậy chuyển đi mãi lần lượt khắp các địa ngục lớn trong mười phương, chịu
các thứ khổ cực nặng nề.
Nếu các thế giới khắp mười phương,
khi kiếp hỏa, kiếp thủy, kiếp phong khởi lên, vì nghiệp ác nặng nề của họ vẫn
chưa hết, nên sau khi qua đời lại sanh vào địa ngục lớn của thế giới Kham Nhẫn
này. Từ địa ngục lớn này đến địa ngục lớn khác, cho đến kiếp hỏa, kiếp thủy,
kiếp phong chưa phát khởi đã lãnh chịu khổ cực nặng nề.
Nếu trong thế giới này ba kiếp hỏa,
kiếp thủy, kiếp phong tùy lúc khởi lên. Vì nghiệp ác của họ sâu nặng chưa dứt
nên sau khi qua đời sanh lại các thế giới phương khác nữa, trải qua khắp các
địa ngục lớn chịu khổ cực nặng nề, cứ
luân hồi như vậy vô số kiếp cho đến khi năng lực của nghiệp tội hủy báng Chánh
pháp yếu dần đi, vừa được ra khỏi địa ngục lại đọa làm loài bàng sanh. Xoay chuyển như trước hết cõi này đến
phương khác, nhiều kiếp luân hồi chịu các thứ khổ. Khi năng lực của nghiệp tội
hủy báng Chánh pháp yếu dần, họ mới thoát khỏi loài bàng sanh, nhưng lại đọa
vào loài quỷ, hết cõi này đến phương khác, xoay chuyển luân hồi trải qua vô số
kiếp chịu đủ mọi thống khổ.
Cuối cùng
khi thế lực của nghiệp hủy báng Chánh pháp sắp hết, họ mới ra khỏi quỷ giới,
được sanh vào cõi người. Tuy được làm người nhưng ở nơi hạ tiện: Mù điếc, câm
ngọng, nhiều bệnh tật, nghèo cùng, xấu xí, ngu si, bị mọi người khinh chê. Dù
sanh đến chỗ nào cũng khổ nhiều vui ít, không được nghe đến danh hiệu Phật,
Pháp, Tăng. Vì sao? Vì các ác nghiệp phỉ báng Tam bảo nên họ phải chuốc lấy đủ
các loại quả khổ như vậy. (Q.544,
TBBN)
Bấy giờ, Xá lợi Tử bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Tội hủy báng Chánh
pháp và nghiệp vô gián, hai hành động ác này giống nhau không?
Phật dạy Xá lợi Tử:
- Chớ bảo rằng tội này giống với
nghiệp vô gián. Vì sao? Năm nghiệp vô gián tuy đưa đến quả khổ nặng nề nhưng
không thể sánh với tội hủy báng Chánh pháp. Nghĩa là tội kia khi nghe thuyết
Bát Nhã sâu xa hủy báng chống nghịch, nói Bát nhã Ba la mật này chẳng phải thật
lời Phật nói, không nên tu học, chẳng phải pháp, chẳng phải luật, chẳng phải
lời Đại sư dạy. Do nhân duyên này nên tội kia rất nặng.
Này Xá lợi Tử! Người hủy báng Chánh
pháp này tự hủy báng Chánh pháp, cũng dạy người hủy báng. Tự hoại thân mình,
cũng khiến người khác bị hoại. Tự uống thuốc độc, cũng khiến người khác uống
theo. Tự mất quả vui được sanh Thiên và quả giải thoát, cũng làm cho người khác
mất. Tự đưa mình vào địa ngục lửa, cũng làm cho người khác bị như vậy. Bản thân
chẳng tin hiểu Bát Nhã sâu xa, còn dạy người khác khiến họ chẳng tin hiểu. U mê
điên đảo tự chìm trong biển khổ, cũng lôi người khác chìm theo.
Này Xá lợi Tử! Đối với Bát Nhã sâu
xa này, Ta còn chẳng muốn để cho kẻ phỉ báng Chánh pháp nghe đến danh tự huống
hồ giảng nói cho họ.
Này Xá lợi Tử! Kẻ phỉ báng Chánh
pháp kia, Ta còn không cho các thiện nam thiện nữ trụ Bồ tát thừa nghe đến tên,
huống là mắt thấy, sao lại cho ở chung được.
Này Xá lợi Tử! Đối với kẻ phỉ báng
Chánh pháp kia Ta còn chẳng cho mặc áo Cà sa huống hồ nhận sự cúng dường. Vì
sao? Này Xá lợi Tử! Có những kẻ hủy báng Bát Nhã sâu xa, nên biết những kẻ ấy
là kẻ phá hoại Chánh pháp, đọa vào loài đen tối như ốc sên dơ bẩn, dơ mình bẩn
người như đống phân thối. Những kẻ nào tin dùng lời của kẻ phá hoại pháp cũng
chuốc lấy khổ lớn như trước đã nói.
Khi ấy, Xá lợi Tử bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên gì mà
Như Lai chẳng nói về hình dạng thân thể lớn nhỏ mà kẻ hủy báng Chánh pháp phải
lãnh chịu khi đọa vào ác thú?
Phật dạy:
- Này Xá lợi Tử! Thôi, không nên nói
về hình dạng thân thể lớn nhỏ mà kẻ hủy báng Chánh pháp phải lãnh chịu vào đời
sau. Vì sao? Vì nếu Ta nói đầy đủ cảnh giới ấy thì kẻ kia nghe được rất kinh
sợ, phải thổ huyết cho đến mất mạng, hoặc đau khổ gần chết, tâm quá buồn lo như
trúng tên độc, thân khô héo dần như mạ đứt gốc. Vì sợ kẻ kia nghe nói về kẻ huỷ
báng Chánh pháp phải thọ thân quá xấu xí khổ sở như vậy luôn tự kinh hoàng, tan
thân mất mạng. Ta thương xót kẻ kia nên không thể vì ông mà nói.
Khi đó Xá lợi Tử thỉnh lần thứ hai,
lần thứ ba xin Như Lai nói về hình thể kia để làm sự răn dạy sáng suốt cho đời
sau biết được tội hủy báng Chánh pháp, thân chịu khổ cực nặng nề mà không gây
ra tội này nữa.
Bấy giờ, Phật bảo Xá lợi Tử:
- Trước Ta đã nói về tội của kẻ hủy
hoại Chánh pháp lãnh chịu cảnh giới khổ sở đủ làm sự răn dạy sáng suốt cho đồng
loại ở đời sau. Các thiện nam thiện nữ nghe Ta nói về quả báo tội hủy báng
Chánh pháp như trước, thà bỏ thân mạng quyết chẳng hủy báng Chánh pháp, đừng để
tự thân phải chịu khổ cực ở đời sau.
Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Có các thiện nam
thiện nữ thông minh nghe đức Phật nói: Người hủy báng Chánh pháp đời sau phải
chịu khổ lớn lâu dài, nên khéo giữ gìn nghiệp thân, khẩu, ý. Vì sao? Đừng để tự
thân phải vì các nghiệp ác ấy mà phải làm người trong cảnh giới ác chịu khổ lâu
dài.
Bạch Thế Tôn! Sự tạo tác làm cho
nghiệp hủy hoại Chánh pháp tăng trưởng há chẳng phải do các nghiệp ác huân tập
từ đời trước ư?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Trong
Chánh pháp Tỳ nại da của Ta sẽ có những kẻ xuất gia ngu si, tuy họ gọi Ta là
bậc Đại sư nhưng lại hủy báng chống nghịch Bát Nhã sâu xa.
Thiện Hiện nên
biết! Nếu hủy báng Bát Nhã sâu xa, thì đó là hủy báng Vô thượng Bồ đề. Nếu hủy
báng Vô thượng Bồ đề, thì đó là hủy báng Nhất thiết trí trí. Nếu có hủy báng
Nhất thiết trí trí, thì đó là hủy báng Phật, Pháp, Tăng bảo. Nếu có hủy báng
Phật, Pháp, Tăng bảo, thì nhận lấy vô biên tội nghiệp. Nếu đã nhận lấy vô biên
nghiệp tội liền chuốc lấy vô biên khổ báo.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Người ngu si kia do
bao nhiêu nguyên nhân mà hủy báng Bát Nhã sâu xa này?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Do bốn nguyên
nhân. Những gì là bốn?
. Một là bị
các tà ma lừa gạt.
. Hai là
chẳng tin hiểu pháp thâm sâu.
. Ba là chẳng
siêng năng tinh tấn, say đắm năm uẩn nên bị các ác tri thức khống chế.
. Bốn là ôm
nhiều sân hận, ưa làm việc ác, thích đề cao mình, khinh chê người khác.
Người ngu si do đầy đủ bốn nguyên
nhân này nên hủy báng Bát nhã Ba la mật, do đây nên đời sau phải chịu cực khổ
nặng nề. (Q.544, TBBN)
nhưng phải
chịu kiếp sống bần cùng hạ tiện, năm căn khiếm khuyết, ngu si, đần độn... ai
cũng có thể nhạo báng, khinh chê như đã nói ở trên.
Nếu biết như
vậy thì nên giữ mồm giữ miệng, đừng phát biểu bừa bãi! Thích
nghĩa:
(1).
Dịch giả Thích Từ Chiếu dịch “đoạn Kinh này trong Phật Mẫu Bát Nhã” như
sau:
“Tôn giả Xá lợi Phất bạch Phật:
- Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật do pháp
nào sanh ra?
Phật nói:
- Xá lợi Phất, Bát nhã Ba la mật vì
không thấy sắc, nên không vì sắc mà sanh, vì không thấy thụ tưởng hành thức,
nên không vì thụ tưởng hành thức mà sanh. Nếu năm thủ uẩn có tướng được sanh,
thì Bát nhã Ba la mật vì chúng mà sanh. Nhưng năm thủ uẩn này đã không sanh,
cho nên Bát nhã Ba la mật không vì các pháp mà sanh”.
Đây chỉ là
vấn đề chuyển ngữ, Thầy Thích Từ Chiếu dùng từ “sanh”, HT Thích Trí Nghiêm dùng
từ “phát khởi”. Dùng từ phát khởi trong câu: “Như năm thủ uẩn chẳng phát khởi nên
gọi là phát khởi. Bát Nhã sâu xa cũng lại như vậy, chẳng phát khởi nên gọi là
phát khởi”. Vì vậy, khi đọc câu này không
tránh khỏi ngỡ ngàng?
(2). Kiếp
thủy, kiếp hỏa, kiếp phong: Trong rất nhiều Kinh sách Phật, ta thấy có đề cập
đến các trường hợp này. Đây muốn nói đến thời
tận thế của các hành tinh trong vũ trụ bao la. Giống như thế giới của chúng
ta, trải qua các thời kỳ địa chất trước khi chưa có loài người hay sau khi có
loài người xuất hiện, động đất, núi lửa, sóng thần… nổi lên hủy diệt tất cả
những gì ngăn chận trên hướng đi của chúng (các loài động vật,
thực vật như khủng long, voi tượng và biết bao thực vật bị hủy diệt đến tuyệt chủng).
Thời đại ngày nay nếu chiến tranh nguyên tử xảy ra, đất nước gió lửa… nổi lên
còn khủng khiếp biết chừng nào. Phật đã thấy và thấy tất cả suốt quá khứ đến
tận vị lai!
Lược giải:
Phẩm này nêu
lên 2 vấn đề: 1. Ca tụng Chánh pháp nhất là Bát nhã Ba la mật và 2. Tội phỉ
báng Chánh pháp nên phải đọa vào địa ngục:
1. Ca tụng Chánh Pháp, nhất là Bát nhã Ba la
mật:
Trong các
pháp hội đầu, Kinh thường bảo Bát Nhã: “Như hàng trăm, hàng ngàn kẻ mù lòa
bẩm sinh, nếu không có người mắt sáng dùng phương tiện dẫn dắt thì dù gần đi
nữa cũng không đi đúng đường, huống gì ở xa có thể đi đến được thành lớn giàu
có an vui. Cũng vậy, năm Ba la mật trước như kẻ mù bẩm sinh, không thể đạt tới
chánh đạo của Bồ tát, huống là có thể chứng nhập thành Niết bàn, nếu không có Bát
nhã Ba la mật tức là người sáng mắt dẫn đường.
Năm Ba la mật: Bố thí, trì giới
v.v... phải dựa vào Bát Nhã, gọi là người có mắt. Lại nhờ sự hộ trì của Bát Nhã
gọi là đến bờ kia”. (Q.544, TBBN)
Không những tu Bát nhã Ba la mật được xem là
người “có mắt”, mà tu Bát Nhã để được Giác ngộ, đạt Chánh giác và Nhất thiết
trí trí. Đó là mục tiêu tối cao của người thọ trì Bát nhã Ba la mật. Nhưng, Bát
Nhã không cố tạo nên những dễ dãi trong việc thành tựu trí này. Bát Nhã lúc nào
cũng khuyến dẫn đừng có sở đắc, đừng phân biệt danh tướng, đừng tạo tác thi vi,
đừng khởi tưởng các pháp có sanh có diệt, có thành có hoại, có bền chắc hay
không bền chắc v.v... Kinh nói:
“Bát Nhã sâu
xa cũng không thể thành tựu Nhất thiết trí trí. Vì sao? Vì có sở đắc nên không
thể thành tựu. Vì có danh tướng nên không thể thành tựu. Vì có tạo tác nên
không thể thành tựu”.
“Vì Bát Nhã sâu xa chẳng phải có, chẳng phải
không, chẳng phải hư, chẳng phải thật, chẳng phải bền chắc, chẳng phải không
bền chắc, chẳng phải tự tại, chẳng phải không tự tại, đối với tất cả pháp không
có sự phân biệt”.
Cuối cùng
Kinh bảo:
“Tất cả pháp rốt ráo Không, tánh xa lìa, vĩnh
viễn vắng lặng nên gọi là bất khả đắc. Vì bất khả đắc nên gọi là Bát nhã Ba la
mật. Lúc nào không còn tưởng, cũng không có lời
nói để thi thiết về tưởng, thì khi đó gọi là Bát Nhã sâu xa”.
Chỉ thành
đạt được Bát Nhã khi nhận chân tất cả pháp là Không, vắng lặng, xa lìa. Tất cả
pháp là vô sở hữu bất khả đắc. Muốn được như vậy, Bồ tát phải tu phải trụ Bát
nhã Ba la mật như thế nào?
“Các đại Bồ
tát nên như Phật mà trụ, suy nghĩ kính thờ Bát Nhã sâu xa như suy nghĩ kính thờ
Phật”.
Thay vì kính
thờ Bát Nhã, chánh pháp, nhưng ngược lại phỉ báng thì phải chịu hậu quả không
thể nào tả nổi! Đó là phần chính của phẩm này được thuyết tiếp như sau:
2. Hủy báng Chánh Pháp (Bát nhã Ba la mật) và hậu quả
của nó:
Quyển 544, phẩm “Địa Ngục” , Hội thứ IV, TBBN.
Phật bảo Thiện Hiện:
“Thiện Hiện nên biết! Nếu hủy báng Bát nhã Ba
la mật thậm thâm, thì đó là hủy báng Vô thượng Bồ đề. Nếu hủy báng Vô thượng Bồ
đề, thì đó là hủy báng Nhất thiết trí trí. Nếu hủy báng Nhất thiết trí trí, thì
đó là hủy báng Phật, Pháp, Tăng bảo. Nếu hủy báng Phật, Pháp, Tăng bảo, thì
nhận lấy vô biên tội nghiệp. Nếu đã nhận lấy vô biên nghiệp tội liền chuốc lấy
vô biên khổ báo”.
Điều đó có
nghĩa: Trong lúc hiện tiền vì thiếu hiểu biết, ôm nhiều sân hận, ác tâm, khinh
mạn, lại theo bọn ác quay lại chống đối Chánh pháp, đả kích Đại thừa, hủy báng Bát
nhã Ba la mật, nên tạo nghiệp quá nặng. Vì vậy, khi chết mới bị đọa vào địa ngục lớn, lãnh chịu khổ cực dữ dội hàng trăm
ngàn năm chẳng được giải thoát. Do tội nặng ấy nên trong thế giới này, họ bị
đọa hết địa ngục lớn này sang địa ngục lớn khác.
Đến khi thế
giới này bị kiếp thủy, hỏa, phong khởi lên, do ác nghiệp nặng nề của họ vẫn
chưa hết, nên sau khi qua đời thọ sanh ở thế giới khác, tiếp tục bị đọa vào địa
ngục lớn giống như trước để chịu khổ cực suốt trăm ngàn năm. Vì người kia tội
nặng nên sanh vào thế giới phương khác vẫn bị lưu đày hết địa ngục lớn này sang
địa ngục lớn khác, cho đến khi kiếp hỏa, kiếp thủy, kiếp phong xảy đến nữa.
Cứ luân hồi
như vậy vô số kiếp cho đến khi năng lực của nghiệp tội hủy báng Chánh pháp yếu
dần, vừa được ra khỏi địa ngục lại đọa làm loài bàng sanh (súc sanh hay thú vật). Xoay chuyển như trước, hết cõi
này đến phương khác, nhiều kiếp luân hồi chịu các thứ khổ.
Khi năng lực
của nghiệp tội hủy báng Chánh pháp yếu dần, họ mới thoát khỏi loài bàng sanh,
nhưng lại đọa vào loài quỷ, hết cõi
này đến phương khác, xoay chuyển luân hồi trải qua vô số kiếp chịu đủ mọi thống
khổ như đã nói trên.
Cuối cùng
khi thế lực của nghiệp hủy báng Chánh pháp sắp hết, họ mới ra khỏi quỉ giới,
được sanh vào cõi người. Tuy được
làm người nhưng phải đọa nơi hạ tiện: Mù điếc, câm ngọng, nghèo cùng, xấu xí,
ngu muội… bị người đời chế giễu khinh chê. Dù sanh đến chỗ nào cũng khổ nhiều
vui ít, không được nghe được danh hiệu Phật, Pháp, Tăng. Vì sao? Vì các ác
nghiệp phỉ báng Tam bảo nên họ phải chuốc lấy đủ loại quả khổ như vậy.
Kết luận:
Ở cõi Diêm
phù đề này nếu bị tội vô gián sẽ thác sinh địa ngục A tỳ, chịu biết bao hình
phạt khủng khiếp, không bao giờ ngừng nghỉ, mặc dù Xá lợi Tử nhiều lần nài nỉ
Phật nói về các hình phạt do tội này gây ra để ngăn ngừa đời sau đừng mắc phải
tội này. Phật chỉ nói nếu người bị tội này nghe Phật kể thì có thể thổ huyết
nóng mà chết. Vậy mới biết tội vô gián đối với tội chống Chánh pháp, đả kích
Đại thừa và hủy báng Bát nhã Ba la mật chẳng thắm thía gì. Người mang tội hủy
báng bị đọa hết đại địa ngục lớn này sang đại địa ngục lớn khác, từ thế giới
này sang thế giới khác, cho đến khi nghiệp mỏng dần mới được luân hồi vào cõi
súc sinh, ngạ quỷ, cuối cùng mới được sanh vào cõi người…Tuy được sanh vào cõi
người nhưng phải chịu kiếp sống bần cùng hạ tiện, năm căn khiếm khuyết,
ngu si, đần độn... ai cũng có thể nhạo báng, khinh chê như đã nói ở trên.
Nếu
biết như vậy thì nên giữ mồn giữ miệng, đừng phát biểu bừa bãi, huênh hoang!
---o0o---