PHẨM “ĐỒNG TÁNH”
Phần sau quyển 455 đến phần đầu quyển 456, Hội thứ II,
ĐBN.
(Nằm trong phẩm “Học Phương Tiện Xảo”, từ Q.338 trở đi,
Hội thứ I, ĐBN)
Tóm
lược:
(Thế nào gọi là đồng tánh của đại Bồ tát?)
Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là đồng tánh của đại Bồ tát, do
học ở trong đó nên gọi là đồng học?
Phật bảo Thiện Hiện:
- Pháp nội không là đồng tánh của đại Bồ tát, pháp ngoại
không, cho đến pháp vô tính tự tính không là đồng tánh của Bồ tát, vì các đại
Bồ tát học ở trong đó nên gọi là đồng học. Do sự đồng học này nên đại Bồ
tát mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Lại nữa Thiện Hiện! Sắc, sắc tánh không; thọ, tưởng, hành,
thức, thọ, tưởng, hành, thức tánh không là đồng tánh của đại Bồ tát. Mười hai xứ, mười hai xứ tánh không; cho đến mười tám giới, mười tám giới tánh
không là đồng tánh của đại Bồ tát. Nhãn xúc, nhãn xúc tánh không cho đến ý xúc,
ý xúc tánh không là đồng tánh của đại Bồ tát. Các cảm thọ do nhãn xúc làm duyên
sanh ra, các cảm thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra tánh không cho đến các cảm
thọ do ý xúc làm duyên sanh ra, các cảm thọ do ý xúc làm duyên sanh ra tánh
không là đồng tánh của đại Bồ tát. Địa giới, địa giới tánh không cho đến thức
giới, thức giới tánh không là đồng tánh của đại Bồ tát. Bố thí, bố thí tánh
không cho đến Bát nhã Ba la mật, Bát nhã Ba la mật tánh không là đồng tánh của
đại Bồ tát. Pháp nội không, pháp nội không tánh không cho đến pháp vô tính tự
tính không, vô tánh tự tánh không tánh không là đồng tánh của đại Bồ tát. Chơn
như, chơn như tánh không cho đến cảnh giới bất tư nghì, cảnh giới bất tư nghì
tánh không là đồng tánh của đại Bồ tát. Tứ Thánh đế, tứ Thánh đế tánh không, 37
pháp trợ đạo, ba mươi bảy pháp trợ đạo tánh không là
đồng tánh của đại Bồ tát. Như Lai mười lực Như Lai, Như Lai mười lực Như Lai
tánh không cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, mười tám pháp Phật bất cộng
tánh không là đồng tánh của đại Bồ tát. Pháp không quên mất, pháp không quên
mất tánh không, tánh luôn luôn xả, tánh luôn luôn xả tánh không là đồng tánh
của đại Bồ tát. Nhất thiết trí, Nhất thiết trí tánh không, Đạo tướng trí, Nhất
thiết tướng trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí tánh không là đồng tánh
của đại Bồ tát cho đến Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, Phật Vô Thượng Chánh
Đẳng Bồ đề tánh không là đồng tánh đại Bồ tát. Vì đại Bồ tát trụ ở trong đó
để học nên gọi là đồng học. Do sự đồng học này mà các Bồ tát mau chứng quả vị
Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. (Q. 455,
ĐBN)
Khi ấy, Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ tát vì sắc tận nên học, vì
thọ, tưởng, hành, thức dứt nên học là học Nhất thiết trí trí chăng? Vì
sắc lìa nên học, vì thọ, tưởng, hành, thức lìa nên học là học Nhất thiết
trí trí chăng? Vì sắc diệt nên học, vì thọ, tưởng, hành, thức diệt nên
học là học Nhất thiết trí trí chăng? Vì sắc không sanh nên học, vì thọ,
tưởng, hành, thức không sanh nên học là học Nhất thiết trí trí chăng?
Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ tát cho đến vì Bồ tát hạnh, vì quả
vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề dứt nên học là học Nhất thiết trí trí chăng? Vì
hạnh của đại Bồ tát, vì quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề lìa nên học là học
Nhất thiết trí trí chăng?
Phật bảo Thiện Hiện:
- Nếu đại Bồ tát vì sắc tận, vì ly, vì diệt, vì bất sanh nên
học là học Nhất thiết trí trí chăng? Vì thọ tưởng hành thức tận, vì ly, vì
diệt, vì bất sanh nên học, là học Nhất thiết trí trí chăng? Như vậy, cho đến vì
Bồ tát hạnh tận, vì ly, vì diệt, vì bất sanh nên học, là học Nhất thiết trí trí
chăng? Vì Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề tận, vì ly, vì diệt, vì bất sanh nên
học, là học Nhất thiết trí trí chăng?
Này Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? sắc như có tận, ly, diệt, đoạn chăng? Thọ, tưởng,
hành, thức như có tận, ly,
diệt, đoạn chăng? Như vậy, cho đến Bồ tát hạnh như có tận, ly, diệt, đoạn
chăng? Quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề như có tận, ly, diệt, đoạn chăng?
Thiện Hiện đáp:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng có. Bạch Thiện Thệ! Chẳng có.
Phật bảo Thiện Hiện:
- Nếu đại Bồ tát đối chơn như học như thế, là học Nhất
thiết trí trí. Thiện Hiện! Phải biết chơn như vô tận, vô ly, vô diệt, vô đoạn,
chẳng thể tác chứng. Nếu đại Bồ tát đối chơn như học như thế là học Nhất thiết
trí trí. (Q. 455, ĐBN)
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát khi học như thế là học bố
thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Là học nội không cho đến vô tánh tự tánh không.
Là học chơn như cho đến bất tư nghì giới. Là học khổ tập diệt đạo Thánh đế. Là
học bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo. Là học bốn tĩnh lự, bốn vô
lượng, bốn định vô sắc. Là học tám giải thoát cho đến mười biến xứ. Là học
không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn. Là học tất cả Đà la ni, Tam ma địa
môn. Là học năm nhãn, sáu thần thông. Là học Như Lai mười lực cho đến mười tám
pháp Phật bất cộng. Là học pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả. Là học Nhất
thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Là học tất cả Bồ tát hạnh. Là
học chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát học bố thí Ba la mật cho đến
chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, phải biết là học Nhất thiết trí trí.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát khi học như thế đến bờ
bên kia, học tất cả rốt ráo tất cả thiên ma và các ngoại đạo chẳng thể uốn dẹp
được, mau chứng Bồ Tát Bất thối chuyển, đi chỗ đáng đi mà Tổ Phụ tất cả Như Lai
Ứng Chánh Đẳng Giác đã đi. Chuyển vận theo pháp có thể hộ trì, có thể làm pháp
cần làm là xa lìa sự tối tăm, thường khéo thành thục tất cả hữu tình, nghiêm
tịnh cõi Phật. Gọi là khéo học đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả và vô lượng vô
biên các Phật pháp khác.
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát học được như thế là học ba lần
chuyển mười hai hành pháp luân. Là học an để trăm ngàn trăm ức muôn ức chúng
nơi cõi Vô dư y Niết Bàn. Là học diệu hành chẳng dứt giống Phật. Là học chư
Phật mở cửa Cam lồ. Là học an lập vô lượng vô số vô biên hữu tình trụ pháp Tam
thừa. Là học thị hiện tất cả hữu tình cõi rốt ráo tịch diệt vô vi. Đấy là tu
học Nhất thiết trí trí. Học như thế ấy, những kẻ kém cỏi chẳng thể học được.
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát muốn khéo cứu vớt tất cả hữu tình
khổ lớn sanh tử, nên học như thế.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát khi học như thế, quyết
định chẳng đọa địa ngục, bàng sanh, quỷ giới. Quyết định chẳng sanh biên địa hạ
tiện, chẳng tin Tam Bảo. Quyết định chẳng sanh nhà hàng thịt, nhà gánh thây
chết và những nhà bần cùng hạ tiện bất luật nghi. Trọn chẳng đui điếc câm
ngọng, cùi cụt, các căn thiếu sót, lưng gù, điên cuồng, ung thư, hủi lác. Chẳng
cao, chẳng lùn, cũng chẳng đen đủi và không có các thứ ghẻ lở ghê tởm.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát học như thế đời đời
thường được quyến thuộc viên mãn, hình mạo đoan nghiêm, lời nói nghiêm nghị,
nhiều người mến kính. Sanh ở chỗ nào lìa hại sanh mạng cho đến tà kiến, trọn
chẳng nhiếp thọ tà pháp hư dối, chẳng dùng tà pháp mà tự nuôi sống, cũng chẳng
nhiếp thọ hữu tình phá giới, ác kiến, hủy báng chánh pháp... làm bạn
thân.
Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ tát nào học như thế thì chẳng
sanh vào cõi trời trường thọ là nơi chìm đắm trong thú vui và ít có trí huệ. Vì
sao? Đại Bồ tát này trọn nên thế lực phương tiện khéo léo. Do thế lực phương
tiện khéo léo đây, nên tuy thường vào tĩnh lự, vô lượng và định vô sắc mà chẳng
theo thế lực kia thọ sanh. Vì được Bát Nhã thẳm sâu nhiếp thọ, trọn nên phương
tiện khéo léo như thế, ở trong các định tuy thường vào ra tự tại, mà chẳng theo
thế lực các định kia sanh ở trời Trường thọ, bỏ tu Bồ Tát diệu hạnh thù thắng.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát khi học như thế, đối Phật mười lực, bốn vô
sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất
cộng thảy vô lượng vô biên diệu pháp chư Phật đều thanh tịnh. Do thanh tịnh
nên chẳng đọa các bậc Thanh văn, Độc giác thảy.
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp bản tánh thanh tịnh, các đại
Bồ tát làm sao lại đối diệu pháp chư Phật mà được thanh tịnh?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Như vậy, như ngươi đã nói! Các pháp bản lai
tự tánh thanh tịnh. Đại Bồ tát này đối tất cả pháp trong bản tánh tịnh,
tinh siêng tu học Bát nhã Ba la mật như thật thông suốt không bê trễ, xa lìa
tất cả phiền não nhiễm đắm, nên nói đại Bồ tát được thanh tịnh.
Lại nữa, Thiện Hiện! Tuy tất cả pháp bản tánh thanh tịnh,
nhưng ngu phu dị sanh chẳng biết thấy giác, đại Bồ tát này vì muốn khiến họ
biết thấy giác, nên tu hành bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. An trụ nội không
cho đến vô tánh tự tánh không. An trụ chơn như cho đến bất tư nghì giới. An trụ
khổ tập diệt đạo Thánh đế. Tu hành bốn niệm trụ cho đến tám Thánh đạo chi. Tu
hành bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Tu hành tám giải thoát cho đến
mười biến xứ. Tu hành không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn. Tu hành Cực hỷ
địa cho đến Pháp vân địa. Tu hành năm nhãn, sáu thần thông. Tu hành Phật mười
lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Tu hành pháp vô vong thất, tánh hằng
trụ xả. Tu hành tất cả Đà la ni, Tam ma địa môn. Tu hành Nhất thiết trí, Đạo
tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Đại Bồ tát này đối tất cả pháp bản tánh thanh
tịnh, khi học như thế vô lượng vô biên các Phật pháp khác đều được thanh tịnh,
chẳng đọa bậc Thanh văn, Độc giác. Đối các hữu tình tâm hành sai khác đều năng
thông suốt đến cực rốt ráo, phương tiện khéo léo khiến các hữu tình giác biết
tất cả pháp bản tánh thanh tịnh, chứng được Niết Bàn rốt ráo an vui.
Thiện Hiện phải biết: Ví như đại địa ít chỗ sanh ra vàng bạc,
ngọc ngà, nhiều chỗ sanh ra cát đá ngói gạch. Các các hữu tình cũng như vậy ít
người có thể học Bát Nhã thẳm sâu, nghĩa là các Bồ tát trụ vào đại thừa, mà
phần lớn đều học pháp Thanh văn, Độc giác là người cầu tự lợi thuộc trung và hạ
thừa. Thiện Hiện phải biết: Ví như đời phần ít năng tu nghiệp Chuyển luân
vương, phần nhiều thọ hành nghiệp tiểu quốc vương. Các loại hữu tình cũng lại
như thế, phần ít tu đạo Nhất thiết trí trí, phần nhiều thọ hành pháp Thanh văn,
Độc giác.
Thiện Hiện phải biết: Chúng Bồ Tát cầu tới Vô Thượng Chánh
Đẳng Bồ đề, phần ít chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, phần nhiều đọa vào Thanh
văn và bậc Độc giác.
Thiện Hiện nên biết! Chúng sanh nào trụ nơi Bồ tát thừa nếu
không xa lìa phương tiện thiện xảo Bát Nhã thẳm sâu thì chắc chắn đạt được địa
vị Bất thối chuyển, nếu ai xa lìa phương tiện thiện xảo Bát Nhã thẳm sâu thì
chắc chắn sẽ bị thối chuyển đối với quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì vậy,
đại Bồ tát nào muốn đạt được địa vị Bồ tát Bất thối chuyển, muốn nhập vào trong
số Bồ tát Bất thối chuyển, phải siêng năng tu học Bát Nhã thẳm sâu không được
ngưng nghỉ.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát tu học Bát Nhã thẳm sâu
phương tiện khéo léo như thế, trọn chẳng phát khởi tâm xan tham, phá giới,
giận dữ, biếng lười, tán động, ác huệ. Cũng chẳng hành tham dục, sân hận, ngu
si, kiêu mạn. Cũng chẳng chấp trước sắc thọ tưởng hành thức. Cũng chẳng
chấp trước mười hai xứ cho đến mười tám giới. Cũng chẳng chấp trước nhãn xúc
cho đến ý xúc. Cũng chẳng chấp nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc
làm duyên sanh ra các thọ. Cũng chẳng chấp trước địa giới cho đến thức giới.
Cũng chẳng chấp trước vô minh cho đến lão tử. Cũng chẳng chấp trước bố thí cho
đến Bát nhã Ba la mật. Cũng chẳng chấp trước nội không cho đến vô tánh tự tánh
không. Cũng chẳng chấp trước chơn như cho đến bất tư nghì giới. Nói rộng ra,
cũng chẳng chấp trước tất cả pháp Phật. Vì sao? Vì đại Bồ tát này thực hành
phương tiện thiện xảo Bát Nhã thẳm sâu không thấy có pháp nào là pháp có thể
nắm bắt được, do không có chỗ được nên không phát khởi tâm hành chấp trước hết
thảy các pháp… (Q. 455, ĐBN)
(Công đức, diệu dụng của việc tu tập hành trì Bát nhã
Ba la mật)
Lại nữa Thiện Hiện! Đại Bồ tát nào tu học Bát Nhã thẳm sâu
như vậy thì nhờ sức oai đức của phương tiện thiện xảo nên nắm giữ tất cả Ba la
mật, tăng trưởng tất cả Ba la mật, dẫn dắt tất cả Ba la mật. Vì sao? Này Thiện
Hiện! Vì Bát Nhã thẳm sâu dung chứa tất cả Ba la mật. Thiện Hiện! Giống như
thân kiến có thể dung chứa sáu
mươi hai tà kiến, cũng vậy Bát Nhã thẳm sâu cũng dung chứa tất cả Ba la mật. Này Thiện Hiện! Giống
như tất cả người chết, do mạng căn diệt nên các căn cũng diệt theo, Bát Nhã
thẳm sâu cũng như vậy, năm Ba la mật như bố thí, trì giới, an nhẫn… đều tùy theo nó. Nếu không có Bát
Nhã thẳm sâu thì cũng không có tất cả Ba la mật. Vì vậy, này Thiện Hiện! Đại
Bồ tát nào muốn đến bờ kia, rốt ráo tất cả Ba la mật thì nên học Bát Nhã thẳm
sâu này.
Lại nữa Thiện Hiện! Đại Bồ tát nào có thể học Bát Nhã thẳm
sâu như vậy thì trở thành người tôn quí, thù thắng nhất đối với các hữu tình.
Vì sao? Vì đại Bồ tát này tu học pháp cao siêu hơn hết.
Lại nữa Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Các loài hữu tình trong
Tam thiên đại thiên thế giới có nhiều không?
Thiện Hiện đáp:
- Bạch Thế Tôn! Các loại hữu tình ở châu Thiệm bộ còn nhiều
vô số, huống gì là các loài hữu tình trong Tam thiên đại thiên thế giới sao lại
không nhiều.
Phật bảo Thiện Hiện:
- Đúng vậy! Đúng như ông đã nói. Thiện Hiện! Giả sử các loài
hữu tình trong Tam thiên đại thiên thế giới đồng thời đều được thân người. Khi
được thân người, họ đều phát tâm hướng
đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề và tu Bồ tát hạnh cùng một lượt.
Sau khi tu hành viên mãn, họ đều chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề cùng
một lúc. Có đại Bồ tát trọn đời đem các thứ vòng hoa xinh đẹp bậc nhất, hương
xoa, hương bột, y phục, anh lạc, tràng phan báu, dù lộng, âm nhạc, đèn sáng,
nhà cửa, giường nằm, đồ ăn uống, thuốc trị bệnh để cúng dường, cung kính, tôn
trọng, ngợi khen các vị Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác này thì theo ý ông nhờ nhân
duyên đó đại Bồ tát này được phước có nhiều không?
Thiện Hiện đáp:
- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều.
Phật bảo Thiện Hiện:
- Đại Bồ tát nào thường thích lắng nghe, thọ trì, đọc tụng
Bát Nhã thẳm sâu này hoàn toàn thông suốt, tư duy như lý, tu hành theo lời
dạy, biên chép, truyền bá thì thu được phước đức nhiều hơn phước đức nói trên
vô lượng lần. Vì sao? Vì Bát Nhã thẳm sâu có đầy đủ ý nghĩa và công dụng to lớn
có thể giúp các vị đại Bồ tát sớm đạt được quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Vì vậy, này Thiện Hiện! Đại Bồ tát nào muốn đứng đầu tất cả
hữu tình, muốn làm lợi ích tất cả hữu tình, muốn cứu giúp những người không có
ai cứu giúp, làm nơi nương tựa cho những người không nơi nương tựa, làm nơi
hướng đến cho những người không nơi hướng đến, làm mắt cho những người mù, làm
ánh sáng cho người không có ánh sáng, chỉ đường chánh cho người lạc đường, làm
cho người chưa đạt Niết bàn đạt được Niết bàn thì phải học Bát Nhã thẳm sâu
này. (Q. 456, ĐBN)
Thiện Hiện! Đại Bồ tát nào muốn đạt được quả vị Vô Thượng
Chánh Đẳng Bồ đề, muốn đi cảnh giới Như Lai đi, muốn dạo chơi ở nơi Phật dạo
chơi, muốn rống tiếng rống sư tử của Như Lai, muốn đánh trống pháp vô thượng
của chư Phật, muốn dộng chuông pháp vô thượng của chư Phật, muốn thổi tù của
chư Phật, muốn lên pháp tòa vô thượng của chư Phật, muốn tuyên bày nghĩa pháp
vô thượng của chư Phật, muốn phá tan lưới nghi của tất cả hữu tình, muốn vào
cảnh giới cam lồ vi diệu của chư Phật, muốn hưởng thọ pháp lạc vi diệu của chư Phật,
muốn chứng công đức thù thắng của Như Lai thì hãy học Bát Nhã thẳm sâu như vậy.
(Q. 456, ĐBN)
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ tát năng học Bát Nhã thẳm sâu như thế,
không có công đức căn lành nào mà chẳng năng nhiếp, không có công đức căn
lành nào mà chẳng năng đắc. Sở dĩ vì sao? Vì Bát Nhã thẳm sâu là chỗ nương
dựa cho tất cả công đức căn lành vậy.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ tát học Bát Nhã thẳm sâu này sao
có thể nắm giữ và chứng đắc công đức thiện căn của tất cả Thanh văn và Độc giác
được?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Đại Bồ tát này cũng đối với công đức thiện căn
của tất cả Thanh văn, Độc giác năng nhiếp năng đắc. Nhưng với trong ấy không
trụ không mắc; đem thắng trí quán sát rồi, vượt khỏi Thanh văn và bậc Độc giác,
vào Bồ Tát Chánh tánh ly sanh. Nên chúng đại Bồ tát đây không có công đức
căn lành nào mà chẳng năng nhiếp năng đắc.
Thiện Hiện! Đại Bồ tát nào học Bát Nhã thẳm sâu này thì gần với Nhất thiết trí trí, mau chứng
quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Thiện Hiện! Đại Bồ tát nào học Bát Nhã thẳm sâu thì làm ruộng
phước chơn thật cho tất cả thế gian, trời, người, A tu la… vượt lên trên phước
điền của các thế gian, Sa môn, Phạm chí, Thanh văn, Độc giác và mau chứng Nhất
thiết trí trí, sanh ở đâu cũng không bỏ, không lìa Bát nhã Ba la mật, thường
thực hành Bát nhã Ba la mật thẳm sâu.
Thiện Hiện! Đại Bồ tát nào có thể học Bát Nhã thẳm sâu này
thì nên biết vị ấy đã được bất thối chuyển đối với Nhất thiết trí trí, có thể
hiểu biết chân chánh đối với tất cả các pháp, xa lìa địa vị Thanh văn, Độc
giác, gần gũi quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Thiện Hiện! Đại Bồ tát nào nghĩ như vầy: Đây là Bát Nhã thẳm
sâu, đây là lúc tu, đây là nơi tu, ta có thể tu Bát Nhã thẳm sâu này, ta nhờ Bát
Nhã thẳm này mà có thể xả bỏ những pháp cần bỏ, chắc chắn sẽ chứng đắc Nhất
thiết trí trí thì đại Bồ tát này chẳng phải thực hành Bát Nhã thẳm sâu cũng
không thể hiểu Bát Nhã thẳm sâu. Vì sao? Vì Bát Nhã thẳm không có nghĩ như vầy:
Ta là Bát Nhã thẳm sâu, đây là lúc tu, đây là nơi tu, đây là người tu, đây là
pháp mà Bát Nhã thẳm sâu xa lìa, đây là pháp mà Bát Nhã thẳm sâu soi rõ, đây là
quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề mà Bát Nhã thẳm sâu chứng đắc. Nếu biết như
thế là thực hành Bát Nhã thẳm sâu.
Thiện Hiện! Đại Bồ tát nào nghĩ như vầy: Đây chẳng phải là
Bát Nhã thẳm sâu, đây chẳng phải là lúc tu, đây chẳng phải chỗ tu, đây chẳng
phải là người tu, chẳng phải nhờ Bát Nhã thẳm sâu mà xa lìa tất cả các pháp nên
xả bỏ, chẳng phải nhờ Bát nhã Ba la mật mà chắc chắn chứng được Nhất thiết trí
trí. Vì sao? Vì tất cả các pháp đều đứng vững ở chơn như, pháp giới, pháp tánh,
tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp
định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì mọi thứ ở
trong đó đều không sai khác. Thiện Hiện! Đại Bồ tát nào thực hành như vậy là
thực hành Bát nhã Ba la mật.
Sơ
giải:
Phần đầu của phẩm “Đồng Tánh” của Hội thứ II cho rằng:
“Sắc, sắc tánh không; thọ, tưởng, hành, thức, thọ, tưởng, hành, thức tánh không
là đồng tánh của đại Bồ tát. Mười
hai xứ, 18 giới tánh không; 12 xứ 18 giới tánh không là đồng tánh của
đại Bồ tát. Địa giới, địa giới tánh không cho đến thức giới, thức giới tánh
không là đồng tánh của đại Bồ tát. Bố thí, bố thí tánh không cho đến Bát nhã Ba
la mật, Bát nhã Ba la mật tánh không là đồng tánh của đại Bồ tát. Pháp nội
không, pháp nội không tánh không cho đến pháp vô tính tự tính không, vô tánh tự
tánh không là đồng tánh của đại Bồ tát. Chơn như, chơn như tánh không cho đến
cảnh giới bất tư nghì, cảnh giới bất tư nghì tánh không là đồng tánh của đại Bồ
tát”.
Hay nói khác, học tất cả pháp Phật, tất cả pháp Phật tánh
không là đồng tánh của đại Bồ tát. “Vì đại Bồ tát trụ ở trong đó để học
nên gọi là đồng học. Do sự đồng học này mà các Bồ tát mau chứng quả vị Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ đề”. (Q. 455,
ĐBN)
Học tất cả pháp tánh không là đồng tánh với đại Bồ tát, vì
đại Bồ tát phải học không mới được Vô Thượng Chánh đẳng Bồ đề. Không những thế
đại Bồ tát còn phải học các như, như đó không tận, không ly,
không diệt, không đoạn chẳng thể tác chứng. Nếu đại Bồ tát đối với các
pháp như học như thế là học Nhất thiết trí trí.
Thay vì ở đây đại Bồ tát học các pháp là không thật, các
pháp chỉ là giả danh, các pháp như huyễn như mộng, các pháp là trì độn, thì ở
đây đại Bồ tát học các pháp không, các pháp như. Nếu học được như thế thì đạt
tánh bình đẳng của tất cả pháp. Khi đạt tánh bình đẳng của tất cả pháp, liền
giác biết các pháp bản lai tự tánh thanh tịnh, đến lúc đó thì cánh cửa trí tuệ
sẵn sàng mở.
Phần sau, Kinh thuyết một khi thọ trì Bát Nhã như thế thì
các phương tiện thiện xảo Ba la mật sẽ đạt được bến bờ rốt ráo. Bồ tát sẽ có
đầy đủ công đức diệu dụng không thể nghĩ bàn. Nên Phật bảo:
“Thiện Hiện! Đại Bồ tát nào học Bát Nhã thẳm sâu thì làm
ruộng phước chơn thật cho tất cả thế gian, trời, người, A tu la… vượt lên trên
phước điền của các thế gian, Sa môn, Phạm chí, Thanh văn, Độc giác và mau chứng
Nhất thiết trí trí, sanh ở đâu cũng không bỏ, không lìa Bát nhã Ba la mật,
thường thực hành Bát nhã Ba la mật thẳm sâu”.
Phần cuối của phẩm này nói về công đức của Bát nhã Ba la
mật. Tất cả các diễn giảng ở đây rất bình dị dễ hiểu. Nên ai cũng có thể đọc
tụng thọ trì, không cần giảng giải.
---o0o---